Để thể hiện diện tích và sản lượng lúa của các tỉnh ở nước ta người tạ thường dụng phương pháp

Vụ Hè Thu 2021 các tỉnh Nam bộ: Diện tích giảm nhưng năng suất tăng

[ĐCSVN] - Theo Cục Trồng trọt [Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn], vụ Hè Thu 2021 các tỉnh Nam bộ tuy diện tích giảm khoảng 11 nghìn ha nhưng bù lại ước năng suất tăng 1,14 tạ/ha, do đó, sản lượng vẫn tăng 120 nghìn tấn so với vụ Hè Thu 2020. Ngoài ra, Cục Trồng trọt cũng lưu ý, để phát triển bền vững lúa hàng hóa xuất khẩu, các địa phương cần quan tâm nhiều hơn nữa trong việc chỉ đạo áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất.

Diện tích vụ lúa Hè Thu 2021 giảm nhưng dự kiến năng suất tăng [Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: BT]

Diện tích vụ Hè Thu giảm nhưng năng suất tăng

Cục Trồng trọt cho biết, tổng diện tích xuống giống toàn vùng Nam bộ vụ Hè Thu 2021 đạt 1.599 nghìn ha, giảm 11 nghìn ha. Tuy diện tích giảm nhưng năng suất ước đạt 56,51 tạ/ha, tăng 1,14 tạ/ha đưa sản lượng của toàn vụ ước đạt 9.036 nghìn tấn, tăng 120 nghìn tấn so với vụ Hè Thu 2020.

Cụ thể, tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vụ Hè Thu xuống giống 1.515 nghìn ha, giảm 9 nghìn ha; năng suất ước đạt 56,66 tạ/ha, tăng 1,15 tạ/ha; sản lượng ước đạt 8.584 nghìn tấn, tăng 124 nghìn tấn so với vụ Hè Thu trước. Vùng Đông Nam Bộ xuống giống 84 nghìn ha, giảm 2 nghìn ha; năng suất ước đạt 53,86 tạ/ha, tăng 0,86 tạ/ha; sản lượng đạt 453 nghìn tấn, bằng với cùng kỳ.

Theo Cục Trồng trọt, diện tích lúa vụ Hè Thu của vùng giảm chủ yếu do chuyển đổi sang trồng cây rau màu hằng năm, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn và nhu cầu nguồn nước tưới ít hơn so với trồng lúa. Ngoài ra, để đạt được kết quả trên, trong sản xuất, Cục đã chỉ đạo thực hiện triệt để phương châm xuống giống đồng loạt, tập trung, nhanh gọn theo từng vùng trên cơ sở nguồn nước cung cấp cho sản xuất và dự báo né rầy của cơ quan Bảo vệ Thực vật vùng và cơ quan Bảo vệ Thực vật địa phương. Các địa phương căn cứ vào dự báo tình hình tiêu thụ lúa gạo đã có sự sắp xếp và chủ động điều chỉnh diện tích các vụ lúa trong năm cho phù hợp và thích ứng với diễn biến của yêu cầu thị trường. Đồng thời, theo dõi diễn biến của lũ, bão và thời tiết để có kế hoạch xuống giống phù hợp.

Cũng theo Cục Trồng trọt, một trong những điểm nổi bật của vụ Hè Thu 2021 là về cơ cấu giống lúa. Tại Đồng bằng sông Cửu Long, kết quả sản xuất của vùng về cơ cấu giống đã theo đúng theo tinh thần chỉ đạo của Cục tại công văn số 447/TT-VPPN và khuyến cáo của các địa phương. Trong đó, giống lúa thơm, đặc sản đạt 29,8%, tăng 3,8% so với cùng kỳ; giống lúa chất lượng cao đạt 48,0%, tăng 2,0% so với cùng kỳ; giống chất lượng trung bình đạt 11,5%, giảm 4,7% so với cùng kỳ; giống lúa nếp đạt 10,7%, giảm 1,1% so với cùng kỳ.

Chính cơ cấu giống lúa sản xuất từng mùa vụ đang có xu hướng chuyển dịch dần sang các giống lúa thơm, đặc sản [nhất là giống lúa thơm ST24, ST25] và giống lúa chất lượng cao phù hợp với yêu cầu thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường EU theo các Hiệp định thương mại tự do, đang tạo điều kiện thuận lợi về thương hiệu và vị thế cho xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Chỉ đạo áp dụng giải pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất

Vụ Hè Thu 2021, giá thành bình quân tạm tính là 3.728 đồng/kg, tăng 143 đồng/kg so với vụ Hè Thu 2020 [ tăng khoảng 4% ], trong khi giá phân bón [giá ure khoảng 10.000 đồng/kg so với cùng kỳ là 6.500 đồng/kg; phân DAP khoảng 15.000 đồng/kg so với cùng kỳ là 10.000 đồng/kg, phân bón tăng khoảng 40 – 60%] và vật tư đầu vào khác cũng tăng theo, nhưng do việc thực hiện giảm chi phí hạt giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,.. nên chi phí giá thành sản xuất có tăng lên không đáng kể và đảm bảo mức lợi nhuận tăng cao hơn so với vụ Hè Thu 2020.

Thực tế trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ NN&PTNT cùng các địa phương thực hiện chương trình tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo xuất khẩu, tập trung ưu tiên đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất với các giải pháp thực hiện như: 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, áp dụng quản lý dịch hại tổng hợp IPM và ICM, kỹ thuật tưới nước tiết kiệm cho lúa “ướt khô xen kẽ - nông lộ phơi” và giảm khối lượng hạt giống lúa gieo sạ trên một đơn vị diện tích, kết quả hiện nay gieo sạ tập trung 100 – 120 kg/ha, giảm đáng kể lượng giống lúa gieo sạ trên 150 kg/ha. Từ đó, giúp giảm chi phí đầu tư về hạt giống, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật khoảng 2 – 3 triệu đồng/ha tùy từng vùng sản xuất. Bên cạnh việc tăng tỷ lệ sử dụng giống lúa xác nhận và nguyên chủng trên 75% giúp năng suất và chất lượng lúa gạo hàng hóa tăng, chi phí sản xuất giảm đáng kể, mang lại lợi nhuận cao hơn cho người sản xuất và tăng lợi thế cạnh tranh cho ngành hàng lúa gạo xuất khẩu.

Điển hình một số tỉnh thực hiện tốt các giải pháp kỹ thuật nêu trên đã mang lại hiệu quả kinh tế cao như tỉnh Tiền Giang. Vụ Hè Thu của tỉnh năng suất ước đạt 56 tạ/ha, tổng chi phí khoảng 20 triệu/ha, thu nhập đạt 42 triệu/ha, lợi nhuận 22 triệu/ha, tăng thêm khoảng 5 triệu đồng/ha so với vụ Hè Thu 2020. Do đó, để phát triển bền vững sản xuất lúa hàng hóa xuất khẩu, theo Cục Trồng trọt, các địa phương cần quan tâm nhiều hơn nữa trong việc chỉ đạo thực hiện áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất.

Cũng theo Cục Trồng trọt, để đưa vụ Hè Thu 2021 đạt kết quả cao, các địa phương cần tiếp tục theo dõi diễn biến thời tiết để có giải pháp ứng phó với các điều kiện khó khăn; chăm sóc lúa đang ở các thời kỳ sinh trưởng, thường xuyên theo dõi tình hình phát sinh, phát triển dịch hại trên đồng và có kế hoạch phòng trị kịp thời đảm bảo an toàn cho diện tích còn lại chưa thu hoạch.

Đáng chú ý, lúa chín đến đâu tranh thủ thu hoạch đến đó với phương châm “xanh nhà hơn già đồng” để hạn chế tối thiểu lúa đổ ngã trong mùa mưa làm giảm năng suất và chất lượng lúa thương phẩm.

Ngoài ra, cần tăng cường công tác chăm sóc ruộng sản xuất lúa giống, quản lý việc sử dụng các giống lúa mới chưa được công nhận trong sản xuất, kinh doanh theo quy định hiện hành. Theo dõi và kịp thời hỗ trợ, giải quyết khó khăn trong liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản./.

BT

Phát huy lợi thế vựa lúa số 1 cả nước của Đồng bằng sông Cửu Long

[ĐCSVN] – Đồng bằng sông Cửu Long được biết đến là vựa lúa số 1 của cả nước khi đóng góp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, góp phần khẳng định vai trò, vị thế xuất khẩu gạo tốp đầu thế giới của Việt Nam.

Đồng bằng sông Cửu Long khẳng định vị thế "vựa lúa số 1" của nước ta. [Ảnh: PV]

Không ngừng củng cố vị trí là “vựa lúa số 1” cả nước

Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu nhất Đông Nam Á, là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất Việt Nam với diện tích tự nhiên 4.092,2 nghìn ha, trong đó 2.575,2 nghìn ha đất dùng cho sản xuất nông nghiệp, chiếm 62,9% tổng diện tích đất tự nhiên của cả vùng. Phần lớn diện tích đồng bằng được bồi đắp phù sa hằng năm, rất màu mỡ, nhất là dải đất phù sa ngọt dọc sông Tiền và sông Hậu cùng với mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, tạo điều kiện thuận lợi cung cấp nước cho sản xuất lúa. Với những lợi thế đó, Đồng bằng sông Cửu Long tập trung sản xuất lúa và trở thành vựa lúa số một cả nước.

Diện tích gieo trồng lúa của vùng luôn đứng đầu cả nước, trung bình chiếm 52% diện tích gieo trồng lúa của cả nước. Năm 2000, diện tích gieo trồng lúa của toàn vùng đạt 3.945,8 nghìn ha, chiếm 51,5% diện tích trồng lúa của cả nước, năm 2015 tăng lên 4.301,5 nghìn ha, chiếm 55% và đến năm 2020 là 3.963,7 nghìn ha, chiếm 54,5%.

Ngành lúa gạo của Đồng bằng sông Cửu Long đã không ngừng áp dụng cải tiến giống cây trồng, thay đổi từ giống lúa năng suất thấp chỉ đạt 2-3 tấn/ha sang các giống lúa cao sản chất lượng cao đạt 6-8 tấn/ha. Năng suất lúa của vùng hầu hết các năm đều cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Sự thay đổi mùa vụ từ 1-2 vụ/năm sang 3 vụ lúa chính/năm cùng với đổi mới cơ cấu giống lúa và quy trình sản xuất theo hướng thâm canh tăng năng suất. Nhờ đó, năng suất lúa từng vụ và cả năm ở vùng tăng dần qua các năm. Năng suất lúa năm 2015 đạt 59,5 tạ/ha, cao hơn 1,9 tạ/ha so với năng suất chung của cả nước, năm 2020 đạt 60,1 tạ/ha, cao hơn 1,4 tạ/ha. Đặc biệt vụ đông xuân năm 2021, Đồng bằng sông Cửu Long đạt 72 tạ/ha, cao hơn 3,7 tạ/ha năng suất vụ đông xuân cả nước. Một số địa phương có năng suất lúa đông xuân năm 2021 đạt cao: Hậu Giang đạt 78,2 tạ/ha; Phú Yên đạt 77,9 tạ/ha; Bạc Liêu đạt 77,3 tạ/ha; Kiên Giang đạt 76,2 tạ/ha; An Giang đạt 74,7 tạ/ha; Đồng Tháp đạt 73,2 tạ/ha. Tính chung 20 năm từ 2000-2020, năng suất lúa bình quân toàn vùng tăng thêm 17,8 tạ/ha, làm tăng thêm hơn 7 triệu tấn lúa, chiếm gần 70% tổng sản lượng lúa tăng thêm của cả nước.

Biểu đồ sản lượng lúa Đồng bằng sông Cửu Long với cả nước. [Nguồn: Tổng cục Thống kê]

Bên cạnh cải tiến giống lúa, công tác cải tạo thủy lợi xả phèn, rửa mặn, cải tạo đất hoang hóa, chủ động trong tưới tiêu, tạo tiền đề cho các giống lúa thích nghi phát triển và đẩy mạnh công tác khuyến nông, nâng cao trình độ sản xuất của bà con nông dân đã góp phần nâng sản lượng lúa của vùng từ 12,8 triệu tấn năm 1995 lên 23,8 triệu tấn năm 2020. Đóng góp lớn vào sản lượng lúa của vùng là 3 tỉnh Kiên Giang, An Giang và Đồng Tháp, sản lượng lúa của 3 địa phương này chiếm tới gần 50% sản lượng lúa toàn vùng. Trong đó, lúa đông xuân có sản lượng cao nhất trong 3 vụ lúa chính đóng góp khoảng 44% sản lượng lúa cả năm. Thành công của vụ lúa đông xuân đóng góp lớn đến thắng lợi của sản xuất lúa trong vùng. Vụ đông xuân năm 2021, Đồng bằng sông Cửu Long đạt 10,94 triệu tấn, tăng 365,5 nghìn tấn so với vụ đông xuân trước, chiếm 53,2% sản lượng lúa đông xuân của cả nước. Không những tăng nhanh về sản lượng mà chất lượng lúa gạo ngày càng cao, với các loại lúa đặc sản như IR64, OM1490, OM2031, VND95-20, MTC250, IR62032, lúa nàng thơm Chợ Ðào, Jasmine, đặc biệt là ST phục vụ xuất khẩu ngày càng mở rộng, chiếm tỷ trọng lớn về cả diện tích và sản lượng, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Trong khi đó, theo Tổng cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với các bộ, ngành, địa phương đã chủ động ứng phó với ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn, giảm thiểu thấp nhất thiệt hại đối với sản xuất nông nghiệp… đặc biệt để không làm ảnh hưởng đến sản xuất xuất lúa của vùng.

Khẳng định vai trò, vị thế xuất khẩu gạo trong nước và quốc tế

Đồng bằng sông Cửu Long đã phát huy lợi thế vựa lúa số một cả nước khi đóng góp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, góp phần khẳng định vai trò, vị thế xuất khẩu gạo tốp đầu thế giới của Việt Nam; phát triển được giống gạo ST ngon nhất thế giới; đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; tạo công ăn việc làm cho 65% dân cư nông thôn của vùng. Với lợi thế đó, để phát huy được thế mạnh hiệu quả, vùng cần quy hoạch các tiểu vùng sản xuất lúa hàng hóa, tổ chức liên kết sản xuất, tiêu thụ; xây dựng cánh đồng lớn, vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao.

Doanh nghiệp tiêu thụ lúa gạo cần đóng vai trò trung tâm liên kết với nông dân và các doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư đầu vào trên cánh đồng lớn; nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, bảo quản và chế biến lúa gạo, trong đó, tập trung nâng cấp, xây dựng hoàn chỉnh các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất lúa, phát triển các công trình giao thông. Mặt khác, cần triển khai hiệu quả chính sách, khuyến khích áp dụng cơ giới hóa vào các khâu sản xuất, thu hoạch, chế biến và bảo quản lương thực.

Biểu đồ số liệu lúa Đồng bằng sông Cửu Long. [Nguồn: Tổng cục Thống kê]

Bên cạnh đó, tập trung nguồn lực, kinh phí đầu tư trọng điểm nhằm nghiên cứu chọn lai tạo, phát triển các giống lúa mới có năng suất, chất lượng và chống chịu tốt, phù hợp tới từng vùng sinh thái; đẩy mạnh áp dụng các kỹ thuật, công nghệ canh tác tiên tiến trong sản xuất lúa để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm; nghiên cứu giảm nhẹ ảnh hưởng biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn, ngập úng và khô hạn tác động đến sản xuất lúa.

Thêm vào đó, rà soát, sửa đổi bổ sung các chính sách về thuế đối với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu lúa gạo, nhập khẩu phân bón phù hợp với diễn biến thị trường thế giới để đảm bảo bình ổn giá trong nước và có tích lũy phòng rủi ro. Đồng thời, hỗ trợ đào tạo huấn luyện nông dân để nâng cao tính chuyên nghiệp trong sản xuất lương thực.

Có thể thấy, phát huy được lợi thế vựa lúa số một cả nước, Đồng bằng sông Cửu Long góp phần vào thành công của sản xuất và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia./.

PV

Video liên quan

Chủ Đề