Nghị luận về văn đề học môn Ngữ văn của học sinh hiện nay

Đừng xem nhẹ môn Ngữ văn!

ĐỂ BÀI

Chúng ta đang bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của khoa học, công nghệ hiện đại. Nhiều phụ huynh học sinh thích chạy theo những môn học thời thượng như: Toán, Ngoại ngữ, Tin học mà không thích cho con học môn Ngữ văn. Là một học sinh, em hãy trình bày quan điểm của mình về hiện tượng này.

BÀI LÀM

Từ xưa đến nay, môn văn luôn chiếm một vị trí rất quan trọng trong đạo học. Văn chương giúp đời sống tinh thần của con người thêm phong phú hơn, giúp cách ứng xử của ta được văn hoá hơn. Vậy mà mới bước sang những năm đầu của thế kỉ XXI, vị thế của môn Ngữ văn trong các trường học đã bị suy giảm một cách rõ rệt. Nhiều phụ huynh học sinh cho rằng thế kỉ XXI là thế kỉ hiện đại, các quốc gia, dân tộc đang cố gắng phát triển để hội nhập với toàn thế giới. Chính vì thế mà các phụ huynh có xu hướng cho con theo học những môn học có tính ứng dụng cao như: Toán, Lí, Hoá, Ngoại ngữ, Tin học mà không còn quan tâm nhiều đến môn Ngữ văn. Là một học sinh đang cắp sách đến trường, tôi rất không đồng tình với hiện tượng này.

Văn chương là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người. Trong xã hội phong kiến thời xưa, môn học về văn chương còn chiếm một vị trí rất quan trọng. Đó là môn thi duy nhất để các sĩ tử khẳng định mình trong các khoa thi dưới thời phong kiến. Đã có rất nhiều người thành đạt trên con đường văn chương khoa cử như đại thi hào Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn…

Trong xã hội ngày nay, việc học văn càng có ý nghĩa quan trọng. Văn chương giống như một bức tranh rộng lớn đầy màu sắc, phản ánh hiện thực của cuộc sống trong mọi lĩnh vực, mọi thời đại. Đến với văn chương, tìm hiểu về văn chương, ta sẽ có thêm rất nhiều hiểu biết về cuộc sống, xã hội, con người. Chẳng hạn đọc tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, ta thấy bức tranh xã hội phong kiến thời xưa, một xã hội đầy rẫy những bất công đen tối. Hay đọc bài thơ Bánh trôi nước của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, ta thấy số phận lênh đênh chìm nổi của người phụ nữ…

Không những thế văn chương còn làm cho thế giới ngôn ngữ của mỗi con người thêm phong phú hơn, trong sáng hơn. Văn chương trau dồi lời ăn, tiếng nói của mỗi con người trong cuộc sống hàng ngày sao cho đẹp và ý nhị hơn.

Mỗi một môn học, mỗi một lĩnh vực đều có một sứ mệnh riêng của mình. Đi sâu vào đời sống tình cảm của con người, làm thế giới tình cảm phong phú hơn, khiến cho các cung bậc tình cảm trong trái tim của mỗi con người rung lên là sứ mệnh của văn chương. Chẳng hạn sau khi đọc xong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, ta cảm thấy xót thương cho số phận của nàng Kiều đồng thời cũng cảm thấy căm phẫn trước xã hội phong kiến thối nát. Hay đọc Bánh trôi nước của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, ta cảm thấy xót thương, cảm thông cho số phận của người phụ nữ xưa và căm ghét lễ giáo phong kiến bất công, hà khắc. Và từ đó văn chương sẽ làm cho tâm hồn của mỗi người sâu sắc hơn, nhạy cảm hơn, tinh tế, phong phú hơn.

Như vậy văn chương là không thể thiếu trong cuộc sống xưa và nay. Thế mà trong xã hội ngày nay, việc học văn đang bị xem nhẹ. Thử hỏi nếu một ngày nào đó, văn chương dần dần bị lãng quên thì xã hội của chúng ta sẽ ra sao? Cuộc sống của chúng ta sẽ buồn tẻ, nhàm chán và khô khan hạn hẹp đến thế nào?

Chẳng hạn một bạn nói tiếng Anh như gió, giao tiếp với người nước ngoài lưu loát, trôi chảy nhưng khi giao tiếp vói người Việt thì ấp úng, từ ngữ sử dụng trong khi giao tiếp thiếu chính xác. Vì sao lại như vậy? Vì bạn không có vốn hiểu biết về văn chương, vốn từ không phong phú.

Không những thế, nếu thiếu văn chương thì đời sống tình cảm của bạn cũng nghèo nàn, kém sâu sắc. Trong xã hội hiện nay có rất nhiều bạn ngồi chat với bạn mình hàng tiếng đồng hồ, nhưng không thể viết được một bức thư cho người thân, đơn giản chỉ vì các bạn không có cảm xúc, vốn từ kém phong phú. Chúng ta cũng phải công nhận một điều, các môn học có tính ứng dụng cao như: Toán, Lí, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ là rất quan trọng trong xã hội hiện nay nhưng không phải vì thế mà chúng ta coi thường môn Ngữ văn.

Nếu học tốt văn là bạn đã có một trợ thủ đắc lực cho các môn học khác đấy! Chẳng hạn, khi học tin học để soạn thảo văn bản nhanh, đúng, bạn phải có vốn hiểu biết Ngữ văn, học tốt phần Tiếng Việt, Làm văn trong nhà trường…

Như vậy văn chương là một phần tất yếu trong cuộc sống. Văn chương giúp con người rất nhiều trong mọi lĩnh vực. Vì vậy bạn đừng xem nhẹ môn Ngữ văn. Đừng suy nghĩ một cách nông cạn mà cho rằng môn Ngữ văn là không cần thiết trong xã hội hiện nay.

Nguyễn Quỳnh Trang

Lớp 9A – THCS Thanh Thuỷ – Thanh Thuỷ – Phú Thọ

Tải về file word >> tại đây

Xem thêm 

Đến trường là niềm hạnh phúc

Sách là người bạn lớn

Related

Tags:Đừng xem nhẹ môn Ngữ văn · Văn nghị luận xã hội THCS

Mục lục1 . Mở đầu……………………………………………………………………….11.1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………........11.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………..11.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………..11.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………22. Nội dung ……………………………………………………………………..22.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm …………………………………..22.2. Thực trạng vấn đề dạy học phần nghị luận xã hội của bộ môn văn ở trườngtrung học phổ thông Hà Trung. …………………………………………………32.2.1. Thực tế về chương trình dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường phổthông……………………………………………………………………………..32.2.2. Thực trạng việc dạy, học phần nghị luận xã hội và rèn kĩ năng viết đoạnvăn nghị luận xã hội trong bộ môn ngữ văn ở trường trung học phổ thông HàTrung…………………………………………………………………………….42.3. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh trung họcphổ thông ……………………………………………………………………….52.3.1. Củng cố kiến thức về đoạn văn ……………………….………………….52.3.2. Cách viết đoạn văn trong đề thi Ngữ văn THPT Quốc gia năm 2017……62.3.3. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ ……..72.3.3.1. Kĩ năng nhận diện dạng đề:……………………………………………..72.3.3.2. Tìm hiểu đề…………………………………………………………….102.3.3.3. Lập ý:…………………………………………………………………..132.3.3.4. Lựa chọn dẫn chứng …………………………………………………..172.3.3.5. Kĩ năng diễn đạt……………………………………………………......172.3.3.6. Cấu trúc đoạn văn ……………………………………………………..172.4. Thực nghiệm và đề xuất giải pháp…………………………………………182.4.1. Tiến hành thực nghiệm…………………………………………………..182.4.2. Kết quả thực nghiệm……………………………………………………182.4.3. Một số giải pháp…………………………………………………………193. Kết luận và kiến nghị………………………………………………...........193.1. Kết luận…………………………………………………………………...193.2. Kiến nghị………………………………………………………………….19Tài liệu tham khảo……………………………………………………………...201. Mở đầu1.1. Lí do chọn đề tài.Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học, công nghệ, nhân lực; làchìa khóa để mở cánh cửa tri thức nhân loại. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đềđổi mới giáo dục đang là vấn đề rất được quan tâm. Vài năm trở lại đây chươngtrình dạy học và thi môn văn có nhiều đổi mới. Cùng với nghị luận văn học, vănnghị luận xã hội được đưa vào chương trình các cấp học từ trung học cơ sở đếntrung học phổ thông. Đề văn nghị luận xã hội là một trong những tiêu chí đánhgiá quan trọng trong các bài kiểm tra thường xuyên, định kì, thi tốt nghiệp trunghọc phổ thông quốc gia. Sự thay đổi này góp phần hình thành cho người họcnhững năng lực thiết yếu như nghe, nói, đọc, viết, lựa chọn, phản hồi…Đồngthời, việc dạy học văn nghị luận xã hội cũng gắn với quá trình hình thành, pháttriển, rèn luyện năng lực tư duy và phát triển toàn diện cho học sinh, đánh thức ởngười học thái độ quan tâm tới các vấn đề, các hiện tượng của đời sống xã hội.Tuy nhiên, việc dạy học nghị luận xã hội cũng đặt ra cho các em không ít tháchthức. Thời gian rèn luyện về nghị luận xã hội ở trên lớp không nhiều, nhiều emkiến thức xã hội còn rất mơ hồ, kĩ năng làm bài không thuần thục, không nắmchắc yêu cầu của đề...tất cả những điều đó tạo nên khó khăn khá lớn cho họcsinh trong các kì thi. Hơn nữa, theo tinh thần đổi mới của Bộ giáo dục và đàotạo, trong kì thi trung học phổ thông quốc gia năm 2017 đề thi sẽ có nhiều thayđổi so với đề thi năm 2016. Đặc biệt, đề thi môn Ngữ văn có sự thay đổi cách rađề và bị giới hạn về dung lượng trong phần làm văn nghị luận xã hội. Xu hướngđề thi năm 2017 sẽ tích hợp phần đọc hiểu với nghị luận xã hội, thời lượng làmbài và biểu điểm bị rút ngắn. Điều này càng khó khăn hơn cho học sinh, nhất làtrong phần làm văn nghị luận xã hội. Nhằm giúp các em có thêm kĩ năng làm tốtcâu văn nghị luận xã hội trong kì thi trung học phổ thông quốc gia năm 2017chính là lí do để tôi chọn đề tài này.1.2. Mục đích nghiên cứuTôi tiến hành đề tài này với ba mục đích cơ bản sau:Thứ nhất: Giúp học sinh nắm được yêu cầu, phương pháp và kĩ năng cơ bảnđể viết đoạn văn nghị luận xã hội của bài thi môn Ngữ văn trong kì thi trung họcphổ thông quốc gia năm 2017.Thứ hai: Thông qua quá trình rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận xã hộigiúp học sinh nâng cao khả năng trình bày quan điểm của mình; cung cấp chocác em vốn tri thức phong phú về các vấn đề xã hội để các em nâng cao nhậnthức về đời sống xã hội và kĩ năng sống, giúp các em sống tốt hơn, đẹp hơn, cóích hơn, trưởng thành hơn và từng bước hoàn thiện nhân cách của mình.Thứ ba: Đề tài này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các giáo viên Ngữvăn khi dạy phần nghị luận xã hội.1.3. Đối tượng nghiên cứuNghị luận xã hội có mặt trong chương trình Ngữ văn từ bậc trung học cơ sởđến bậc trung học phổ thông, tuy nhiên trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉtìm hiểu phương pháp viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh trung học phổthông đặc biệt là học sinh lớp 12 chuẩn bị thi trung học phổ thông quốc gia năm2017. Trong bài viết này chúng tôi tập trung nghiên cứu 2 dạng đề cơ bản,22thường gặp: nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đờisống theo yêu cầu đổi mới là vấn đề nghị luận được rút ra từ phần đọc – hiểu vàchỉ nghị luận vấn đề bằng một đoạn văn khoảng 200 chữ.1.4. Phương pháp nghiên cứuĐể đạt được mục đích và thực hiện những nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, chúngtôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: trên cơ sở nội dung lýthuyết về đoạn văn chúng tôi đã khái quát thành những nội dung cơ bản tươngđối ngắn gọn, đầy đủ.1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: từ kết quả cácbài kiểm tra trong thực tế , tìm hiểu mong muốn cụ thể để đánh giá tình hình họcsinh và có giải pháp phù hợp, tích cực với các đối tượng cụ thể.1.4.3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu1.4.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: vận dụng các nội dung của đề tài vàothực tế dạy học tại lớp 12Đ và 12H – Trường trung học phổ thông Hà Trung.2. Nội dung2.1. Cơ sở lí luận của đề tài2.1.1. Trong sự phát triển của thời đại ngày nay, tri thức đã trở thành nguồn lựcquan trong đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Để đáp ứng được yêu cầu củathời đại, chúng ta đã và đang thực hiện công cuộc đổi mới một cách căn bản,toàn diện nền giáo dục. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học được xem làtrọng yếu ở tất cả các môn học trong đó có môn Ngữ văn. Mục tiêu của giáo dụclà hướng tới đào tạo những con người phát triển toàn diện. Việc đưa phần nghịluận xã hội vào chương trình Ngữ văn bậc trung học hoàn toàn phù hợp với xuhướng giáo dục trên. Nghị luận xã hội là kiểu bài nghị luận lấy đề tài từ các lĩnhvực đời sống xã hội, chính trị, đạo đức làm nội dung bàn bạc nhằm làm sáng tỏcái đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề được nêu ra. Từ đó, người viết đưa ra một cáchhiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào thực tiễn đời sốngvà bản thân. Những đề tài và nội dung này thường là những vấn đề có tính thựctiễn, tính giáo dục và tính thời sự cao. Đối với học sinh trung học phổ thông, quacác bài nghị luận xã hội giúp các em có được nhận thức đúng đắn về cuộc sống;trên cơ sở đó bày tỏ ý kiến, quan điểm, lập trường, tư tưởng bản thân để thuyếtphục người khác hiểu, tin, đồng tình với suy nghĩ và hành động của mình. Mụctiêu của đề thi môn Ngữ văn là hướng tới việc học sinh hiểu và diễn đạt sự hiểuđó mạch lạc, trôi chảy, đúng nội dung.2.1.2. So với đề thi thông thường, đề thi năm 2017, phần làm văn nghị luận xãhội không yêu cầu học sinh viết bài văn nghị luận như trước đây mà chỉ cần viếtđoạn văn khoảng 200 chữ. Để làm tốt phần này học sinh cần nắm được nhữngyêu cầu căn bản của một đoạn văn.Về nội dung: đoạn văn là một phần của văn bản, nó diễn đạt hoàn chỉnh ởmột mức độ nào đó logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễdàng. “Đoạn văn nghị luận là đoạn văn trực tiếp bày tỏ những tư tưởng, quan33điểm của người viết về một vấn đề thuộc phạm vi văn học hoặc phạm vi đờisống xã hội”[1]. Tuy nhiên, đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ cần bám sát yêucầu của đề và dựa trên nội dung thông điệp ở phần đọc hiểu.Về hình thức: đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ởnhững điểm sau: Một đoạn văn được bắt đầu từ chữ cái viết hoa lùi đầu dòngđến chỗ chấm xuống dòng. Đoạn văn phải viết liền mạch. Đoạn văn thường cócâu chủ đề.Cấu trúc một đoạn văn: “đoạn văn nghị luận là một hệ thống lập luận, trongđó hàm chứa một luận điểm chính và nhiều luận điểm phụ; câu chủ đề thể hiệnrõ ràng, chính xác nội dung luận điểm, các câu khác triển khai hoặc dẫn giảinhằm làm nổi rõ luận điểm; làm tăng sức thuyết phục”[1].Các kiểu kết cấu: Để triển khai ý tưởng trong đoạn văn, có kiểu kết cấu cơbản sau:Thứ nhất là diễn dịch: từ câu chốt, triển khai các biểu hiện cụ thể của ýtưởng.Thứ hai là quy nạp: từ những minh họa, lập luận, nhận xét dẫn đến ý tưởngcần trình bày.Thứ ba là tổng phân hợp: Đây là kiểu hỗn hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mởđoạn nêu ý tưởng, các câu tiêp theo nêu biểu hiện cụ thể, những lập luận, nhậnxét, quan điểm; từ đó đề xuất, định hướng tư tưởng cho vấn đề được bàn luận.Ngoài ra, còn có cách trình bày kiểu móc xích và song hành. Đối với yêu cầuviết đoạn nghị luận xã hội, có thể sử dụng một trong các kiểu trên. Tuy nhên,tổng phân hợp là kiểu phù hợp nhất, cần tập trung rèn luyện cho học sinh.2.1.3. Các kĩ năng làm văn cơ bản:2.1.3.1. Các kĩ năng chung : bao gồm những kĩ năng cơ bản cần có của ngườihọc văn. Đó là:Kĩ năng đọc: là năng lực lĩnh hội, thông hiểu của người học trước một vănbản.Kĩ năng viết: là năng lực điễn đạt, trình bày trong tạo lập văn bản.Kĩ năng phản hồi: là năng lực đánh giá, phản biện, đối thoại,…2.1.3.2. Các kĩ năng tạo dựng đoạn văn:Kĩ năng xác định dạng đề và yêu cầu của đề, kĩ năng tìm ý, kĩ năng lập ý, kĩnăng diễn đạt.2.2. Thực trạng vấn đề dạy học phần nghị luận xã hội của bộ môn văn ởtrường trung học phổ thông Hà Trung.2.2.1. Thực tế về chương trình dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường phổthông: trong chương trình sách giáo khoa đổi mới từ năm 2006, bên cạnh các bàilàm văn nghị luận văn học đã có bài học về nghị luận xã hội. Từ năm học 2008 2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức đưa vào đề thi môn văn kì thi tốtnghiệp trung học phổ thông và thi tuyển sinh vào các trường Cao đẳng, Đại họcmột câu nghị luận xã hội, chiếm tỉ lệ 30% trong tổng số đề ra. Những vấn đềnghị luận xã hội được đưa ra cho học sinh bàn bạc rất phong phú, đa dạng; đềcập đến tất cả các phương diện của đời sống. Thế nhưng, thời lượng chương44trình dành cho việc giảng dạy và rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hộitrong phân phối chương trình trung học phổ thông theo qui định của Bộ Giáodục là quá ít ỏi. Chương trình lớp 12 cả Ban cơ bản và Ban Khoa học Xã hội đềuchỉ có 2 tiết lí thuyết về cách làm bài nghị luận xã hội: một cho dạng bài nghịluận về một tư tưởng đạo lí, một cho dạng bài nghị luận về một hiện tượng đờisống. Cả năm học 12 các em chỉ có hai bài viết rèn luyện nghị luận xã hội, cònlại thì tập trung vào nghị luận văn học. Chương trình lớp 11 Ban khoa học xã hộicó 2 bài viết nghị luận xã hội. Tình hình thực tế trên có nhiều ảnh hưởng đến họcsinh. Các em không có điều kiện để rèn luyện nghị luận xã hội một cách thườngxuyên dẫn tới kết quả đạt được không cao.Hơn nữa, theo tinh thần đổi mới của Bộ giáo dục và đào tạo, phần nghị luậnxã hội có nhiều thay đổi. Đó là thay đổi cách ra đề. Theo đề thi minh họa thì đềbài yêu cầu bàn luận về một vấn đề được đặt ra trong phần đọc hiểu. Đồng thời,đề bài cũng giới hạn về dung lượng và thời gian. Trước đây, học sinh viết bàivăn nghi luận xã hội nhưng hiện nay đề yêu cầu viết một đoạn văn khoảng 200chữ, phần này chiếm 20% điểm toàn bài. Thời gian làm bài môn văn từ 180 phútxuống còn 120 phút. Đây là một điểm mới đòi hỏi cả người dạy và người họcphải chú ý điều chỉnh, rèn luyện ngay trong quá trình dạy học mà thực tế chươngtrình không có tiết nào để củng cố và rèn luyện cho học sinh.Về học sinh: Học sinh trung học phổ thông đều ở độ tuổi mới lớn, chưa tiếpxúc nhiều với thực tế đời sống phong phú, phức tạp, vốn kiến thức thục tế xã hộicòn hạn chế. Nhiều em cách nhìn nhận vấn đề còn mơ hồ, ấu trĩ, thậm chí lệchlạc. Vì vậy, việc hiểu đúng, hiểu sâu bản chất và bàn luận thấu đáo một vấn đềxã hội là điều rất khó khăn đối với các em. Đồng thời, có những học sinh còn rấtmơ hồ, không nắm được yêu cầu của đề thi, yêu cầu về đoạn văn và kĩ năng viếtđoạn văn. Vì vậy, vẫn có hiện tượng học sinh viết bài văn ngắn chứ không viếtđoạn văn hoặc mất quá nhiều thời gian cho câu này ảnh hưởng đến thời gian làmbài chung của toàn bài.2.2.2. Thực trạng việc dạy, học phần nghị luận xã hội và rèn kĩ năng viết đoạnvăn nghị luận xã hội trong bộ môn ngữ văn ở trường trung học phổ thông HàTrung.Thực tế giảng dạy môn Ngữ văn, nhất là phần nghị luận xã hội tại trườngTHPT Hà Trung cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định.Đối với giáo viên: Các giáo viên bộ môn Ngữ văn đã chú ý đến phần nghịluận xã hội đặc biệt là ở chương trình lớp11, 12. Các giáo viên đã cập nhật kịpthời những thay đổi của chương trình học và thi, thay đổi cách ra đề theo cấutrúc đề thi minh họa. Nhưng do thời lượng chương trình hạn chế nên không cónhiều điều kiện bổ sung kiến thức cũng như rèn luyện kĩ năng viết đoạn vănnghị luận xã hội cho học sinh. Với thời gian 2 tiết lí thuyết chỉ đủ để giáo viêngiới thiệu khái niệm, kiểu bài, dạng đề và cách làm bài một cách cơ bản nhất.Qua một số bài kiểm tra định kì, mỗi bài một câu nghị luận xã hội chiếm khoảng20% bài viết chỉ đủ để các em tiếp cận và làm quen với cách làm bài chứ chưathể đạt đến độ thuần thục, nhuần nhuyễn về kĩ năng.55Đối với học sinh: Số học sinh hiểu thấu đáo vấn đề, có kĩ năng viết đoạnvăn nghị luận xã hội tốt không nhiều. Đa phần các em thường ngợp trước cácvấn đề xã hội, hiểu lơ mơ, văn viết hời hợt, lung túng khi triển khai vấn đề.Nhiều em viết theo cảm hứng, không nắm vững qui trình làm bài, không tìm ý,lập ý trước khi viết. Thậm chí, có học sinh còn mơ hồ về yêu cầu của đề thi,không nắm được yêu cầu viết đoạn văn giới hạn khoảng 200 chữ. Do đó, khi gặpnhững đề bài mà vấn đề nghị luận ẩn sâu sau câu chữ, hình ảnh đòi hỏi các emxác định vấn đề là học sinh không làm được hoặc xác định sai lạc vấn đề cầnnghị luận.Về phía Nhà trường: Nhà trường cũng đã có kế hoạch phụ đạo phù hợp,tăng cường đổi mới công tác ra đề thi kiểm tra bám sát cấu trúc đề thi minh họacủa Bộ giáo dục song vẫn chưa thể giảm hết khó khăn cho cả thầy và trò.2.3. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh trunghọc phổ thông.2.3.1. Củng cố kiến thức về đoạn văn2.3.1.1. Khái niệm: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗviết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạtmột ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từngữ được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần nhằm duy trì đối tượngbiểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ haithành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn cónhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ chủ đề của đoạn.2.3.1.2. Các kiểu trình bày nội dung trong đoạn văn.Đoạn văn song hành: Đây là đoạn văn có các câu triển khai nội dung songsong nhau, không nội dung nào bao trùm lên nội dung nào. Mỗi câu trong đoạnvăn nêu một khía cạnh của chủ đề đoạn văn, làm rõ cho nội dung đoạn văn.Đoạn văn móc xích: Đoạn văn có kết cấu móc xích là đoạn văn mà các ýgối đầu, đan xen nhau và thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ đã có ởcâu trước vào câu sau. Đoạn móc xích có thể có hoặc không có câu chủ đề.Đoạn diễn dịch: là cách trình bày ý đi từ khái quát đến cụ thể. Câu chủ đềmang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai những nộidung chi tiết cụ thể ý tưởng của chủ đề đó. Các câu triển khai được thực hiệnbằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèmnhững nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.Đoạn qui nạp: là cách trình bày ý ngược lại với diễn dịch - đi từ các ý chitiết, cụ thể đến ý khái quát. Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Các câu trên đượctrình bày bằng thao tác minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánhgiá chung.Đoạn tổng phân hợp: là sự phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở đoạnnêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết đoạn làý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai triểnđược thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, để từ66đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị củavấn đề. Khi viết đoạn văn nghị luận xã hội, học sinh cần chú ý kiểu trình bàynày.2.3.2. Cách viết đoạn văn trong đề thi Ngữ văn THPT Quốc gia năm 2017Giáo viên hệ thống lại cho học sinh các bước cơ bản cần thực hiện để viếtđoạn văn. Để viết đoạn văn thành công, cần chú ý tuân thủ các bước:2.3.2.1.Xác định yêu cầu của đềVề nội dung: Điều quan trọng nhất ở đây là phải xác định được đề bài yêucầu viết về vấn đề gì? Đó là nội dung của đoạn văn. Người viết cần hiểu rõ vấnđề đó là gì, phân tích các biểu hiện cụ thể. Cần nêu được dẫn chứng cụ thể vàthể hiện quan điểm, thái độ, đánh giá của người viết về vấn đề đang bàn luận.Người viết cần nêu bài học nhận thức và đề xuất những giải pháp thiết thực, khảthi.Về hình thức: Đề bài nghị luận xã hội trong đề thi yêu cầu viết đoạn văn200 chữ. Học sinh cần trình bày các nội dung trên trong một đoạn văn, dunglượng khoảng 2/3 tờ giấy thi. Đoạn văn cần diễn đạt lưu loát, không mắc lỗidùng từ, đặt câu.Đoạn văn phải đảm bảo bố cục ba phần: Đặt vấn đề - Giải quyết vấn đề - Kếtthúc vấn đề. Các cách trình bày khác sẽ khó đạt điểm cao.Đoạn văn sử dụng các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh,bình luận, bàn luận mở rộng.2.3.2.2. Tìm ý cho đoạn vănXác định nội dung cụ thể được triển khai trong đoạn văn tránh viết lanman, dài dòng, không đúng trọng tâm. Nếu bỏ qua bước này, đoạn văn dễ rơivào tình trạng lủng củng, luẩn quẩn, thiếu ý. Ta có thể hình dung khái quát đoạnvăn nghị luận xã hội cần được triển khai như sau:Thứ nhất là giải thích: giải thích, cắt nghĩa một số từ ngữ trọng tâm, cáckhái niệm từ đó rút ra ý nghĩa khái quát chung.Thứ hai là phân tích, chứng minh: cắt nghĩa,lí giải làm rõ vấn đề và đưa ranhững dẫn chứng cụ thể để minh họa.Thứ ba là bình luận, đánh giá, mở rộng vấn đề: người viết cần khẳng địnhlại vấn đề, phê phán những hiện tượng di ngược chân lí.Thứ tư là rút ra bài học và liên hệ bản thân2.3.2.3. Các bước viết các ý thành đoạn vănTrên cơ sở các ý vừa tìm, viết thành đoạn văn hoàn chỉnh. Chúng tôi chủ yếutập trung hướng dẫn học sinh viết đoạn văn tổng phân hợp. Để viết đoạn vănhoàn chỉnh, cần trải qua các bước sau:Thứ nhất là viết câu mở đoạn: có nhiệm vụ dẫn dắt và nêu vấn đề [khoảng 23 dòng]. Phần này phải có cái nhìn tổng quát, nội dung đề thi yêu cầu bàn về vấnđề gì.Thứ hai là viết các câu phát triển đoạn: dựa vào các ý chính đã tìm để tiếnhành viết đoạn văn. Chúng ta lần lượt sử dụng các thao tác: giải thích, phân tích,77chứng minh, bình luận, bác bỏ, bình luận mở rộng để triển khai nội dung đoạnvăn bằng các câu văn liên tiếp [khoảng 12-15 dòng].Thứ ba là viết câu kết: có nhiệm vụ kết thúc vấn đề. Câu kết có thể nêu cảmxúc cá nhân, mở rộng vấn đề hoặc tóm lược vấn đề [khoảng 2-3 dòng].Các nội dung trên là những thao tác cần có để viết được một đoạn văn hoànchỉnh cả nội dung lẫn hình thức, đáp ứng yêu cầu của đề. Tuy nhiên không phảihọc sinh nào cũng thực hiện đủ các thao tác trên khi làm bài. Điều này giáo viênphải thường xuyên nhắc nhở để tạo thành thói quen cho học sinh. Đặc biệt cầnhình thành kĩ năng cho học sinh một cách thành thạo thông qua việc thực hànhviết đoạn văn với những đề bài cụ thể, bám sát đề minh họa.2.3.3. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ.2.3.3.1. Kĩ năng nhận diện dạng đềNghị luận xã hội là kiểu bài mà người viết dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứđể bàn luận về một vấn đề chính trị, xã hội, đời sống. Đề tài của dạng bài nàyhết sức phong phú, đa dạng, bao gồm tất cả những vấn đề về tư tưởng, đạo lí, lốisống, văn hóa, những hiện tượng tích cực, tiêu cực, vấn đề có tính thời sự trongđời sống xã hội. Có thể qui về hai dạng đề cơ bản: Nghị luận về một tư tưởngđạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống. Dạng nghị luận về một vấn đềxã hội trong tác phẩm văn học xét cho cùng thì cũng phải qui về một trong haidạng đề trên. Trên thực tế các đề nghị luận xã hội rất phong phú và đa dạng, sựphân chia dạng đề chỉ là tương đối. Việc nhận dạng đề trước khi tìm hiểu đề rấtquan trọng, giúp học sinh định hướng đúng cho bài làm, tránh sai lạc trong quátrình làm bài.2.3.3.1.1. Dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí:Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là kiểu bài bàn về một vấn đề thuộc lĩnhvực tư tưởng đạo đức, lối sống, văn hóa, quan niệm nhân sinh của con người.Vấn đề tư tưởng đạo lí thường được nêu lên trong các ý kiến, nhận định của cácbậc vĩ nhân, hay nhà thơ, nhà văn, hoặc được nêu ra ở tục ngữ, ca dao, câuchuyện ngụ ngôn, ….Ví dụ:Đề 1: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phươnghướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống” [LépTônxtôi] . Anh [chị] hãy viết một đoạn văn [khoảng 200 chữ] nêu suy nghĩ về vaitrò của lí tưởng nói chung và trình bày lí tưởng riêng của mình .Đề 2: Nhà văn Nga L. Tôn-xtôi cho rằng:“Bạn đừng nên chờ đợi những quà tặng bất ngờ của cuộc sống mà hãy tựmình làm nên cuộc sống.”Suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên.Trình bày bằng 01 đoạn văn [khoảng200 chữ].Đề 3: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh,rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.”[ Bài kí đề danh tiến sĩ – 1442, Thân NhânTrung].88Bằng một đoạn văn [khoảng 200 chữ], hãy trình bày suy nghĩ của anh[chị] về nhận định trên.Đề 4: Bằng một đoạn văn [khoảng 200 chữ], hãy trình bày suy nghĩ của anh/chịvề câu tục ngữ: “Một điều nhịn là chín điều lành”.Đề 5: Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mĩ A.Lin –côn viết:“ Xin dạy cho cháu biết đến thế giới kì diệu của sách, nhưng cũng đểcho cháu đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống:đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong nắng, và những bônghoa nở ngát trên đồi xanh…”[Ngữ văn 10, tập 2, NXBGD, 2006]Suy nghĩ của anh [chị] về đoạn thư trên. Trình bày suy nghĩ bằng mộtđoạn văn [khoảng 200 chữ].Học sinh có thể nhận ra dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí khi nhậnthấy đề bài yêu cầu bàn luận về một nhận định, một câu tục ngữ, hay một câudanh ngôn. Nhận định, tư tưởng thường được trích dẫn nguyên văn và được đặttrong dấu ngoặc kép. Cũng có khi vấn đề nghị luận lại đòi hỏi học sinh phải tựrút ra từ nội dung của một câu chuyện hay một đoạn thơ, bài thơ giàu ý nghĩatriết lí. Ví dụ:Đề 6:ÔNG GIÀ VÀ THẦN CHẾTMột hôm, ông già đi đốn củi và gánh về nhà. Đường thì xa, gánh củi thìnặng, ông già kiệt sức, đặt bó củi xuống và nói:- Chà, giá thần chết mang ta đi có phải hơn không!Thần chết đến và bảo:- Ta đây, lão cần gì nào?Ông già sợ hãi bảo:- Lão muốn ngài nhắc hộ bó củi lên cho lão.[Lép Tôn – xtôi, phỏng theo truyện ngụ ngôn của Ê - dôp]Bằng một đoạn văn [khoảng 200 chữ], hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị vềý nghĩa câu chuyện trên.Đề 7:Suy nghĩ của anh [chị] về ý nghĩa của bài thơ sau:Ví không có cảnh đông tànThì không có cảnh huy hoàng ngày xuân99Nghĩ mình trong bước gian truânTai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.[Tự khuyên mình – Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh]2.3.3.1.2. Dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống:Nghị luận về một hiện tượng đời sống là kiểu bài bàn về một sự việc, hiệntượng có ý nghĩa đối với đời sống xã hội; có tính thời sự, nóng hổi diễn ra trongđời sống hàng ngày, được xã hội quan tâm như: an toàn giao thông, gian lậntrong thi cử, bạo lực học đường, an toàn vệ sinh thực phẩm, bệnh vô cảm, bệnhthành tích,....từ đó làm cho người đọc hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu sâu sắc, để có tháiđộ đúng đắn trước những hiện tượng đó. Ví dụ:Đề 8: Hãy viết một đoạn văn [khoảng 200 chữ] bàn về vấn đề: Tuổi trẻ họcđường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông hiệnnay.Đề 9: Em có suy nghĩ gì về vấn đề bạo lực học đường đang diễn ra khá nhiềutrong trường học hiện nay?Trình bày suy nghĩ bằng một đoạn văn [khoảng 200chữ]Đề 10: Hãy viết một đoạn văn [khoảng 200 chữ] bàn về vấn đề: ô nhiễm môitrường .Đề 11: Anh [chị] có suy nghĩ gì về căn bệnh vô cảm trong xã hội ta hiện nay?Trình bày suy nghĩ bằng một đoạn văn [khoảng 200 chữ].Đề 12: Viết 01 đoạn văn [khoảng 200 chữ] bàn luận về vấn đề an toàn vệ sinhthực phẩm.Học sinh nhận ra dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống nhờ vào đốitượng được đề cập đến trong đề bài. Đó là một vấn đề đang xảy ra trong cuộcsống hiện tại. Thông thường trên dạng đề này có các từ ngữ như: hiện tượng,vấn đề, vấn nạn….và nhờ các từ ngữ nói trên, học sinh có thể xác định đượcngay dạng đề. Cũng có khi học sinh phải tự nhận xác định hiện tượng trong mộtcâu chuyện, hay một văn bản thông tin như bài báo. Ví dụ:Đề 13:Ông trồng chè khoe họ được uống chè từ khu trồng sạch nhà quâyriêng dành cho gia đình, khu còn lại tất nhiên là trà bẩn để bán. Bà bán raucũng hân hoan nói nhà mình được ăn rau ở khu trồng sạch, khu nhiều thuốc làđể bán. Ông bán thịt lợn cũng vậy.Nhưng họ không thể cả đời chỉ uống trà, ăn rau hay ăn thịt, họ uống tràsạch nhưng vẫn phải ăn rau bẩn của kẻ khác, ăn rau nhà sạch nhưng vẫn ăn thịtbẩn của kẻ khác… Chúng ta đang giết nhau trong khi cảm thấy an tâm đã bảovệ được gia đình mình ở một góc nhỏ hẹp hòi…[Chia sẻ của Trần Nhất Hoàng –cựu thành viên ban nhạc Bức Tường khi nhắc đến kỷ niệm về cố nhạc sỹ TrầnLập].Anh chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về thực trạng được nói đến trongđoạn trích trên bằng 01 đoạn văn [khoảng 200 chữ]?Đề 14:1010Theo nguồn tin Báo Dân trí, ngày 04-12-2013, tại thành phố Biên Hòa, tỉnhĐồng Nai xảy ra một vụ đổ xe chở hàng khiến cả ngàn thùng bia trên xe đổxuống đường và rất nhiều người xung quanh nhào đến hôi của.Anh/chị hãy viết một đoạn văn [khoảng 200 chữ] bàn về hiện tượng trên.Như vậy, nhận dạng đề là khâu quan trọng đầu tiên giúp học sinh xác địnhđược hướng đi của bài làm, nhằm tránh việc lạc đề, xa đề. Có thể thấy dạng đềđược thể hiện khá rõ qua các dấu hiệu ngôn ngữ có trong đề bài. Đề nghị luận vềmột tư tưởng đạo lí thường yêu cầu bàn luận về một nhận định, một câu tục ngữ,một câu danh ngôn… Nhận định, tư tưởng thường được trích dẫn nguyên văn vàđược đặt trong dấu ngoặc kép. Đề nghị luận về một hiện tượng đời sống thườngđề cập đến đối tượng cụ thể là các hiện tượng, vấn đề, vấn nạn....của đời sống xãhội, học sinh có thể nhận biết dễ dàng nếu tập trung chú ý.2.3.3.2. Tìm hiểu đềSau khi nhận dạng đề, học sinh cần tiến hành tìm hiểu đề bài. Đây là côngđoạn không thể thiếu đối với bất kì dạng bài nào. Đối với đề nghị luận xã hộitrong bài thi trung học phổ thông quốc gia năm 2017, môn Ngữ văn, đề bàikhông yêu cầu viết bài văn như những năm trước mà chỉ yêu cầu viết 01 đoạnvăn khoảng 200 chữ. Khi tìm hiểu đề cần chú ý các yêu cầu chủ yếu sau: thểloại, nội dung, phạm vi dẫn chứng.- Về thể loại: cả hai dạng đề chủ yếu yêu cầu bình luận .- Về dẫn chứng: với đề nghị luận xã hội học sinh cần huy động kiến thức trongsách vở, nhất là trong đời sống thực tế để cho bài viết sinh động và thuyết phụchơn.- Về nội dung: học sinh phải xác định được trọng tâm vấn đề cần bàn để hìnhthành luận điểm cho bài viết. Để làm điều này, các em phải đọc kĩ đề, tìm nhữngtừ khóa, từ then chốt và giải mã các từ đó sẽ tìm được vấn đề trọng tâm. Với đềnghị luận theo cấu trúc mới, học sinh cũng cần dựa vào phần đọc hiểu để có thểgiải mã từ khóa, xác định đúng trọng tâm.Ví dụ:Đề 15:Hãy viết 01 đoạn văn [khoảng 200 chữ] trình bày suy nghĩ của anh/chị về 2câu thơ trong văn bản ở phần Đọc hiểu:" Ta hay chê rằng cuộc đời méo móSao ta không tròn ngay tự trong tâm?”[Nguyễn Quang Vũ – Tự Sự]- Từ khóa là: cuộc đời méo mó, tròn ngay tự trong tâm.- Luận đề [vấn đề trọng tâm] của đề bài này là: bàn về cái nhìn, thái độ, suy nghĩđúng đắn tích cực, lạc quan của con người trước cuộc đời cho dù hoàn cảnh cónhư thế nào.1111Đề 16:Hãy viết 01 đoạn văn [khoảng 200 chữ] trình bày suy nghĩ của anh/chị về 2câu thơ trong văn bản ở phần Đọc hiểu:" Và hãy tin vào điều có thật:Con người - sống để yêu thương.”[Bùi Nguyễn Trường Kiên- Gửi con]- Từ khóa: con người, yêu thương- Luận đề: bàn về một lối sống đẹp xuất phát từ trái tim chân thành của conngười Sống để yêu thương và nhận lại yêu thương.Đề 17:Hạnh phúcLà sự bình yên sau những trận bom rềnLà qua trận sốt rét rừngĐồng đội không người nào nằm lạiLà những lời hẹn hò bên nhau mãi mãiLà lửa cháy na pan không thiêu chảy tiếng cười…Hạnh phúcLà khi những người lính trở vềChống nạng run run ngã vào vòng tay mẹNhận ra mình hãy còn thơ béÒa khóc một lần cho thỏa những ước ao…[Khúc vĩ thanh sau cuộc chiến – Chu Thị Thơm, Báo GD&TĐ số 18, 34/4/2016]Từ cảm nhận về hạnh phúc trong đoạn thơ, anh/chị hãy viết 01 đoạn văn[khoảng 200 chữ ] bày tỏ suy nghĩ về hạnh phúc.- Từ khóa: hạnh phúc.- Luận đề: bàn về trạng thái tâm lí hạnh phúc của con người.Đề 18 [Đề 6]: Ông già và thần chết1212- Từ khóa: Lão muốn ngài nhắc hộ bó củi lên cho lão.- Luận đề: bàn về thái độ trân trọng sự sống: con người dù lâm vào hoàn cảnhbất hạnh đến đâu, dẫu có gần kề cái chết, vẫn mong muốn được sống.Đề 19:“Hòn đá có thể cho lửa, cành cây có thể cho lửa. Nhưng chỉ có con ngườimới biết nuôi lửa và truyền lửa. Lửa xuất hiện khi có tương tác, ít ra là hai vậtthể tạo lửa. Lửa là kết quả của số nhiều. Cô bé bán diêm là số đơn. Cô đã chếtvì thiếu lửa. Để rồi từ đó loài người đã cảnh giác thắp nến suốt mùa Giáng sinhđể cho không còn em bé bán diêm nào phải chết vì thiếu lửa.Nước Việt hình chữ “S”, hiện thân của số nhiều, lẽ nào không biết nuôi lửavà truyền lửa, lẽ nào thiếu lửa? Không có lửa, con rồng chẳng phải là rồng, chỉlà con giun, con rắn. Không có lửa làm gì có “nồng” nàn, “nhiệt” tâm! Làm gìcó “sốt” sắng, “nhiệt” tình, đuốc tuệ! Làm gì còn “nhiệt” huyết, “cháy” bỏng!Sẽ đâu rồi “lửa” yêu thương? Việc mẹ cha, việc nhà, việc nước, làm gì với đôivai lạnh lẽo, ơ hờ? Không có lửa em lấy gì “hun” đúc ý chí, “nấu” sử sôi kinh ?Em... sống đời thực vật vô tri như lưng cây, mắt lá, đầu cành, thân cỏ.... Chonên: Biết ủ lửa để giữ nhân cách – người, nhân cách – Việt. Tuổi trẻ là mùaxuân của xã hội. Thế nhưng: Nếu không có lửa làm sao thành mùa xuân?”[Trích Thắp mình để sang xuân, Nhà văn Đoàn Lê Công Huy,]Hãy viết 01 đoạn văn [khoảng 200 chữ] trình bày suy nghĩ của anh/chị vềý kiến được nêu ở đoạn trích trong phần Đọc – hiểu: “Nếu không có lửa làmsao thành mùa xuân?”- Từ khóa: lửa, mùa xuân.- Luận đề: nhiệt huyết, khát vọng, đam mê; ý chí, nghị lực, niềm tin; tình yêuthương … chính là lửa làm nên mùa xuân của cuộc đời con người.Đề 20:“Mỗi người trước sau phải rước một đam mê.Người không ham thích một cái gì cả là một người bệnh, một người khôngbình thường, hay là một người chuẩn bị đi tu, vì đã diệt dục. Nhưng ai dám bảongười tu hành là người không đam mê? Và đam mê một ý niệm thường mãnhliệt hơn đam mê một cái gì cụ thể.Những bậc cha mẹ thường hay đón đường đam mê của con cáì bằng mớmcho chúng một đam mê đầu đời: tập cho con thích vẽ, thích đàn và thích nhất làhọc. Đam mê học hỏi là niềm đam mê không bao giờ phản bội con người.Ngày nay, bởi có lắm cạm dỗ đầu đời chầu trực ở ngay ngưỡng cửa gia đìnhvà trường học, muốn cho con mình khỏi rơi vào một “đám muội” tối đen, chamẹ nào cũng dốc sức làm lụng kiếm tiền cho con cái tham gia vào một cuộcchơi có ích [chơi tem, sưu tập tranh,... ] hay một môn thể thao [võ thuật, bơi lội,bóng đá,... ] mong sao ràng buộc sinh lực và năng khiếu của đứa trẻ vào cỗ xeđam mê trên đường đời.1313[…]Đam mê là một ngọn lửa mà các thế hệ nối tiếp truyền cho nhau. Khổnỗi, phần phật bốc cao cùng một lúc là ngọn lửa sinh tồn và ngọn lửa hủy diệt.Cả hai quấn quýt lấy nhau bao nhiêu là để sớm loại trừ nhau bấy nhiêu, sốngchết đều bằng một ngọn lửa do ta đốt lên mà thôi.Hãy viết một đoạn văn ngắn [khoảng 200 từ] trình bày ý kiến của anh/ chịvề ý kiến được nêu trong phần đọc hiểu: “Đam mê học hỏi là niềm đam mêkhông bao giờ phản bội con người”.- Từ khóa: đam mê học hỏi, phản bội.- Luận đề: bàn về ý nghĩa của niềm đam mê học hỏi. Đó là không bao giờ phảnbội con người, nó sẽ đem đến cho con người những lợi ích, những điều tốt đẹphơn.Đề 21:“Sáng 16/4, nhằm mùng 10 tháng 3 âm lịch - ngày giỗ Tổ Hùng Vương, Khudi tích lịch sử Đền Hùng đã hứng chịu một đợt “tấn công” khủng khiếp: hàngvạn người tràn lên núi Nghĩa Lĩnh [TP. Việt Trì, Phú Thọ]. Dù không mang theovũ khí, mức độ “sát thương” họ gây ra không hề nhỏ. Trẻ em khóc thét, lạcngười thân; hàng loạt phụ nữ và người lớn tuổi ngất xỉu giữa cảnh chèn ép, xôđẩy, trước sự vất vả “chống đỡ” của lực lượng cảnh sát gìn giữ trật tự. Bấtchấp lời kêu gọi của cơ quan chức năng, nhiều người đã leo rào, xâm nhậprừng cấm để lên núi. Xem những phóng sự ảnh, các video clip từ hiện trường,rất nhiều người bàng hoàng tự hỏi điều gì đang xảy ra nơi đất Tổ Phong Châu?Những món lễ vật bị xô nghiêng, phục trang bị giằng kéo, những tiếng hò hétnhư xung trận khi ba lớp rào chắn được dỡ đi và biển người tràn lên như tháclũ... Đó chắc chắn không thể gọi là một cuộc hành hương. Đó cũng không thểgọi là một lễ giỗ - nơi mà sự tôn nghiêm, chuẩn mực, thanh tịnh... được đặt lênhàng đầu. Có thể gọi đó là cuộc càn quét, tàn phá Đền Hùng của đám “concháu” tự bao giờ chẳng rõ đã trở nên hung hãn và xấc xược, quên lời tổ tiêndạy dỗ đang tranh phần đút lót tiền nhân.”[Trích "Điều gì đang xảy ra nơi đất Tổ" Nhân Sư, phunuonline, 18/04/2016]Anh chị hãy viết một đoạn văn nghị luận [khoảng 200 chữ] trình bày suynghĩ của mình về hiện tượng đang được đề cập đến ở đoạn trích trên.- Từ khóa: cuộc càn quét, tàn phá.- Luận đề: Bàn về văn hóa ứng xử của người Việt trong các lễ hội ở đền, chùa.Đề 22:Trong chương trình "Tạp chí kinh tế xuân Bính Thân - Phẳng hay khôngphẳng", VTV1, 12/2/2016, nhà báo Lê Bình đã nhắc đến vấn nạn thực phẩm bẩnvới một sự trăn trở: “Nhiều người Việt kiếm tiền bằng mọi giá, đánh đổi cả liêmsỉ, danh dự để có tiền. Sự kiếm tiền nào độc ác hơn là kiếm tiền trên sức khỏe vàmạng sống đồng bào mình? Trung bình hai giờ đồng hồ có ba mươi người chếtvì bệnh ung thư – một con số tàn nhẫn đến rợn người. Bao giờ người Việt mớithôi độc ác với nhau? Làm thế nào để con người biết yêu thương nhau hơn?Đơn giản vậy thôi nhưng nó quyết định vận mệnh của cả dân tộc, cả thế giới1414này. Người nông dân chỉ cần thương người tiêu dùng một chút đã không nhẫntâm tưới thuốc độc lên rau củ quả để đào huyệt chôn đồng bào mình và chônsống chính mình."Anh [chị] suy nghĩ gì về nhận định của nhà báo Lê Bình? Trình bày quanđiểm của mình trước vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay bằng một đoạnvăn [khoảng 200 chữ].- Luận đề [được nêu luôn trong yêu câu của đề]: bàn về vấn đề an toàn vệ sinhthực phẩm hiện nay.2.3.3.3. Lập ý:Thực tế làm văn hiện nay, hầu như học sinh thường mắc phải một lỗi cơbản đáng tiếc là không thiết lập hệ thống ý trước khi viết bài. Vấn đề được hiểulơ mơ, bài viết hay thiếu ý, không đáp ứng được yêu cầu của đề. Theo cấu trúcđề thi năm 2017, học sinh ngoài việc dựa vào vấn đề trọng tâm, cần làm kĩ phầnđọc hiểu để có cơ sở lập ý cho bài viết. Bởi vì đề nghị luận xã hội thường lấyngữ liệu từ văn bản phần đọc hiểu hoặc đặt ra vấn đề cần bàn luận từ nội dungvăn bản đọc hiểu.Sách giáo khoa ngữ văn 12 đã đưa ra cách làm bài nghị luận về một tưtưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống. Đó cũng là cơ sở xác địnhyêu cầu nội dung đối với hai dạng bài nghị luận xã hội cơ bản.- Đoạn văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí sẽ có một số nội dung sau:+ Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.+ Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quanđến vấn đề bàn luận.+ Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng đạo lí.+ Diễn đạt cần chuẩn xác, mạch lạc; có thể sử dụng một số phép tu từ và yếutố biểu cảm nhưng phải phù hợp và có chừng mực.- Đoạn nghị luận về một hiện tượng đời sống sẽ có các nội dung:+ Nêu rõ hiện tượng+ Phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại.+ Chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượngxã hội đó.+ Diễn đạt cần chuẩn xác, mạch lạc; có thể sử dụng một số phép tu từ và yếutố biểu cảm, nhất là phần nêu cảm nghĩ riêng.Chúng tôi xin đề xuất cách xác định nội dung từng dạng bài như sau:2.3.3.3.1. Đối với đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí:- Giải thích tư tưởng đạo lí cần bàn luận: Làm rõ vấn đề được dẫn trong đề.+ Nếu vấn đề thể hiện dưới dạng trích dẫn từ văn bản đọc hiểu, người viếtcần lần lượt giải thích, làm rõ nghĩa của các từ, cụm từ khóa, từ then chốt để từđó rút ra toàn bộ ý tưởng được trích dẫn. Khi vấn đề được diễn đạt theo kiểu ẩndụ thì phải giải thích cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ ngữ.+ Nên dựa vào nội dung phần đọc hiểu để giải thích ý nghĩa, tránh suy diễntùy tiện. Bởi có những nhận định khi đứng độc lập có ý nghĩa khác so với nghĩatrong văn cảnh.1515+ Nếu đề bài nêu trực tiếp vấn đề cần bàn trên cơ sở văn bản phần đọc hiểuthì giải thích ngắn gọn vấn đề cần bàn.- Phân tích, chứng minh, bàn luận về tư tưởng đạo lí được đề cập đến trong đềbài.+ Phân tích làm rõ các biểu hiện của vấn đề trong đời sống. Nêu quan điểmcá nhân đối với vấn đề: đúng hay sai, mặt tích cực, tiêu cực; khẳng định cáiđúng, bác bỏ cái sai.+ Đưa ra dẫn chứng tiêu biểu, hợp lí để làm rõ vấn đề.+ Bàn luận mở rộng, nâng cao: đưa ra đối sánh để khẳng định luận đề, kháiquát thành triết lí sống, quan niệm sống.- Rút ra bài học sâu sắc cho bản thân: Áp dụng vào thực tế để rút ra bài học vềnhận thức và về hành động từ chính tư tưởng đạo lí mà đề bài yêu cầu. Bài họccần giản di, chân thành.Tóm lại: khi viết một đoạn văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí cần chú ýgiải thích vấn đề rõ ràng, nêu biểu hiện của vấn đề một cách cụ thể, bàn luậnsâu, rộng và rút ra bài học thấm thía. Tuy nhiên, các ý cần được triển khai ngắngọn, mạch lạc dể vừa đảm bảo yêu cầu về nội dung, vừa đảm bảo yêu cầu về cấutrúc của đề bài.Ví dụ1: Thực hành tìm ý đề 15- Giải thích ý kiến:+ Cuộc đời méo mó: cuộc đời không bằng phẳng, chứa đựng nhiều ngangtrái, trớ trêu, thậm chí xấu xa, tồi tệ. Đó là một tất yếu chúng ta phải chấp nhậnvì bản chất cuộc đời là không đơn giản, không bao giờ hoàn hảo.+ Tâm: là tấm lòng, tình cảm chân thành. “Tròn tự trong tâm”: là cái nhìn,thái độ, suy nghĩ đúng đắn của con người.Luôn tích cực, lạc quan trước cuộc đời cho dù hoàn cảnh có như thế nào.- Bàn luận về vấn đề:+ Thói đời, con người thường hay chê bai, oán thán, cay cú, hậm hực khi cuộcsống không được như mong muốn. Chính cái “chê” ấy nhiều khi khiến cuộc đờitrở nên “méo mó” hơn trước mắt chúng ta.+ Thái độ “tròn tự trong tâm”, sống lạc quan, chủ động trước hoàn cảnh;không gục ngã trước khó khăn, bất công, ngang trái… là thái độ sống tích cực.giúp ích nhiều cho cá nhân và xã hội.- Bài học nhận thức và hành động: Con người hoàn toàn có thể thay đổi cuộcsống chỉ cần mỗi cá nhân chủ động, tích cực từ trong tâm. “Thiên đường” hay“địa ngục” đều do mình quyết định. Biết sống “tròn tự trong tâm” cuộc sốngsẽ đẹp hơn.Ví dụ 2: Thực hành tìm ý đề 16- Giải thích: Yêu thương là sự quan tâm, thấu hiểu, đồng cảm, sẻ chia, quý mến,trân trọng… con người. Sống để yêu thương và nhận lại yêu thương là một lốisống đẹp xuất phát từ trái tim chân thành của con người.1616- Phân tích, bàn luận về vấn đề:+ Sống yêu thương hiện hữu ở khắp nơi, muôn màu muôn vẻ. Đó là sự cảmthông, quan tâm, giúp đỡ những người có cảnh ngộ bất hạnh, khó khăn trongcuộc sống. Đó là tình cảm yêu mến và trân trọng những người có phẩm chất đạođức, tình cảm tốt đẹp,….Liên hệ: Có gì đẹp trên đời hơn thếNgười yêu người, sống để yêu nhau?[Tố Hữu]+ Sống yêu thương mang lại những điều kì diệu cho cuộc đời. Người cho điyêu thương được nhận bình yên và hạnh phúc. Người được nhận yêu thương thìcó thể nhận được rất nhiều. Đó có thể là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, trái timnhạy cảm; có thể là sức mạnh cảm hóa…Lòng yêu thương khiến người ta xíchlại gần nhau. Lòng yêu thương kiến tạo ra thế giới hòa bình, hạnh phúc vữngbền. Cuộc sống không có yêu thương sẽ vô cùng tẻ nhạt, lạnh lẽo.Dẫn chứng: “Bàn tay tặng hoa hồng luôn phảng phất hương thơm”[Ngạnngữ Bungari].+ Cần phê phán những hiện tượng sống thờ ơ, vô cảm, ích kỉ trong xã hội hiệnnay.- Rút ra bài học trong cuộc sống:Chúng ta hãy mở rộng cánh cửa trái tim, tấm lòng yêu thương, mang tình yêuđến với mọi người. Bởi yêu thương chính là hạnh phúc của con người, của nhânloại!Ví dụ3: Thực hành tìm ý đề 6- Giải thích ý kiến:+ Câu chuyện đã đặt con người bên bờ vực thẳm và buộc họ chọn lựa giữacái chết nhẹ nhàng và sự sống vất vả.+ Qua câu trả lời của ông lão với Thần Chết: “ Lão muốn ngài nhắc hộ bócủi lên cho lão”, Lép Tôn-xtôi muốn khẳng định: sự sống là đáng quý; conngười dù lâm vào hoàn cảnh bất hạnh đến đâu, dẫu có gần kề cái chết, vẫn mongmuốn được sống.- Phân tích, chứng minh, bàn luận về vấn đề:+ Câu chuyện đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa nhân sinh lớn lao, đó là tưtưởng bi quan và lòng ham sống tồn tại song song trong con người. Nhưng, nhưmột quy luật sự sống luôn giành chiến thắng, chí ít là sự chiến thắng diễn ratrong tư tưởng con người. Dẫn chứng: Pa- ven Cooc-sa– ghin.+ Cuộc sống luôn có muôn vàn khó khăn thử thách. Do đó, con người cần cóbản lĩnh vượt qua chông gai. Trên hành trình đi tìm hạnh phúc vì chỉ một phútnản cũng có thể đánh mất cả cuộc đời mình.+ Mỗi con người cần phải quý cuộc sống của bản thân.+ Câu chuyện gợi ra một vấn đề có ý nghĩa nhân sinh lớn lao: phải biết vươntới cuộc sống đích thực, có bản lĩnh trước cuộc sống nhiều thử thách.+ Hàm ý phê phán những người yếu hèn, dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh.- Bài học nhận thức và hành động:1717+ Mỗi con người cần phải trân trọng cuộc sống của bản thân mình và phảisống sao cho xứng đáng để khi mất đi không còn gì phải hối hận.+ Rèn luyện ý chí, nghị lực, sống có ý thức trách nhiệm với đời, với bản thânđể dù hoàn cảnh thế nào vẫn không bi quan, gục ngã, đầu hàng hoàn cảnh.2.3.3.3.2. Đối với đề bài nghị luận về một hiện tượng đời sống:- Giới thiệu hiện tượng đời sống cần bàn luận- Nêu rõ thực trạng của hiện tượng, các biểu hiện cụ thể của hiện tượng.- Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng, bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết vềhiện tượng xã hội đó.- Tìm hiểu hậu quả/ kết quả của hiện tượng: Nêu thái độ, đánh giá mặt đúng –sai, lợi – hại.- Nêu giải pháp khắc phục hậu quả và phát huy kết quả- Bài học: liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức và hành động .Ví dụ : thực hành đề 22- Giải thích hiện tượng:+ Nhận định của nhà báo Lê Bình đã làm nổi bật thực trạng an toàn vệ sinhthực phẩm hiện nay [người nông dân tưới thuốc độc lên rau củ quả], hậu quả mànó gây ra [hai giờ đồng hồ có 30 người chết vì ung thư] cũng như nguyên nhâncủa vấn nạn này [người Việt kiếm tiền bằng mọi giá, đánh đổi cả liêm sỉ, danhdự để có tiền].+ Những chia sẻ đầy trăn trở ấy đã thôi thúc con người đào sâu vào vấn đề vệsinh an toàn thực phẩm đáng báo động trong bối cảnh hiện tại.- Thực trạng của hiện tượng:Liên tiếp gần đây, nhiều vụ việc liên quan đến vấn đề thực phẩm bẩn đangkhiến nhiều người cảm thấy rất hoang mang. Dẫn chứng: Thịt heo nạc bấtthường trong chăn nuôi, măng tươi được tẩm, nhuộm chất cấm sử dụng trongchế biến, bảo quản thực phẩm.- Nguyên nhân của hiện tượng:+ Doanh nghiệp, nhà sản xuất: do lợi nhuận, có khi là thiếu hiểu biết.+ Người tiêu dùng: thiếu hiểu biết, ham rẻ.+ Cơ quan có thẩm quyền: chưa có biện pháp xử lí thích đáng, chưa có sựphối hợp đồng bộ.- Tìm hiểu hậu quả của hiện tượng:Sức khỏe bị ảnh hưởng, tính mạng bị đe dọa ,tâm lí hoang mang, sự bất ổn cóthể nảy sinh trong xã hội khi không còn niềm tin, tình thương giữa con ngườivới con người.- Giải pháp và cách khắc phục:+ Nâng cao hiểu biết cho người sản xuất lẫn người tiêu thụ về tác hại củaviệc sử dụng, tiêu thụ thực phẩm bẩn.+ Đưa ra hình thức xử phạt đủ sức răn đe để loại bỏ việc sản xuất không đảmbảo vệ sinh an toàn thực phẩm.1818+ Đẩy mạnh việc sản xuất thực phẩm hữu cơ, biến đổi gen có lợi, an toàn chosức khỏe.2.3.3.4.Lựa chọn dẫn chứngMột đoạn văn nghị luận xã hội thuyết phục đòi hỏi người viết phải có dẫnchứng cụ thể, tiêu biểu về những người thật, việc thật. Đây là một công việc vôcùng khó khăn đối với học sinh, bởi vì vốn hiểu biết về thực tế xã hội của cácem còn rất hạn chế. Để có thể có những hiểu biết nhất định học sinh cần tích lũytừ nhiều kênh thông tin khác nhau như: sách vở, báo chí, truyền hình, internet,đời sống thực tế.… Ví dụ:, thông tin về tình hình biến đổi khí hậu, về nạn gianlận thi cử trong các kì thi tốt nghiệp THPT và Đại học, Cao đẳng, …Điều đặc biệt chú ý là học sinh phải nhớ được tên cụ thể của con người hayhiện tượng đưa ra làm dẫn chứng, tránh việc đưa dẫn chứng chung chung như:có những người, có bạn học sinh, ở một trường học nọ.…2.3.3.5. Kĩ năng diễn đạtTrong quá trình viết đoạn văn nghị luận xã hội, học sinh cần rèn luyện kĩnăng diễn đạt thông qua việc vận dụng kết hợp các thao tác lập luận [thao tác lậpluận so sánh, giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bác bỏ] và cácphương thức biểu đạt [thuyết minh, biểu cảm, nghị luận] đã học.Trong các tiết trả bài, giáo viên cần quan tâm nhiều đến việc rèn luyện cácthao tác lập luận cho học sinh bằng dẫn chứng cụ thể trong bài viết của các em.2.3.3.6. Cấu trúc đoạn vănTừ yêu cầu chung và một số ví dụ nêu trên, chúng tôi đề xuất cấu trúc chođoạn văn nghị luận xã hội như sau:2.3.3.6.1. Đối với đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí:- Mở đoạn: Dẫn dắt và trích dẫn nhận định- Thân đoạn:+ Giải thích, làm rõ nội dung vấn đề được dẫn trong đề.+ Phân tích các biểu hiện của vấn đề trong thực tế đời sống.+ Nêu quan điểm cá nhân vấn đề tư tưởng, đạo lí trong bối cảnh của cuộcsống hiện tại.+ Ý nghĩa, tác dụng của vấn đề: Mặt tích cực, tiêu cực, đúng hay chưa đúngcủa tư tưởng đạo lí; khẳng định mặt đúng, tích cực, bác bỏ những biểu hiện sailệch.+ Bàn luận mở rộng, nâng cao vấn đề: Đưa ra đối sánh nhằm khẳng định luậnđề, khái quát thành quan niệm sống, triết lí sống.+ Bài học sâu sắc cho bản thân về nhận thức, về hành động- Kết đoạn: Đưa ra thông điệp hay lời khuyên cho mọi người.Lưu ý: dẫn chứng chủ yếu từ thực tế đời sống.2.3.3.6.2. Đối với đề bài nghị luận về một hiện tượng đời sống:- Mở đoạn: Giới thiệu sự việc hiện tượng đời sống cần bàn luận.- Thân đoạn:+ Nêu thực trạng của hiện tượng, phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại.+ Tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng.1919+ Bày tỏ thái độ, nhận định về mặt đúng – sai, lợi – hại….+ Đề xuất các giải pháp cụ thể đối với hiện tượng.+ Liên hệ, rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân.- Kết đoạn: Đưa ra thông điệp hay lời khuyên cho mọi người.2.4 Thực nghiệm và đề xuất giải pháp2.4.1. Tiến hành thực nghiệmCác nội dung được trình bày ở phần II của đề tài này đã được ứng dụng ởtrường THPT Hà Trung năm học 2016 – 2017- Đối tượng thực nghiệm : Học sinh lớp 12 của trường.- Thời gian tiến hành:+ Năm học 2016 – 2017: Thực hiện trong các tiết dạy lí thuyết về nghị luậnxã hội, các tiết trả bài số 1 và số 3 ở chương trình ngữ văn 12 cơ bản; các tiết trảbài số 1, số 3 và số 6 trong chương trình ngữ văn 12 nâng cao. Nội dung thựcnghiệm còn được tiến hành trong 2 tuần ôn tập thi tốt nghiệp trung học phổthông.- Phương pháp thực nghiệm là: giáo viên trình bày kĩ phương pháp, cách thứctiến hành chuẩn bị cho một bài viết đoạn văn nghị luận xã hội. Sau đó, giáo viênra đề, học sinh tự tìm hiểu đề, tìm dẫn chứng, lập dàn bài, tiến hành viết đoạn.Giáo viên chấm, sửa chữa tỉ mỉ và cung cấp thông tin liên quan đến đề bài.2.4.2. Kết quả thực nghiệmChúng tôi đã tiến hành thống kê điểm bài kiểm tra của loại đề nghị luậnxã hội của học sinh các lớp 12 trong quá trình trực tiếp giảng dạy. Các bài viếtsố 1, số 3 được đánh giá thang điểm 10/10. Các bài thi thử được đánh giá thangđiểm 3/10. Như vậy, chúng tôi đã thống kê điểm 5 trở lên của bài viết số 1, 3 vàcon số điểm 1,5 trở lên của bài kiểm tra học kì.Năm học2016-2017Tên bài viếtBài số IBài số IIIBài kiểm tra HKIBài kiểm tra HKIILớp học12Đ35%40%50%60%Ghi chú12H45%55%65%70%Chương trình CBChương trình CBChương trình CBChương trình CBNhìn vào bảng so sánh trên, chúng tôi nhận thấy chất lượng bài làm nghịluận xã hội của học sinh lớp 12 có được cải thiện rõ rệt tính từ thời điểm trả bàiviết số 1. Như vây, khi được hướng dẫn chi tiết về lí thuyết và rèn luyện kĩ năngthông qua các đề thực hành cụ thể, học sinh đã có kết quả làm bài tốt hơn hẳn.2.4.3. Một số giải phápTrong quá trình tiến hành thực nghiệm tôi đã đúc rút được một số giải phápcơ bản sau:Một là trên cơ sở kiến thức về văn nghị luận xã hội các em đã có ở trung họccơ sở, giáo viên cần tăng cường rèn luyện phương pháp, kĩ năng làm bài nghịluận xã hội cho học sinh trung học phổ thông từ lớp 10.2020Hai là tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học văn. Một trong những yếu tốgợi hứng thú cho các em là đổi mới công tác ra đề của giáo viên. Đề bài nghịluận xã hội rất phù hợp với kiểu ra đề mở.Ba là giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành nhiều với các kiểu đề phongphú, đa dạng và nhiệt tình trong việc chấm, chữa bài, sửa lỗi cho các em.3. Kết luận và kiến nghị3.1. Kết luậnPhần văn nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn THPT góp phần quantrọng giáo dục con người toàn diện. Tuy nhiên, điều này đã thách thức khôngnhỏ đối với người trực tiếp giảng dạy và người học. Trong khuôn khổ nhỏ hẹpcủa đề tài, tôi mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học phần văn nghịluận xã hội trong nhà trường phổ thông nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dụctrong thời kì mới.3.2. Kiến nghịĐề nghị các nhà quản lí giáo dục, những người làm chương trình nên có sựđiều chỉnh phù hợp, tăng thời lượng cho việc giảng dạy phần nghị luận xã hộitrong chương trình Ngữ văn THPT để chúng tôi có điều kiện giúp học sinh rènluyện kĩ năng làm bài, giúp các em phát triển năng lực, hoàn thiện nhân cách .Trên đây là một vài ý kiến kết luận và đề xuất. Chúng tôi rất mong sự đónggóp quý báu của các đồng nghiệp để đề tài của chúng tôi hoàn thiện tốt hơn.Xin chân thành cảm ơn !TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn trong văn nghị luận, Lê Thường, NXBGiáo dục, năm 2007.2. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập 2, Phan Trọng Luận [chủ biên], NXBgiáo dục, Hà Nội, 2007.3. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 tập 1, Phan Trọng Luận [chủ biên], NXBgiáo dục, Hà Nội, 2007.4. Sách giáo khoa Ngữ Văn 12 tập 1, Phan Trọng Luận [chủ biên], NXBgiáo dục, Hà Nội, 2007.XÁC NHẬN CỦATHỦ TRƯỞNGĐƠN VỊ21Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinhnghiệm của mình viết, không sao chép nộidung của người khác.21Đường Thị Hồng Nhung2222

Video liên quan

Chủ Đề