Con đường cách mạng tư sản

Đại tá, TS. NGUYỄN VIẾT HIỂN
________________

1 - Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 562.

2 - Sđd, Tập 2, tr. 296.

3 - Sđd, Tập 2, tr. 289.

4 -Sđd, Tập 2, tr. 304.

5 - Sđd, Tập 15, tr. 397.

Kiên định con đường đã chọn!

[ĐCSVN] - Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo nên một sản phẩm vĩ đại của lịch sử, đó là mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây chính là con đường lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giác ngộ để đưa đến Cách mạng Việt Nam sau này.
Lênin và người dân Nga. [Ảnh tư liệu]

Nhân kỷ niệm 104 năm Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, Giáo sư Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương đã có những chia sẻ và khẳng định, làm sâu sắc hơn những ảnh hưởng, sự kế thừa và phát huy những giá trị cốt lõi của cuộc cách mạng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta và Bác Hồ đã chọn, xây dựng, phát triển…

Phóng viên [PV]: Thưa Giáo sư, xin Giáo sư chia sẻ cho bạn đọc biết là về ý nghĩa của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Vì sao lại nói đây là cuộc cách mạng vĩ đại và có tầm vóc lịch sử trong thế kỷ XX?

GS Hoàng Chí Bảo: Năm nay, chúng ta kỷ niệm 104 năm Ngày Cách mạng tháng Mười Nga [ngày 7/11/1917], lịch cũ của Nga là ngày 25/10. Hằng năm, cứ đến sự kiện này, không chỉ những người Cộng sản, Đảng Cộng sản mà nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới đều tưởng nhớ lại sự kiện Cách mạng tháng Mười Nga để củng cố niềm tin của mình với lý tưởng cộng sản, với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước Nga là sự khai mở ban đầu.

Nói Cách mạng Tháng Mười Nga là ta gắn liền với công lao, sự nghiệp vĩ đại của Lê-nin, người đã cùng với đảng Bolshevik [Bôn-sê-vích] kiểu mới lúc bấy giờ lãnh đạo thành công cuộc cách mạng này. Tầm vóc lịch sử của Cách mạng tháng Mười Nga có thể khẳng định trên phương diện như sau:

Thứ nhất, đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX. Cuộc cách mạng này nổ ra sau Công xã Pari 46 năm. Ta nhớ lại thời kỳ Mác-Ăngghen còn sống thì giai cấp vô sản thế giới chỉ chứng kiến một sự kiện duy nhất là Công xã Pari, tức là giai cấp công nhân Pari nổi dậy chống lại chính quyền tư sản, lập nên chính quyền công xã kiểu mới. Đấy là hình thái đầu tiên của Nhà nước vô sản mà Cách mạng Tháng Mười Nga là người kế tục.

Nhưng tiếc một điều là Công xã Pari tuy rất vĩ đại, nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn [72 ngày], rồi sau đó bị thất bại. Vì giai cấp tư sản tấn công trở lại, dìm phong trào cách mạng trong biển máu. Lúc bấy giờ, Mác và Ăngghen đã tổng kết về Công xã Pari, vạch ra nguyên nhân dẫn đến sự thất bại, trong đó có nguyên nhân là không liên minh được với nông dân. Giai cấp công nhân Pháp rất vĩ đại và oanh liệt, nhưng chỉ một mình công nhân thôi mà để cả một biển nông dân, tiểu nông ở bên ngoài không ủng hộ cách mạng thì giai cấp tư sản đã lợi dụng tình thế đó để lật ngược lại ván cờ cách mạng này và thất bại.

Thế cho nên sau này chính Mác và Ăngghen đã nói, nếu cuộc cách mạng vô sản mà không phải là “bài đồng ca”, tức là cả liên minh công nông mà nó chỉ còn là một “bài đơn ca” ai điếu thôi, tức là chỉ riêng một tiếng nói đơn độc của vô sản thôi thì sớm muộn cũng thất bại.

Lê-nin sau này cũng nhắc lại tư tưởng đó của Mác-Ăngghen, ông nói là, giai cấp vô sản dù có dũng mãnh đến đâu đi nữa nhưng chỉ một mình công nhân thôi thì cũng giống như “tiếng hót cô độc của bầy thiên nga trên biển cả” và cuối cùng thì thất bại. Và ông dự báo một điều rất quan trọng: Cách mạng ở Pháp Công xã Pari thất bại, nhưng nó để lại những bài học vô cùng quý giá và cuộc cách mạng có thể thất bại vì chưa chín muồi hoặc là vấp phải sai lầm. Trong đó như tôi đã nói là liên minh công nông không có, nhưng cách mạng sẽ không bao giờ bị tiêu diệt. Chính quyền có thể đổ vỡ, cách mạng có thể thất bại. Nhưng sự nghiệp cách mạng vẫn tiến về phía trước vì nó là một quy luật của lịch sử. Dự báo này hoàn toàn chính xác và nó được chứng thực bởi sự kiện cách mạng tháng Mười Nga 46 năm sau Công xã Pari. Tầm vóc vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga là như thế.

Thứ hai, Cách mạng tháng Mười Nga đã khai sinh ra chủ nghĩa xã hội hiện thực. Chỉ có một mình nước Nga Xô Viết là lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa trong khi đó cả thế giới tư bản 14 nước đế quốc bao vây xung quanh, định bóp chết nước Nga non trẻ trong bạo lực của nó. Cùng với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực, nước Nga Xô Viết cũng được ra đời. Đấy là nhà nước kiểu mới đầu tiên của nhân dân lao động toàn thế giới, đánh đổ tư bản đế quốc, chế độ Nga Hoàng chuyên chế hàng thế kỷ để đưa nhân dân lao động, tức là quần chúng công, nông, binh lên địa vị làm chủ và nắm được chính quyền.

Thứ ba, với thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga, với sự ra đời của nước Nga Xô Viết và chủ nghĩa xã hội hiện thực thì từ đây Đảng Cộng sản chính thức trở thành đảng cầm quyền. Đấy là điều rất mới mẻ trong lịch sử.

Từ khi có Cách mạng tháng Mười Nga thì nhân loại sẽ lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, chứ không lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa nữa. Từ đây trở đi thì chủ nghĩa xã hội trở thành nhân tố quyết định thắng lợi của lịch sử.

Vì thế, Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo nên một sản phẩm vĩ đại của lịch sử, đó là mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây chính là con đường lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giác ngộ để đưa đến Cách mạng Việt Nam sau này.

Cũng từ đó, thì Cách mạng tháng Mười Nga được Lênin nói trong những năm tháng cuối đời đã dự báo, sớm muộn, trước sau thì tất cả các dân tộc trên thế giới đều lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, nó chỉ khác nhau về đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử, mô hình, chứ còn đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu.

Đấy là những đánh giá rất quan trọng của các nhà sáng lập ra cuộc cách mạng vĩ đại này. Chúng ta kỷ niệm 104 năm để thống nhất nhận thức về tầm vóc vĩ đại, ý nghĩa lịch sử thế giới của cuộc cách mạng đã mở đường đi cho nhân loại như thế trong đầu thế kỷ XX.

Tác phẩm "Đường Kách mệnh" của Bác Hồ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng của Lênin và cuộc Cách mạng tháng Mười Nga.

PV: Thưa Giáo sư, Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một kỷ nguyên mới cho các nước XHCN sau này. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi tìm đường cứu nước và tìm ra được chân lý của mình cũng như cách mạng Việt Nam sau này, Người đã vận dụng tư tưởng Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam. Giáo sư có thể phân tích rõ thêm về vấn đề này?

GS Hoàng Chí Bảo: Khi Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra năm 1917 thì Bác đang ở châu Âu, Bác đang ở nước Pháp. Lúc bấy giờ Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra là một sự kiện đặc biệt trên thế giới, tư bản rất hoảng sợ và bưng bít thông tin. Bác biết được thông tin về cuộc cách mạng này là nhờ Bác đọc báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp. Từ đó trở đi thì Bác hết lòng cổ vũ cho Cách mạng Tháng Mười Nga. 10 năm sau, tức là năm 1927, lúc đó Bác mới có 37 tuổi, đã là một người cộng sản, Bác đã là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Bác viết một tác phẩm nổi tiếng cho Việt Nam là “Đường kách mệnh” từ năm 1927, lúc mà Đảng ta chưa ra đời.

Tác phẩm “Đường kách mệnh” của Bác lúc ấy chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng của Lênin và cuộc Cách mạng tháng Mười Nga. Tại sao ta nói như vậy? Vì trong tác phẩm này, Bác khẳng định mấy điều này: Một là, người cách mạng, Đảng Cách mạng phải giữ chủ nghĩa cho vững, tức là hệ tư tưởng, là nền tảng tư tưởng mà ngày nay Đảng ta đang ra sức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là như vậy. Thì đây là giữ chủ nghĩa cho vững.

Bác đã nói: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chân chính nhất, cách mạng triệt để nhất chỉ có Chủ nghĩa Lênin” và Bác nói là ta phải đi theo gương sáng của cách mạng tháng Mười Nga, tức là làm một cuộc cách mạng triệt để, Bác gọi là cách mạng đến nơi. Còn cách mạng Pháp, Mỹ tuy rất vĩ đại như cách mạng tư sản không đến nơi, không triệt để. Cách mạng tháng Mười Nga là một hình mẫu của cách mạng triệt để, đến nơi thì Bác nói phải đi theo cách mạng đó. Hai nữa, là cùng với sự giác ngộ Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Lênin thì Bác chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của Lênin về quyền tự quyết các dân tộc. Lênin viết cả một Luận cương là “Quyền tự quyết các dân tộc” thì Bác đã đọc Luận cương đó của Lênin và Bác nói Luận cương này đã cung cấp câu trả lời bao lâu nay Người tìm kiếm, nó trở thành “kim chỉ nam”, trở thành “cẩm nang” cho cách mạng Việt Nam. Bác còn nói, sau này ngồi trong phòng kín, đọc tư tưởng của Lênin về quyền tự quyết dân tộc mà tôi cảm động đến giàn giụa nước mắt. Tôi muốn hét to lên: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ, đây là con đường cứu sống chúng ta, đây là con đường đưa chúng ta đến giải phóng độc lập dân tộc. [sau này là chủ nghĩa xã hội].

Có thể nói tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Lênin và chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung ảnh hưởng rất sâu sắc, là nhân tố trực tiếp đến sự hình thành quyết định lịch sử của Nguyễn Ái Quốc. Cho nên, tác phẩm “Đường kách mệnh” có thể được coi là tác phẩm đặt nền móng tư tưởng và tổ chức chính trị cho Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930. Chưa kể là Bác Hồ của chúng ta còn dịch “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Mác-Ăngghen ra tiếng Việt để làm tài liệu huấn luyện cán bộ và tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Mác-Ăngghen có thể coi là cương lĩnh đầu tiên của phong trào cách mạng vô sản thế giới. Mác-Ăngghen khi viết tuyên ngôn này các ông mới có 30 tuổi, năm 1848, các ông đưa ra khẩu hiệu là: “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại, liên hiệp lại”. Đến Lênin, ông bổ sung thêm một tưởng rất quan trọng là “các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Bác Hồ chịu ảnh hưởng này, không chỉ giai cấp vô sản mà là phải có dân tộc bị áp bức nữa. Sau này, Bác khái quát lại là chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, tinh thần dân tộc. Và khi dịch “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, Bác là người mở rộng rãi nhất lực lượng đoàn kết để làm cách mạng. Mác-Ăngghen thì nói: “Giai cấp vô sản đoàn kết lại”; Lênin thì cho rằng “Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”; còn đến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thì người mở rộng hết biên độ của đoàn kết, Bác nói là “tất cả mọi người lao động đoàn kết lại”. Và tư tưởng đại đoàn kết ấy chính là ánh sáng soi đường cho Cách mạng tháng Tám của Việt Nam sau này, sau Cách mạng tháng Mười Nga. Đấy là những ảnh hưởng rất lớn và sự vận dụng sáng tạo của Bác Hồ vào cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945. [ảnh tư liệu]

Con đường Cách mạng tháng Tám chính là sự tiếp nối con đường Cách mạng tháng Mười ở Việt Nam và nó trở thành nguyên lý là “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội”, giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột để làm chủ và đưa cả dân tộc tới chủ nghĩa xã hội theo di huấn của các nhà kinh điển. Đó là công lao rất lớn của Nguyễn Ái Quốc khi truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, trực tiếp sáng lập ra Đảng và trực tiếp lãnh đạo thành công cuộc cách mạng chúng ta.

Nếu Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử của thế kỷ XX vì mở ra một thời đại mới thì Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam thời hiện đại. Một cuộc cách mạng của công - nông, một cuộc cách mạng để thiết lập chính quyền dân chủ, một cuộc cách mạng sáng lập ra Nhà nước kiểu mới, một cuộc cách mạng cũng đưa Đảng ta lên vị trí Đảng cầm quyền, thay đổi cả số phận dân tộc. Đấy là công lao của Nguyễn Ái Quốc.

Ở Việt Nam ta có khái niệm là thời đại Hồ Chí Minh. Đảng ta chính thức nói là thời đại Hồ Chí Minh là để nói về di sản vĩ đại của Bác. Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là thời đại mở ra một kỷ nguyên mới của Việt Nam là đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Thời đại ấy là hòa cùng chung vào thời đại lớn của thế giới là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Cho nên Bác Hồ và Đảng ta trước sau như một đều kiên trì một con đường là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đấy chính là sự trung thành và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta, của Bác Hồ về cách mạng tháng Mười Nga, về tư tưởng của Mác- Lênin vào Việt Nam.

Một điểm nữa, Cách mạng tháng Tám là một bài học mẫu mực về vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về tình thế và thời cơ cách mạng. Tình thế và thời cơ cách mạng đã chín muồi thì phải chớp lấy. Thời cơ mà bị bỏ lỡ thì mất đi không bao giờ trở lại. Điều đó trả lời cho câu hỏi tại sao cùng hoàn cảnh như Việt Nam mà nhiều nước, nhiều Đảng không làm cách mạng được như Việt Nam. Bác Hồ đã tạo ra một thời cơ rất là thuận lợi cho cách mạng bằng cách giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa thiên thời, địa lợi, nhân hòa mà nhân hòa là gốc, tức là lòng dân. Cho nên ngay từ khi mà Bác biết tin là phát xít Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đầu hàng, Bác nói đây là dấu hiệu mở đầu của thời cơ. Bác chỉ đạo là phải về nước ngay lúc này, chậm trễ là có tội với lịch sử. Bác quyết định hoãn đi học chính trị ở trường Hoàng Phố, đưa về nước lập căn cứ cách mạng và để chuẩn bị khởi sự, lập chính quyền. Bác rất chú trọng công tác dân vận, bởi vì có dân giúp sức thì cách mạng sẽ thắng lợi mà không có dân giúp sức thì dù có thuận lợi mấy cũng không thành công.

Tại sao Bác chỉ thị cho Võ Nguyên Giáp lập ngay đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12/1944? Lúc bấy giờ Cách mạng đến nơi rồi, lúc bấy giờ chúng ta chúng ta băn khoăn là không có súng thì làm sao mà làm cách mạng được? Bác nói là: “người trước, súng sau; chính trị trọng hơn quân sự; có dân thì sẽ có tất” và trực tiếp chỉ đạo mở các lớp bồi dưỡng cách mạng, lý luận cách mạng cho cán bộ. Và nét độc đáo là ở vùng biên giới Việt Nam và Trung Quốc, bác chọn chỗ mở lớp. Bác khai giảng lớp xong thì không có giảng bài gì cả, cả thầy và trò đi lên rừng lấy củi, làm dân vận cho dân. Bác tổng kết là: chùm nước của dân phải đầy, đống củi của dân phải cao thì dân mới tin tưởng, dân mới giúp đỡ Cách mạng. Cho nên phải làm tất cả vì dân. Tuyên ngôn của chúng ta cũng nêu rõ: cách mạng là vì dân. Bây giờ cũng vậy, đổi mới, phát triển cũng vì dân, vì hạnh phúc của nhân dân.

Những sự sáng tạo đó cho thấy rất rõ Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng cả về mặt chính trị, vận dụng cả về mặt quân sự và vận dụng cả về mặt đạo đức. Một cuộc cách mạng vĩ đại có thắng lợi hay không là nhờ sức mạnh đạo đức. Mà ở Bác, cả đời cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; từ đầu đến cuối đến tận phút cuối cùng cũng vậy thôi. Ngay trong “Đường kách mệnh”, Bác không chỉ nói là giữ chủ nghĩa cho vững, Bác còn căn dặn là phải ít lòng tham muốn về vật chất. Bác dặn cán bộ ít lòng tham muốn vật chất để rồi sau này khi có quyền, có chức thì phải biết đứng ngoài vòng danh lợi, không màng danh lợi chỉ vì dân, vì nước thôi và chỉ như vậy cách mạng thành công. Qua đó để ta hiểu vì sao bây giờ, Đảng ta phải hết sức nỗ lực để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, đánh bại chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm, để bảo vệ đất nước, bảo vệ quyền của dân, lợi ích của dân được dân ủng hộ thì cách mạng sẽ thắng lợi.

Bài học đó rất thấm thía vào lúc này khi ta nhắc đến 104 năm Cách mạng tháng Mười, cũng là 76 năm cuộc Cách mạng tháng Tám và 3/4 thế kỷ Đảng ta ở vị trí Đảng cầm quyền cầm quyền liên tục. Đấy là một bản lĩnh chính trị của Đảng ta, từ sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân với Đảng, sức mạnh dân tộc với thời đại, sức mạnh yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Sáng tạo này có thể khái quát là không chỉ sáng tạo học thuyết lý luận về tư tưởng, sáng tạo về phương pháp cách mạng, sáng tạo cả về sách lược cách mạng, sáng tạo cả về chủ trương, đường lối mà nổi bật nhất là đoàn kết. Để ta hiểu vì sao mà sau này Bác nói là “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Một Đảng 15 tuổi mà đã làm Cách mạng thành công. Lúc Cách mạng tháng Tám khởi sự, toàn Đảng có 5.000 đảng viên và thù trong, giặc ngoài như thế mà vẫn giành được thắng lợi thì có thể nói là Bác tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh Nhân dân, truyền thống dân tộc, lại có đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản và ánh sáng tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại là Mác-Lênin soi đường thì cách mạng sẽ thành công.

GS Hoàng Chí Bảo trao đổi với phóng viên nhân dịp kỷ niệm 104 năm Cách mạng tháng Mười Nga. [ảnh: HH]

PV: Thưa Giáo sư, rõ ràng là qua nghiên cứu một số cuộc cách mạng nổi tiếng trên thế giới và ở Việt Nam thì cho thấy rằng, việc xác định con đường, định hướng tư tưởng có thể nói là tiên quyết trong mọi cuộc cách mạng. Xin Giáo sư phân tích sâu hơn về xác định nền tảng tư tưởng trong mỗi cuộc cách mạng để nó mang tính triệt để và dẫn tới thành công? Và để bảo vệ nền tảng tư tưởng hiện nay, chúng ta cần phải làm gì?

GS Hoàng Chí Bảo: Nền tảng tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga cũng như Cách mạng tháng Tám sau này của Việt Nam làm đều dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin hay ta gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học mà cái then chốt nhất được thể hiện ở mấy điểm sau:

Một là phải đảm bảo giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo đội tiên phong của giai cấp công nhân chính là Đảng Cộng sản và cuộc cách mạng ấy chính là thực hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân. Đó là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội loài người và những giải phóng từng con người.

Nền tảng tư tưởng ấy được Đảng ta rất chú trọng phát triển. Bác nói: Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo, tức là vận dụng tinh thần và phương. Tinh thần, tức là thế giới quan, là nội dung tư tưởng; phương pháp, tức là vấn đề nghệ thuật cách mạng. Cách mạng vừa là nghệ thuật, vừa là khoa học, trong đó có vấn đề nghệ thuật chớp thời cơ; nghệ thuật vận dụng lực lượng; nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù; nghệ thuật phân hóa kẻ thù…Bác và Đảng ta đã thực hiện đúng cái nền tảng tư tưởng đó.

Tất nhiên, trong suốt quá trình cách mạng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng là không đơn giản, vì kẻ thù luôn luôn xuyên tạc và phá hoại niềm tin ấy của chúng ta. Cho nên bây giờ, trọng trách của Đảng ta là trước hết phải bảo vệ cho được nền tảng tư tưởng. Đảng ta dùng khái niệm là “kiên quyết và kiên trì, kiên định”. Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII có một câu rất quan trọng: coi nguyên tắc về nền tảng tư tưởng là một nguyên tắc không thay đổi. Và không cho phép ai được ngã nghiêng, dao động. Khẳng định này mạnh liệt lắm và rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay để thống nhất nhận thức tư tưởng trong Đảng, trong dân. Vì con đường phát triển của Việt Nam là chủ nghĩa xã hội.

Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng này trong điều kiện kinh tế thị trường, trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhất là trong điều kiện bùng nổ cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư, bùng nổ thông tin, mạng xã hội đầy rẫy các thông tin giả dối, xuyên tạc thì giữ vững niềm tin, bảo vệ nền tảng tư tưởng không có gì quan trọng hơn là bảo vệ con đường phát triển chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa thôi. Ngay cả việc Liên Xô đổ vỡ, Đông Âu, đổ vỡ chủ nghĩa xã hội lâm vào tổn thất nặng nề và thoái trào cũng không hề làm mất đi niềm tin của chúng ta với chủ nghĩa xã hội. Khẳng định đó là phải hết sức chú trọng trong giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là lớp trẻ để vững tin.

Điểm thứ hai nữa là phải bảo vệ địa vị lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng. Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo cầm quyền đã được ghi vào Hiến pháp năm 2013. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc lãnh đạo cầm quyền của Đảng. Dĩ nhiên, Đảng không chỉ chính đáng về mặt pháp lý mà Đảng còn xứng đáng về mặt đạo đức. Không có Đảng nào hy sinh vì dân, vì nước như Đảng ta, mà kết tinh là Bác Hồ. Đảng là đạo đức, là văn minh. Nhân dân tin Đảng đến mức coi Đảng là chính mình. Không có Đảng nào có uy tín, ảnh hưởng rộng lớn như vậy trong dân. Cho nên Đảng phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và đặc biệt là tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện.

Tại kỳ Đại hội lần thứ XIII của Đảng ta lần này chính thức ghi vào văn kiện từ “chỉnh đốn Đảng”. Và điều đáng chú ý, 3 nhiệm kỳ liên tiếp, 3 hội nghị Trung ương 4 liên tiếp từ khóa XI, XII, XIII đều lấy Xây dựng Đảng làm trọng tâm, làm chủ đề lớn để nói về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Tóm lại, muốn cách mạng thành công, triệt để, phải có con đường phát triển, khẳng định mục tiêu, khẳng định vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng, khẳng định sức mạnh sáng tạo vô tận của nhân dân. Cách mạng thắng lợi là do có Nhân dân. Ngoài Đảng sáng suốt ra thì phải có Nhân dân. Dân là lực lượng của Đảng. Bác nói không có Đảng lãnh đạo thì dân không có người dẫn đường mà không có dân giúp sức thì Đảng không có lực lượng. “Đảng với dân là máu thịt”. Trước khi mất, Bác để lại cho toàn Đảng, toàn dân một câu nói cảm động: Nhân dân giúp đỡ nhiều, ủng hộ nhiều thì thành công nhiều; nhân dân giúp đỡ ít thì thành công ít; nhân dân giúp đỡ hoàn toàn thì thành công hoàn toàn, thắng lợi hoàn toàn. Đấy là chân lý của muôn đời: “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Có cái khó nào bằng cái khó xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì có dân sẽ có tất cả.

Đấy là điểm rất cần thiết để nhắc lại hiện nay khi chúng ta nói về kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga để dẫn đến sự nghiệp của chúng ta hiện nay. Và thái độ của Đảng ta là rất rõ ràng, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị [phải có đường lối đúng đắn]; hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng; tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Xây dựng Đảng về đạo đức rất quan trọng. Bài học đau đớn của Liên Xô và Đông Âu đổ vỡ chỉ vì suy thoái đạo đức, mất dân, dân không tín nhiệm nữa. Bây giờ, Đảng tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Đạo đức này không có gì khác là cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư theo gương sáng Hồ Chí Minh. Đây là việc rất quan trọng mà chúng ta cần phải nhấn mạnh để xây dựng Đảng làm sao cho xứng đáng là “con nòi của giai cấp công nhân”, để xứng đáng là “Đảng là đạo đức, là văn minh” như Bác Hồ kỳ vọng.

Mong muốn nhất của chúng ta bây giờ là làm sao Đảng thành công trong chống tham nhũng, Đảng giữ mãi được niềm tin của nhân dân. Đảng ta khẳng định, niềm tin của nhân dân là tài sản vô giá, không được mất, phải phát huy, phát triển lên và phải lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo về năng lực, phẩm chất cán bộ và là thước đo về hiệu quả lãnh đạo, quản lý. Tư tưởng này có thể nói là sẽ soi đường, chỉ lối cho chúng ta đi tới thắng lợi dù phải vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư đã trả lời phỏng vấn!

Hiền Hòa [thực hiện]

Tầm nhìn thời đại và tư duy độc lập, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc

10/09/2021 | 08:15

Với tầm nhìn thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm sáng rõ con đường cách mạng Việt Nam, soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Một hành trình cứu nước qua ba đại dương, bốn châu lục và gần ba mươi quốc gia trong khoảng thời gian ba mươi năm là một hành trình đầy gian khổ nhưng càng cho thấy tấm lòng yêu nước cao cả, thương dân vô bờ bến cùng ý chí kiên cường, bất khuất và đặc biệt là tư duy độc lập, sáng tạo của một bậc đại chí, đại nhân, đại dũng trong công cuộc giải phóng dân tộc.

Nhân tố thôi thúc quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Truyền thống gia đình, đặc biệt là nhân cách và những tư tưởng tiến bộ của cụ thân sinh Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc chính là cội nguồn cho chí hướng cách mạng và hoài bão ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trên quê hương Nghệ An giàu truyền thống văn hiến và cách mạng. Không chỉ giàu truyền thống hiếu học, cần cù trong lao động, trọng tình nghĩa trong cuộc sống, người dân nơi đây còn giàu truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm với nhiều tấm gương lưu sử sách, như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hoàng Xuân Hành, Nguyễn Sinh Quyết... Chính truyền thống yêu nước tốt đẹp của quê hương, của dân tộc là nền tảng để Nguyễn Tất Thành sau này đã gặp gỡ và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tinh hoa tư tưởng, văn hóa của nhân loại, một học thuyết khoa học, cách mạng triệt để nhất, qua đó thể hiện tầm nhìn rộng mở mang tính thời đại của Người trong hành trình đi tìm đường cứu nước.

Ngày 5-6-1911, từ bến Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc, ra đi trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville để thực hiện hoài bão giải phóng nước nhà khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc_Ảnh: Tư liệu

Những tư tưởng tiến bộ của các thầy giáo, các bậc sĩ phu yêu nước đã tiếp thêm sức mạnh và thôi thúc người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Nhờ những ảnh hưởng của các thầy giáo tân học và những trang sách báo tiến bộ mà ý muốn sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại đã từng bước lớn dần lên trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành.Thực tiễn Việt Nam khi đó là nhân tố tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.

Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chính sách thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam là chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa. Dưới ách thống trị và bóc lột của thực dân Pháp, Việt Nam từ một chế độ phong kiến độc lập chuyển thành chế độ thuộc địa, mất hẳn chủ quyền, phụ thuộc vào thực dân Pháp; kinh tế bị kìm hãm nặng nề, mâu thuẫn xã hội ngày càng tăng và gay gắt; người dân lâm vào cảnh đói nghèo, khổ ải, lầm than. Thực dân Pháp ra sức vơ vét tài nguyên của đất nước; bọn quan lại đặt ra đủ các thứ thuế, bọn hào lý thì tham nhũng vô độ, bóc lột nhân dân không thương tiếc. Trước tình hình chính trị - xã hội như vậy, nhiều phong trào đấu tranh yêu nước nổ ra, như phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ [1861 - 1868], phong trào Cần Vương ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ [1885 - 1895], khởi nghĩa Yên Thế ở Bắc Kỳ [1885 - 1913]…, nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp dã man và bị thất bại. Đầu thế kỷ XX, các sĩ phu yêu nước tiếp thu trào lưu tư tưởng mới, tiến hành cuộc vận động cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản…, nhưng cũng không thành công. Sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối.

Tiếp thu truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào thoát khỏi cảnh nô lệ, lầm than. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước nhưng không tán thành con đường cứu nước của các bậc tiền bối và chính điều nàyđã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Và cũng chính lòng yêu nước vô bờ bến ấy là cội nguồn sức mạnh giúp Người vượt qua mọi khó khăn nơi đất khách quê người để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Tầm nhìn thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hành trình tìm đường cứu nước

Với tầm nhìn rộng mở, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành người cộng sản, chiến sĩ quốc tế xuất sắc, tìm thấy con đường cứu nước duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Quyết định sang Pháp là một quyết định có ý nghĩa lịch sử, thể hiện rõ tầm nhìn rộng mở, sẵn sàng tìm hiểu và học hỏi thế giới phương Tây, tiếp xúc, tiếp thu nền văn minh, tinh hoa trí tuệ của nhân loại.Người tham gia nhiều sự kiện lớn của thế giới, ủng hộ các cuộc cách mạng xã hội, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc và tham gia các buổi diễn thuyết của nhiều nhà chính trị và triết học; tiếp xúc văn hóa và các danh nhân văn hóa, chính trị của Pháp, tiếp xúc với những tư tưởng nhân đạo, nhân văn qua văn học Pháp, Nga, Anh, Mỹ,… Tại Pa-ri [lúc này được coi là “trung tâm liên minh thế giới của bọn đế quốc”], Người đã có một bước phát triển mới trong nhận thức về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khi tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.Từ năm 1911 đến năm 1920, bằng việc khảo cứu các nước thuộc địa và các nước tư bản lớn, như Mỹ, Anh, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức quan trọng trong việc tìm kiếm con đường giải phóng và mô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước. Ngay từ thời niên thiếu, Người đã bộc lộ những phẩm chất giàu lòng nhân ái, ham hiểu biết, có hoài bão lớn, có chí cứu nước,…; những phẩm chất đó đã được rèn luyện và phát huy trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, Người đã phân tích, lựa chọn để cuối cùng đi tới chân lý: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[1].

Cuối năm 1917, mặc dù vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn lạc quan, say sưa học tập, nghiên cứu Cách mạng Mỹ [năm 1776], Cách mạng Pháp [năm 1789], Cách mạng Nga [năm 1917]. Người rút ra kết luận rằng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 7-1920, Người sung sướng khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”của V.I. Lê-nin. Luận cương đã mở ra cánh cửa để Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và cách mạng vô sản.

Cuối năm 1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp, với việc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, Người khẳng định sự lựa chọn dứt khoát, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Quốc tế Cộng sản.

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours, năm 1920_Ảnh: Tư liệu

Với tầm nhìn thời đại, Người đã làm sáng rõ con đường cách mạng Việt Nam, soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuộc tìm kiếm con đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện tầm nhìn thời đại trong việc xác lập, kiến tạo mô hình xã hội gắn với các thiết chế hiện đại. Người đã tiếp thu tư tưởng tiến bộ từ các nước lớn của phương Tây, như Mỹ, Anh, Pháp để tạo nênmô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước. Đó là mô hình Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thể chế chính trị Việt Nam dân chủ cộng hòa là mô hình nhà nước mà ở đó, quyền lực thuộc về nhân dân, một thể chế chính trị - xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mô hình thể chế đó là động lực, là ngọn cờ thôi thúc toàn thể dân tộc Việt Nam vùng lên làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xác lập một thể chế chính trị - xã hội mới, vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân quyền và dân sinh, tự do, hạnh phúc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn con đường phát triển của dân tộc Việt Nam với xu thế thời đại, theo quy luật khách quan của lịch sử. Độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do và hạnh phúc của nhân dân và gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đáp ứng ngày càng cao và toàn diện mọi nhu cầu chính đáng, hợp pháp của người dân; là xã hội do quần chúng nhân dân xây dựng nên, vì vậy, mang tính tập thể, cộng đồng sâu sắc. Những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc đã thể hiện phẩm chất của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, mở ra thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc ta.

Tư duy độc lập, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc giải phóng dân tộc

Ngay từ khi sống tại Pháp và sang nước Anh, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu rất nhiều nền văn hóa, hấp thụ những tư tưởng dân chủ; từ đó, hình thành phong cách dân chủ từ thực tiễn cuộc sống. Tại nơi đất khách, Người học được cách làm việc dân chủ ngay trong sinh hoạt khoa học của Câu lạc bộ Phô-bua, trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp. Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp [M. Cachin, P.V. Couturier, G. Monmousseau,..], Nguyễn Ái Quốc đã từng bước trưởng thành, làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, cả văn hóa phương Đông và phương Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Trong 10 năm đầu [1911 - 1920] của quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thiện vốn văn hóa, chính trị và thực tiễn phong phú, tạo thành một bản lĩnh trí tuệ, nâng cao khả năng độc lập, tự chủ, sáng tạo ở Người, khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đối với một đất nước thuộc địa, một dân tộc bị áp bức, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[2]. Cuộc cách mạng vô sản ở đây không chỉ là cuộc đấu tranh giai cấp, mà còn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, một phạm trù của cách mạng vô sản.Chánh cương vắn tắt của Đảng[năm 1930], do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, đã khẳng định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[3]. Làm tư sản dân quyền cách mạng đánh đổ thực dân Pháp xâm lược đem lại độc lập dân tộc. Làm thổ địa cách mạng là đánh đổ bọn phong kiến, địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày [sau này, cả hai cuộc cách mạng cùng tiến hành song song ấy được gọi là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân]. Đây là điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng không ngừng, lý luận về thời cơ và tình thế cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng liên minh công -nông của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công - nông là gốc của cách mạng, còn trí thức tiểu tư sản là bầu bạn của công - nông. Đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dù trong đấu tranh giành độc lập dân tộc hay trong xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, liên minh công - nông - trí thức là nhân tố đóng vai trò quyết định. Sự sáng tạo, độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện trong việc vận dụng quan điểm về vai trò quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào tình hình cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, mà trọng tâm chính là khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Người khẳng định: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa”[4]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Thông quaLời kêu gọi toàn quốc kháng chiếnngày 19-12-1946 vàLời kêu gọi toàn quốc chống đế quốc Mỹ cứu nước[năm 1967], một lần nữa, Người khẳng định tinh thần độc lập dân tộc và bản chất nhân dân của cách mạng Việt Nam trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước, với khẩu hiệu“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.Đó chính là sự kế thừa và phát huy tinh thần độc lập dân tộc của dân tộc ta trong thời đại mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận về vấn đề xây dựng đảng cầm quyền của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuầnđạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[5]. Người cũng đã vận dụng sáng tạo lý luận về nhà nước vô sản vào tình hình cách mạng Việt Nam, xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo Người, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[6]. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái - trai, giàu - nghèo, giai cấp. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân không phải nhà nước “siêu giai cấp”, mà là nhà nước do Đảng Cộng sản - đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác [Trong ảnh: Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ra mắt Đại hội]_Ảnh: Tư liệu

Sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là một trong những nhân tố bảo đảm thành công của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là hoàn toàn đứng vững trên lập trường mác-xít.Người đã phát triển và vận dụng hết sức sáng tạo lý luận mác-xít vào cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là với cách mạng Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[7]. Theo đó, “thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội”[8]; “chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”[9]. Người nhấn mạnh, giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc phải được giải quyết trên lập trường giai cấp vô sản. Nếu không giành được độc lập dân tộc thì không thể giải phóng giai cấp, không thể nói đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Chỉ cókết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn cuộc đấu tranh của nước mình với trào lưu cách mạng của thế giới mới tạo ra được sức mạnh to lớn để bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển tiến bộ xã hội.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, thực hiện công cuộc đổi mới, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xãhội./.

-----------------

[1]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 289

[2]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 30

[3]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 1

[4]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 559

[5]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611 - 612

[6]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 453

[7]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd,t. 1, tr. 511

[8]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd,t. 11, tr. 600

[9]Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđd,t. 3, tr. 230

Theo Tạp chí Cộng sản

Video liên quan

Chủ Đề