Đánh giá nghị luận văn học bài thương vợ

Tuyển tập seri Văn mẫu 11 với hơn 90 bài chọn lọc từ các bài dự thi của các bạn học sinh và thầy cô trên cả nước. Dưới đây là bài Nghị luận bài thơ Thương vợ hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo

Mở bài Nghị luận bài thơ Thương vợ

        Tú Xương là một cá tính thơ có phần nổi loạn, bằng giọng thơ chua chát và sắc nhọn của mình ông đã làm phơi bày xã hội phong kiến thối nát, bất công. Nhưng trong mạch thơ trào phúng ấy, Thương Vợ dường như là một mạch nguồn rất riêng, mà ở đó nhà thơ thể hiện những niềm lắng lòng thiêng liêng sâu xa cho người phụ nữ tần tảo hi sinh cho đời ông.

Đánh giá nghị luận văn học bài thương vợ

Thân bài Nghị luận bài thơ Thương vợ

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.”

         Chỉ từ một vài điểm tựa trong câu thơ đầu tiên về mặt ngôn ngữ, có thể thấy được hoàn cảnh ngặt nghèo và đầy nguy hiểm của bà Tú. Buôn bán ở mom sông, nơi gặp không ít những trắc trở gập ghềnh của kẻ buôn người bán, thế nhưng vẫn đều đặn ngày này qua tháng khác, quanh năm ngày tháng bươn chải, lặn lội trên chính mảnh đất của sự nguy hiểm ấy để kiếm sống nuôi gia đình, cụ thể là nuôi đủ năm con với một chồng. Điều đó có thể thấy được sự hi sinh và những tần tảo sớm hôm của bà Tú cho gia đình của mình, đó không chỉ là sự hy sinh, mà còn là sự đánh đổi, một sự cao thượng và vị tha mà không phải bất cứ người vợ nào cũng có thể làm được.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

       Các từ láy tượng thanh tượng hình được đảo ngữ, đặt lên đầu câu như bản lề khép mở bức tranh thân phận của bà Tú. Một lần nữa, hình ảnh thân cò mong manh một mình lặn lội kiếm ăn lại được xuất hiện trong ca dao. Nếu như trong ca dao xưa, con cò là một chất liệu dân gian, dáng cò hao gầy cũng như nắng mưa mà người lao động phải gánh trên đôi vai cùng dáng đi thấp thỏm và cô đơn trong chiều muộn của nó, gợi đến hình ảnh người nông dân trong xã hội cũ thì ở đây Tú Xương dùng hình ảnh rất quen thuộc ấy để gợi một cái tứ mới hơn, cái tứ về người vợ. Từ láy “eo sèo” gợi chút gì đó trôi nổi, tàn tạ, héo hon của gánh nặng cơm áo gạo tiền đè nặng lên đôi vai gầy người phụ nữ. Lặn lội bươn chải quanh năm, dầu dãi nắng mưa chen chúc nơi những phiên chợ vốn ồn ã và lắm thị phi, bà Tú lại vốn là con gái nhà quan, thế chẳng phải là một sự hy sinh, một sự dấn thân rất mực cao cả và thậm chí nén chặt những ngậm ngùi trong gánh hàng bán buôn của mình ư. Chính vì thế, nó làm dấy lên trong ông Tú những chua xót ngậm ngùi, về việc thế thời đã làm ông ra nông nỗi này, cái thời buổi thật giả trắng đen lẫn lộn, khiến những kẻ thị tài và chơi ngông với cả cái tài của mình như ông Tú chẳng còn chỗ nương thân, sự hy sinh của bà Tú để vun vén cho đường hoạn lộ công danh của chồng, vừa là sự hi sinh, vừa khiến ông Tú cảm thấy tội lỗi, hổ thẹn, thế nhưng cái bệnh nghệ sĩ, cái máu văn thơ đã ngấm vào từng thớ vỏ tâm hồn mình nên ông Tú lại chỉ âu đành phận, và cứ để bà Tú một mình bươn chải với chốn lao xao:

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”.

         Cái duyên chỉ là một nửa, còn trong ông Tú cũng phần nào xót thương cho người vợ tri kỷ của mình, mà tự nguyện thấy rằng, bà Tú một mình gánh trên vai kiếp đèo bòng, là phận bạc héo hon khi phải từ bỏ thân thế cao quý của mình mà nuôi sống gia đình. Tránh hồng nhan bạc phận, từ phận trong câu thơ của ông Tú nghe mới thật chua chát ngậm ngùi làm sao, tự ông cũng cảm thấy mình là gánh nặng, là nỗi hao gầy làm hao mòn đôi vai nhỏ bé và gầy guộc của bà Tú, “năm nắng, mười mưa” vẫn kiên trì gánh vác tất cả những lo toan, tất bật và khó nhọc trên đôi vai nhỏ của mình.

         Thế nhưng một người như ông Tú, chẳng biết làm gì hơn, là chua xót về thân phận kiếp đời mình, tiếng than mà cũng là tiếng chửi chính mình ở hai câu thơ cuối vì thế là sắc độ trào phúng sâu sắc nhất mà nhà thơ gửi đến chính mình:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:

Có chồng hờ hững cũng như không”.

         Thói đời ăn ở bạc, thói đời bất công đầy thối nát đã biến ông Tú từ một kẻ đầy ý thức về tài năng, thế nhưng cũng bị xã hội ấy rửa trôi đi cái tài ấy, và khiến ông trở thành kẻ ăn bám vợ, khiến ông say trong men rượu, mượn rượu ca tửu để quên đi nỗi chua chát của đời, nhưng cũng vì thế, mà ông Tú càng thương bà Tú, niềm thương ấy không chỉ là sự thương xót, mà còn là sự trân trọng, thương cảm, thấu hiểu và đầy dằn vặt ăn năn về bản thân mình.

Kết bài Nghị luận bài thơ Thương vợ

         Xã hội trung đại vốn là một xã hội phân biệt đẳng cấp, người phụ nữ thấp cổ bé họng chỉ như con sâu, con kiến, cái chổi cùn…ấy thế nhưng, Thương Vợ đã dường như cho thấy một bước ngoặt mới trong thơ trung đại, khi người phụ nữ được trân trọng, và lắng nghe những nỗi đắng cay tủi hờn của chính họ.

Tham khảo thêm: Vẻ đẹp nhân cách Tú Xương trong bài thơ Thương vợ