Nhân vật trong truyện đồng thoại là

Nhân vật của đồng thoại và cuộc sống trong đồng thoại mở ra đa dạng hơn. Nhân vật của đồng thoại không chỉ  người mà còn đủ các loài vật, loài có xương sống, hoặc không có xương sống, biết nhảy, biết bay, biết đi, biết lội... Nhân vật đồng thoại còn  các loài cỏ cây hoa quả mọc ở bất cứ khí hậu nào.

Trang Chủ Diễn Đàn > E - CÁC CÂU LẠC BỘ > CLB Học Tập > Học Online >

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠNTẠ NGUYỄN DIỆU HUYỀNNHÂN VẬT LOÀI VẬT PHIÊU LƯUTRONG TRUYỆN ĐỒNG THOẠIVIỆT NAM HIỆN ĐẠIChuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAMMã số: 60.22.01.21Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN QUỐC KHÁNH LỜI CAM ĐOANTơi xin cam đoan cơng trình này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.Các nội dung, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bốtrong bất cứ một cơng trình nghiên cứu nào. MỤC LỤCTRANG PHỤ BÌALỜI CAM ĐOANMỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................... 11. Lý do chọn đề tài .............................................................................. 12. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................ 23. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................... 94. Phương pháp nghiên cứu .................................................................. 95. Đóng góp của luận văn ..................................................................... 106. Cấu trúc của luận văn ....................................................................... 10Chương 1: TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ KIỂUNHÂN VẬT LOÀI VẬT PHIÊU LƯU ................................................ 111.1. Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại ....................................... 111.1.1. Khái niệm truyện đồng thoại ...................................................... 111.1.2. Thành tựu của truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại .................. 161.2. Sự xuất hiện của kiểu nhân vật loài vật phiêu lưu .................... 201.2.1. Nhân vật loài vật phiêu lưu trong văn học thế giới ..................... 221.2.2. Nhân vật loài vật phiêu lưu trong văn học Việt Nam ................. 251.2.3. Cảm hứng viết truyện đồng thoại phiêu lưu của các nhà vănViệt Nam. ........................................................................................... 28Chương 2: HỆ THỐNG NHÂN VẬT LOÀI VẬT PHIÊU LƯU TRONGTRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ............................. 332.1. Nhân vật loài vật phiêu lưu và tâm thế phiêu lưu ..................... 332.1.1. Nhân vật bị ép buộc phiêu lưu ................................................... 342.1.2. Nhân vật chủ động phiêu lưu ..................................................... 372.2. Nhân vật lồi vật phiêu lưu mang tính cách trẻ thơ ................. 42 2.2.1. Sự tinh nghịch, hồn nhiên .......................................................... 432.2.2. Chút ích kỷ bắt đầu nhen nhóm ................................................. 452.2.3. Ao ước khẳng định bản thân ...................................................... 462.3. Nhân vật loài vật trong quan hệ xã hội trên bước đườngphiêu lưu ............................................................................................ 492.3.1. Nhân vật đồng hành ................................................................... 492.3.2. Nhân vật trợ giúp ....................................................................... 562.3.3. Nhân vật cản trở ........................................................................ 59Chương 3: PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬTPHIÊU LƯU TRONG TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIỆT NAMHIỆN ĐẠI .............................................................................................. 633.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và nội tâm nhân vật .................. 633.1.1. Miêu tả ngoại hình ..................................................................... 633.1.2. Miêu tả đời sống nội tâm ........................................................... 683.2. Ngôn ngữ nhân vật ..................................................................... 723.2.1. Đối thoại trực tiếp ...................................................................... 733.2.2. Độc thoại nội tâm ....................................................................... 763.3 Tình huống nghệ thuật ................................................................ 803.3.1. Xây dựng tình huống nguy cấp .................................................. 803.3.2. Hành động quyết liệt hóa giải hiểm nguy ................................... 843.4. Khơng gian, thời gian nghệ thuật ............................................... 873.4.1. Từ không gian nhỏ hẹp, tù túng đến không gian rộng lớn,đầy hiểm nguy ..................................................................................... 873.4.2. Từ thời gian giãn nở đến thời gian nén chặt trên mỗi chuyến đi . 92KẾT LUẬN ............................................................................................ 97DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ....... 100DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 101QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ [Bản sao] 1MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiTruyện đồng thoại là một thể loại có q trình phát triển lâu dài, đạtđược nhiều thành tựu và là một bộ phận có vị trí quan trọng trong văn họcViệt Nam hiện đại. Đồng thời, nó có vai trị đặc biệt trong việc hình thànhnhân cách và làm giàu có tâm hồn mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, là hànhtrang cho các em trên suốt cuộc đời.Ở Việt Nam, truyện đồng thoại hiện đại được đánh dấu mốc bằng tácphẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tơ Hồi. Đây là một trong nhữngtác phẩm đồng thoại hiện đại đầu tiên của Việt Nam và cũng chính là tácphẩm đỉnh cao của thể loại đồng thoại nói riêng và văn học thiếu nhi ViệtNam nói chung.Truyện phiêu lưu kể về những cuộc phiêu lưu, những cuộc tìm kiếm,khám phá li kỳ, mạo hiểm. Đến với truyện phiêu lưu, người đọc sẽ được bướcchân vào thế giới của những chuyến đi bất ngờ, thú vị, gây cấn và nguy hiểm;những hoạt động sôi nổi, táo bạo nhưng vô cùng dũng cảm, bình tĩnh và mưutrí trước những khó khăn trở ngại tưởng như không vượt qua nổi của nhữngnhân vật phiêu lưu. Người đọc hồi hộp, lo âu theo từng bước chân, nhữnghiểm nguy của nhân vật để rồi phấn khích, vỡ òa trước những chiến thắng củanhân vật. Đây cũng là sức hấp dẫn riêng có của truyện phiêu lưu mà khó cóthể loại nào theo kịp.Kiểu truyện phiêu lưu được sử dụng tương đối phổ biến trong truyệnđồng thoại hiện đại. Với đặc thù vốn có của mình, kiểu truyện đồng thoạiphiêu lưu dễ dàng thu hút các bạn đọc nhỏ tuổi. Hành trình khám phá củanhững nhân vật trong truyện cũng chính là hành trình tiếp cận bao điều mới lạcủa bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc thiếu nhi. Các nhân vật trưởng thành hơn quanhững chuyến đi đã để lại cho các em nhỏ bài học sâu sắc. 2Tiếp nối thành cơng của Tơ Hồi, nhiều nhà văn Việt Nam đã tham giavào mảng truyện đồng thoại hiện đại và dùng kiểu truyện phiêu lưu để chuyểntải đứa con tinh thần của mình, tạo nên dạng nhân vật loài vật phiêu lưu trongtruyện đồng thoại Việt Nam hiện đại. Ta có thể kể đến những cái tên như: VũTú Nam, Trần Đức Tiến, Nguyễn Kiên, Trần Hoài Dương… Chính họ đã tạonên nền móng vững chắc cho truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại để bây giờcác nhà văn trẻ như: Trương Quỳnh Như, Phương Huyền, Nguyễn Trần ThiênLộc… tiếp bước. Nhân vật loài vật phiêu lưu trong thể loại truyện đồng thoạiViệt Nam hiện đại cần được nghiên cứu, đánh giá một cách hệ thống vừa đểtổng kết, vừa để đúc kết một số bài học kinh nghiệm cho chặng đường pháttriển sắp tới của văn học thiếu nhi Việt Nam.Tuy nhiên, cho đến nay [ở Việt Nam] vẫn chưa có một cơng trình nàotập trung nghiên cứu về các nhân vật phiêu lưu trong truyện đồng thoại hiệnđại. Chọn đề tài Nhân vật loài vật phiêu lưu trong truyện đồng thoại ViệtNam hiện đại, chúng tôi muốn khảo sát một cách hệ thống kiểu nhân vậtphiêu lưu trong thể loại này nhằm cung cấp những tri thức lí thuyết về nhânvật, giúp người đọc nhận biết, hiểu truyện đồng thoại đặc biệt là kiểu truyệnphiêu lưu một cách chi tiết, cụ thể để thấy được những đóng góp của các nhàvăn viết truyện đồng thoại hiện đại trên phương diện xây dựng nhân vật. Từđó, đề tài khẳng định được vai trị, vị trí của kiểu nhân vật loài vật phiêu lưutrong thể loại truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại nói riêng và trong văn họcthiếu nhi Việt Nam nói chung. Nghiên cứu này bên cạnh giúp ích cho việcgiảng dạy trong nhà trường, chúng tơi mong muốn góp thêm tiếng nói tiếpthêm động lực cho các cây bút sáng tác.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề2.1. Nhóm nghiên cứu về thể loại đồng thoại hiện đạiHoạt động nghiên cứu phê bình truyện đồng thoại diễn ra muộn hơn 3rất nhiều so với sáng tác. Tiền thân của Dế Mèn phiêu lưu kí là truyện Condế mèn ra đời 1941, ngay khi ra đời nó đã được đơng đảo bạn đọc hưởngứng, đón nhận. Tơ Hồi đã nhanh chóng bắt tay viết thêm bảy chương đểhình thành nên Dế Mèn phiêu lưu kí như ngày nay. Tuy nhiên giới phê bìnhvăn học vẫn chưa chú ý khai thác, nghiên cứu. Khảo sát tư liệu, chúng tơichỉ thấy mấy dịng ghi nhận ngắn ngủi trong Nhà văn hiện đại [Vũ NgọcPhan] [58, tr.422].Mãi đến thập niên 60 của thế kỉ XX, tình hình mới thay đổi khi đồngthoại khởi sắc, trở thành đề tài cho nhiều học giả, cây bút phê bình theo đuổi.Đầu tiên là những bài viết của chính các tác giả đam mê, gắn bó với đồngthoại. Tơ Hồi có một số bài viết như: Trao đổi về đồng thoại [Báo Văn nghệ,1963], Tôi viết đồng thoại: Dế Mèn, Chim Gáy, Bồ Nơng [Tạp chí Văn học, số10/1968]. Các nhà văn Võ Quảng, Nguyễn Kiên, Ngô Quân Miện cũng cónhững bài viết về tình hình phát triển của truyện đồng thoại.Cùng với nhà văn, đội ngũ các cây bút phê bình đã bắt đầu quan tâmđến truyện đồng thoại một cách toàn diện hơn trước. Phần nhiều các tài liệunghiên cứu truyện đồng thoại chủ yếu nghiên cứu đồng thoại trong thành tựuchung của văn học thiếu nhi hay của một tác giả cụ thể. Trong số đó, VânThanh là người đi đầu trong nghiên cứu đồng thoại. Từ những bài khái quátchung về văn học thiếu nhi có gợi nhắc qua đồng thoại như:Văn học thiếu nhiViệt Nam [Tạp chí văn học, 1962], Truyện viết cho thiếu nhi gần đây [Tạp chíVăn học, 1963], Phác thảo 50 năm văn học thiếu nhi [Tạp chí văn học, số9/1995], đến bài viết đi sâu vào nghiên cứu thể loại truyện đồng thoại: Tìmhiểu đặc điểm của đồng thoại [Tạp chí Văn học, số 4/1974]. Ngồi ra có thểkể đến một số bài viết của các nhà văn trực tiếp cầm bút viết cho thiếu nhi bànvề đồng thoại: Lại nói về truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi [Võ Quảng, Tạpchí Văn học, số 1/1982], Về sức tưởng tượng của đồng thoại [Nguyễn Kiên, 4Báo Văn nghệ, số 14/1986], Đồng thoại với việc bồi dưỡng tâm hồn các em[Ngơ Qn Miện, Vì trẻ thơ, 1982]…Tiếp nối những bước đầu nghiên cứu của những cây bút đi trước, LêNhật Ký đã đi sâu vào nghiên cứu đồng thoại, tiếp cận đồng thoại từ góc độthể loại. Từ những bài viết điểm qua những khía cạnh của đồng thoại: Quanniệm của nhà văn Việt Nam về truyện đồng thoại [Tạp chí Diễn đàn văn hóavăn nghệ Việt Nam, số 6/2008], Về cách hiểu truyện đồng thoại ở Việt Nam[Tạp chí Khoa học xã hội [vùng Nam Bộ], số 11/2009], Đặc điểm truyện đồngthoại Võ Quảng [Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3/2009], đến cơng trìnhLuận án: Truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại bảo vệ ở hộiđồng khoa học Trường Khoa học xã hội Nhân văn – Đại học Quốc gia Thànhphố Hồ Chí Minh. Sau này những tinh túy của luận án đã được tác giả biênsoạn, chỉnh lí, xuất bản thành sách với nhan đề: Truyện đồng thoại trong vănhọc Việt Nam hiện đại. Hiện nay, đây là cơng trình đầy đủ và chi tiết nhất vềtruyện đồng thoại Việt Nam hiện đại. Cuốn sách là tài liệu cơ sở về mặt líluận để chúng tơi triển khai đề tài.2.2. Nhóm nghiên cứu về thể loại truyện phiêu lưu nói chung vànghiên cứu đồng thoại hiện đại nói riêng dưới khảo sát kiểu nhân vật2.2.1. Nghiên cứu về thể loại truyện phiêu lưuTruyện phiêu lưu nói chung và kiểu truyện phiêu lưu trong truyện đồngthoại Việt Nam hiện đại nói riêng là mảnh đất màu mỡ của lí luận nghiên cứuphê bình. Tuy nhiên kiểu truyện đồng thoại này cũng như văn học thiếu nhichưa được quan tâm đúng mức. Chúng tôi khảo sát thấy tài liệu viết về mảngnày còn khá hạn chế.Ở phương diện thể loại truyện phiêu lưu – du kí chúng tơi thấy kháiniệm, đặc điểm thể loại trong cơng trình Hệ thống thể loại trong văn học thiếunhi của Châu Minh Hùng – Lê Nhật Ký.Tài liệu nêu rõ định nghĩa: “Thể loại 5truyện kể lại những cuộc phiêu lưu của nhân vật nào đó đến những miền xa,xứ lạ chứng kiến và đối mặt với bao nhiêu cái li kì chưa từng thấy gọi chunglà truyện phiêu lưu – du kí” [23, tr.123]. Ở khái niệm này tác giả đã kết nốihai từ phiêu lưu và du kí tạo thành một liên danh để thể hiện cách gọi ghépgiữa tính chất vận động phiêu lưu và hình thức kí sự viễn du. Trong đó phiêulưu là nhấn mạnh đến tính chất mạo hiểm của nhân vật cịn du kí là một hìnhthức “ghi chép một cuộc vận động, xê dịch của “cái tơi” khi đi tìm lí tưởng tựdo, thậm chí là những ảo tưởng, đi tìm cái chưa từng có hoặc khó có thể cótrong đời sống”.Đặng Anh Đào trong sách giáo khoa 12 [phần văn học nước ngoài,NXB Giáo dục, 1993] khi phân tích tác phẩm Tom Sawyer đã có những nhậnđịnh: “truyện phiêu lưu đồng thời tái hiện một xung đột lớn, các xung đột đềuquy vào đó. Xung đột làm nảy sinh hai phe, và ở đây, phe thiện và phe ác rõrệt”; “tình tiết thường có những pha gay cấn, căng thẳng, sau đó được gọi làtạm hoãn treo lại để cuốn hút bạn đọc theo dõi những chương sau” [54, tr.7].Tuy phân tích trên một tác phẩm cụ thể nhưng Nguyễn Anh Đào đã chỉ ra đặctrưng cơ bản của tiểu thuyết phiêu lưu của Mark Twain nói riêng và truyệnphiêu lưu nói chung về mặt kết cấu ở phương diện: tình tiết, xung đột, hànhđộng và các tuyến nhân vật.Một trong những điểm hấp dẫn nhất của truyện phiêu lưu là chất mạohiểm. Chính yếu tố li kì, ấn tượng này đã biến nó trở thành thể loại đặc biệtđược trẻ em yêu thích, dù tác giả của nó có dụng ý viết cho trẻ em hay khơng.Vấn đề này được Hồng Anh Đường đề cập trong bài viết Chất mạo hiểmtrong truyện phiêu lưu, mạo hiểm viết cho thiếu niên đăng trên Tạp chí Vănhọc, số 3/1980 như sau: “Người đọc cảm xúc thật sự và khát khao nhập vớinhân vật mà lần theo cuộc sống đương diễn ra trong câu chuyện, chia sẻ loâu và hứng thú, ln muốn đóng góp phần thử thách, cùng lao vào cuộc sống 6đó với nhân vật, “nếm thử khó khăn gian khổ, “thử sức” và tin chắc sẽ vượtqua khó khăn càng nhiều càng mạo hiểm càng lớn, thắng lợi càng rực rỡ, gâyđược dấu ấn khó phai mờ, dấy lên những ước mơ thật táo bạo” [7, tr.67-68].Nhà văn Văn Hồng cũng có nhìn nhận tương tự về đặc điểm chung củatruyện phiêu lưu là “các nhân vật luôn thay đổi mơi trường sống, thườngxun phải đối phó với những cảnh ngộ bất ngờ, những tình huống hiểmnghèo, địi hỏi phải bình tĩnh, thơng minh, dũng cảm… Đặc điểm đó rất phùhợp với tâm lí lứa tuổi thiếu niên, một lứa tuổi thích cái mới, cái lạ, ham hiểubiết, ham hành động, giàu ước mơ, giàu trí tưởng tượng. Yếu tố phiêu lưuthường gắn với sự kì diệu, kì lạ nên phiêu lưu thường kết hợp với huyền thoại,với viễn tưởng, với đồng thoại, với phản gián…” [20, tr.40], “tiểu thuyết phiêulưu mạo hiểm, một thế mạnh của văn học thiếu nhi. Tiểu thuyết phiêu lưu lncó hồn cảnh thay đổi, nhân vật ln đứng trước những bí ẩn, khó khăn, thửthách…” [20, tr.106].Vấn đề thể loại truyện phiêu lưu còn tiếp tục được nhắc đến qua bàiviết Từ thể loại truyện phiêu lưu nghĩ về “Dế Mèn phiêu lưu kí” của TơHồi của Vũ Thị Thảo [76]. Bài viết đã đề cập đến các đặc điểm cơ bảncủa truyện phiêu lưu như: các câu chuyện phiêu lưu bị chi phối bởi hànhđộng, hành trình của nhân vật trung tâm ln liên quan đến nguy hiểm, rủiro và hứng thú; bối cảnh khơng gian đặt ở nơi kì lạ hay xa xơi; phần lớncác nhân vật chính trong truyện phiêu lưu là nam giới. “Sau cuộc phiêu lưuđầy thử thách, nhân vật chính ln có những thay đổi tích cực, trở thành“anh hùng” mang những phẩm chất tốt đẹp đáng ngợi ca” [76, tr.106]. Tácgiả cũng chỉ ra ba motip truyện phiêu lưu quen thuộc: kiểu truyện phiêu lưumang đậm yếu tố hoang đường, kì diệu; kiểu truyện mang đặc tính“Robinson” [kiểu nhân vật chính học cách tồn tại một mình nơi hoang đảohoặc sa mạc] và kiểu truyện phiêu lưu mang đặc điểm “phiêu lưu sống 7cịn”. Những tiền đề lí luận trên được tác giả soi chiếu vào tác phẩm DếMèn phiêu lưu kí để tìm hiểu sâu về tác phẩm: tác phẩm là sự kết hợp củaba thể loại [truyện kí, truyện phiêu lưu và truyện đồng thoại], phân nó vàokiểu truyện truyện phiêu lưu motip “phiêu lưu sống cịn” [tr.108-109].Ngồi ra chúng tơi tìm được Luận văn Tìm hiểu cốt truyện phiêu lưutrong tiểu thuyết Những cuộc phiêu lưu của Hukle Bery Finn [Theo quanniệm về cốt truyện của Iu.M.Lotman] của Nguyễn Thị Nhu, bảo vệ ở hội đồngkhoa học Trường đại học Sư phạm Hà Nội 2, năm 2011 [54]. Luận văn nàycho thấy hướng nghiên cứu tập trung vào cốt truyện phiêu lưu là một hướngkhả thi trong nghiên cứu tác phẩm văn học.2.2.2. Nghiên cứu đồng thoại Việt Nam hiện đại dưới góc độ khảo sát kiểunhân vậtVấn đề nghiên cứu tác phẩm thơng qua hình tượng nhân vật, kiểu nhânvật đã có từ lâu. Giáo trình Lí luận văn học – Tập II định nghĩa: “Nhân vậtvăn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tácphẩm văn học – cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng cácphương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [49, tr.73]. Điều này được nói rõhơn trong Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhân vật văn học được miêu tả quacác biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại”, “nhân vật luôn gắnliền với cốt truyện” [51, tr.236]. Chính vì thế nghiên cứu tác phẩm văn học cụthể hay rộng hơn là một thể loại dưới thông tin của kiểu nhân vật là mộthướng làm khoa học.Có khá nhiều luận văn đi sâu nghiên cứu về kiểu nhân vật trong vănhọc: Kiểu nhân vật trung tâm trong tác phẩm Hemingway [Lê Huy Bắc, Luậnvăn, 1998], Nhân vật người nông dân của Nguyễn Minh Châu qua hai chặngđường sáng tác trước và sau 1975 [Lương Thị Tuyết, Luận văn, 2011], Nhânvật nữ trong tiểu thuyết Nhất Linh và Khái Hưng [Nguyễn Thị Diễm Hằng 8Luận văn, 2014], Nhân vật nữ trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy [NguyễnNhư Quỳnh, Luận văn, 2014] … Nghiên cứu chun sâu về nhân vật lồi vậtcó thể kể đến: Nhà văn Tơ Hồi với mảng “truyện lồi vật” [Cao Minh Hằng,Luận văn, 2000] [12], Nhân vật loài vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh [VõThị Tuyết Nhung, Luận văn, 2016] [56].Nghiên cứu về kiểu nhân vật loài vật phiêu lưu trong đồng thoại hầunhư chưa có cơng trình nào đề cập đến, có chăng là trong một số bài viết tảnmác. Phần lớn tài liệu chỉ điểm qua, như trong các cơng trình chun luận vănhọc thiếu nhi người viết chỉ nêu vấn đề nhân vật phiêu lưu gói gọn ở phần tácgiả tiêu biểu viết cho thiếu nhi: Lã Thị Bắc Lý trong Giáo trình Văn học trẻem dành một mục viết về nét đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật đồng thoạicủa Tơ Hồi [36, tr.48-49], phần lớn là chú trọng vào phân tích tính cách nhânvật Dế Mèn trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí [tr.54-57]. Lê Nhật Ký trongcuốn sách Truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại có nói kĩ hơnvề cốt truyện phiêu lưu ở thể loại đồng thoại “phổ biến của cốt truyện đồngthoại Việt Nam hiện đại là cốt truyện tuyến tính – hành động” [31, tr.146-147]chia nó làm hai loại: cốt truyện phiêu lưu và cốt truyện đối thoại. Ông dànhhẳn một chương [chương 5] để viết về “Nhân vật truyện đồng thoại Việt Namhiện đại” làm rõ đặc điểm hệ thống nhân vật và biện pháp xây dựng nhân vậttrong truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại. Tác giả đã dụng công khảo sáttrên diện rộng của thể loại, nhiều chỗ tập trung vào tác phẩm chất lượng [DếMèn phiêu lưu kí, Cá chuối con, Mùa xuân trên cánh đồng, Cuộc phiêu lưucủa hòn sỏi…] để khái quát đưa ra luận điểm. Tuy nhiên vì phạm vi lớn, độbao quát rộng nên tác giả chưa chú trọng vào kiểu nhân vật loài vật phiêu lưu.Những thành quả nghiên cứu trên thật đáng trân trọng và quý giá với việctriển khai luận văn của chúng tôi.Vận dụng kết quả nghiên cứu về mặt thể loại truyện đồng thoại cũng 9như là phương pháp nghiên cứu văn học thông qua nhân vật, chúng tôi sẽ tậptrung nghiên cứu chuyên sâu về kiểu nhân vật loài vật phiêu lưu trong truyệnđồng thoại Việt Nam hiện đại ở mức độ chi tiết và cụ thể.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu3.1. Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của luận văn là nhân vật loài vật phiêu lưu trongtruyện đồng thoại Việt Nam hiện đại. Đây là một kiểu nhân vật quan trọngtrong truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại, được các nhà văn sáng tác trên cơsở kế thừa học hỏi từ văn học viết các nước phương Tây.Mối quan tâm chính của luận văn là các biểu hiện có tính đặc điểm củanhân vật lồi vật phiêu lưu trong truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại, thểhiện ở cả phương diện nội dung lẫn nghệ thuật.3.2. Phạm vi nghiên cứuLuận văn sẽ khảo sát các sáng tác truyện đồng thoại có nhân vật lồi vậtphiêu lưu, gồm truyện của Tơ Hồi, Vũ Tú Nam, Thy Ngọc, Trần Đức Tiến,Vũ Hùng, Chu Hồng Hải, Võ Thành An, Vũ Duy Thông, Bùi Quang Vinh,Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Sĩ Mai, Trần Đồng Minh, Quân Thiên Kim,Nguyễn Trần Thiên Lộc, Lê Hữu Nam, Đào Thu Hà…4. Phương pháp nghiên cứuĐể nghiên cứu những vấn đề mà luận văn đặt ra, có thể tiến hành bằngnhiều phương pháp. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một sốphương pháp cụ thể sau:- Phương pháp nghiên cứu nhân vật văn học: tập trung về các phươngdiện nghệ thuật xây dựng nhân vật loài vật trong tác phẩm nhằm đưa ra cácthông tin phục vụ cho nhu cầu khai thác sáng tác truyện đồng thoại Việt Namhiện đại.- Phương pháp thống kê – phân loại: thống kê số lượng tác phẩm đồng 10thoại và từ đó phân loại tác phẩm theo yêu cầu nghiên cứu của luận văn.- Phương pháp so sánh đối chiếu: so sánh những tương đồng khác biệttrong các tác phẩm cụ thể, từ đó thấy được sự đóng góp của chúng đối vớithành cơng của kiểu truyện phiêu lưu trong truyện đồng thoại Việt Nam hiệnđại nói riêng và văn học thiếu nhi nói chung.- Phương pháp phân tích tổng hợp: khảo sát các tác phẩm đã đượcphân loại, phân tích các dẫn chứng trong cái nhìn tổng quát nhằm làm nổibật luận điểm cần triển khai, từ đó khái quát vấn đề nghiên cứu.5. Đóng góp của luận vănLuận văn nghiên cứu hệ thống về nhân vật loài vật phiêu lưu trongtruyện đồng thoại Việt Nam hiện đại. Trên cơ sở giới thiệu, phân loại hệthống tác phẩm đồng thoại có sự xuất hiện của nhân vật loài vật phiêu lưuluận văn sẽ tập trung làm rõ đặc điểm hệ thống nhân vật loài vật phiêu lưutrong truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại.Luận văn đã định danh được khái niệm, thấy được diễn tiến của thể loạitruyện này nói chung, truyện có sự xuất hiện của kiểu nhân vật này nói riêngtrong tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Luận văn cũng cố gắng xemxét đối tượng trong sự vận động chung của văn học thiếu nhi Việt nam nhằmxác định chỗ tiếp nối và phát triển của các cây bút đồng thoại khai thác cốttruyện phiêu lưu sau thành công rực rỡ của Tơ Hồi ở tác phẩm Dế Mèn phiêulưu kí.6. Cấu trúc của luận vănNgoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luậnvăn gồm có ba chương:Chương 1: Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại và kiểu nhân vật phiêu lưuChương 2: Hệ thống nhân vật loài vật phiêu lưu trong truyện đồng thoại Việt Namhiện đạiChương 3: Phương thức nghệ thuật xây dựng nhân vật phiêu lưu trong truyện đồngthoại Việt Nam hiện đại 11Chương 1TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIỆT NAM HIỆN ĐẠIVÀ KIỂU NHÂN VẬT PHIÊU LƯU1.1.Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại1.1.1. Khái niệm truyện đồng thoạiThuật ngữ truyện đồng thoại [hay đồng thoại] trong văn học Việt Namhiện đại vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trong cơng trình Truyện đồngthoại Việt Nam hiện đại, Lê Nhật Ký đã giới thuyết rất rõ nguồn gốc của kháiniệm truyện đồng thoại. Vào thời điểm đầu thập niên 60 của thế kỉ XX, vớinhu cầu xây dựng một nền văn học thiếu nhi vững mạnh đáp ứng nhu cầu bạnđọc trong nước cũng như dồi dưỡng tâm hồn cho các em, nhà xuất bản Vănhọc đã cho dịch các tài liệu lí luận về sáng tác truyện cho thiếu nhi. Một trongsố đó là bài viết Sáng tác đồng thoại và một số vấn đề khác của Kim Cận vàMạn đàm về vấn đề sáng tác văn học nhi đồng của Hạ Nghi có đề cập tớiquan niệm đồng thoại. Thuật ngữ đồng thoại chính thức được sử dụng ở ViệtNam vào năm 1961, trong bài viết Những thiếu sót cần khắc phục trong sángtác cho thiếu nhi hiện nay của Vũ Ngọc Bình, đăng trên báo Văn Nghệ. Tiếpđó đến Võ Quảng với bài viết Đảng và văn học thiếu nhi, Vân Thanh với Vănhọc thiếu nhi Việt Nam… [31, tr.25].Theo thời gian, thuật ngữ truyện đồng thoại được sử dụng ngày mộtrộng rãi hơn. Có lúc truyện đồng thoại chỉ được điểm qua trong các bài báochuyên luận bàn về văn học thiếu nhi nhưng có khi nó được bàn luận cụ thểtrong một chủ đề riêng biệt. Việc xác định truyện đồng thoại chính thức trởthành một thể loại văn học riêng biệt buộc các nhà nghiên cứu phải đưa ramột khái niệm cụ thể cho đồng thoại.Mục từ đồng thoại hoặc truyện đồng thoại được nhắc đến trong khánhiều cuốn từ điển ngôn ngữ [Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Hán – Việt 12từ điển của Thiều Chửu, Từ điển Tiếng Việt của Bùi Quang Tinh và Bùi ThịTuyết Khanh]. Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện ngơn ngữ học doHồng Phê chủ biên bản mới nhất có nêu định nghĩa đồng thoại là “thể truyệncho trẻ em trong đó lồi vật và các vật vơ tri được nhân cách hóa tạo nên mộtthế giới thần kì, thích hợp với trí tưởng tượng của các em” [52, tr.449]. Theođịnh nghĩa này mục từ đồng thoại được giảng theo nghĩa hẹp, thay vì gọiđồng thoại là truyện cho trẻ em chung chung, khái niệm đồng thoại được khubiệt nhìn nhận như một thể loại văn học. Từ điển ngơn ngữ đã có sự nhìn nhậnquan tâm đồng thoại tuy nhiên trên “khu vực sân nhà” – Từ điển văn học,mục từ đồng thoại chưa nhận được sự quan tâm tương tự. Qua khảo sát,chúng tôi nhận thấy các hầu hết các Từ điển văn học chưa đưa mục từ đồngthoại vào trong từ điển. Thuật ngữ đồng thoại chỉ mới xuất hiện trên các bàibáo nghiên cứu chuyên ngành, các cuốn sách chuyên khảo.Vân Thanh là người đưa ra định nghĩa đầu tiên về đồng thoại vào năm1974 trong bài viết Tìm hiểu đặc điểm của truyện đồng thoại. Vân Thanh đưara qua điểm: “Đồng thoại là một thể loại đặc biệt của văn học, có sự kết hợpgiữa hiện thực và mơ tưởng. Nhân vật chính thường là động vật, thực vật vànhững vật vơ tri nhưng lại mang tính cách “người”. [Cũng có khi nhân vật làngười]. Qua thế giới khơng thực mà lại thực đó, tác giả nhằm biểu hiện xã hộilồi người; qua những sự việc bất bình thường đó tác giả cho người đọc thấytình cảm và cuộc sống của con người. Tính chất mơ tưởng và khoa trươngchính là những yếu tố khơng thể thiếu được của đồng thoại” [68, tr.104]. Tuyđịnh nghĩa đồng thoại đưa ra khá chi tiết nhưng bản thân tác giả vẫn có chỗngập ngừng chưa dứt khoát. Trong bối cảnh vấn đề lý luận về thể loại truyệnđồng thoại chưa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm thì vấn đề Vân Thanhđưa ra rất đáng quý và trân trọng.Bên cạnh việc đưa ra khái niệm đồng thoại, Vân Thanh cũng đưa ra vấn 13đề cần phải phân biệt đồng thoại với một số loại văn học khác, như huyềnthoại hoặc văn học dân gian. Điểm khác nhau rõ nhất giữa đồng thoại vàhuyền thoại là ở “đối tượng viết”. Đối tượng chủ yếu của đồng thoại là các emcịn huyền thoại thì đối tượng viết chính là cho người lớn, nội dung thườngmang nghĩa triết học thâm thúy và phương pháp biểu hiện thường có khi rắcrối, phức tạp. Quan hệ giữa văn học dân gian và đồng thoại cũng là vấn đềVân Thanh bàn bạc. Văn học dân gian “chính là một trong những nguồn gốccủa đồng thoại, là nguồn cung cấp tài liệu không bao giờ cạn cho sáng tácđồng thoại” mặc khác “đồng thoại cũng có nhiều nét gần với cổ tích thần kìvà ngụ ngơn trong văn học dân gian” [68, tr.105]Khơng chỉ các nhà nghiên cứu tìm hiểu, lí giải đồng thoại mà bản thâncác nhà văn, những người trực tiếp sáng tác nên tác phẩm đồng thoại, cũngthể hiện quan điểm ý kiến của riêng mình, đóng góp cho mặt bằng chung củalí luận thể loại đồng thoại. Trong số đó phải kể đến Võ Quảng với bài viết Lạinói về truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi [đăng trên Tạp chí Văn học số1/1982], ơng đã đưa ra những ý kiến của riêng mình đối với mặt thể loại đồngthoại, nơi ơng gắn bó đóng góp khá nhiều sáng tác của mình [23 tác phẩm].Nhà văn đưa ra quan niệm truyện đồng thoại là một thể loại tự sự hiện đạidành cho thiếu nhi, một loại hình văn chương rất phù hợp với thiếu nhi, vì nó“làm cho các em dễ hiểu dễ xúc động”. Trong bài viết ơng có đề cập đến yếutố tưởng tượng của đồng thoại và gọi nó là “loại truyện giàu chất tưởngtượng”, chất tưởng tượng ấy được bắt nguồn từ “thực tế” hoặc “từ một thóiquen về một tập tục, về tín ngưỡng nào đó”. Hệ thống nhân vật của đồng thoạihết sức đa dạng: bên cạnh nhân vật con người thì “cịn đủ các lồi vật, lồi cóxương sống, hoặc khơng có xương sống, biết nhảy, biết bay, biết đi, biết lội…Nhân vật đồng thoại cịn là các lồi cây cỏ hoa quả mọc ở bất cứ khí hậu nào.Cả cây kim sợi chỉ cho đến đoàn tàu, chiếc cầu sắt đều có thể biến thành 14nhân vật đồng thoại” [62, tr.74]. Võ Quảng cũng hết sức nhấn mạnh đặc điểmnhân cách hóa ở những nhân vật loài vật, cỏ cây, đồ dùng trong truyện đồngthoại. Nhưng ông không chăm chăm vào yếu tố nhân cách hóa ấy để đưa ralàm đặc điểm khu biệt của đồng thoại mà ơng nhấn mạnh sự hịa điệu giữachất người và chất vật. Võ Quảng đã rất tỉnh táo khi nhận định có chất ngườichưa đủ để làm nên đồng thoại hay vì nếu chỉ có thế thì “cứ để “nhân vật” đólà một con người, chẳng cần phải nhân cách hóa làm gì nữa”. Nhà văn đãtinh tế nhận ra rằng điểm hấp dẫn của đồng thoại là ở chất người và vật hòaquyện vào nhau “tùy nơi, tùy lúc, đậm nhạt khác nhau”, yếu tố này mới làđiều quan trọng tạo nên “chất nghệ thuật cho đồng thoại” [62, tr.76]Nhà văn Văn Hồng, nguyên Tổng biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng,một người đã gắn bó cả cuộc đời mình trong việc theo dõi phong trào sáng tácvà viết phê bình – giới thiệu sách cho thiếu nhi, cũng đã nêu nhận định củamình về truyện đồng thoại như sau: “Đồng thoại theo Đào Duy Anh là truyệnchép cho trẻ em [Từ điển Hán Việt]. Nhưng trong nghĩa thơng thường lâu nayvẫn dùng, đồng thoại có nghĩa hẹp hơn: Truyện lồi vật được nhân cách hóa”[21, tr.53]. Với kinh nghiệm của một người làm công tác xuất bản, ơng cũngkhẳng định đồng thoại là “loại hình hợp với thị hiếu và tâm lí trẻ em, cái tâmlí thích nhìn sự vật trong những phép màu” [21, tr.54]Tiếp nối những quan điểm, nhận định của thế hệ đi trước, các nhànghiên cứu văn học thiếu nhi sau này đã vận dụng và đưa ra những khái niệmđồng thoại đầy đủ hơn. Trong giáo trình Văn học thiếu nhi, tác giả Châu MinhHùng định nghĩa: “Thể loại văn học được các nhà văn viết cho các em với bútpháp kế thừa từ đồng thoại dân gian gọi là đồng thoại hiện đại. Vẫn là truyệnlấy loài vật [con vật, cỏ cây, hoa quả…] làm đối tượng miêu tả, nhưng với tưcách là văn học viết, đồng thoại hiện đại phải mới so với đồng thoại dângian” [22, tr.107] Như vậy đối với Châu Minh Hùng đồng thoại có một sự 15tiếp biến và gắn nối giữa quá khứ - hiện tại. Mạch nguồn của văn học dângian đã nuôi dưỡng văn học viết, ở đây là các truyện ngụ ngôn, các truyện cổtích về lồi vật đã là kho tài liệu vô giá đối với các nhà văn đồng thoại.Ở cơng trình Truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại, saukhi tổng hợp các tư liệu cũng như ý kiến đánh giá, Lê Nhật Ký đã rút ra haiý chính về khái niệm đồng thoại. Thứ nhất, trong suy nghĩ của nhiều người,nói đến truyện đồng thoại là nói đến “những sáng tác hiện đại trong nềnvăn học nước nhà”. Thứ hai, xét theo nghĩa hẹp, “truyện đồng thoại là mộtthể loại [hay thể tài] hiện đại dành cho trẻ em có hình thức đặc thù là nhâncách hóa nhân vật, kể chuyện vật mà gián tiếp đề cập chuyện con người”[31, tr.31]. Đây cũng quan niệm được nhiều nhà nghiên cứu cũng nhưchính bản thân các nhà văn sáng tác truyện đồng thoại đồng tình. Chúng tơicũng đồng tình với quan điểm này.Nhìn chung, truyện đồng thoại có nhiều điểm gần gũi với truyện cổ tíchvề lồi vật, truyện ngụ ngơn truyện lồi vật. Điểm chung của ba loại truyệnnày là lấy nhân vật loài vật làm nhân vật chính. Nhưng mỗi loại truyện lại cócách khai thác riêng để tạo nên đặc sắc của riêng mình. Vấn đề này đượcChâu Minh Hùng và Lê Nhật Ký làm rất rõ trong Hệ thống thể loại trong vănhọc thiếu nhi. Theo hai tác giả điểm khác nhau cơ bản giữa ba thể loại là: Thứnhất, giữa truyện cổ tích về lồi vật và truyện đồng thoại. Nếu như truyện cổtích về lồi vật là truyện kể dân gian truyền miệng, cốt truyện giản đơn, lời kểkhái quát, biến cố xung đột mang tính giả tưởng thì truyện đồng thoại là mộtthể truyện văn học thành văn, do nhà văn kế thừa tinh hoa của văn học dângian và sáng tạo ra những điều mới mẻ như miêu tả đặc điểm tự nhiên lồi vậtnhư nó vốn có, lồng ghép tính cách trẻ em vào tính cách lồi vật, xây dựng hệthống biến cố mang tính hợp lí, chân thực hơn truyện dân gian. Thứ hai, giữatruyện ngụ ngôn và truyện đồng thoại. Cả hai thể loại đều truyền tải bài học 16triết lí tuy nhiên truyện ngụ ngơn chủ yếu dành cho người lớn nên nội dungbài học mang tầm khái quát cao, trí tuệ trong khi truyện đồng thoại chủ yếudành cho trẻ em nên bài học truyền đạt trực tiếp qua nhân vật nên đơn giản dễhiểu. Thứ ba, giữa truyện đồng thoại và truyện loài vật. Cả hai thể loại nàyđều nằm trong hệ thống văn học viết nhưng nếu như truyện đồng thoại miêutả loài vật trên cơ sở nhân cách hóa thì truyện lồi vật lại xây dựng theo lối tảthực [23, tr.128].Những nét riêng biệt ấy đã làm nên sức hấp dẫn và thu hút của truyệnđồng thoại khiến cho bạn đọc trẻ em thậm chí cả người lớn vẫn say mê dõitheo từng trang sách.1.1.2. Thành tựu của truyện đồng thoại Việt Nam hiện đạiHoạt động sáng tác truyện dành cho thiếu nhi ở Việt nam được bắt đầuvào những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Khi ấy các tổ chứcvăn chương, nhà xuất bản, báo chí đương thời như Tự lực văn đồn, CộngLực, Tân Thanh tạp chí, Truyền bá… đã tổ chức làm sách cho thiếu nhi, mờicác nhà văn tham gia viết truyện, soạn kịch nhằm tạo ra những tác phẩm đúngtâm lí tuổi thơ tránh để các em vì đói sách mà phải đọc những tiểu thuyếtkiếm hiệp đậm mùi bạo lực hay tiểu thuyết ái tình của người lớn [31; tr57].Trong đó nhóm Tự lực văn đồn nổi lên là một trong những đơn vị tiên phongvà phát triển mạnh mảng văn học thiếu nhi với các loại sách như Hoa hồng,Hoa mai, Hoa xuân phản ánh sinh hoạt của trẻ em thành thị.Nhưng ở thể loại truyện đồng thoại thì phải chờ đến năm 1941 khi VũĐình Long, ơng chủ Nhà xuất bản Tân Dân, lập tờ báo Truyền bá dành chothiếu nhi. Ông đã tin tưởng và đặt hàng cho cậu thanh niên mới mười bảy,mười tám tuổi đầu viết truyện với đề tài con dế mèn. Cậu thanh niên ấy khơngai khác chính là nhà văn Tơ Hồi. Khơng phụ sự tin tưởng của tiền bối, TơHồi đã viết nên truyện Con Dế Mèn. Sau khi xuất bản, tác phẩm được bạn 17đọc hoan nghênh nhiệt liệt tạo động lực cho ông viết tiếp Dế Mèn phiêu lưu kívà một loạt truyện đồng thoại, sinh hoạt khác như: Võ sĩ Bọ Ngựa, Mèo giàhóa cáo, Ba anh em, Dê và Lợn….Năm 1944, Nhà xuất bản Cộng Lực cũng làm theo mơ hình đặt hàng tácgiả viết truyện loài vật khi mời Thy Ngọc, lúc bấy giờ còn là cậu học sinh,viết truyện Hai lần thốt xác theo thể loại truyện đồng thoại.Ngồi ra phải kể đến hai tác phẩm Con chuột mù của Bùi Hiển [1941]và Ký ức của con Vện của Trần Tiêu [1944]. Khi cầm bút viết tác phẩm, mụcđích của tác giả không phải hướng đến thiếu nhi mà hướng đến đối tượngngười lớn. Nhưng với hình thức đồng thoại cùng nội dung nhân văn, hai tácphẩm này đã lôi cuốn được đông đảo bạn đọc thiếu nhi và mặc nhiên cũngđược xếp vào hàng ngũ các tác phẩm văn học thiếu nhi.Từ sau tháng 8/1945 văn học Việt Nam bước sang chặng đường pháttriển mới, văn học thiếu nhi cũng được nhà nước quan tâm phát triển trở thànhmột bộ phận hữu cơ của nền văn học cách mạng. Đối với truyện đồng thoại,từ năm 1954 trở đi hồn cảnh đồng thoại có nhiều thay đổi thuận lợi. Việcthành lập tờ báo Thiếu niên tiền phong [1954], Nhà xuất bản Kim Đồng[1957] đã tạo mảnh đất cho văn học thiếu nhi phát triển và ươm mầm cho tâmhồn các em thông qua trang sách hợp lứa tuổi. Ta có thể kế đến một số tên tácphẩm tiêu biểu như Lớp học anh Bồ Câu Trắng [Thy Ngọc], Trăng rơi xuốnggiếng [Đào Vũ], Cuộc đời chìm nổi của chú Kíplê [Vũ Cận], Cái Tết của Mèocon [Nguyễn Đình Thi], Cô Bê 20 [Văn Biển], Chú Đất nung [Nguyễn Kiên],Câu chuyện Buồm nhỏ [Anh Chi], Bê và Sáo [Phạm Hổ], Chuyện chú Trốngchoai [Hải Hồ]… Đặc điểm chung của đồng thoại lúc này đều nhấn mạnh đếnyếu tố hiện thực lịch sử, khắc họa công cuộc đổi mới đất nước, công cuộc xâydựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc chiến vệ quốc vĩ đại ở miền Nam.Nhiều truyện đồng thoại lúc này mất đi tính tưởng tượng thay vào đó yếu tố 18hiện thực xuất hiện khá nhiều, nhiều tác phẩm đồng thoại có tính sử thi kháđậm nét: Chú gà trống choai [Hải Hồ], Cô kiến trinh sát [Vũ Kim Dũng],Cuộc phiêu lưu của muối bếp [Hương Lan], Chú bồ nông ở Samacan, Cá điăn thề [Tơ Hồi]…Sau năm 1975, “truyện đồng thoại nhạt dần hướng sử thi trở về với cáihồn nhiên trong trẻo của tuổi thơ, cái kỳ diệu của thiên nhiên cây cỏ” [30;tr.61]. Có thể kể đến các tác phẩm như: Cuộc phiêu lưu của Ong Vàng [VũDuy Thông], Chuyến đi của Mày Mạy [Chu Linh], Thành phố đáy hồ [TrầnGia Thái], Lòng mẹ [Viễn Phương]…Những năm đầu thế kỉ XXI, truyện đồng thoại thực sự phát triển mạnhmẽ, có nhiều tác phẩm gây được tiếng vang sâu rộng trong lịng cơng chúng.Các nhà văn đã trưởng thành từ đồng thoại vẫn tiếp tục cống hiến sức mìnhphục vụ các em nhỏ, điển hình là nhà văn Trần Đức Tiến. Ta có thể kể đếnmột số tác phẩm như: Làm mèo, Dế mùa thu, Thi sĩ còng gió, Trăng vùi trongcỏ. Hay như Tơ Hải Vân góp mặt một câu chuyện dễ thương Phép lạ của mèocon. Điều đặc biệt là cuốn sách này được Tô Hải Vân phát triển cốt truyện từtruyện Làm mèo đã xuất bản trước đó của Trần Đức Tiến. Hiện tượng thú vịnày cho thấy sự “tiếp sức” trên con đường nghệ thuật của các nhà văn. Hoặctác phẩm Ngàn dặm xa của Nguyễn Đình Chính tuy được nhà văn sáng táclúc cịn tuổi thiếu nhiên nhưng do hồn cảnh chiến tranh mới ra mắt độc giảlần đầu tiên năm 2008. Hay nhà giáo Lưu Thị Lương sau các tập truyệnthiếu nhi: Con cá mày ở trong nhà, Bí mật trên căn gác xép, vẫn tiếp tục gắnbó với đồng thoại qua tập truyện thuần đồng thoại Xóm đồ chơi [2008] vàgần đây nhất là hai cuốn Đi lạc với cua đồng và Ông trời đang mưa [2010].Nguyễn Thái Hải vẫn duy trì cái duyên cầm bút cho thiếu nhi qua tập truyệnđồng thoại Khu vườn hạnh phúc. Nhiều cây bút tập hợp những sáng táctruyện đồng thoại lại thành tập truyện đồng thoại nhỏ xinh: Thái Hoàng với 19tập truyện đồng thoại Ong và kiến [2014], Nguyễn Thị Việt Nga với tập Bachú kiến con [2014].Các nhà văn lão thành vẫn cần mẫn tiếp tục cho ra đời những truyệnđồng thoại cho thiếu nhi. Có thể kể đến nhà văn Nguyễn Quỳnh. Ông viết văntừ thuở thanh xuân, nay đã gần tám mươi tuổi, nhà văn vẫn tiếp tục mạch vănnhẩn nha kể chuyện cho các em nhỏ. Tập truyện Sếu vương miện được ra đờibởi tâm huyết yêu thương trẻ thơ. Các nhân vật trong tập truyện rất phongphú: Nai Con và Ngựa Choai, Cún Vàng và Cún Khoang, rồi Chim Khuyên,Gõ Kiến, Cú Mèo, Sếu Vương Miện v.v… nhân vật nào cũng đáng yêu trongcách nhìn bao dung và yêu thương của nhà văn Nguyễn Quỳnh - người suốtđời viết ln trân trọng tình người ở mỗi trang văn.Không thể không kể đến hiện tượng xuất bản - Nguyễn Nhật Ánh.Hiếm có nhà văn nào ở Việt Nam có thể sống bằng nghề viết văn như ông.Tạm gác lại các câu chuyện tuổi học trò ngộ nghĩnh trong Ngơi trường mọikhi, Bàn có năm chỗ ngồi, Nữ sinh, Buổi chiều windows,… Nguyễn Nhật Ánhđã dấn thân vào sáng tác truyện đồng thoại. Một loạt tác phẩm đã được xuấtbản có thể kể đến như: Chó con dũng cảm [1997], Tơi là Bê tơ [2007], Có haicon mèo ngồi trên cửa sổ [2012], Chúc một ngày tốt lành [2014]. Gần đâynhất là cuốn Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng [2016] đã tạo kỉ lục 100 000bản in trong lần in đầu tiên.Bên cạnh những cây bút thành danh như Trần Đức Tiến, Nguyễn NhậtÁnh, Lưu Thị Lương, Nguyễn Trí Cơng, Vũ Hùng, Nguyễn Thái Hải, TrầnHồng Vy,… đã có thêm nhiều cây bút trẻ tham gia sáng tác truyện đồngthoại [chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Mình]. Tuổi đời cịn nhỏ, trải nghiệm chưanhiều nhưng ở họ cịn vẹn ngun những kí ức tuổi thơ. Hầu hết họ trưởngthành từ ghế nhà trường có tác phẩm đăng trên các báo thiếu nhi, tuổi teen:Khăn quàng đỏ, Mực tím, Áo Trắng… Các cây bút trẻ như kể lại tuổi thơ 20mình dưới trang văn, bóng hình nhân vật cũng phảng phất con người của tácgiả.Ta có thể điểm qua những các tên như Quân Thiên Kim với Nhữngcuộc phiêu lưu của Kiến Nhóc [2008], Nguyễn Trần Thiên Lộc với Cuộcphiêu lưu của Mũi đỏ và Răng nhỏ [2012], Trần Huyền Trang với Cậu ấm đibụi [2012], Đào Thu Hà với Cuộc phiêu lưu của Ỉn Hồng [2013], Nguyễn LệThủy với Hành trình về tổ của Kiến Đen [2014], Lê Hữu Nam với Hành trìnhtrở về [2013] [năm 2016 tái bản dưới một cái tên mới Cuộc phiêu lưu kỳ thúcủa Ếch xanh cùng những người bạn tuyệt vời ], Mật ngữ rừng xanh [2015],Phương Huyền với Cái tai và cuộc phiêu lưu kỳ thú [2016]…Đặc biệt cuốn Mật ngữ rừng xanh trong lần tái bản mới đây [2016] đãđược tác giả Lê Hữu Nam thêm vào nhân vật chú Tê giác tên Mây Xám. Đâyđược coi như hành động gia tăng chất đồng thoại cho tác phẩm. Việc làm nàymột mặt tăng tính hấp dẫn cho tác phẩm [Mây Xám cùng các nhân vật ĐứcVua, Hoàng Tử, Voi Giằng kể câu chuyện bảo vệ rừng xanh và mn lồi bêncác người bạn là Miên, Lâm, Jo hay Susan]; mặc khác cho thấy trong xu thếsáng tác văn học hiện nay yếu tố đồng thoại hay sáng tác truyện đồng thoại làmột hướng khai triển thu hút được sự quan tâm của nhiều cây bút.Khơng chỉ gói gọn trong những cây bút trong nước, các người trẻ địnhcư ở nước ngoài cùng góp sức mình với sự phát triển của đồng thoại nướcnhà. Có thể kể đến hai cái tên: Vũ Phương Nghi [Canada] với Voi cà chua[2012] và Farnhammer Mai Clara [viết cùng mẹ là Nguyễn Phan Quế Mai]với Mun ơi, Chạy đi! [2012].Có thể thấy dịng chảy truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại tuy có lúcthăng trầm nhưng ẩn sâu trong nó là một sức sống bền bỉ. Hơn 70 năm hìnhthành và phát triển, truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại đã ngày càng khẳngđịnh vị thế của mình trong nền văn học thiếu nhi Việt Nam nói chung. 211.2. Sự xuất hiện của kiểu nhân vật loài vật phiêu lưuTruyện đồng thoại đã vẽ nên một thế giới diệu kì, mang lại niềm vuicho các em đồng thời cũng là chìa khóa để mỗi người mở cửa q khứ bướcvề tuổi thơ. Sức hấp dẫn của đồng thoại đến từ thế giới lồi vật mn vẻ kìthú: đó có thể là chú mèo con dũng cảm đối đầu với chuột Cống dữ dằn cùnglũ chuột nhắt hung hăng [Cái Tết của Mèo con – Nguyễn Đình Thi]; có thể làq trình sinh trưởng biến hóa kì diệu của chú Nịng Nọc đứt đi thành NháiBén [Trong một hồ nước – Trần Kim Lung]; hoặc cậu Bọ Ngựa nghịch ngợmnhân lúc mẹ vắng nhà đã lén đi chơi và ra vẻ ta đây là dũng sĩ [Võ sĩ Bọ Ngựa– Tơ Hồi]. Nhưng hấp dẫn hơn cả là những truyện đồng thoại có sự xuất hiệncủa nhân vật phiêu lưu. Ở những truyện này các nhân vật loài vật được tự dotung tăng bay nhảy làm những điều mình thích và bộc lộ rõ cá tính của mìnhtrên những chuyến đi.Trước tiên ta phải làm rõ từ phiêu lưu, như thế nào là phiêu lưu. Từđiển Tiếng Việt thông dụng [Nguyễn Như Ý chủ biên], Nhà xuất bản Giáodục, 1996 định nghĩa mục từ phiêu lưu là “liều lĩnh, mạo hiểm, không lườngtrước những nguy hiểm, hậu quả xấu” [tr.865]. Cịn trong Từ điển Tiếng Việt[Hồng Phê chủ biên] mục từ phiêu lưu được định nghĩa theo hai nghĩa:nghĩa 1 như phiêu bạt [phiêu bạt là bị sóng gió làm cho trơi dạt đi; bị hồncảnh bắt buộc phải rời bỏ quê nhà nay đây mai đó, đến những nơi xa lạ];nghĩa 2: Có tính chất liều lĩnh, vội vàng, khơng tính tốn kĩ trước khi làm,khơng lường đến hậu quả nghiêm trọng có thể có [50, tr.1001]. Trong khuônkhổ luận văn này chúng tôi nghiên cứu từ phiêu lưu theo Từ điển Tiếng Việt[Hoàng Phê chủ biên] [50]. Căn cứ định nghĩa này chúng tôi đã triển khaithành hai kiểu nhân vật phiêu lưu: nhân vật bị ép buộc phiêu lưu, nhân vậtchủ động phiêu lưu.Như vậy có nghĩa là nhắc đến phiêu lưu là nhắc đến sự xê dịch, thay

Video liên quan

Chủ Đề