Hội nhập văn hóa cơ hội và thách thức

Văn hóa đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia. Đảng ta nhấn mạnh văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế - xã hội. Hiện tại, chính phủ đang xem xét Chiến lược Phát triển Văn hóa Việt Nam năm 2020. Vì vậy, đánh giá chính xác, khách quan về sự phát triển văn hóa trong thời gian qua là cơ sở khoa học để hoạch định các chính sách đối với lĩnh vực đặc biệt này.

1. Sự phát triển văn hóa trong những năm gần đây

Trước hết, có thể thấy rằng, nền văn hóa Việt Nam có bề dày truyền thống với lịch sử hàng nghìn năm, trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhiều thăng trầm nên đã kết tinh, bồi đắp nhiều giá trị tích cực như: truyền thống yêu nước, thuỷ chung và dũng cảm, thích nghi, bao dung, tinh thần đồng đội, nhân ái, lạc quan và nhân ái, trọng nghĩa tình, cần cù, siêng năng. Hiện nay, Việt Nam được bạn bè quốc tế ca ngợi là một đất nước hòa bình, hiện đại, trẻ trung, năng động, là thành viên tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng chung của thế giới. Hơn nữa, trong bối cảnh Việt Nam đang có những bước chuyển mình mang tính bước ngoặt, sự “va chạm” giữa cái cũ và cái mới đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của văn hóa Việt Nam. Văn hóa hiện nay nhằm kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống đồng thời tiếp thu các giá trị mới, hướng tới tương lai như dân chủ, hiện đại, nhân văn, tự do, khoan dung, độ lượng. Nhận thức được đặc điểm, phẩm chất cơ bản này của văn hóa Việt Nam truyền thống và hiện đại sẽ có ý nghĩa tích cực trong việc biến nó thành “sức mạnh mềm” của đất nước, tạo sức thuyết phục đối với bạn bè quốc tế.

Thứ hai, Việt Nam có bề dày văn hóa giàu bản sắc, được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Tài nguyên văn hóa của Việt Nam phong phú, đa dạng, có giá trị cao, được khu vực và quốc tế công nhận, là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Hệ thống di sản văn hóa phong phú, danh lam thắng cảnh tráng lệ, thơ mộng là những tài sản quý giá có tiềm năng chuyển hóa thành những sản phẩm, dịch vụ độc đáo góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại và tăng trưởng kinh tế, cũng như tạo dựng thương hiệu, vị thế của văn hóa Việt Nam.

Thứ ba, các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý văn hóa ở nước ta từng bước được hoàn thiện. Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa thích ứng với tình hình mới. Nhiều luật và văn bản quy phạm pháp luật quan trọng liên quan đến văn hóa góp phần hoàn thiện các thiết chế văn hóa, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Một số chiến lược công nghiệp đã được phê duyệt, trở thành cơ sở để thực hiện các hoạt động văn hóa.

Bốn là, chủ trương “xã hội hóa” các hoạt động văn hóa đã đạt được những kết quả thiết thực, bước đầu đã huy động được nhiều nguồn lực xã hội. Xã hội hóa được coi là một trong những giải pháp quan trọng để thu hút các nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế tham gia hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến sản phẩm văn hóa, xây dựng cộng đồng. Trách nhiệm của toàn xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hóa là tạo điều kiện để các hoạt động văn hóa phát triển sâu rộng, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước được nâng cao. Đa dạng hóa các chủ thể văn hóa và chuyển đổi các hoạt động văn hóa từ nguồn tài nguyên đơn tuyến quốc gia sang các hoạt động văn hóa đa diện, nhiều bên tham gia và phối hợp; thúc đẩy sự đa dạng về loại hình, ý tưởng, xu hướng và phong cách biểu đạt văn hóa, đồng thời cung cấp công chúng với món ăn tinh thần phong phú hơn.

Thứ năm, các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng, được thể hiện nhiều phương thức, hình thức thể hiện mới, làm phong phú ngày càng phong phú các thể loại, phong cách sáng tạo, các sản phẩm nghệ thuật theo đề tài, chủ đề, ra sức bảo vệ và phát huy các loại hình nghệ thuật. và các loại hình nghệ thuật truyền thống. Một số tác phẩm mỹ thuật, âm nhạc, điện ảnh đoạt giải cao trong và ngoài nước; việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất các sản phẩm văn hóa từng bước được triển khai, nhiều dự án văn hóa nghệ thuật tạo cảm hứng sáng tạo mới cho văn nghệ sĩ, thu hút sự chú ý. của các nghệ sĩ và những người trẻ tuổi, đồng thời đóng góp cho Những câu hỏi đương đại đưa ra những quan điểm mới. Mạng sống.

Thứ sáu, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân là tiền đề thúc đẩy hình thành thị trường tiêu thụ văn hóa với nhu cầu ngày càng cao. Văn hóa, từ một lĩnh vực bị chi phối bởi tuyên truyền, đã dần trở thành một lĩnh vực có giá trị kinh tế, mang lại lợi ích cho xã hội. Đặc biệt, đẩy mạnh hoạt động du lịch, khai thác tiềm năng văn hóa, tạo sức hấp dẫn cho ngành du lịch Việt Nam, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân địa phương. phương hướng.

Bảy là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về văn hóa, góp phần đưa hình ảnh quốc gia, hình ảnh văn hóa, con người Việt Nam ra thế giới, xây dựng “sức mạnh mềm” cho đất nước. Với quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của nước ta, giao lưu văn hóa với nước ngoài ngày càng mở rộng sẽ góp phần tăng cường tình hữu nghị, hiểu biết, thông cảm và hữu nghị lẫn nhau. Vì hình ảnh đất nước, con người và văn hóa—— Mỹ thuật Việt Nam xin dành tặng bạn bè năm châu.

Thứ tám, công nghệ thông tin, nhất là công nghệ thông tin đại chúng đã có những bước phát triển vượt bậc. Hạ tầng mạng viễn thông, Internet tiếp tục được đầu tư phát triển mạnh mẽ. Hoạt động của cơ quan thông tấn cũng có nhiều đổi mới, tích cực hội nhập, học hỏi kinh nghiệm của báo chí thế giới, có bước phát triển vượt bậc, thông tin đa chiều, nội dung phong phú đã góp phần sự phát triển của các phương tiện truyền thông. Trí tuệ của họ giúp con người tiếp thu nhanh những tri thức mới của nhân loại, nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống.

Thứ chín, một số hoạt động văn hóa đã được triển khai và đạt được những thành tựu nhất định, góp phần tạo dựng môi trường văn hóa, bảo vệ và phát huy những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc. Nhiều giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống được tôn trọng, sức sáng tạo, tinh thần tự chủ, chủ động xã hội của nhân dân được phát huy và nhân rộng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền văn hóa nước ta các triều đại trước đây vẫn còn những hạn chế nhất định.

Một là tư tưởng quản lý văn hóa không theo kịp sự phát triển của xã hội. Tư duy bao cấp, “xin cho”, tư duy hành chính - sự kỳ thị của trật tự điều hành vẫn còn nặng nề. Hiện nay, cơ quan chủ quản còn bám nhiều vào “công tác văn hóa”, hoặc tham gia vào các hoạt động, sự việc, phong trào văn hóa cụ thể mà chưa thực sự làm tròn trách nhiệm của mình. Trách nhiệm, xã hội, vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp và hiệp hội nghề nghiệp. Cơ chế quản lý vẫn chủ yếu tập trung, phân cấp, phân quyền chưa cao. Các chủ trương, chính sách, quy hoạch phát triển văn hóa phần lớn được quyết định, xây dựng từ tầm vĩ mô đến vi mô, chưa được đề xuất, xây dựng từ dưới lên và từ thực tiễn ở cơ sở. Pháp luật chưa trở thành công cụ tối cao để điều chỉnh, kiểm soát và điều chỉnh đời sống văn hóa. Nhận thức văn hóa về các ngành và thứ bậc đôi khi vẫn còn cứng nhắc, áp đặt và giáo điều. Trên thực tế, vị thế của văn hóa còn rất thấp, chưa thực sự sánh được với các lĩnh vực khác.

Thứ hai, Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ chuyển đổi, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, điều kiện công nghệ và nguồn nhân lực quốc gia còn nhiều hạn chế. Sự phát triển kinh tế thiếu bền vững ảnh hưởng đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Thiết chế văn hóa còn chậm đổi mới, thiếu đồng bộ. Pháp luật còn yếu. Một số văn bản quản lý mới ban hành còn thiếu sót cần điều chỉnh, bổ sung. Việc tổ chức, triển khai các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa còn yếu, nhiều quy định pháp luật chưa được triển khai thực hiện. Việc thực thi nhiều quy định pháp luật liên quan đến văn hóa còn lúng túng.

Thứ ba, nguồn nhân lực xây dựng văn hóa còn yếu, thiếu trình độ chuyên môn và trình độ quản lý, đặc biệt là kỹ năng đổi mới sáng tạo và quản lý doanh nghiệp. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa các cấp không theo kịp sự phát triển phong phú, đa dạng, phức tạp của các hoạt động văn hóa, dẫn đến lúng túng trong hoạch định chính sách, tổ chức chỉ đạo, tổ chức thực hiện, xử lý vụ việc, vi phạm pháp luật về văn hóa.

Thứ tư, đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị thế của văn hóa trong phát triển. Nhìn chung, mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách còn thấp so với các lĩnh vực khác, chưa tương xứng với tình hình thực tế và chưa đồng đều. Hệ thống cơ sở vật chất của các thiết chế hoạt động văn hóa nhìn chung chưa lành mạnh, còn trong tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Công tác quy hoạch, đầu tư phát triển các thiết chế văn hóa trọng điểm còn chậm. Hệ thống thiết chế văn hóa ở nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa còn chưa hoàn thiện, chưa phù hợp với đặc điểm vùng, miền, chưa đáp ứng nhu cầu, mong muốn của nhân dân, nội dung hoạt động còn tương đối đơn giản, thiếu thiết thực .

Thứ năm, chất lượng dịch vụ, sản phẩm văn hóa chưa cao, thiếu các thương hiệu văn hóa tầm quốc gia, khu vực và quốc tế, các sản phẩm văn hóa chất lượng cao nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách, giáo dục đạo đức con người. . Tình trạng nhập siêu văn hóa phẩm nước ngoài vào Việt Nam tốt hơn so với xuất khẩu văn hóa, vẫn còn thiếu tính chọn lọc trong việc hấp thụ văn hóa phẩm nước ngoài. Các sản phẩm văn hóa của Việt Nam chưa đủ sáng tạo, đa dạng để đáp ứng nhu cầu của công chúng, sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế còn thấp.

Thứ sáu, bản sắc văn hóa dân tộc có nguy cơ bị phai nhạt. Nhiều dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển và hội nhập đã mất đi những nét văn hóa đặc sắc, đời sống văn hóa nghệ thuật nghèo nàn. Nhiều di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số chưa được kiểm kê, lập hồ sơ trọng điểm. Nhiều nền văn hóa, nghệ thuật chưa phát triển, trong đó có nhiều loại hình nghệ thuật bậc nhất, nghệ thuật truyền thống, nghệ thuật quần chúng, nghệ thuật mới.

Thứ bảy, môi trường văn hóa còn nhiều mặt thiếu lành mạnh, tha hóa, trái thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Văn hóa ứng xử nơi công cộng, nơi làm việc, gia đình và trường học còn nhiều bất cập. Đa số cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng, băng hoại đạo đức, lối sống tha hóa, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và hình mẫu đối với Đảng, với đất nước. Tình trạng tham nhũng, hối lộ, làm ăn phi pháp, lối sống buông thả, sống vội, thói cơ hội chính trị, gian lận học vấn, gian lận bằng cấp... ngày càng phổ biến. Đạo đức nghề nghiệp ngày càng sa sút, thậm chí ở những lĩnh vực được xã hội coi trọng như y tế, giáo dục, bảo vệ pháp luật, báo chí…, văn hóa gia đình cũng chưa được chăm lo, củng cố. Có những biểu hiện đáng lo ngại về văn hóa học đường. Bạo lực, hành vi phản cảm, mất văn hóa, suy thoái đạo đức, suy thoái lối sống, hủy hoại các giá trị văn hóa có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với thành thị, giữa các tầng lớp nhân dân đang dần được thu hẹp.

Thứ tám, hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật còn rất hạn chế, chưa gặp nhiều vấn đề trong cuộc sống, còn xa vời với thực tiễn sáng tác. Khoảng cách giữa nhiều vấn đề lý luận với thực tiễn cuộc sống chưa được thu hẹp mà có xu hướng nới rộng. Công trình nghiên cứu sâu về lý luận văn học còn ít, chất lượng còn thấp, nhiều câu hỏi thực tiễn chưa được giải đáp. Hiện nay, có hai thực tế đối lập nhau: một mặt, lý luận văn hóa lạc hậu, đi sau cuộc sống, hàng loạt câu hỏi cơ bản, cấp thiết đặt ra trong thực tiễn chưa được công trình lý luận giải đáp hoặc giải đáp chưa thuyết phục; một mặt mặt khác, do thiếu sự hướng dẫn, chỉ đạo, định hướng về mặt lý luận đúng đắn nên nhiều hiện tượng văn hóa bộc phát, lúng túng trong định hướng thực tiễn, bị động trước những biện pháp đối phó rõ ràng, kịp thời, hiệu quả. Hoạt động phê bình văn nghệ chưa kịp thời định hướng, chưa làm tốt vai trò định hướng, điều chỉnh, đồng hành với sáng tác, có lúc còn dễ dãi, phiến diện, cảm tính trong phê bình và ngược lại. Khoa học phê bình văn học; xu hướng sai sót và sai lệch không được phân tích đầy đủ và phân tích phê bình.

2. Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm tới

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tạo cơ hội cho văn hóa Việt Nam được quảng bá rộng rãi trên thế giới. Văn hóa Việt Nam phát triển trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng mở ra khả năng giao lưu, hợp tác và phát triển văn hóa toàn diện, nâng cao nhận thức về văn hóa, tạo cơ hội cho văn hóa Việt Nam vươn ra thế giới. Sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông đại chúng tạo điều kiện cho con người sáng tạo và thưởng thức các sản phẩm văn hóa mới một cách nhanh chóng, hiệu quả và có tính tương tác cao.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế số đã tạo điều kiện thuận lợi cho văn hóa Việt Nam phát triển, giúp chúng ta khai thác tiềm năng kinh tế của văn hóa trong môi trường số. Với sự phát triển của công nghệ số hóa và Internet, việc tiếp thu các nội dung văn hóa đã trở nên dễ dàng và không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia, điều này cũng đòi hỏi sự khác biệt và độc đáo về nội dung, khái niệm sản phẩm văn hóa như một lợi thế cạnh tranh quan trọng. Các nước phát triển trên thế giới đang chuyển dịch nhanh chóng sang nền kinh tế tri thức, nền kinh tế sáng tạo, công nghệ số và số hóa nội dung văn hóa [1]. Những thay đổi này mang đến những cơ hội to lớn trong việc giảm chi phí sản xuất, giúp thiết lập các kênh phân phối và khả năng quảng bá sản phẩm mới, đòi hỏi hành động nhạy bén và thích ứng liên tục với môi trường. sự biến đổi khí hậu. Chuyển đổi kỹ thuật số và tinh thần kinh doanh mang đến những cơ hội, khả năng và thách thức mới đối với cách thức hoạt động của các ngành công nghiệp văn hóa.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đã và đang tạo ra cho nhân dân các hoạt động văn hóa - xã hội, cơ hội để phát huy tinh thần tự chủ và năng lực chủ thể của nhân dân trong việc tổ chức các hoạt động và sáng tạo văn hóa. Người dân ngày càng được khuyến khích tham gia vào các hoạt động văn hóa xã hội với tư cách là chủ thể tích cực, từ lập kế hoạch đến đánh giá các vấn đề văn hóa xã hội, thậm chí với tư cách là đối tác xây dựng văn hóa xã hội bên cạnh bộ máy nhà nước. Sự gia tăng các yếu tố nội sinh của phát triển văn hóa xã hội phần nào phản ánh vai trò của người dân lớn hơn nhà nước trong nhiều vấn đề văn hóa xã hội.

Chủ trương, chủ động, tích cực và toàn diện hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hội nhập và phát triển của văn hóa Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, với sự đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, văn hóa Việt Nam có cơ hội tiếp thu tri thức, nguồn lực và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tinh hoa văn hóa nhân loại và sáng tạo những giá trị văn hóa mới. Trong đó, công nghiệp văn hóa đang được định vị là một trong những trụ cột kinh tế. Nền kinh tế đang đi lên, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, hình thành thị trường tiêu dùng/hưởng thụ văn hóa với nhu cầu ngày càng cao, là cơ sở quan trọng để thúc đẩy văn hóa phát triển.

Bên cạnh những cơ hội, văn hóa Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức, đó là:

Thách thức hoàn thiện thể chế văn hóa. Để hỗ trợ sự đa dạng và sức sống của văn hóa [không can thiệp quá mức và hạn chế sự sáng tạo], chúng ta cần cải thiện các chính sách và quy định về thuế đối với môi trường kinh doanh và thị trường nghệ thuật, chẳng hạn như quyền sở hữu trí tuệ, cải thiện khung pháp lý để thúc đẩy sự tham gia của văn hóa, phát triển các đối tác khác nhau và tài nguyên . Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa hay sáng tạo như một giải pháp để phát triển văn hóa. Xây dựng các cơ chế tạo thuận lợi cho việc sử dụng các nguồn lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp và hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực văn hóa, thúc đẩy sự phối hợp và hợp tác giữa các quốc gia, các nhà tài trợ và khu vực tư nhân nhằm hỗ trợ sự phát triển bền vững, tăng trưởng, cạnh tranh và cải cách của lĩnh vực văn hóa.

Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thách thức về quản lý văn hóa chuyển từ mô hình quản lý tập trung sang mô hình quản lý phi tập trung; trong đó, chức năng của chính phủ chuyển từ văn hóa sản xuất sang quản lý văn hóa, từ quản lý vi mô sang quản lý vĩ mô, từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp... thị trường Thách thức của marketing là phải không ngừng cập nhật tư duy lãnh đạo văn hóa của Đảng, khơi thông, phát huy tính chủ động sáng tạo của chủ thể văn hóa. Bám sát thực tiễn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu phát triển bền vững, xây dựng chủ trương, đường lối, nghị quyết; sự phân quyền giữa đảng và chính quyền rõ ràng. Tăng cường kiểm tra, giám sát, rà soát, đánh giá trong quá trình thực hiện. Đổi mới tư duy quản lý văn hóa với quan niệm về quyền văn hóa và tinh thần xây dựng nền hành chính công hiện đại; với nguyên tắc tập trung phát triển hệ thống thể chế cơ quan nhà nước, đầu tư phát triển hạ tầng trọng điểm, ươm mầm nhân tài chất lượng cao , từng bước xây dựng cơ chế mới tinh gọn quản lý, giao quyền và tổ chức một số Hoạt động, hoạt động văn hóa nghệ thuật dân tộc, còn lại xã hội, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện.

Thách thức nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của lĩnh vực văn hóa trong bối cảnh chưa đáp ứng được nhu cầu và khoảng trống về nguồn lực văn hóa, cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư cho văn hóa. Dưới góc độ phát triển bền vững, vai trò và vị thế của văn hóa đối với sự phát triển của các quốc gia. Thách thức về năng lực đổi mới, cải cách ngành văn hóa để văn hóa bền vững hơn; trong đó, thách thức mới là nâng cao năng lực quản lý văn hóa cơ chế thị trường và kỹ năng kinh doanh. Một trong những yêu cầu mới của ngành văn hóa là cần xây dựng mối quan hệ bền chặt hơn với công chúng/người tiêu dùng, doanh nghiệp và cộng đồng, từ đó nâng cao nhận thức về các giá trị của các nền văn hóa khác nhau.

Những thách thức trong bối cảnh nền kinh tế số của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong bối cảnh công nghệ truyền thông đa phương tiện, kỹ thuật số phát triển mạnh mẽ và thị trường tự do, ngành văn hóa cần tạo sự khác biệt, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ độc đáo, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của công chúng. Sự bùng nổ thông tin và truyền thông đi kèm với làn sóng tiếp biến văn hóa và sự du nhập của nhiều yếu tố văn hóa mới cả tích cực và tiêu cực, trong khi trình độ chuyên môn của nhân sự và phương tiện giải quyết những vấn đề mới này còn hạn chế, dẫn đến lúng túng trong triển khai và thực hiện. của tính thụ động của tổ chức.

Thách thức từ toàn cầu hóa văn hóa là một quá trình mang tính chu kỳ, trong đó các nền văn hóa quốc gia ngày càng hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau. Nếu không tăng cường sức mạnh nội sinh của văn hóa, tiến hành hiện đại hóa văn hóa, không tách rời các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc thì toàn cầu hóa văn hóa có nguy cơ làm mất đi ý thức bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú văn hóa Việt Nam, nâng cao nội lực, chống “xâm lược văn hóa” ngoại lai, xử lý đúng đắn những thách thức văn hóa Việt Nam. Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế; xử lý các xung đột văn hóa trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và toàn cầu hóa.

Thách thức trong việc dung hòa các mối quan hệ của nhiều nền văn hóa khác nhau, chẳng hạn giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế, truyền thống và hiện đại…

Một số gợi ý giải pháp phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm tới

Một là, nâng cao nhận thức về xây dựng và phát triển văn hóa trong toàn xã hội và biến nó thành hành động. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải thực sự trở thành chương trình hành động của các bộ ngành, địa phương. Truyền thông đại chúng phải năng động, sáng tạo và hấp dẫn hơn, luôn giữ mối liên hệ với môi trường xã hội mới, nơi ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông mới cần được xem xét. Nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa trong sự phát triển chung của dân tộc. Văn hóa cần là một trong những khâu đột phá để đất nước phát triển bền vững trong những năm tới.

Thứ hai là tập trung xây dựng con người Việt Nam thích ứng với yêu cầu của thời đại mới. Đó là những đức tính quan trọng của con người Việt Nam như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, thật thà, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng và phát huy lối sống “mọi người vì người, mọi người vì người”; hình thành lối sống tự trọng, tự giác, sống, làm việc và bảo vệ môi trường theo Hiến pháp và pháp luật; kết hợp hài hòa các giá trị cá nhân và tính tích cực xã hội, đề cao ý thức cá nhân về bản thân, trách nhiệm với gia đình và xã hội. Khẳng định và tôn trọng những điều đúng đắn, tốt đẹp, tích cực và cao đẹp; lan tỏa những giá trị cao đẹp, nhân văn.

Thứ ba, cải thiện hệ thống văn hóa và thúc đẩy tự do sáng tạo. Đầu tư hợp lý các nguồn lực văn hóa, đặc biệt là nguồn lực con người. Những cán bộ không chuyên trách, uy tín thấp trong cấp ủy không được điều động làm phụ trách văn hóa. Đây là một trong những nguyên nhân khiến văn hóa không được tôn trọng.

Bốn là, tạo môi trường văn hóa lành mạnh thúc đẩy sự phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhà trường và xã hội sẽ trở thành nơi để con người Việt Nam hình thành, trau dồi nhân cách văn hóa, giáo dục lối sống để cái thiện được bảo vệ và nhân lên, cái xấu, cái ác bị bài trừ. lên án. Cách mạng hóa giáo dục các cấp, chú trọng đạo đức, nghệ thuật và sáng tạo. Từ những kiến ​​thức, kỹ năng học được trong nhà trường, các giá trị văn hóa sẽ lan tỏa ra toàn xã hội.

Năm là, phát triển công nghiệp văn hóa, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ văn hóa cho người Việt Nam, cho người Việt Nam, vì dân tộc Việt Nam, đồng thời giúp lan tỏa các giá trị văn hóa Việt Nam - sức khỏe của người Việt Nam. Sức mạnh mềm của đất nước thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

Sáu là, tăng cường hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập văn hóa quốc tế, tuyên truyền thông tin văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới để làm phong phú nền văn hóa Việt Nam. Đây là xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong những năm tới có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển chung của đất nước. Nắm bắt thời cơ, phát huy điểm mạnh, tránh điểm yếu, vượt qua thách thức sẽ là cách tốt nhất để Việt Nam phát triển văn hóa, thực sự biến văn hóa thành động lực và mục tiêu của sự phát triển đất nước, để văn hóa thực sự “soi đường cho dân tộc đi trước”. dân tộc” “như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn.

Cơ hội và thách thức là gì?

Cơ hội là các yếu tố của môi trường bên ngoài mà doanh nghiệp có thể nắm bắt để cải thiện hiệu suất kinh doanh như tăng trưởng doanh thu hoặc cải thiện tỷ suất lợi nhuận. Thách thức là các yếu tố có thể gây nguy hiểm cho lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.

Những khó khăn thách thức trong việc giữ vững và phát huy bản sắc dân tộc Việt Nam trong tình hình hiện nay là gì?

Xuất phát điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thấp, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, chất lượng nguồn nhân lực thấp; rất khó khăn trong việc thu hút đầu tư; cơ sở hạ tầng thấp kém, thiếu việc làm, đói nghèo, thiên tai, bệnh tật thường xảy ra và đang là thách thức lớn.

Lĩnh vực văn hóa là gì?

Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v. Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.

Phát triển văn hóa là gì?

Xây dựng, phát triển văn hóa là hoạt động có chủ đích của các chủ thể văn hóa tác động vào môi trường tự nhiên và xã hội làm nảy sinh những giá trị mới của nền văn hóa theo hướng chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn, dân chủ, tiến bộ.

Chủ Đề