Ánh chị hay nhận xét về tình cảm tình cách của nhà thơ được thể hiện trong bài thơ Thu vịnh

Trang Chủ Diễn Đàn > E - CÁC CÂU LẠC BỘ > CLB Học Tập > Học Online >

Mùa thu xứ Bắc, mùa thu đẹp tiêu biểu cho mùa thu của quê hương Việt Nam, đã trở thành cảm hứng cho các nhà thơ xưa nay. Tùy theo quan điểm thẩm mĩ mà cảnh thu, tình thu hiện lên trong thơ với vẻ đẹp riêng. Hai nhà thơ lớn trong nền văn học nước nhà là Nguyễn Khuyến và Xuân Diệu đã có hai bài thơ đặc sắc về mùa thu là “Thu vịnh” [Nguyễn Khuyến] và “Đây mùa thu tới” [Xuân Diệu]. Có gì khác nhau và giông nhau trong cảnh thu, tình thu của hai bài thơ nổi tiếng đó?

Chỗ giông nhau của hai bài thơ là Nguyễn Khuyến và Xuân Diệu, hai nhà thơ lớn của dân tộc đều thể hiện cảnh thu, tình thu đẹp nhưng buồn. Nỗi buồn của thi nhân thấm đẫm trong cảnh vật và được biểu hiện trong những hình thức nghệ thuật mĩ lệ. Chỉ một khổ thơ đầu của hai bài thơ, chúng ta nhận ra sự giông nhau đó:

“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao Cần trúc la pha gió hắt hiu Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào.”

[Thu vịnh]

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng Đây mùa thu tới - mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

[Dây mùa thu tới]

Song cảnh thu, tình thu trong hai bài thơ có nhiều nét khác nhau. Vì hai bài thơ đó là sản phẩm nghệ thuật của hai con người, hai tâm hồn khác nhau, hai thời đại khác nhau, hai quan điểm thẩm mĩ khác nhau. Nguyễn Khuyến là nhà nho uyên bác, bất đắc chí [là quan nhà Nguyễn, đã cáo quan trở về], ông quen thuộc với đồng quê. Xuân Diệu là một trí thức mới, Tây học, đã cảm sâu được nỗi đau của thời thê “Tôi đi giữa đời như một kể bị lột da”. Quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Khuyên còn trong phạm trù cồ điển. Còn Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn, “một nhà thơ mới nhất của thơ mới”, một nhà thơ hiện đại với bao nhiêu đổi thay trong nếp sống, nếp cảm và xảo năng thi ca.

Cảnh thu trong bài “Thu vịnh” là cảnh thu của làng quê Việt Nam thời thực dân phong kiến, dưới cái nhìn của một bậc đại trí đã lui về ẩn dật nơi thôn dã. Không gian hẹp, mở ra bằng chiều cao với sắc trời đặc trưng của mùa thu xứ Bắc.

“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”

Đường nét đơn sơ, màu sắc thanh đạm, không khí hiu hắt, gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Ao thu “nước biếc” với sương khói phủ nhạt nhòa. Trăng thân mật đến lặng lẽ với thi nhân như một tri kỉ:

“Song thưa để mặc bóng trăng vào.”

Hoa mùa thu không đổi, không sắc màu hoa năm ngoái và âm thanh thì lạc lõng với tiếng ngỗng trời lạnh cả không gian. Tình thu man mác, đượm buồn của một tâm hồn bỏ ngỏ, in đậm sắc màu và dội vang âm thanh của mùa thu.

“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.”

Buồn trước mùa thu, nhà thơ đã mất hết cảm giác về thời gian và không gian, thời gian như ngưng đọng, không gian như lạc lõng. Thi hứng đến thì nhà thơ lại thẹn với ông Đào:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”

Nhà thơ nói “thẹn với ông Đào” cũng là một cách biểu hiện nỗi đau nhân thế trước mùa thu của xứ sở. Kể ra về tri thức cụ Nguyễn chẳng có gì phải “thẹn” với cụ Đào. Ông Đào là Đào Tiềm [Đào Uyên Minh] là một nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng về tài thơ lẫn khí phách, ông đã từng làm quan và chán ghét cuộc sống quan trường. Ông đã từ quan và có bài thơ “Quy khứ lai từ” rất nổi tiếng, về tài hoa, cụ Nguyễn cũng chẳng có gì phải “thẹn” với cụ Đào. Có lẽ cụ Nguyễn thẹn với cụ Đào là ở nhân cách, ở khí tiết. Cụ Đào đã từ quan một cách dứt khoát, trở thành nhân vật lừng danh về khí tiết trong giới quan trường Trung Hoa. Còn cụ Nguyễn thì lúng túng khi ra làm quan, lừng khừng khi từ quan. Đã về ẩn dật rồi, cụ Nguyễn vẫn còn chưa nguôi ân hận về những năm tham gia guồng máy thôi nát, tàn bạo của bọn thực dân, phong kiến thời bấy giờ.

Tình thu trong “Thu vịnh” đượm buồn trong cảnh thu và cắn rứt trong lòng thi nhân.

Cảnh thu trong “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu là cảnh thu Hà Nội. Nếu hồn thu trong “Thu vịnh” là cây trúc thì hồn thu trong “Đây mùa thu tới” là cây liễu:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.”

Cảnh buồn mà đẹp. Nỗi buồn mùa thu được miêu tả thật là hiện đại, những sợi liễu xanh mềm mại như những dòng lệ xanh buông xuống ngàn hàng, chịu tang cho những chiếc lá vàng ra đi. Hoa thì đã rụng cánh, màu sắc thì đang xung đột “Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”. Câu thơ tả sắc thu như vậy đứng bên cạnh câu thơ tả sắc thu của Nguyễn Khuyên thì chẳng khác gì một cụ nhà nho với áo lương khăn đóng, bên cạnh anh chàng thanh niên comlê cravat, giày da bóng lộn. Cảnh thu của Xuân Diệu cũng quạnh quẽ, đìu hiu, nhiễm linh hồn của thi nhân nặng hơn. Chẳng những là gió heo may rung rinh mà còn “run rẩy”, chẳng những là “nhánh khô gầy” mà còn “xương mỏng manh”. Trăng thu thì “tự ngẩn ngơ”, non xa thì “nhạt sương mờ”, những chuyến đò thì “vắng người sang”. Cảnh thu nhiễm tinh thần cô đơn của thi nhân như vậy chưa thấy trong thơ cổ điển mà Nguyễn Khuyến là đại biểu xuất sắc.

Cảnh thu của Nguyễn Khuyến thì vắng ngắt, chỉ có cái tôi trữ tình của thi nhân. Cảnh thu của Xuân Diệu cũng vắng vẻ đìu hiu, nhưng lại còn có bóng dáng con người, tâ't nhiên với Xuân Diệu phải là bóng dáng thiếu nữ:

“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.”

Tình thu của cụ Nguyễn buồn, xót xa, cắn rứt. Tình thu của chàng thi sĩ Xuân Diệu buồn, cô đơn, khao khát sự sông trần thế, tha thiết giao cảm với đời. Nếu tình thu trong “Thu vịnh” mà mất đi chữ “thẹn” thì còn gì là Nguyễn Khuyến, cũng như nếu tình thu trong “Đây mùa thu tới” mất đi hình ảnh của “thiếu nữ” thì còn gì là Xuân Diệu!

Nguyễn Khuyến và Xuân Diệu là hai nhà thơ lớn của dân tộc. Nguyễn Khuyến đại biểu xuất sắc của khuynh hương thơ cổ điển. Xuân Diệu đại biểu xuất sắc của khuynh hướng thơ lãng mạn. Cả hai tâm hồn lớn đều yêu say đắm mùa thu của xứ Bắc. Do điệu tâm hồn khác nhau và quan điểm thẩm mĩ khác nhau mà cảnh thu, tình thu của mỗi bài thơ mang một vẻ đẹp riêng. Mỗi vẻ đẹp đã tạo nên sức hấp dẫn kì lạ và đều bồi đắp cho mỗi chúng ta tình yêu quê hương xứ sở sâu sắc, mặn nồng.

Trang Chủ Diễn Đàn > Thư Viện Điện Tử > Data & Ebook > Học Tập >

Đề bài: Phân tích bài Thu vịnh

Bài văn mẫu Phân tích bài Thu vịnh

Bài mẫu: Phân tích bài Thu vịnh

Mùa thu từ xưa tới nay luôn là nguồn cảm hứng dồi dào trong các tác phẩm thi ca nhạc họa, bởi mùa thu mang một cái vẻ đẹp tinh tế, uyển chuyển, có lúc mơ màng, có lúc lại buồn man mác, khơi gợi nên nhiều cảm xúc vi diệu trong tâm tưởng con người. Và Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ, với chùm thơ về mùa thu rất nổi tiếng ấy là Thu điếu, Thu vịnh và Thu ẩm, nói về ba thú vui nhân mùa thu tới. Trong đó Thu vịnh được xem là bài thơ mang nhiều nét thi vị đậm đà về cảnh sắc mùa thu nơi làng quê, thôn dã đầy giản dị và hồn hậu.

Thu vịnh có nghĩa là ngâm vịnh, ca tụng về mùa thu, tuy có một số quan niệm cho rằng nên hiểu là tác giả đang trầm ngâm ngắm mùa thu mà làm thơ nhưng nếu như thế thì chưa chính xác lắm. Cả bài là những vần thơ bay bổng, mới nghe mới đọc thì tưởng chừng chỉ đơn giản là tả về mùa thu, nhưng nếu đọc mà trầm ngâm thêm chút nữa mới biết nó cũng chứa nhiều nỗi niềm tâm sự của một con người yêu nước, thương dân.

Mở ra cảnh sắc mùa thu là hai câu thơ:

"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."

Khung cảnh mùa thu hiện ra thật trong trẻo, khoáng đạt với hình ảnh bầu trời mang một màu mây xanh ngắt, cao vời vợi, tô điểm cho khung cảnh trống trải ấy, thi nhân vẽ vào một cần trúc "lơ phơ", mềm mại, uyển chuyển trong cái gió se se lạnh "hắt hiu". "Trời thu xanh ngắt" như chính thứ tình cảm sâu đậm của nhà thơ dành cho mùa thu nơi quê hương, một mùa thu của xứ Bắc, với nét riêng biệt ấy là "cần trúc lơ phơ" vẫn mang chút mềm mại, nhưng lại chẳng yếu đuối, lả lướt như liễu. Giọng thơ chậm rãi nhẹ nhàng, vương một chút buồn man mác nơi hai chữ "hắt hiu", phải chăng thi nhân có điều chi phiền lòng?

"Nước biếc trông như tảng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào"

Trên đã có "trời xanh" dưới lại có "nước biếc", cả hai thứ ấy đều mang một màu xanh trong trẻo, dịu dàng, liệu còn có phong cảnh nào xinh đẹp hơn thế nữa? Đôi khi người đọc vì không nắm rõ nghệ thuật "đảo trang" trong thơ ca[nghệ thuật đổi âm vận sao cho câu thơ được vần] mà thường hiểu lầm hoặc hiểu không rõ nghĩa của câu thơ này. Ở đây, ý thơ có nghĩa là làn sương tựa như khói đang là đà phủ trên mặt nước biếc. Chữ "biếc" ở đây không hẳn là nước có màu ấy thật, mà cũng có khi nhà thơ tưởng tượng ra rồi viết vào cho bay bổng lại tiệp vần với nhau. Tương tự, ở câu dưới chữ "thưa" cũng được đưa vào nhằm mục đích này. Ta chợt nhận ra cảnh mùa thu trong bài được tác giả tinh tế lướt qua hai khoảng thời gian sáng và tối, ban ngày thì thấy trời xanh, nước biếc, ban đêm thì lại ngó thấy cảnh ánh trăng vàng, dịu nhẹ len lỏi từng song cửa. Trăng với mùa thu là hai thực thể rất hay song hành cùng nhau trong những bài thơ, bài văn nói về mùa thu và hơn thế nữa trăng còn là người bạn tri kỷ của thi nhân, đêm khuya thanh vắng, thi nhân chẳng có ai bầu bạn, đành làm bạn với trăng sáng, âu ngắm trăng làm thơ cũng là một thú vui tao nhã. Và cũng nhờ có ánh trăng này mùa thu trong thơ của Nguyễn Khuyến có thêm chút gì đó mộng mơ, lãng mạn hơn cũng vừa thanh tao, nhã nhặn.

"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

Cụm từ "hoa năm ngoái" có lẽ chúng ta không nên hiểu là hoa đã nở từ năm ngoái mà đây hẳn là tâm trạng của tác giả đang hoài niệm quá khứ, một cái quá khứ nào đó còn kéo dài trong tâm hồn của thi nhân đến ngày hôm nay, mang đến trong điệu thơ những nỗi u hoài, trầm buồn của tác giả. Hẳn rằng ấy là một ký ức ngọt ngào tựa như những đóa hoa trước giậu, khiến tác giả bỗng ngậm ngùi khi nhớ về. Trong cái không gian vốn trầm tĩnh, lắng đọng ấy bỗng nhiên bị xáo động bởi tiếng ngỗng trời, làm bừng tỉnh tâm hồn người thi sĩ, bừng tỉnh cả không gian mùa thu vốn thanh bình yên ắng, đem lại chút âm điệu đơn bạc, giải đi nỗi vắng lặng, tịch liêu.

ở hai câu thơ cuối tâm trạng cảu nhà thơ được bộc lộ rõ hơn:

"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào"

Giữa khung cảnh trời thu đẹp và lãng mạn đến thế, thử hỏi liệu có thi nhân nào không rung động, vừa nhìn là muốn động bút làm một mạch mấy bài thơ, bài vịnh cho thỏa hứng. Nhưng chợt Nguyễn Khuyến xuất hiện một suy nghĩ rất lạ "thẹn với ông Đào", "Đào" ở đây là Đào Tiềm [tên khác là Đào Uyên Minh], vốn là một nhà thơ nhà thơ rất nổi tiếng thời Lục Triều [Trung Quốc], ông là người tài giỏi, từng đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan, nhưng chán ghét chốn quan trường bẩn thỉu, nhũng nhiễu mà lui về ở ẩn. Vậy cớ gì mà Nguyễn Khuyến "thẹn", khi mà tính ra ông cũng chẳng thua kém gì về học thức và tài năng. Câu trả lời ấy là Nguyễn Khuyến thấy hổ thẹn khi thua ở cái khí tiết của một bậc quân tử phải có, Đào Tiềm sẵn sàng từ quan khi chán ghét, cũng chẳng màng đến thế sự, cứ ung dung làm thơ, sống thanh tao ẩn dật. Còn Nguyễn Khuyến ông, lại vẫn không thể từ bỏ công danh mà ra làm quan dưới thời Pháp thuộc, khi từ quan rồi cũng chẳng thôi được cái mối ân hận khi làm quan buổi rối ren, đầy nhục nhã, ấy chính là căn nguyên của chữ "thẹn" nơi cuối bài. Nhưng cũng chính những câu thơ tỏ lòng như thế ta mới thấy được một nhân cách cao cả, một tấm lòng đầy chân thành của người quân tử, không trốn tránh sự thật mà sẵn sàng thừa nhận, nhận để biết mà không thôi tự vấn và tha thứ cho lỗi lầm xưa cũ, người như thế thật đáng trân trọng biết bao.

Thu vịnh là bài thơ hay và đặc sắc, có mùi vị mùa thu miền quê Việt Nam thật rõ ràng và chân thực. Những câu thơ với nhịp điệu chậm rãi, mang chút suy tư, có chỗ hơi lạ lùng và khó hiểu đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về một mùa thu trong tâm hồn người thi sĩ. Đặc biệt qua những câu thơ bộc bạch ấy ta còn thấu hiểu hơn về nỗi lòng của tác giả, nỗi hổ thẹn cũng là niềm yêu nước, thương dân ẩn sâu trong tâm hồn của nhà thơ.

Thu vịnh là một trong số những tác phẩm nổi bật trong ngữ văn lớp 11, ngoài bài làm văn Phân tích bài Thu vịnh, học sinh và giáo viên có thể tìm hiểu thêm các tác phẩm nổi tiếng khác của nhà thơ Nguyễn Khuyến cùng các bài làm văn như Phân tích bài Thu ẩm, Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư, Hội Tây, hay cả các phần Soạn bài Thu ẩm, Soạn bài Thu Vịnh, rất nhiều những bài làm văn mẫu chắc chắn sẽ là tài liệu học tập tốt nhất cho các bạn học sinh.

Thông qua việc phân tích bài Thu vịnh [Vịnh mùa thu], chúng ta sẽ hiểu hơn về tâm hồn nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên thiết tha, sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Khuyến khi chắp bút viết về mùa thu của làng quê Việt Nam. Đây cũng được coi là một trong số những bài thơ viết về mùa thu hay nhất trong chùm đề tài mùa thu của văn học nước nhà.

Phân tích khổ bốn trong bài Đây mùa thu tới [Xuân Diệu] Ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu, [Thu Điếu] của Nguyễn Khuyến Phân tích bức tranh mùa thu qua bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến Phân tích bài Thu ẩm Phân tích hình ảnh mùa thu trong 3 bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến

Video liên quan

Chủ Đề