Mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô

Kinh tế vĩ mô là kinh tế tầm lớn, nghiên cứu các nguyên nhân và hậu quả của biến động ngắn đối với thu nhập quốc gia cũng như các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.

Kinh tế vĩ mô hay còn gọi là kinh tế tầm lớn (tiếng Anh là Macroeconomics) là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên cứu về đặc điểm, cấu trúc và hành vi của cả một nền kinh tế nói chung. Các phân tích kinh tế vĩ mô thường tập trung nghiên cứu vào cơ chế hoạt động của nền kinh tế và xác định các yếu tố chiến lược quy định thu nhập và sản lượng quốc dân, mức sử dụng lao động, giá cả và sự biến động của các yếu tố này.

Hiểu một cách đơn giản nhất, kinh tế vĩ mô là một lĩnh vực tổng quát nghiên cứu có hai khu vực điển hình gồm:

  • Nghiên cứu nguyên nhân và hậu quả của biến động ngắn đối với thu nhập quốc gia (còn gọi là chu kỳ kinh tế).
  • Nghiên cứu những yếu tố quyết định cho tăng trưởng kinh tế bền vững của một quốc gia.

Mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô

Kinh tế vĩ mô nghiên cứu bức tranh kinh tế tổng thể của một đất nước

Các yếu tố của kinh tế vĩ mô

Kinh tế vĩ mô nghiên cứu mối quan hệ của các yếu tố cơ bản trong một nền kinh tế gồm:

  • Thu nhập quốc gia
  • Sản lượng
  • Tiêu dùng
  • Thất nghiệp
  • Lạm phát
  • Tiết kiệm
  • Đầu tư
  • Buôn bán đa quốc gia
  • Tài chính đa quốc gia. 

Theo đó, các nhà nghiên cứu kinh tế vĩ mô sẽ phát triển các mô hình để giải thích mối quan hệ giữa các yếu tố này trong nền kinh tế.

Công cụ quản lý kinh tế vĩ mô

Để quản lý hay điều tiết kinh tế vĩ mô, chính phủ, nhà nước của một quốc gia sẽ sử dụng các công cụ quản lý sau đây:

- Các chính sách kinh tế - xã hội: Một số chính sách quan trọng như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách lao động, chính sách điều tiết thu nhập, chính sách ngoại hối, chính sách xuất, nhập khẩu, chính sách trợ giá và trợ cấp của Chính phủ...;

- Các chương trình, kế hoạch mang tính định hướng về phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, trung hạn và dài hạn

- Hệ thống pháp luật:

Trong các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô nói trên, các chính sách kinh tế - xã hội có vai trò trọng tâm đối với kinh tế vĩ mô. Đặc trưng cơ bản của các chính sách này là chúng được xây dựng và vận hành theo nguyên tắc tôn trọng các quy luật kinh tế, xã hội khách quan, nhất là các quy luật thị trường. Các chính sách này không làm mất đi quyền tự chủ vốn có của các chủ thể kinh doanh mà còn có tác dụng khuyến khích, hỗ trợ và phát huy cao độ quyền tự chủ của các chủ thể trong quá trình kinh doanh. Từ đó đem lại hiệu quả cao nhất cho các hoạt động kinh tế.

Trong quá trình điều tiết kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế, Nhà nước sẽ sử dụng linh hoạt các công cụ quản lý vĩ mô theo từng thời kỳ và từng mức độ, nhằm đem lại hiệu quả điều chỉnh cao nhất.

Giữa các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô cũng có mối quan hệ tác động qua lại, chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau, điển hình như mối quan hệ giữa công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và công cụ pháp luật. Theo đó, thông qua thể chế hóa bằng pháp luật, các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ có khả năng thực thi tốt hơn nhờ tính bắt buộc thi hành của pháp luật. Ví dụ: 

  • Chính sách tài khoá được quy định trong các văn bản pháp luật về tài chính
  • Chính sách tiền tệ quốc gia được quy định trong các văn bản pháp luật về tài chính ngân hàng; 
  • Chính sách lao động tiền lương và chính sách đầu tư được quy định trong các văn bản pháp luật về lao động, pháp luật đầu tư...

Có thể nói, công cụ quản lý kinh tế vĩ mô là sự lựa chọn hoàn hảo nhất cho các quốc gia chấp nhận phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường có sự kiểm soát của Nhà nước.

Mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô

Các chính sách của chính phủ là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô

Một số công thức kinh tế vĩ mô quan trọng

Để nghiên cứu kinh tế vĩ mô của một đất nước, rất nhiều công thức được xem xét và đánh giá, giúp các nhà nghiên cứu kinh tế dễ dàng nắm được các thông tin liên quan qua sự tính toán có căn cứ. Dưới đây là một số công thức quan trọng trong kinh tế vĩ mô mà bạn cần nắm rõ:

Công thức tính tổng sản phẩm nội địa (GDP)

  • Tính GDP theo  phương pháp chi tiêu: GDP = C + G + I + NX
  • Tính GDP theo phương pháp chi phí (theo thu nhập): GDP = W + I + Pr + R + Ti + De
  • Tính GDP theo phương pháp sản xuất: GDP = Giá trị tăng thêm + Thuế nhập khẩu hoặc  GDP = Giá trị sản xuất – chi phí trung gian + thuế nhập khẩu

Ví dụ: Xem xét một nền kinh tế đơn giản bao gồm: các hộ gia đình (A), chủ nhà máy xay bột (B) và chủ lò bánh mì (C). A mua bánh mì từ C với giá là 100 và bột mì từ B với giá là 10 (như là những khoản chi tiêu vào sản phẩm cuối cùng). C mua bột mì từ B với giá 40 để làm ra bánh mì. Giả sử B không sử dụng các sản phẩm trung gian nào khác. Cả hai C và B đều nhận dịch vụ lao động và vốn từ A; C đã thanh toán cho A các khoản bao gồm: 30 cho chi phí thuê lao động và 30 cho dịch vụ vốn. Tương tự B đã thanh toán cho A các khoản bao gồm: 40 cho chi phí thuê lao động và 10 cho thuê vốn. Từ các thông tin trên chúng ta tính được:

- GDP tính theo phương pháp chi tiêu:

GDP = C + G + I + NX (do chỉ có chi tiêu hộ gia đình nên I= 0, G= 0, NX= 0) => GDP = 10 + 100 = 110

- GDP tính theo phương pháp thu nhập:

Thay vì xem xét ai mua sản phẩm, bạn có thể tìm hiểu ai sẽ được trả tiền để sản xuất ra sản phẩm. Lúc này ta có bảng sau: 

Tên Chi phí thuê lao động Dịch vụ vốn Hộ gia đình (A) nhận
C 30 30 60
B 40 10 50
Tổng số tiền A được nhận để sản xuất 110

Như vậy: GDP = (30 + 40) + (10 + 30) = 110

- GDP tính theo phương pháp sản xuất:

Không phải tất cả các giao dịch trên thị trường đều được tính đủ giá trị vào GDP. Nếu làm vậy thì cùng một sản phẩm sẽ bị tính trùng nhiều lần. Do vậy để có một chỉ số đo GDP chính xác, bạn phải phân biệt hàng hóa trung gian và hàng hóa được mua để sử dụng làm đầu vào nhằm sản xuất ra sản phẩm khác và chỉ sử dụng một lần trong quá trình sản xuất. Ta có:

- C mua bột mì từ B với giá 40 và bán cho A với giá 100, lúc này C thu được 60

- A được B thanh toán 40 cho chi phí thuê lao động và 10 cho thuê vốn, như vậy A thu được 50.

Từ đó suy ra: GDP =  giá trị tăng thêm + thuế thu nhập = (10 + 40) + (100 - 40) = 110 

Như vậy cả 3 cách tính trên đều cho ra chung một kết quả về chỉ số GDP là 110

Đọc ngay: GDP là gì? Ý nghĩa của GDP trong nền kinh tế vĩ mô

Công thức tính tổng sản phẩm quốc gia (GNP)

GNP = C + I + G + (X – M) + NR hay 

GNP = GDP + NIA

Trong đó: 

  • NIA là thu nhập ròng từ nước ngoài. NIA = Thu nhập từ nước ngoài chuyển vào – thu nhập từ trong nước chuyển ra.
  • NR: Thu nhập ròng từ các hàng hóa và dịch vụ đầu tư ở nước ngoài (thu nhập ròng)

Ví dụ: Giả định nền kinh tế sản xuất các loại sản phẩm là lúa gạo, vải, bút, GDP năm A của nước này đạt là 15.000 USD và thu nhập ròng từ nước ngoài về là 2.000 USD. Như vậy GNP của nền kinh tế này là: GNP = GDP + NIA = 15.000 + 2.000 = 17.000

Công thức xác định sản lượng trong nền kinh tế mở

AD = C + I + G + X - M. Trong đó:

  • C: Chi tiêu hộ gia đình
  • I: Chi tiêu cho đầu tư của doanh nghiệp
  • G: Chi ngân sách mua hàng hóa và dịch vụ
  • X: Chi tiêu nước ngoài mua hàng hóa và dịch vụ trong nước (Xuất khẩu)
  • M: Chi tiêu nước ngoài mua hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài (Nhập khẩu)

Công thức tính cán cân thương mại

CCTM = XK – NK = X – M

Trong đó: Ba trạng thái của cán cân ngoại thương (xuất khẩu ròng)

  • X – M >0: Thặng dư (Xuất siêu)
  • X – M < 0: Thâm hụt (Nhập siêu)
  • X – M =0: Cân bằng

Ví dụ: Giá trị xuất - nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn năm 1984 - 2004 như sau (đơn vị: tỷ USD)

Năm 1984 1994 2003 2004
Xuất khẩu 291,0 703,3 1020,5 1147,2
Nhập khẩu 339,3 801,7 1517,0 1764,3

Tính cán cân xuất - nhập khẩu (cán cân thương mại) của Việt Nam giai đoạn năm 1984 - 2004?

Áp dụng công thức tính cán cân thương mại ở trên ta dễ dàng tính được cán cân thương mại của Việt Nam giai đoạn này như sau:

Năm 1984 1994 2003 2004
Cán cân -108,3 -98,4 -496,4 -617,1

Từ kết quả trên ta thấy Việt Nam giai đoạn này nước nhập siêu, cán cân thương mại bị thâm hụt (các giá trị đều nhỏ hơn 0)

Xem thêm: Cán cân thương mại là gì? Cán cân của Việt Nam đang ở mức nào?

Công thức xác định sản lượng cân bằng trong nền kinh tế mở

Theo quan hệ tổng cung/tổng cầu: AS = AD ⇔ Y = C + I + G + X - M
Xác định sản lượng cân bằng khi ngân sách cân bằng: AS = AD ⇔ Y = C + I + T + X - M (Với T=G)

Công thức tính thu nhập khả dụng

Yd = Y - (Tx - Tr) = Y - T

Trong đó:

  • Yd : Thu nhập khả dụng
  • Y: Tổng thu nhập (GNP hay GNI)
  • Tx: Tổng số thuế (Tx = Td + Ti)
  • Tr: Chi chuyển nhượng (Trợ cấp)
  • T: Thuế ròng

Mục tiêu của kinh tế vĩ mô 

Đối với kinh tế vĩ mô, mục tiêu quan trọng nhất chính là ổn định nền kinh tế. Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo ba dấu hiệu chủ yếu: ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Trong đó ổn định kinh tế là một mục tiêu quan trọng hàng đầu của một nền kinh tế. 

Ổn định kinh tế vĩ mô là kiểm soát được giá cả, tỷ giá, lãi suất… Bằng việc duy trì và cải thiện các cân đối lớn của nền kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường. Mục tiêu này được thể hiện rõ qua các yếu tố sau:

- Sản lượng cao và tăng trưởng nhanh: Khi đánh giá hoạt động kinh tế vĩ mô, các nhà kinh tế sẽ đánh giá bằng cách nhìn vào các yếu tố trọng yếu trong nền kinh tế, trong đó quan trọng nhất là GDP - tổng sản phẩm quốc nội. GDP chính là thước đo theo giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất tại một nước trong một năm. Trong GDP những biến động ngắn hạn được gọi là chu kỳ kinh doanh. Hiểu biết về chu kỳ kinh doanh là một mục tiêu chính của kinh tế vĩ mô. 

- Việc làm nhiều và thất nghiệp thấp: Tỷ lệ thất nghiệp đo lường số người không có việc làm và đang tích cực tìm việc tính theo tỷ lệ phần trăm so với lực lượng lao động. Biến động ngắn hạn của tỷ lệ thất nghiệp liên quan đến những dao động theo chu kỳ kinh doanh. Theo đó, những thời kỳ sản lượng giảm thường đi kèm với tăng thất nghiệp và ngược lại.

- Yếu tố về lạm phát: Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ. Đây là yếu tố then chốt được các nhà kinh tế quan tâm khi nghiên cứu về kinh tế vĩ mô. Các nhà kinh tế đo lạm phát bằng tỷ lệ lạm phát (%). Tỷ lệ lạm phát được đo bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi của chỉ số giá cả (thường là chỉ số CPI). Trong thời kỳ nền kinh tế có lạm phát, tiền tệ bị mất giá. Lạm phát có tác động làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Nước nào có tỷ lệ lạm phát cao thì đồng tiền nước đó sẽ bị giảm giá so với đồng tiền nước khác.

Mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô

Lạm phát là yếu tố then chốt khi nghiên cứu kinh tế vĩ mô

- Cán cân thương mại: Khi một quốc gia nhập khẩu nhiều hàng hóa từ bên ngoài so với xuất khẩu, quốc gia đó cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dôi ra bằng cách vay tiền nước ngoài hoặc giảm tài sản quốc tế. Ngược lại, khi một quốc gia có xuất khẩu ròng (xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu) quốc gia đó đó sẽ tích tụ tài sản của thế giới bên ngoài. Như vậy, nghiên cứu của kinh tế vĩ mô về mất cân bằng thương mại có liên quan chặt với dòng chu chuyển vốn quốc tế. 

Sự ổn định kinh tế vĩ mô có ý nghĩa và vai trò quan trọng trên nhiều phương diện. Theo đó:

- Kinh tế vĩ mô có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, việc nghiên cứu kinh tế vĩ mô giúp các nhà kinh tế đánh giá chính xác các yếu tố trong một nền kinh tế, từ đó có những định hướng và chiến lược phát triển đúng đắn.

- Có ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền mới tạo điều kiện thuận lợi để duy trì trật tự và thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế sẽ tạo nền tảng cho ổn định vĩ mô thông qua việc đảm bảo các cân đối nền kinh tế như cân đối hàng tiền, tiết kiệm đầu tư; thu chi ngân sách nhà nước, xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán, việc làm, thu nhập và bảo đảm an sinh xã hội. 

- Ổn định kinh tế vĩ mô là một điều kiện cơ bản của sự phát triển xã hội, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Ổn định kinh tế vĩ mô là một chức năng quan trọng của Nhà nước trong vai trò quản lý nền kinh tế thị trường.

Sự khác nhau giữa kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô

Kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo đó, kết quả của kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi mô. Một nền kinh tế muốn phát triển phải phụ thuộc vào sự phát triển của các doanh nghiệp và  hành vi của các doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên đây là hai phạm trù kinh tế hoàn toàn khác nhau. Dưới đây là các điểm khác nhau giữa kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô:

Chỉ tiêu so sánh Kinh tế vĩ mô Kinh tế vi mô
Phạm vi nghiên cứu Kinh tế vĩ mô nghiên cứu những vấn đề về sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Nghiên cứu sự tương tác giữa các khía cạnh của nền kinh tế quốc dân, như sự tương tác giữa sự đầu tư vốn với tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát, tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân. Nghiên cứu hành vi của từng cá thể, từng doanh nghiệp.
Mục tiêu Quan tâm đến mục tiêu ổn định kinh tế của cả một quốc gia. Quan tâm đến đến mục tiêu kinh tế của từng cá nhân, từng doanh nghiệp
Giải pháp Tìm hiểu nhiều yếu tố từ đó đưa ra giải pháp nhằm cải thiện kết quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Lý giải cách thức các doanh nghiệp và các cá nhân, từ đó đưa ra các quyết định về kinh tế.

Giải đáp một số thuật ngữ trong kinh tế vĩ mô

Chính sách kinh tế vĩ mô là gì?

Chính sách kinh tế vĩ mô là các chính sách kinh tế nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô và đạt trạng thái toàn dụng lao động. Hai chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. 

Chính sách kinh tế vĩ mô còn được gọi là chính sách quản lý tổng cầu vì nó tác động đến phía cầu của nền kinh tế.

AE trong kinh tế vĩ mô là gì?

AE trong kinh tế vĩ mô là ký hiệu viết tắt của khái niệm tổng chi tiêu (tiếng Anh là Aggregate expenditure). Tổng chi tiêu là tổng các khoản chi tiêu để mua hàng hóa và dịch vụ cuối cùng trong nền kinh tế. Thuật ngữ này còn được ký hiệu là E.

Trong nền kinh tế vĩ mô, vì tổng mức chi tiêu thực hiện (EA) phải bằng giá trị sản lượng (GDP) và tổng mức chi tiêu sự kiến (EP) chính là tổng cầu (AD), nên có thể xác định tổng chi tiêu bằng cách: 

EA= CA+IA+GA+XA-MA= GDP

EP= CP+IP+GP+XP-MP= AD

Trong đó CA, IA, GA, XA, MA là mức thực hiện của chi tiêu cho tiêu dùng, đầu tư, mua hàng của chính phủ, xuất khẩu và nhập khẩu, còn Cp, Ip, Gp, Mp là các đại lượng dự kiến tương ứng.

Các thành phần của tổng chi tiêu: Các thành phần cấu thành tổng chi tiêu bao gồm: chi tiêu hộ gia đình, đầu tư, chi tiêu của chính phủ, xuất khẩu và nhập khẩu. Trong đó:

  • Chi tiêu hộ gia đình (C): Là tổng số tiền mà các cá nhân chi cho hàng hóa và dịch vụ trong suốt một năm.
  • Đầu tư (I): Số tiền mà người dân và doanh nghiệp đầu tư vào chi tiêu vốn như máy móc sản xuất mới, cải tiến bất động sản và mua các tòa nhà.
  • Chi tiêu của chính phủ (G): Là tổng số tiền mà chính phủ đã chi.
  • Xuất khẩu ròng (NX): Xuất khẩu ròng được xác định bằng cách trừ tổng nhập khẩu của một quốc gia khỏi tổng xuất khẩu (NX = X - M). Đây là thành phần duy nhất có thể là một số âm. Xuất khẩu ròng mang giá trị âm nếu nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu.

Ví dụ: Một quốc gia hư cấu A có các dữ liệu gồm: 

  • Tiêu dùng hộ gia đình = 100.000 đô la
  • Đầu tư = 250.000 đô la
  • Chi tiêu chính phủ = 500.000 đô la
  • Xuất khẩu = 300.000 đô la
  • Nhập khẩu = 150.000 đô la

Hãy xác định tổng chi tiêu hay tổng cầu của nền kinh tế ở quốc gia A

Xuất khẩu ròng được tính bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu hay: NX = X - M. Ta có:

AE = C + I + G + X

AE = 100.000 + 250.000 + 500.000 + (300.000 - 150.000)

AE = 100.000 + 250.000 + 500.000 + 150.000

AE = 1.000.000 đô la

APC trong kinh tế vĩ mô là gì?

APC là ký hiệu viết tắt của khái niệm xu hướng tiêu dùng bình quân (tiếng Anh là Average Propensity to Consume). Theo đó, xu hướng tiêu dùng bình quân là tỉ lệ phần trăm thu nhập trung bình chi cho hàng hóa và dịch vụ khi thu nhập tăng lên. 

Mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô

APC - xu hướng tiêu dùng bình quân (Hình minh họa. Nguồn: Dreamstime.com)

Tỉ lệ phần trăm thu nhập chi tiêu được xác định bằng cách chia mức tiêu thụ trung bình của hộ gia đình, hoặc tổng chi tiêu hộ gia đình, cho thu nhập trung bình của hộ gia đình hoặc tổng thu nhập. Trong nền kinh tế vĩ mô, các hộ gia đình có thu nhập thấp có xu hướng tiêu dùng bình quân (APC) cao hơn các hộ gia đình có thu nhập cao hơn. Điều này được lý giải do hộ gia đình có thu nhập thấp có xu hướng chi tiêu nhiều hơn thu nhập khả dụng của họ cho các nhu cầu cơ bản so với các hộ gia đình có thu nhập cao. Từ đó làm cho tỷ lệ thu nhập chi cho hàng hóa và dịch vụ của họ cao hơn.  

Nghịch đảo của xu hướng tiêu dùng bình quân là xu hướng tiết kiệm bình quân (APS). Tổng của APC và APS sẽ luôn luôn là 1, do các hộ gia đình sẽ sử dụng thu nhập hoặc cho tiết kiệm hoặc cho tiêu dùng. Xu hướng tiêu dùng bình quân (APC) cũng có thể được tính bằng cách lấy 1 trừ đi APS.   

Ví dụ: Giả sử một nền kinh tế có GDP tương đương thu nhập khả dụng là 500 tỷ đô la trong năm trước. Tổng tiền tiết kiệm của nền kinh tế là 300 tỷ đô la, phần còn lại được chi cho hàng hóa và dịch vụ.

Do đó, APS của quốc gia này là 0,6 hay 300 triệu đô la/500 triệu đô la, cho thấy nền kinh tế đã sử dụng 60% thu nhập khả dụng cho tiết kiệm. Ngược lại, APC là 0,4 (1 - 0,6 = 0,4) cho thấy nền kinh tế đã dành 40% GDP cho chi tiêu hàng hóa và dịch vụ.   

MPS trong kinh tế vĩ mô là gì?

MSP trong kinh tế vĩ mô là ký hiệu viết tắt của khái niệm xu hướng tiết kiệm cận biên (tiếng Anh là Marginal Propensity to Save). Xu hướng tiết kiệm cận biên là lượng tiết kiệm tăng thêm khi thu nhập khả dụng tăng thêm một đơn vị.

Công thức xác định MSP: Nếu ta kí hiệu:

  • Biến động của mức tiêu dùng trong kỳ là ΔS
  • Biến động của thu nhập trong kỳ là ΔY

Khi đó (ΔS/ΔY) = MPS

Chiến lược kinh tế vĩ mô tại Việt Nam

Năm 2020 dưới ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh covid-19 đối với nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế năm 2020 của Việt Nam được dự báo sẽ rất thấp so với mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, điều này sẽ giúp ổn định vĩ mô, tạo nền tảng để đảm bảo sự bền vững cho những năm tới.

Theo báo cáo Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2020 được Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) công bố, dự báo kinh tế Việt Nam năm 2020 được đưa ra theo 2 kịch bản:

  • Kịch bản 1: Tăng trưởng có thể đạt mức 2,1%; Xuất khẩu cả năm dự báo giảm 3,1% (so với năm 2019); Thặng dư thương mại dự báo tương ứng ở các mức 1,7 tỷ USD; Lạm phát bình quân năm 2020 là 4,3%
  • Kịch bản 2: Tăng trưởng có thể đạt mức 2,6%; Xuất khẩu cả năm dự báo giảm giảm 1,9% (so với năm 2019); Thặng dư thương mại dự báo tương ứng ở 2,1 tỷ USD; Lạm phát bình quân năm 2020 là 4,5%.

Các chuyên gia của CIEM cho rằng, những số liệu được công bố đến tháng 6 có thể chưa phản ánh đầy đủ hệ lụy của đại dịch Covid-19 đến kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam. Điều này là bởi có thể do chính phủ nhiều nước, trong đó có Việt Nam đã sớm ban hành những biện pháp hỗ trợ, hoặc do đại dịch mới diễn ra trong thời gian ngắn (trong năm 2020) nên chưa thể nhìn nhận và đánh giá các tác động một cách đầy đủ nhất. 

Mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô

Ổn định kinh tế vĩ mô là mục tiêu quan trọng trong giai đoạn hiện nay (ảnh minh họa)

Theo TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM, Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển, dựa đáng kể vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, do vậy, chịu nhiều hệ lụy cả trực tiếp và gián tiếp từ Covid-19. Tuy nhiên Tiến sĩ Trần Thị Hồng Minh đánh giá, so với nhiều năm trước, đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009, kinh tế Việt Nam những năm gần đây đã thể hiện sức chống chịu tốt hơn rất nhiều.

PGS -TS Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, ổn định vĩ mô là vấn đề quan trọng thời điểm này chứ không phải là tăng trưởng. Nếu đặt vấn đề tăng trưởng lên hàng đầu, dựa vào thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, giải ngân đầu tư công tràn lan, thì hệ lụy rất nguy hiểm. 6 tháng đầu năm 2020, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng 4,19%, nếu không kiểm soát khéo, thì mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% trong năm nay của Việt Nam sẽ khó đạt được. Đồng quan điểm, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp của CIEM cũng chia sẻ, năm 2020 tăng trưởng có thể không cao, nhưng việc giữ môi trường ổn định, tạo dư địa chính sách cho điều hành sẽ là “nền” cho tăng trưởng bền vững và chất lượng hơn trong những năm tiếp theo. 

Nói về chiến lược kinh tế vĩ mô, chuyên gia của CIEM khuyến nghị, cần tiếp tục cải thiện nền tảng kinh tế vĩ mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh tế theo hướng nâng cao khả năng chống chịu, xử lý hiệu quả những rủi ro trong bối cảnh “bình thường mới” trong thời gian tới. Thực tiễn thời gian gần đây cho thấy, điểm sáng của bức tranh kinh tế Việt Nam trong bối cảnh dịch bệnh là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn về tài chính, tiền tệ, tín dụng cơ bản được giữ vững. 

Nhiều chuyên gia cho rằng, thời điểm công tác phòng, chống dịch đi đôi với phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và doanh nghiệp một số ngành, lĩnh vực thận trọng mở cửa trở lại, Chính phủ cần quyết liệt triển khai các gói hỗ trợ đã ban hành đến tay người dân, doanh nghiệp để bù đắp phần sức lực đã bị bào mòn do dịch bệnh. 

Ngoài ra, chính phủ cần có các giải pháp mạnh hơn, xem xét khả năng áp dụng chính sách miễn, giảm thuế, phí kéo dài sang năm 2021 thay vì chỉ giãn, hoãn thuế như gói hỗ trợ tài khóa tại Nghị định số 41/2020/NÐ-CP của Chính phủ về gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất.

Kinh tế vĩ mô là bức tổng thể chung của một đất nước cho thấy tốc độ phát triển kinh tế. Điều hành chính sách kinh tế vĩ mô phải đứng trên phương diện tổng thể toàn bộ nền kinh tế, phải phù hợp với đặc điểm đất nước trong từng thời kỳ. Đặc biệt, xác định rõ việc hoạch định chính sách vĩ mô phải dựa trên cơ sở nền tảng vi mô, nhất là các tác động, ảnh hưởng qua lại đến các chủ thể chính trong nền kinh tế, nhất là doanh nghiệp, người tiêu dùng (hộ gia đình).