Cách mạng tháng 8 có phải là sự ăn may

Giữa lúc nhân dân Việt Nam đang náo nức chuẩn bị kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám thành công, một sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước thì đâu đó vẫn có những tiếng nói lạc lõng, muốn phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám, coi thắng lợi của nhân dân Việt Nam là “sự ăn may”.

Họ cho rằng, từ sau cuộc đảo chính ngày 9/3/1945, Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng là thuộc địa của Nhật. Trong khi đó, phát xít Nhật đã bị quân Đồng minh đánh bại và tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Như vậy, ở Đông Dương xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, cho nên cách mạng chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi (?). 

Trong cuộc phỏng vấn của phóng viên VOV, PGS. TS Vũ Quang Hiển - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội) cho rằng: Đây là sự xuyên tạc lịch sử và chưa bao giờ, Cách mạng Tháng Tám là “sự ăn may”.

PV: Thưa ông, là một nhà nghiên cứu lịch sử, ông đánh giá đâu là nguyên nhân chính dẫn đến thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945?

PGS.TS Vũ Quang Hiển: Cách mạng Tháng Tám thành công do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong những nguyên nhân quan trọng là sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Cách mạng tháng 8 có phải là sự ăn may
PGS.TS Vũ Quang Hiển - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội

Sức mạnh dân tộc thể hiện ở sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng trong Mặt trận Việt Minh với các đoàn thể mang tên cứu quốc.

Đó là sức mạnh của lực lượng vũ trang. Mặc dù mới được xây dựng, còn ít về số lượng, thiếu thốn về trang bị và non kém về trình độ tác chiến nhưng có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian, cũng như hoạt động chiến tranh du kích cục bộ trước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Sức mạnh dân tộc của Cách mạng Tháng Tám chính là sự vùng dậy của toàn dân, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trong đó các cuộc khởi nghĩa của quần chúng ở thành thị nhằm vào các cơ quan đầu não của kẻ thù có vai trò quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

Bên cạnh sức mạnh của dân tộc thì cần phải nói đến sức mạnh thời đại, sức mạnh của phe Đồng minh đánh thắng Chủ nghĩa Phát-xít trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, trực tiếp là quân phiệt Nhật Bản, buộc Nhật Bản phải đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Điều đó làm cho Nhật và các thế lực tay sai ở Đông Dương hoang mang.

Quân đội Nhật mất hết tinh thần, tạo ra cơ hội vô cùng thuận lợi để nhân dân Việt Nam đứng lên giành chính quyền. Việc chuẩn bị lực lượng đầy đủ và nổ ra đúng thời cơ đã khiến cho Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu.

PV: Phải chăng cũng vì thời cơ thuận lợi, cách mạng nổ ra ít đổ máu cho nên có ý kiến cho rằng, Cách mạng Tháng Tám là "sự ăn may", thưa ông?

PGS.TS Vũ Quang Hiển: Tôi đã từng nghe những luận điểm như vậy nhiều lần. Nhưng tôi cho rằng, nói như thế là hoàn toàn phiến diện.

Nhìn vào lịch sử thì thấy, cùng vào thời điểm năm 1945, không phải bất cứ nơi nào đang chịu ách chiếm đóng của Phát-xít đều có thể bùng nổ cách mạng và giành thắng lợi.

Chỉ có quốc gia nào có sự chuẩn bị chu đáo, có sự lãnh đạo của Đảng tiên phong, chớp được thời cơ và huy động được sức mạnh của toàn dân tộc thì mới có khả năng giành được chính quyền.

Điều đó bác bỏ những luận thuyết cho rằng, do thời cơ quá thuận lợi như vậy cho nên việc giành chính quyền quá đơn giản.

Cũng cần nói rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không phải là thành quả của một số ngày mà là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của dân tộc Việt Nam vì độc lập tự do gần một thế kỷ, là kết quả của quá trình chuẩn bị lực lương lâu dài dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản từ năm 1930 mà trực tiếp là cuộc vận động cứu nước giai đoạn 1939-1945.

Trong suốt quá trình lịch sử lâu dài đó, máu của các chiến sĩ cách mạng và đồng bào đã đổ xuống trên mặt trận chống đế quốc và tay sai.

Đến thời điểm tháng 8/1945, mặc dù ở Việt Nam lúc bấy giờ có nhiều lực lượng chính trị khác nhau, kể cả những lực lượng ít nhiều có tinh thần yêu nước, mong muốn dựa vào Nhật hay chủ trương lợi dụng Nhật để giành chính quyền, nhưng họ không có lực lượng thì họ cũng không thể giành được chính quyền.

Nhật chỉ đầu hàng Đồng minh chứ Nhật không đầu hàng nhân dân Việt Nam, đầu hàng dân tộc Việt Nam. Đó là sự thật lịch sử.

Bằng khả năng cách mạng của cả dân tộc, chúng ta mới có khả năng đập tan bộ máy chính quyền của đế quốc tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng, đồng thời như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, phải giành được chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương và đứng ở vị thế người làm chủ nước nhà để đón tiếp quân Đồng minh vào giải giáp vũ khí của quân đội Nhật.

Nếu như không có một cuộc cách mạng thành công, không thành lập được chính quyền nhân dân thì đất nước Việt Nam lại dễ dàng chuyển vào tay một thế lực thực dân khác, một chính quyền thuộc địa khác.

Bởi vậy, giá trị của Cách mạng tháng Tám, giá trị của việc giành chính quyền là không thể phủ nhận.

Chính Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức được tầm quan trọng của thời cơ mà còn dự báo được thời cơ, đánh giá chính xác thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

PV: Như vậy, không phải nước nào cũng có thể “chớp thời cơ” để làm cuộc cách mạng “long trời lở đất” như Việt Nam, thưa ông?

PGS.TS Vũ Quang Hiển: Đúng vậy. Vấn đề chớp thời cơ còn gắn liền với việc đẩy lùi nguy cơ bởi vì khi thời cơ Cách mạng Tháng Tám xuất hiện – một thời cơ chung cho tất cả các dân tộc thuộc địa đang đứng lên giành độc lập tự do thì có một nguy cơ đang hiện hữu.

Theo Hiệp định Posdam tháng 7/1945, đã phân công cho quân đội các nước Đồng minh phía bắc vĩ tuyến 16 là 200.000 quân đội Trung Hoa dân quốc và phía nam vĩ tuyến 16 là hơn 10.000 quân Anh - Ấn tràn vào Việt Nam.

Nếu như không giành được chính quyền và đứng ra với tư cách người làm chủ đất nước để đón tiếp quân Đồng minh thì các thế lực Đồng minh với bản chất đế quốc hoàn toàn dựng ra một chính quyền trái với ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.

Những thế lực trước đây từng theo Pháp hay theo Nhật cũng đang tìm cách bắt mối với các thế lực đế quốc. Nếu như không giải quyết tốt vấn đề thời cơ, không đẩy lùi nguy cơ đó thì không thể đưa cách mạng đến thành công.

PV: Theo ông, việc xuyên tạc lịch sử như vậy là nhằm mục đích gì?

PGS-TS Vũ Quang Hiển: Thực chất quan điểm của họ là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của quần chúng và đi đến phủ nhận sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông./.

Cập nhật: 09/08/2018 | 08:15

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Thế nhưng, đâu đó vẫn có những luận điệu trắng trợn phủ nhận giá trị của Cách mạng tháng Tám như là một sự “ăn may” (?).

Những người phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám lập luận rằng: Từ sau cuộc đảo chính của Nhật (09/3/1945), Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp, mà là thuộc địa của Nhật. Bởi lẽ, khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện thì ở Việt Nam xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, cho nên – theo họ, bấy giờ cách mạng chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi. Từ cách nhìn ấu trĩ và giản đơn như vậy, họ cho rằng “Cách mạng Tháng Tám là một sự ăn may”. Quan điểm này thực chất là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của quần chúng, từ đó phủ nhận sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta. Vậy đâu là sự thật?

Điều quyết định đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là do nhân tố chủ quan. Ngay từ năm 1939, Đảng ta đã trực tiếp chuẩn bị cả về đường lối, căn cứ địa và lực lượng cách mạng để tiến khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Cùng với chủ trương tổng khởi nghĩa, Đảng ta xác định phải xây dựng căn cứ địa cách mạng vững chắc ở Bắc Sơn, Cao Bằng.. Đặc biệt, chúng ta đã xây dựng Việt Bắc thành căn cứ địa hoàn chỉnh; trong đó, Tuyên Quang được xác định là “Thủ đô kháng chiến”, nhằm “tạo thế” quan trọng để Tổng khởi nghĩa đi đến thắng lợi sau này.

Cách mạng muốn thành công phải có lực lượng, vì thế Đảng ta đã rất quan tâm đến xây dựng lực lượng vững mạnh. Đó là từ xây dựng lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng bán vũ trang quần chúng, từ đó phát triển thành lực lượng vũ trang cách mạng vào các Hội Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (5/1941). Qua đó, Đảng ta đã tập hợp được đông đảo quần chúng đứng về phía Đồng minh trong cuộc đấu tranh chống phát xít. Đặc biệt, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời làm lượng vũ trang nòng cốt với nhiệm vụ tuyên truyền vận động nhân dân nổi dậy và gây dưng cơ sở chính trị cho khởi nghĩa sắp đến.

Cùng với việc tạo thời cơ, Đảng ta đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật nắm và giành thời cơ. Nếu điều kiện chín muồi đã đến mà không nắm lấy thời cơ, chờ đợi địch đầu hàng, trao quyền độc lập thì đó chỉ là sự ảo tưởng và cơ hội ngàn vàng đó sẽ không bao giờ đến. Nên nhớ rằng, sau cuộc đảo chính (09/3/1945), ở Việt Nam, Nhật vẫn còn khoảng 100.000 quân, với đầy đủ vũ khí, trang bị… Trong thời điểm nhạy cảm đó, quân Nhật vẫn có thể nổ súng vào lực lượng khởi nghĩa với lý do tự vệ, để giữ gìn trật tự tại nơi đóng quân và chờ quân Đồng minh tới giải giáp…

Khi ngày 15/8/1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Ở Việt Nam, bọn tay sai của chúng cũng đã hoang mang đến cực độ. Lúc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn theo dõi sát tình hình và khẳng định: “đây là một thời cơ quý và hiếm nếu bỏ qua thì không bao giờ có nữa”, và Người ra lời hiệu triệu: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”. Như vậy, chính Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được tầm quan trọng của thời cơ, dự báo được thời cơ, đánh giá chính xác thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ để nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 13/8/1945, khi Nhật sắp đầu hàng đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Vào 23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra “Quân lệnh số 1”, phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Ngày 14-15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 16-17/8/1945, Quốc dân Đại hội được triệu tập tại Tân Trào, thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Từ ngày 18 đến ngày 28/8/1945, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.

Về sự kiện Nhật chỉ đầu hàng ta phải nhận thức rõ là Nhật đầu hàng Đồng minh chứ không đầu hàng nhân dân Việt Nam. Do vậy, bằng khả năng cách mạng của cả dân tộc, chúng ta phải đập tan bộ máy chính quyền của đế quốc tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói, phải giành được chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương và đứng ở vị thế người làm chủ nước nhà để đón tiếp quân Đồng minh vào giải giáp vũ khí của quân đội Nhật. Nếu như không có một cuộc cách mạng thành công, không thành lập được chính quyền nhân dân thì đất nước ta bấy giờ sẽ tiếp tục rơi vào tay một thế lực thực dân và một chính quyền thuộc địa khác.

Lịch sử cho thấy, cùng vào thời điểm năm 1945, không phải bất cứ nơi nào đang chịu ách chiếm đóng của Phát-xít đều có thể bùng nổ cách mạng và giành thắng lợi. Chỉ có quốc gia nào có sự chuẩn bị chu đáo, có sự lãnh đạo của Đảng tiên phong, chớp được thời cơ và huy động được sức mạnh của toàn dân tộc với tinh thần "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" thì mới có khả năng giành được chính quyền. Vì vậy, giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ định được. Và mọi mưu toan chống phá, sự suy diễn chủ quan về cuộc cách mạng này đều không có giá trị.

Vũ Hà