Điều gì xảy ra khi Trái đất nóng lên

Trước đây, chỉ có các nhà khoa học và những tổ chức bảo vệ môi trường ra sức kêu gọi mọi người quan tâm, còn đại đa số đều hết sức thờ ơ và nghĩ rằng hậu quả của sự thay đổi khí hậu vẫn còn ở xa lắm. Nhưng đến bây giờ, ngay cả những người ít quan tâm đến môi trường cũng không thể không thừa nhận những hậu quả ngày càng nghiêm trọng do trái đất nóng lên. Dự báo đến cuối thế kỷ này, mực nước biển sẽ dâng cao 5-6 m khiến chúng ta không khỏi suy nghĩ, liệu con cháu đời sau sẽ sống ra sao và chúng ta phải làm gì để cứu trái đất?Băng cực tan chảy, nước biển dâng cao.Khí thải, nhất là CO2, có thể làm thủng tầng ôzôn của khí quyển, làm nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên. Cuối thời kỳ băng hà, nồng độ khí thải CO2 trong không khí chỉ có 180 ppm nhưng qua nửa thế kỷ, con số này đã lên đến 380 ppm. Căn cứ vào số liệu của Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ [NASA] thì năm 2005 là năm nóng nhất trong lịch sử 100 năm trở lại đây.Châu Bắc cực và châu Nam cực là hai khu vực nhạy cảm nhất đối với hiện tượng trái đất nóng lên, những núi băng, tảng băng không ngừng tan chảy. Theo số liệu khí tượng trong vòng 30 năm gần đây của Trạm khảo sát Nam cực Anh thì tốc độ nóng lên của Nam cực cao gấp 4 lần trái đất. Từ năm 2002 cho đến nay, băng tan ở Nam cực khiến cho mực nước biển tăng mỗi năm khoảng 0,4 mm. Tình hình ở Bắc cực còn tồi tệ hơn. Tốc độ băng tan của đảo Greenland trong 5 năm gần đây tăng gấp 2 lần. Theo ước tính, nếu cả băng đảo Greenland tan chảy thì nước biển sẽ dâng cao lên 7m. Khi ấy, cả đất nước Bănglađet sẽ chìm ngập dưới biển.Băng tan ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ giữa mặt trời với trái đất. Băng ở hai vùng Nam cực và Bắc cực đủ để phản xạ lại 90% năng lượng bức xạ mặt trời. Đại dương thì có tác dụng ngược lại, hấp thu 90% năng lượng bức xạ mặt trời. Nếu như băng ở hai cực này không còn tồn tại thì không biết nhiệt độ của trái đất sẽ tăng nhanh như thế nào.Hiện tượng “tuần hoàn ngược” trên trái đất xảy ra ở những vùng băng đảo. Tại khu vực vĩ độ cao như Alaska và Siberia có rất nhiều băng đảo trong khi băng đảo lại chứa nhiều khoáng chất. Nếu như băng ở những băng đảo tan chảy sẽ phóng thích ra Hyđrô cacbua và CO2 - khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu khí tượng Mỹ, tất cả băng đảo trên trái đất chứa khoảng 200-800 tỷ tấn CO2 [hiện nay, lượng CO2 toàn cầu đã phóng thải chưa quá 0,7 tỷ tấn].Trái đất nóng lên còn đem đến một hậu quả khủng khiếp: Đại dương càng ngày càng nóng, nhưng nhiệt độ lục địa càng ngày càng thấp đi. Các chuyên gia cho rằng, trong mùa đông năm 2005 cả châu âu bị những đợt lạnh tấn công, rất nhiều nơi nhiệt độ hạ thấp dưới -20 độ F, gây tử vong hàng trăm người là một biểu hiện của hiện tượng này.Vậy trái đất nóng lên tại sao lại khiến nhiệt độ của lục địa thấp xuống? Chính do trái đất nóng lên làm tăng nhiệt độ nước biển, băng hà tan chảy khiến lượng nước ngọt đổ vào biển. Hơn nữa, nhiệt độ mặt nước biển tăng cao, độ mặn lại bị giảm, có thể sẽ làm cho hải lưu ở Bắc Đại Tây Dương chảy chậm, thậm chí hoàn toàn bị ngừng chảy. Như vậy, nước ở miền nhiệt đới của xích đạo không thể đổ về khu vực Bắc Đại Tây Dương và làm cho nhiệt độ ở Đông Bắc Mỹ và Tây âu lạnh đi.Ngoài ra, trong bối cảnh trái đất nóng lên, khô hạn cũng là hiện tượng không tránh khỏi, chỉ có điều nó xảy ra ở những nơi khác nhau. Khu vực khô hạn trên những dãy núi như miền Tây nước Mỹ, tuyết phủ trên núi cao là nguồn nước chủ yếu. Nhưng do mấy năm gần đây khí hậu nóng lên, tuyết phủ ở những vùng núi cao thường bị tan chảy sớm, đến mùa khô hạn cần nước thì tuyết đã tan hết. Những khu vực bị khô hạn lại rất rộng, nhiệt độ cao làm cho nước dưới lòng đất nóng lên làm nước bay hơi nhanh, lại càng khô hạn, đồng thời hiện tượng El Nino ở Thái Bình Dương xảy ra liên tiếp khiến cho Đông á và châu Phi ngày càng trở nên khô hạn. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu khí tượng Mỹ, hiện tượng khô hạn hiện nay xảy ra nhiều gấp 2 lần so với thập kỷ 70 của thế kỷ trước.Đời sống của động thực vật trên trái đất sẽ ra sao?Những năm gần đây, ở Mỹ, ôxtrâylia, Inđônêxia…, hiện tượng cháy rừng ngày càng lan rộng, gây ra hiệu ứng “tuần hoàn ngược” khi phóng thích một lượng khí thải CO2, cộng thêm hiệu ứng nhà kính càng làm cho nhiệt độ tăng cao, khiến cho khả năng cháy rừng càng lớn. Cây hút khí CO2, nhả ôxy nên cháy rừng không chỉ làm cho diện tích rừng bị thu hẹp mà còn làm môi trường bị đe doạ.Tại đại lục Bắc Mỹ, rất nhiều thực vật đang bị ảnh hưởng bởi trái đất nóng lên. Loài Manzanita bất tử ở miền Tây Bắc Mỹ đang dần dần khô héo, xương rồng cũng chuyển sang màu vàng úa. Mùa đông năm 2005 ấm áp lạ thường ở Canada và miền Tây nước Mỹ, khiến cho các loại sâu hại sinh trưởng mạnh, hàng triệu hecta rừng đã bị chúng phá hoại. Động vật cũng đang đứng trước những thảm hoạ. Đến nay, các tổ chức bảo vệ môi trường đã có hàng loạt danh sách các loài động vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Ví dụ như ở rừng nhiệt đới vốn có hơn 110 loài cóc màu các loại, nhưng chỉ sau hơn 30 năm, số cóc rừng này đã bị tuyệt chủng 2/3. Diện tích băng ở Bắc cực bắt đầu thu hẹp, gấu Bắc cực không còn nơi trú ngụ, buộc phải liều di cư đến gần con người. Đời sống, tập tính của hải cẩu cũng bị thay đổi, do băng ở bờ biển Bắc Mỹ quá mỏng nên năm 2006 có hàng nghìn con hải cẩu phải sinh sản ở lục địa.Tổ chức Y tế thế giới cho rằng, khí hậu toàn cầu tuy mới chỉ hơi nhích lên nhưng cũng đã đủ để ảnh hưởng tới sức khoẻ của con người. Mỗi năm, con số tử vong đã lên đến 15 vạn người. Tháng 8/2003, thời tiết nóng đã làm 2 vạn người ở các nước châu âu tử vong [theo ước tính của tổ chức này thì đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên gấp đôi]. Trái đất nóng lên làm ô nhiễm không khí. Nhiệt độ tăng khiến cho khí hôi thối cũng bốc lên. Có rất nhiều nghiên cứu cho biết, chất khí này sẽ làm gia tăng lượng người mắc bệnh tim, phổi. Ngoài ra, hàm lượng khí CO2 tăng sẽ kích thích tăng trưởng của những loài cây có hoa. Do đó, các bệnh liên quan đến hô hấp và dị ứng cũng sẽ phát triển. Số lượng côn trùng có hại cũng tăng, mỗi năm toàn cầu có ít nhất 300 triệu loại virus gây bệnh xuất hiện, gây tử vong cho hơn 1 triệu người.Quốc đảo đối mặt với sự “thôn tính”Gần đây, các nhà khoa học ôxtrâylia cảnh báo, trái đất nóng lên sẽ làm mực nước biển tăng, 3 đảo quốc là Tuvalu, Kiribati, Maldives không bao lâu sẽ bị nước biển xâm nhập. Hơn 1 vạn dân ở Tuvalu chỉ còn 26 km2, nơi cao nhất ở đây cũng chỉ cao hơn mực mặt nước biển 4,5 m. Cứ khoảng 2-3 tháng lại có một đợt triều cường, mỗi lần như thế, quốc đảo này lại bị nước biển xâm nhập 30% diện tích, rất nhiều nhà bị nước biển ngập đến sân. Tuvalu đã sớm phải ký hiệp định di dân với New Zealand, mỗi năm di dân sang đó 80 người. Niue của Nam Thái Bình Dương cũng mong muốn giúp đỡ nhân dân Tuvalu, nhưng nếu tốc độ trái đất nóng lên nhanh như thế này thì Niue cũng sẽ chịu chung số phận như Tuvalu.Diệu kế cứu trái đấtNgoài việc đốc thúc các quốc gia, tổ chức quốc tế áp dụng các biện pháp thiết thực làm giảm thiểu lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, các nhà khoa học đang tìm mọi cách để cứu trái đất. Cho dù rất khó khả thi nhưng ít nhiều cũng mở ra được một cách nhìn mới:Chôn CO2 dưới đáy biển.Các nhà khoa học Anh gần đây đã tìm ra một cách giải quyết cho vấn đề trái đất nóng lên, đó là chôn CO2 gây hiệu ứng nhà kính xuống đáy đại dương. Họ tin rằng mỗi năm có thể giấu được hàng triệu tấn CO2 xuống đáy Bắc Hải. Họ đã chọn mỏ dầu Millet của Công ty dầu khí Anh làm nơi thử nghiệm đầu tiên. Họ sử dụng kỹ thuật hoá lỏng CO2, thông qua đường dẫn dầu [không còn sử dụng] bơm CO2 về mỏ dầu Millet. Bằng cách này, mỗi năm mỏ Millet có thể tiếp nhận được 5 triệu tấn CO2 hoá lỏng và thời gian lưu trữ có thể lên đến 1 vạn năm.Màng che bầu trờiNăm 2004, các nhà khoa học còn đưa ra một ý tưởng kinh ngạc - một màng chắn trị giá khoảng 1 tỷ bảng Anh sẽ được thiết kế nhằm ngăn chặn triệt để bức xạ ánh sáng mặt trời, làm giảm nhiệt độ cho trái đất. Sáng kiến này bắt nguồn từ việc núi lửa ở Indonexia hoạt động năm 1814. Lần ấy, trong quá trình phun trào, núi lửa đã phóng vào khí quyển một lượng lớn vật chất hỗn hợp khiến cho nhiệt độ ở khu vực này giảm 30% so với trước đây. Song kế hoạch này vẫn nằm trong giai đoạn giả tưởng, với điều kiện kỹ thuật hiện nay thì trong tương lai gần khó có thể thực hiện được.Bổ sung sắt cho đại dươngMột nhóm các nhà khoa học thuộc Viện Hải dương học ở bang California [Mỹ] cho rằng việc bổ sung sắt là một biện pháp “nhốt” CO2 trong đại dương. Trong quá trình quang hợp, thực vật nổi hấp thụ cacbon trong lớp nước mặt, tạo ra sự nở hoa của tảo - nguồn thức ăn cho các động vật. Cacbon trong thực vật nổi được thải ra cùng với chất thải từ chính nguồn động vật này và lắng đọng xuống đáy biển - đây được xem là quá trình “bơm sinh học”. Bổ sung chất sắt cho đại dương nghĩa là tăng khả năng loại bỏ cacbon trong tầng nước mặt - là nơi trao đổi trực tiếp cacbon với khí quyển và vận chuyển cacbon xuống tầng sâu hơn. Tuy nhiên, một số nhà khoa học cảnh báo, biện pháp này có thể phá vỡ môi trường sinh thái.Đến nay, câu hỏi: Trái đất nóng lên, chúng ta phải làm gì? vẫn đang là thách thức lớn với các nhà khoa học.

Theo Tạp chí Hoạt động Khoa Học

Page 2

Chụp lại hình ảnh,

Các số liệu cho thấy 2015 là năm nóng nhất trong lịch sử kể từ khi các số liệu được ghi chép đầy đủ

Gần đây, thời tiết trở nên ấm hơn. Hồi tháng 11/2015, dân Anh đã trải qua tháng 11 nóng nhất từng được ghi nhận ở nước này.

Sau đó ít lâu, Tổ chức Khí tượng Thế giới thông báo rằng năm 2015 có lẽ là năm nóng nhất trong lịch sử kể từ khi các số liệu được ghi chép đầy đủ.

Hiện nhiệt độ toàn cầu đạt mức cao hơn 1 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp, và đã lên tới một nửa mức trần theo thoả thuận mà các lãnh đạo thế giới đặt ra hồi 2009 nhằm giới hạn mức tăng tối đa là 2 độ.

Dường như nhiệt độ thế giới chỉ có ngày càng nóng lên mà thôi. Vậy thì thật sự Trái Đất có thể trở nên nóng đến mức nào? Có giới hạn nào đối với sự nóng lên toàn cầu do con người tạo ra?

Biến đổi khí hậu không phải là điều gì mới mẻ trên hành tinh chúng ta. Trái Đất đã trải qua vô số lần nhiệt độ dao động trong suốt lịch sử 4,6 tỷ năm, từ kỷ nguyên băng giá cho đến thời kỳ nóng thiêu đốt như lò lửa.

Nhưng cho dù khí hậu có thay đổi như thế nào chăng nữa, Trái Đất luôn trở lại với mức nhiệt độ gần như cũ. Đó là do Trái Đất có cơ chế để kiểm soát nhiệt độ.

Một cơ chế then chốt là hiệu ứng nhà kính. Các khí thải gây hiệu ứng nhà kính, chủ yếu là carbon dioxide, methane và hơi nước, giúp giữ nhiệt tỏa ra từ Mặt Trời và có công dụng như tấm màn nhiệt phủ quanh Trái Đất.

Nếu không có hiệu ứng nhà kính thì Trái Đất có lẽ sẽ có nhiệt độ trung bình là âm 18 độ C và bị phủ trong băng tuyết. Sự sống bình thường như những gì chúng ta biết sẽ không thể tồn tại.

Hiệu ứng nhà kính rõ ràng là điều tốt. Nhưng cũng giống như những điều tốt khác, có khả năng nó vượt quá ngưỡng.

Con người chỉ mới có mặt trên hành tinh này trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Vậy mà chúng ta đã trở thành nhân tố quan trọng nhất khiến nhiệt độ Trái Đất biến đổi.

Với việc sử dụng năng lượng hóa thạch và tàn phá rừng, chúng ta đang thải ra nhiều khí carbon dioxide vào khí quyển và điều này khiến nhiệt độ tăng lên.

Từ năm 2000 cho đến 2010, con người đã xả khí thải cao gấp bốn lần so với thập niên trước và hiện chưa có mấy dấu hiệu cho thấy mức phát thải sẽ giảm xuống.

Vấn đề là liệu những khí thải gây hiệu ứng nhà kính này sẽ khiến thế giới nóng lên đến mức nào trong những thập niên, những thế kỷ sắp tới?

Để dự đoán tình trạng Trái Đất trong tương lai, các nhà khoa học đã xây dựng các mô hình máy tính nhằm mô phỏng điều gì sẽ xảy đối với khí hậu Trái Đất.

Những mô hình rất phức tạp này được thiết kế dựa trên những nguyên tắc vật lý cơ bản về phản ứng của không khí và nước.

Bằng cách đưa vào những thay đổi tự nhiên và thay đổi do con người gây ra, các mô hình này có thể ước tính khí hậu sẽ biến đổi ra sao khi có một lượng khí gây hiệu ứng nhà kính được thải ra.

Những dự đoán này đã được đưa vào các báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu [IPCC].

Theo báo cáo mới nhất được thực hiện trong năm 2013-2014, nếu lượng phát thải tiếp tục tăng như trong vòng 50 năm qua thì đến cuối thế kỷ này, nhiệt độ Trái Đất sẽ ít nhất nóng hơn 4 độ C so với thời kỳ trước Cách mạng Công nghiệp.

Hơn nữa, tình trạng ấm lên toàn cầu sẽ không dừng lại vào cuối thế kỷ này.

Càng nhìn xa hơn về tương lai, chúng ta càng khó dự đoán điều gì sẽ xảy ra.

Các mô hình hiện nay cho thấy vào năm 2200 Trái Đất sẽ tăng lên thêm 7 độ C so với mức thời tiền công nghiệp hóa, nhưng nhiệt độ sau đó sẽ ổn định trở lại miễn là chúng ta dừng thải ra khí gây hiệu ứng nhà kính.

Tuy nhiên, chúng ta không thể nào biết chắc được điều đó, bởi khí hậu Trái Đất là một hệ thống phức tạp. Khi khí hậu ấm lên, có một số quá trình sẽ hoạt động lại và điều này thậm chí còn dẫn đến sự tăng nhiệt độ nhiều hơn.

Ví dụ, khí hậu ấm lên sẽ khiến băng tuyết tan chảy, làm lộ ra lớp đất đá và lớp đất này sẽ hấp thụ ánh nắng Mặt Trời chứ không phản chiếu nó.

Tương tự, sẽ có nhiều hơi nước bốc hơi lên khỏi bề mặt và do hơi nước cũng là một khí gây hiệu ứng nhà kính, nó sẽ giữ nhiệt không cho thoát ra.

Các đại dương thật sự đang làm chậm sự biến đổi khí hậu, do carbon dioxide từ trong khí quyển được hòa tan vào các đại dương. Nhưng khi ấm lên, các đại dương sẽ ngậm được ít carbon dioxide hơn và do đó lượng carbon dioxide trong khí quyển sẽ còn lại nhiều hơn.

Những phản ứng này tương đối dễ hiểu.

Tuy nhiên, có những hiện tượng khác khó giải thích hơn.

Chẳng hạn như sự thay đổi trong lớp mây sẽ ảnh hưởng đến khí hậu như thế nào, hay sẽ ra sao khi khí methane được giữ trong tầng đất bị đóng băng vĩnh cửu ở các địa cực thoát ra.

Các mô hình mô phỏng sự biến đổi khí hậu chỉ có thể dự đoán dựa trên những gì chúng ta biết. Cho nên khi nhiệt độ tăng quá mức con người từng biết thì kết quả dự đoán sẽ trở nên kém chính xác hơn.

Do đó, thay vì tìm cách dự đoán khí hậu Trái Đất sẽ như thế nào, chúng ta có thể làm cách khác: nhìn lại những gì đã xảy ra trong quá khứ.

Khoảng 55 triệu năm trước, Trái Đất đã trải qua một đợt tăng nhiệt độ nhanh nhất trong lịch sử.

Trong thời kỳ nóng ấm toàn cầu thời cổ xưa, thời Cực đại Nhiệt Cổ-Thuỷ Tân [Palaeocene-Eocene Thermal Maximum - PETM], nhiệt độ trung bình trên mặt biển đã tăng lên đến 10 độ C ở các địa cực so với mức âm 2 độ C ngày nay.

Đó là lúc các cây cọ mọc tới tận vòng Bắc Cực, nơi khi đó không hề có chút giá băng nào. Một số loài sinh vật phát triển mạnh dưới cái nóng trong khi các loài khác bị tuyệt chủng.

Rõ ràng là các loại khí gây hiệu ứng nhà kính là tác nhân chính. Một lượng lớn khí methane từ đáy biển đã thoát ra, đi vào bầu khí quyển khiến cho tác động của hiệu ứng nhà kính thêm rõ rệt.

Người ta không biết rõ bằng cách nào mà khí methane thoát ra. Nhiều khả năng các vụ phun trào núi lửa hay tác động của sao chổi là những nguyên nhân gây ra tình trạng này.

Tuy nhiên, cách giải thích hợp lý nhất là Trái Đất đã ấm dần lên vì một số lý do khác. Khi nhiệt độ lên đến một mức nào đó thì lượng khí methane chìm dưới đáy biển sẽ trở nên mất ổn định.

Thời Cực đại Nhiệt Cổ-Thuỷ Tân cho thấy có sự tương đồng rõ ràng với thế giới hiện nay.

Tác động của khí gây hiệu ứng nhà kính gây ra trong thời kỳ đó dường như gần tương đương với những gì con người sẽ thải ra nếu chúng ta đốt hết toàn bộ nhiên liệu hóa thạch tìm thấy.

Những khí thải này sẽ làm Trái Đất nóng lên ít nhất 5 độ C hoặc có thể đến 8 độ C trong một vài ngàn năm.

Đó có phải là giới hạn, hay liệu Trái Đất thậm chí sẽ trở nên nóng hơn cả thời Cực đại Nhiệt Cổ-Thuỷ Tân?

Chúng ta đã thấy sự nóng lên của Trái Đất là do có thêm nhiều lượng khí thải xả ra, tạo hiệu ứng nhà kính.

Về mặt lý thuyết, hiện tượng này là không thể ngăn chặn và nó sẽ đẩy nhiệt độ Trái Đất nóng lên thêm hàng trăm độ.

Chụp lại hình ảnh,

Mô hình trên máy tính về Hệ Mặt Trời, gồm [từ trái sang]: Mặt Trời, sao Thuỷ, sao Kim, Trái Đất, sao Hoả, sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên vương và sao Hải vương

Dĩ nhiên là điều này chưa từng xảy ra trên Trái Đất, nếu không thì chúng ta không thể nào tồn tại đến ngày nay.

Tuy nhiên, các nhà khoa học tin rằng nó đã xảy ra trên hành tinh gần nhất với chúng ta là sao Kim khoảng 3-4 tỷ năm trước.

Sao Kim gần Mặt Trời hơn Trái Đất, do đó bề mặt của nó nóng hơn.

Trên bề mặt, nhiệt độ tăng lên nhiều đến nỗi tất cả chất lỏng trên hành tinh này đều bốc hơi vào không khí.

Hơi nước đến lượt mình lại giữ không cho nhiệt thoát ra, và do không có nước trên bề mặt nên carbon dioxide không được hấp thụ trở lại. Cuối cùng thì bầu khí quyển trên sao Kim có đến 96% là carbon dioxide.

Nhiệt độ trên hành tinh này hiện nay là 462 độ C, tức là nóng đến mức có thể làm tan chảy cả chì, khiến sao Kim trở thành hành tinh nóng nhất trong Hệ Mặt Trời, nóng hơn cả sao Thuỷ nằm gần Mặt Trời hơn.

Gần như chắc chắn Trái Đất của chúng ta sẽ rơi vào tình trạng giống như vậy trong vài tỷ năm nữa.

Khi Mặt Trời trở nên già cỗi, nó sẽ dần đốt cháy hết nhiên liệu và phồng to thành một ngôi sao đỏ khổng lồ.

Cuối cùng, Mặt Trời sẽ trở nên sáng trắng và Trái Đất sẽ không còn xả được lượng nhiệt dư thừa vào vũ trụ.

Nhiệt độ trên bề mặt Trái Đất sẽ tăng cao khiến nước ở các đại dương sôi sùng sục, và Trái Đất sẽ rơi vào tình trạng bên bờ vực bị phá huỷ do hiệu ứng nhà kính, rồi tiếp đến là mọi sự sống trên Trái Đất sẽ bị diệt vong và Trái Đất sẽ bị bao phủ bởi một lớp carbon dioxide dày đặc.

Tuy nhiên, những thay đổi do Mặt Trời sẽ chỉ xảy ra sau hàng tỷ năm nữa.

Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu con người chúng ta có đẩy Trái Đất vào tình trạng bị phá huỷ bởi hiệu ứng nhà kính sớm hơn hay không?

Một nghiên cứu được công bố năm 2013 cho thấy tình trạng này sẽ xảy ra nếu như chúng ta thải ra một lượng carbon dioxide vô cùng lớn.

Lượng khí carbon dioxide hiện nay chiếm khoảng gần 400 phần triệu trong không khí, tăng lên so với mức 280 phần triệu ở thời trước Cách mạng Công nghiệp.

Để Trái Đất rơi vào tình thế bị huỷ diệt do hiệu ứng nhà kính, mật độ khí carbon dioxide trong không khí sẽ cần đạt mức lên tới 30 ngàn phần triệu.

Đây là mức cao hơn gấp 10 so với lượng carbon dioxide thải ra khi chúng ta đốt hết toàn bộ nhiên liệu hóa thạch mà con người đã biết đến cho tới nay.

Ngoài ra còn những tác nhân khác như khí methane dưới đáy biển, giống như khí methane thoát ra trong thời Cực Đại nhiệt Cổ-Thuỷ Tân. Tuy nhiên có vẻ như khả năng tất cả chúng ta bị thiêu cháy là tương đối thấp.

Đương nhiên, điều này không có nghĩa là tình trạng Trái Đất nóng lên sẽ không nguy hiểm gì.

Chỉ cần nhiệt độ tăng lên vài độ C cũng đã đủ để gây ra hàng loạt tác động tiêu cực. Nhiều nơi trên Trái Đất sẽ trở nên quá nóng để con người có thể tồn tại.

Tại những điểm nóng nhất trên Trái Đất hiện nay, chẳng hạn như Thung lũng Chết ở California, nhiệt độ có thể lên tới trên 50 độ C.

Sức nóng như thế là nguy hiểm nhưng với các biện pháp bảo vệ chúng ta vẫn có thể tồn tại được. Đó là do không khí khô ráo khiến chúng ta đổ mồ hôi để làm mát cơ thể.

Mọi thứ sẽ phức tạp hơn nếu nhiệt độ vừa nóng và vừa ẩm giống như trong rừng nhiệt đới.

Hơi nước trong không khí khiến cho mồ hôi của chúng ta bay hơi chậm hơn, khiến chúng ta khó làm mát cơ thể hơn.

Nếu nhiệt độ Trái Đất tới năm 2200 tăng lên thêm 7 độ C như dự đoán, một số nơi trên địa cầu sẽ trở nên không còn ở được đối với con người.

Nếu nhiệt độ tăng lên 12 độ C thì phân nửa Trái Đất sẽ trở nên không còn có thể ở được.

Dĩ nhiên, chúng ta có thể thích nghi bằng cách lắp đặt các thiết bị điều hòa nhiệt độ.

Tuy nhiên, bên cạnh chi phí đắt đỏ, điều này sẽ khiến chúng ta bị nhốt bên trong các tòa nhà trong nhiều ngày hoặc trong nhiều tuần.

Theo xu hướng hiện tại tiếp diễn thì nhiều khả năng nhiệt độ Trái Đất sẽ tăng thêm 4 độ C so với thời kỳ trước Cách mạng Công nghiệp và cao hơn hiện tại 3 độ C.

Điều đó sẽ không trực tiếp giết chết chúng ta cũng như không thể làm cho một số nơi trên hành tinh không thể cư trú được. Tuy nhiên nó sẽ gây ra những xáo trộn lớn.

Khoảng 20.000 năm trước, nhiệt độ Trái Đất thấp hơn 4 độ C so với bây giờ. Thời kỳ này được gọi là thời "Đại Băng hà Cuối cùng" [Last Glacial Maximum - LGM]. Phần lớn Canada và bắc u bị bao phủ trong băng tuyết.

Kể từ đó, nhiệt độ Trái Đất đã ấm lên 4 độ C. Điều đó cũng đủ khiến khiến cho băng ở châu u và Bắc Mỹ tan chảy. Nước tạo ra từ băng tan làm mực nước biển dâng lên thêm mười mét, nhấn chìm những vùng đất thấp.

Nếu chúng ta xét đến điều này thì chúng ta sẽ dễ hình dung ra nếu Trái Đất tăng thêm 4 độ C thì chuyện gì sẽ xảy ra xung quanh chúng ta.

Bản tiếng Anh bài này đã đăng trên BBC Earth.

Video liên quan

Chủ Đề