Quyên fl ụi của thư ký viên chính là gì năm 2024

Quan Sơn là huyện miền núi cao biên giới nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hóa, vùng đất giàu truyền thống cách mạng, có bề dày lịch sử - văn hóa và có điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng; nơi sinh tụ của cộng đồng các dân tộc: Thái, Kinh, Mường, Mông... đoàn kết chung sống từ bao đời nay. Ngày 18/11/1996, huyện Quan Sơn được thành lập theo Nghị định 72/NĐ-CP của Chính phủ, trên cơ sở chia tách từ huyện Quan Hóa [cũ], đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của vùng đất này.

Trong tiến trình lịch sử, Quan Sơn giữ vị trí quan trọng về quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế - xã hội trên dải đất phía tây của tỉnh. Người Quan Sơn với bản tính tự chủ, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết, cần cù chịu khó, sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên cường dũng cảm trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, thiên tai, góp phần quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đồng thời hun đúc nên những giá trị truyền thống tốt đẹp mang đậm sắc thái văn hóa địa phương. Lịch sử để lại trên đất Quan Sơn một kho tàng di sản văn hóa phong phú và đa dạng, gắn liền với quá trình chống chọi thiên tai địch họa để dựng mường, giữ bản, như truyền thuyết đồng bào Quan Sơn ủng hộ Bình Định Vương Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn; di tích về Tư Mã Hai Đào; sự kiện thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Lào [tháng 4 năm 1955]... Quan Sơn còn được biết đến với những danh thắng nổi tiếng như: Thác bản Xày [suối Bá], thác Ma Hao [suối Din] xã Trung Hạ, mó nước nóng bản Khạn, cầu Pha Lò [xã Trung Thượng], động Nang Non [núi đá Su Lú, xã Sơn Lư], thác bản Nhài [xã Sơn Điện], Pha Dùa, động Bo Cúng [xã Sơn Thủy]... đến các con sông Luồng, sông Lò... tất cả hội tụ và đan xen, tạo nên sự thăng hoa của vùng đất này. Với những đặc trưng về yếu tố tự nhiên, Quan Sơn có nhiều lợi thế, tiềm năng để phát triển kinh tế lâm nghiệp và chăn nuôi. Ngoài ra, huyện còn có Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, Quốc lộ 217 dài 200km nối với Quốc lộ 1 từ huyện Hà Trung lên Na Mèo. Đây là tuyến giao thông huyết mạch phía tây bắc của tỉnh Thanh Hóa, đoạn chạy qua huyện dài 75km, kết nối huyện với các vùng miền trong tỉnh và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, đã và đang mang lại lợi ích trên nhiều phương diện cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện Quan Sơn nói riêng, tỉnh Thanh Hóa và cả nước nói chung. Mặc dù vậy, Quan Sơn luôn phải đối diện với nhiều thách thức như: địa hình núi cao, độ dốc lớn, đất canh tác ít; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nguồn nước ngày một cạn kiệt... Xuất phát điểm về kinh tế - xã hội, hạ tầng vật chất kỹ thuật nhìn chung còn lạc hậu, chưa đồng bộ, trình độ dân trí còn thấp, tập quán canh tác của người dân chủ yếu dựa vào tự nhiên... Đó là những thử thách không nhỏ, tác động đến quá trình phát triển của huyện nhà. Xuất phát từ tình cảm cao đẹp “Uống nước nhớ nguồn”, Huyện ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện Quan Sơn thống nhất chủ trương nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn, xuất bản cuốn sách Địa chí huyện Quan Sơn - một cuốn sách mang tính bách khoa thư về địa lý, hành chính, lịch sử, hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và con người Quan Sơn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay. Qua đó, giúp cho mỗi người dân Quan Sơn nâng cao niềm tự hào, trân trọng giữ gìn những giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của quê hương; ra sức vươn lên trong học tập, lao động, công tác, đóng góp trí tuệ, sức lực, đoàn kết chung sức, chung lòng xây dựng Quan Sơn sớm thoát khỏi huyện nghèo, trở thành huyện phát triển vững về kinh tế - xã hội, mạnh về quốc phòng - an ninh, giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Cuốn sách Địa chí huyện Quan Sơn do các nhà nghiên cứu, giảng viên Trường Đại học Hồng Đức chủ trì biên soạn với sự đóng góp tâm sức, trí tuệ của các các bậc lão thành, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo huyện qua các thời kỳ, các nhà nghiên cứu địa phương, Nhà xuất bản Thanh Hóa cùng cán bộ và nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn. Đến nay, cuốn sách được xuất bản, đây là công trình khoa học, thiết thực chào mừng Kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập huyện Quan Sơn [18/11/1996 - 18/11/2016], đồng thời đáp ứng lòng mong đợi của cán bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình tổ chức nghiên cứu, sưu tầm và biên soạn, song cuốn sách không tránh khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc trong huyện, các nhà nghiên cứu và bạn đọc để lần tái bản cuốn sách được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp quý báu của quý vị và trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc!

Chương 1. ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN

1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ

Quan Sơn là huyện miền núi vùng cao biên giới, nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hóa, trung tâm huyện lỵ cách trung tâm tỉnh lỵ hơn 150km. Nơi xa nhất là Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo cách thành phố Thanh Hóa 200km.

Quan Sơn có tọa độ địa lý:

- Điểm cực Bắc có vĩ độ 21006’15” Bắc, thuộc địa phận phía bắc bản Chanh, xã Sơn Thủy;

- Điểm cực Nam có vĩ độ 20024’30” Bắc, thuộc bản Xum, địa phận xã Sơn Hà;

- Điểm cực Đông có tọa độ 104015’30” Đông, thuộc địa phận bản Phú Nam, xã Trung Xuân;

- Điểm cực Tây có tọa độ 104015’30” - 105008’25” Đông, thuộc địa phận bản Cha Khót, xã Na Mèo.

Vị trí địa lý:

- Phía đông giáp huyện Bá Thước và Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa;

- Phía nam và phía tây giáp huyện Sầm Tớ, huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn [nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào];

- Phía bắc giáp huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Lãnh thổ Quan Sơn trải dài theo hướng tây - đông. Chiều dài đường chim bay theo hướng tây - đông, từ bản Cha Khót [xã Na Mèo] đến phía đông bản Phú Nam [xã Trung Xuân] là 80km và chiều rộng trung bình theo hướng bắc - nam là 40km.

Diện tích tự nhiên của huyện 92.662,3ha, bằng 8,35% diện tích tự nhiên của tỉnh Thanh Hóa, là huyện có diện tích tự nhiên đứng thứ ba trong tỉnh [sau huyện Thường Xuân và Quan Hóa]; trong đó đất nông nghiệp: 81.337,5 ha, đất phi nông nghiệp 2.574,56ha; đất chưa sử dụng 8.750,44ha. Quan Sơn còn là huyện có thế mạnh về rừng, năm 2015 độ che phủ rừng là 88,8%, là huyện có độ che phủ rừng cao nhất tỉnh Thanh Hóa.

Huyện Quan Sơn có 13 đơn vị hành chính, gồm thị trấn Quan Sơn và 12 xã: Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Tiến, Trung Thượng, Sơn Lư, Sơn Hà, Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Điện, Mường Mìn, Sơn Thủy, Na Mèo. Toàn huyện có 99 khu, bản. Trung tâm hành chính của huyện là thị trấn Quan Sơn [Km 35 đường 217, tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. Huyện có 06 xã biên giới: Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Điện, Mường Mìn, Sơn Thủy, Na Mèo với 64km đường biên.

Dân số của huyện là 37.139 người [tính đến năm 2015], trong đó phân theo giới tính là 18.884 nam và 18.255 nữ; phân theo thành thị, nông thôn: thành thị 2.830 người, nông thôn: 34.309 người. Mật độ dân số trung bình 40 người/km2.

Vùng đất Quan Sơn là nơi sinh sống đoàn tụ của nhiều dân tộc anh em: Thái, Kinh, Mường, Mông [trong đó, dân tộc Thái chiếm 81% dân số, dân tộc Kinh 9,1%, dân tộc Mường 7,4%, dân tộc Mông, 2,3%,], còn lại là các dân tộc khác 0,2%.

Có thể nhận thấy, hệ tọa độ địa lý mang đến cho Quan Sơn nhiều lợi ích: Toàn bộ lãnh thổ huyện đều nằm trọn trong múi giờ thứ 7 [giờ quốc tế GMT], nên thuận tiện cho việc quản lý thống nhất các hoạt động hành chính, sản xuất, văn hóa, xã hội và mọi mặt sinh hoạt của con người. Lãnh thổ Quan Sơn nằm trọn trong vùng nhiệt đới nên có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào. Đấy là động lực để hàng loạt quá trình tự nhiên diễn ra liên tục với cường độ mạnh, đảm bảo sự sinh sôi, nảy nở và phát triển của thế giới sinh vật; làm cho thiên nhiên Quan Sơn in đậm tính chất của thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa.

Về mặt vị trí địa lý kinh tế, Quan Sơn có thể giao lưu thuận lợi với các lãnh thổ khác thông qua Quốc lộ 217. Khoảng cách từ thị trấn Quan Sơn [theo Quốc lộ 217] tới Quốc lộ 15A tại ngã ba Đồng Tâm, huyện Bá Thước là 35km và tới đường Hồ Chí Minh là 80km, tới Quốc lộ 1 tại thành phố Thanh Hóa là 150km. Thông qua Quốc lộ 15A, Quan Sơn có thể giao lưu thuận lợi với các tỉnh ở khu vực Tây Bắc của đất nước. Thông qua tuyến đường Hồ Chí Minh, Quan Sơn có thể giao lưu thuận lợi với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ [cách Hà Nội gần 170km], với cảng biển và Khu kinh tế Nghi Sơn và các vùng phát triển khác trong cả nước. Theo Quốc lộ 217, Quan Sơn có thể giao lưu thuận lợi với tỉnh Hủa Phăn [nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào] qua Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo và Cửa khẩu tiểu ngạch Tam Thanh.

Nằm ở vùng cao biên giới phía tây tỉnh Thanh Hóa, Quan Sơn không chỉ có vị thế quan trọng về kinh tế đối ngoại, quốc phòng an ninh mà còn có vai trò là rừng phòng hộ giữ cân bằng môi trường sinh thái của tỉnh Thanh Hóa.

Chính nhờ vị trí địa lý đặc biệt đó mà trong suốt chiều dài lịch sử, lãnh thổ này đã trở thành điểm hẹn của cộng đồng người Thái, Mường, Mông, Kinh... từ các vùng khác nhau mang theo những sắc thái văn hóa tộc người, những kinh nghiệm sản xuất đa dạng hội tụ về đây khám phá thiên nhiên, lập nghiệp sinh sống và cùng tạo nên tính phong phú và độc đáo của văn hóa Quan Sơn.

Trong lịch sử, Quan Sơn cũng là hậu phương quan trọng của Mặt trận Thượng Lào và chiến dịch Điện Biên Phủ. Quan Sơn là địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh của tỉnh, của Quân khu IV và cả nước, là đầu mối giao thương chính giữa hai tỉnh Thanh Hóa [Việt Nam] và Hủa Phăn [Lào].

Với vị trí địa lý là cửa ngõ phía tây của tỉnh và địa bàn có vai trò trọng yếu về quốc phòng, an ninh, với quỹ đất cho phép, Quan Sơn đã và sẽ thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, phát triển các trung tâm thương mại ở các khu đô thị như: thị tứ Km 19 Trung Hạ; Km 22 Trung Tiến; thị trấn Quan Sơn; chợ biên giới Tam Thanh; Khu dân cư Km 54, Km 61, Km 66, Trung tâm xã Sơn Thủy và Khu kinh tế Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo. Phát triển kinh tế du lịch với các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử như cầu Pha Lò [Phà Lò], động Bo Cúng, động Nang Non [pha Su Lú], núi Pù Mằn, thác Ma Hao, suối nước nóng bản Khạn, đền thờ Tư Mã Hai Đào,... Trong thời đại hiện nay, vị trí địa lý này đang mở ra nhiều cơ hội để huyện Quan Sơn khai thác những tiềm năng, lợi thế giúp cho Quan Sơn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển.

1.2. ĐỊA HÌNH

Về điều kiện tự nhiên, bề mặt địa hình là nơi gặp gỡ và tiếp xúc của các hợp phần tự nhiên như nham thạch, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, sinh vật. Vì thế sự phân hóa của địa hình là nguyên nhân làm cho tự nhiên huyện Quan Sơn có sự khác nhau theo lãnh thổ.

Về mặt xã hội, bề mặt địa hình cũng là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động cư trú, sinh hoạt và sản xuất của con người. Vì thế, đặc điểm và sự khác biệt theo lãnh thổ của địa hình có tác động rất lớn đến phát triển và phân bố các hoạt động kinh tế - xã hội, cư trú và sinh hoạt của con người trên địa bàn huyện.

1.2.1. Đặc điểm chung

Theo các bản đồ nền tỷ lệ 1/100.000 và 1/50.000 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ảnh vệ tinh Landsat, tư liệu ở các trang website: google earth.com, maps.google.com cùng các tài liệu đo đạc, nghiên cứu thực tế trong nhiều năm qua của các cơ quan chuyên môn, có thể nhận ra một số đặc điểm của địa hình Quan Sơn như sau:

1.2.1.1. Quan Sơn có địa hình núi chia cắt phức tạp

Nhìn chung, địa hình Quan Sơn chủ yếu là núi cao và sâu hình thành nhiều lòng máng dọc theo các khe suối và các thung lũng dọc theo hai bên bờ sông Lò và sông Luồng, thấp dần đổ về hướng tây nam - đông bắc. Phần lớn núi cao trung bình trên 600m, cao nhất trên 1.000m như đỉnh Pha Phanh [giữa 2 xã Sơn Điện, Sơn Lư] cao 1.100m - 1.300m, Pù Mằn [xã Sơn Hà] cao 1.247m. Diện tích đồi núi chiếm khoảng 91% diện tích toàn huyện, còn lại xen kẽ là những thung lũng nhỏ, khu vực đất thấp tương đối bằng, chủ yếu nằm dọc theo sông Lò và sông Luồng. Mặc dù có các di tích của các bề mặt san bằng cổ với các bậc độ cao: 900m - 1.247m, 600m - 800m và 300m - 500m, do sự chia cắt phức tạp nên phần lớn địa hình Quan Sơn có độ dốc lớn.

Sự chia cắt phức tạp của địa hình tuy có mang lại một số lợi ích như xây dựng các công trình cấp nước tự chảy, đỡ tốn năng lượng, nhưng lại gây ra rất nhiều khó khăn trong việc đi lại, xây dựng các công trình, tăng chi phí xây dựng và ẩn chứa nguy cơ trượt đất, lũ ống, lũ quét, lũ bùn đá,... đó cũng là khó khăn trở ngại trong việc quy hoạch dân cư. Sự chia cắt phức tạp của địa hình cũng làm cho thời gian chiếu sáng tại các thung lũng thường ngắn hơn khu vực đỉnh núi và đồng bằng từ 1 đến 2 giờ. Do vậy, giờ làm việc, học tập, sinh hoạt của con người nơi đây phải bắt đầu muộn và kết thúc sớm hơn so với các khu vực đồng bằng và ven biển.

Với hơn 60% diện tích của Quan Sơn có độ cao trên 700m. Nhờ sự giảm nhiệt độ khi lên cao mà những nơi này có khí hậu cận nhiệt đới mát mẻ, có thể mở ra khả năng phát triển tập đoàn cây dược liệu, rau và hoa quả xứ lạnh và các hoạt động du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, chữa bệnh.

Khoảng 97% diện tích tự nhiên của huyện có độ dốc trên 150 và không hề có một sơn nguyên, cao nguyên nào. Đặc điểm này chi phối phương hướng hoạt động kinh tế chủ yếu của huyện là tập trung vào các hoạt động lâm nghiệp, bảo tồn thiên nhiên và du lịch. Các hoạt động canh tác nông nghiệp, xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi và dân sinh khó khăn hơn các huyện đồng bằng vì phải khắc phục độ dốc lớn.

Các khu vực có độ dốc dưới 150 chủ yếu tập trung tại các thung lũng sông Luồng và sông Lò. Tại đây có thể phát triển các hoạt động lâm nghiệp và nông nghiệp với điều kiện phải xây dựng ruộng bậc thang để giữ nước, giảm bớt sự rửa trôi các chất dinh dưỡng và chống xói mòn cho đất.

Nơi có độ cao tuyệt đối lớn nhất của Quan Sơn là các đỉnh núi tại biên giới Việt - Lào thuộc phía tây xã Sơn Thủy và phía nam xã Mường Mìn. Tại đây độ cao đạt 1.300m - 1.400m. Nơi có độ cao tuyệt đối thấp nhất là thung lũng sông Lò tại phía đông xã Trung Xuân có độ cao chưa đầy 70m. Độ cao trung bình của địa hình Quan Sơn giảm từ 1.200m ở phía tây và phía nam xuống thung lũng sông Luồng, sông Lò và dọc hai bên Quốc lộ 217.

1.2.1.2. Các dãy núi ở Quan Sơn phần lớn nghiêng, dốc và kéo dài theo hướng tây - đông

Các dãy núi ở Quan Sơn là sự tiếp tục của các dãy núi chạy từ nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào rồi thấp dần về phía đông và phía đông bắc. Đây là nguyên nhân làm cho mạng lưới sông, suối ở Quan Sơn chủ yếu chảy theo hướng tây nam - đông bắc.

Các dãy núi chính ở Quan Sơn gồm: dãy Pù Mằn - Sơn Hà, cao 1.247m; dãy Pha Phanh - Sơn Điện - Sơn Lư cao 1.146m - 1.346m; Pù Xa Lày, xã Mường Mìn cao 1.416m.

Dãy Pù Mằn - Sơn Hà phát triển trên nền đá trầm tích cát kết, cát kết tụ, cát bột kết xen ryolit và thấu kính cuội kết, sạn kết... có tuổi [T2a đt1]. Dãy núi này chạy từ nước bạn Lào qua phía nam bản Cha Khót [xã Na Mèo] chạy dọc biên giới Việt - Lào theo hướng tây - đông, tới đông nam bản Yên [xã Mường Mìn] bị khối macma bản Bin [yaT2 sm1] chia thành 2 nhánh, một nhánh chạy theo hướng đông - đông bắc và chạy tới bản Hậu [xã Sơn Lư]; nhánh thứ hai tiếp tục chạy theo hướng đông - đông nam, sau khi hạ thấp độ cao còn 230m ở thung lũng sông Lò tại bản Kham [xã Tam Thanh] đạt độ cao trên 1.300m ở Sơn Hà và sau đó hạ thấp độ cao và đi vào lãnh thổ Lang Chánh.

Dãy Na Mèo - Sơn Lư. Dãy này chạy từ Lào qua bản Na Mèo theo hướng tây - đông đến phía tây - nam bản Bin [xã Sơn Lư]. Dãy núi này nằm ở phía nam và chạy gần song song với Quốc lộ 217. Móng địa chất của dãy núi là các loại cát kết, cát bột kết xen đá phiến sét và các thấu kính đá vôi đen phân lớp mỏng của Hệ tầng Huổi Nhị [S2-D1 hn]. Nếu như dãy Pù Mằn - Sơn Hà chạy tương đối liên tục, thì dãy Na Mèo - Sơn Lư lại bị chia cắt phức tạp bởi sông Luồng và các nhánh của nó.

Dãy núi phía bắc chạy từ Lào qua phía nam bản Son [xã Na Mèo] theo hướng tây - đông về tận phía tây bản Bàng [xã Trung Thượng]. Nửa phía đông của dãy núi này như là địa giới thiên nhiên giữa hai huyện Quan Sơn và Quan Hóa. Đây là dãy núi cao hiểm trở được cấu tạo bởi tập hợp đá rất phức tạp xen kẽ nhau bao gồm cát kết dạng quarzit, đá phiến silic, đá vôi silic của Hệ tầng La Khê [C1lk]; cát kết, cát bột kết xen đá phiến sét và các thấu kính đá vôi đen phân lớp mỏng của Hệ tầng Huổi Nhị [S2-D1 hn]; granit biotit và granit hai mica thuộc Phức hệ Phia bioc pha 1 [T3n pb1]. Chính điều này làm cho địa hình dãy núi này rất hiểm trở, nhiều vách đứng, chia cắt phức tạp. Dãy núi phía bắc cũng bị các dòng sông, suối chạy theo hướng tây nam - đông bắc của sông Luồng chia cắt phức tạp. Đặc điểm này tạo thuận lợi cho việc mở những tuyến đường qua lại giữa huyện Quan Sơn và Quan Hóa.

1.2.1.3. Bề mặt địa hình Quan Sơn vẫn đăng tiếp tục thay đổi

Ngày nay vận động tân kiến tạo vẫn tiếp tục diễn ra và sẽ nâng cao thêm địa hình, làm xuất hiện các bậc địa hình mới, các thềm sông. Hệ thống sông suối tiếp tục đào lòng, chia cắt bề mặt địa hình. Các quá trình: phong hóa, cacxtơ, xói mòn, trượt đất, lở đất, rửa trôi, bồi tụ... và cuối cùng là hoạt động ngày càng mạnh thêm của con người sẽ làm cho bề mặt địa hình Quan Sơn thay đổi và chúng ta khó có thể hình dung được địa hình Quan Sơn sẽ như thế nào trong hàng vạn, hàng triệu năm sau. Vấn đề quan trọng là cần phải nhận thức được quy luật và xu hướng thay đổi của chúng để có những biện pháp sử dụng, bảo vệ, cải tạo phù hợp, để vừa thuận lợi cho sinh hoạt, phát triển sản xuất, vừa phòng tránh được các tai biến thiên nhiên vừa bảo vệ được cảnh quan môi trường.

1.2.2. Các kiểu địa hình

Quan Sơn có 4 nhóm kiểu địa hình: địa hình kiến tạo, địa hình xâm thực, địa hình cacxtơ và địa hình tích tụ. Mỗi kiểu, nhóm địa hình đều có những đặc điểm riêng biệt. Sự đa dạng của các kiểu, nhóm địa hình không chỉ làm cho cảnh quan Quan Sơn thêm đa dạng, ngoạn mục mà điều quan trọng hơn là làm cho các hoạt động sản xuất, cư trú và sinh hoạt của con người ở đây có sự khác nhau từ bản này sang bản khác. Do vậy khó mà có thể áp dụng một mô hình sinh hoạt, sản xuất và cư trú đồng nhất cho tất cả các khu vực trên địa bàn huyện.

1.2.2.1. Địa hình kiến tạo

Địa hình kiến tạo gồm các sườn và vách dốc dọc theo các đứt gãy tuyến tính, thể hiện rất rõ dọc theo đứt gãy sâu phân miền kiến tạo Điện Biên - Núi Nưa, đứt gãy theo phương vĩ tuyến chạy song song theo hướng tây - đông ở phía nam đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa, các đứt gãy theo phương á kinh tuyến ở phía bắc Quốc lộ 217... Hệ thống các đứt gãy này nhiều khi làm ranh giới giữa các kiểu loại đá có thành phần và tuổi khác nhau, thậm chí giữa các nếp uốn khác nhau trong cùng một loại đá, cùng một thành hệ đất đá. Ngoài ra, còn có nhiều đoạn sườn và vách dốc ngắn, hẹp dọc theo các đứt gãy phương đông bắc - tây nam như ở các xã: Trung Thượng, Trung Xuân, Sơn Thủy, Sơn Điện. Hai hệ thống sườn và vách dốc này cắt nhau, cùng nhau chia cắt các dãy núi thành từng khối. Tại những nơi giao cắt, có thể nhận thấy thung lũng đột nhiên mở rộng ra, hoặc phát triển các trũng hoặc phễu sụt nếu ở diện phân bố đá vôi.

1.2.2.2. Địa hình xâm thực

Địa hình xâm thực phát triển chủ yếu trên các macma và trầm tích. Địa hình xâm thực trên đá macma của phức hệ sông Mã và phức hệ Phia bioc pha. Các sườn dốc nhóm này phát triển ở độ cao tương đối khoảng 700m - 1.000m. Bề mặt sườn thường thẳng hoặc hơi uốn lượn, góc dốc sườn tăng dần lên trên tới khoảng 300. Mức xâm thực sâu thường khá cao, tới 200m - 700m, trong khi mạng lưới sông suối lại không phát triển. Bề mặt sườn lộ đầy đá gốc bị dập vỡ, chia cắt, đôi khi được lớp đất mỏng màu nâu vàng che phủ.

Địa hình xâm thực phát triển trên đá trầm tích của hệ tầng sông Mã [Cambri giữa Î2 sm], hệ tầng Hàm Rồng [Î3 - O1hr], hệ tầng La Khê [C1lk], hệ tầng Bắc Sơn [C-Pbs], hệ tầng Huổi Nhị [S2-D1 hn], hệ tầng Đồng Trầu [T2a đt]. Các kiểu địa hình trên đá lục nguyên có thể được chia nhỏ thêm thành các nhóm phụ sau: Các bề mặt san bằng, vạt gấu [pediments], sườn xâm thực tổng hợp, sườn xâm thực do các rãnh xói hoặc nước chảy tràn trên mặt;

Bề mặt san bằng: Tàn dư của các bề mặt san bằng thấy khá nhiều trên các đỉnh hoặc sườn núi ở các mức độ cao khác nhau, khiến cho địa hình trong vùng có dạng bậc, chẳng hạn như các bậc 900m - 1.200m, 600m - 800m và 300m - 500m. Bề mặt chúng hơi lượn sóng, được phủ một lớp mỏng sườn tích, tàn tích hoặc sản phẩm phong hóa bở rời.

Vạt gấu là một dạng bề mặt san bằng thấp, chưa hoàn chỉnh, chủ yếu do nước chảy trên mặt các đá lục nguyên. Có hai loại vạt gấu là vạt gấu thung lũng và vạt gấu trước núi, ở dạng các dãy đồi thấp [300m - 500m], có đỉnh tròn, sườn thoải. Vạt gấu trước núi thấy ở dạng các đồi thoải dưới chân núi.

Sườn xâm thực tổng hợp hình thành do nhiều yếu tố như gió, nước chảy bề mặt hoặc trọng lực... nhưng không yếu tố nào được coi là chủ yếu. Các sườn kiểu này thường thẳng, không dốc hơn 200 và thường không có rãnh xói. Bề mặt chúng thường được phủ bởi tàn tích, sườn tích, đôi chỗ bởi lớp vỏ phong hóa mạnh của đá gốc; Sườn xâm thực do rãnh xói hoặc nước chảy bề mặt phát triển ở thấp hơn một chút so với sườn xâm thực tổng hợp, với góc dốc khoảng 20 - 400, bị xâm thực và biến dạng thành các bậc ở độ cao 300m - 500m; 600m - 800m và 900m - 1.200m. Rãnh xói thường thấy ở các dạng song song, tỏa tia hoặc lượn sóng, trong khi các thung lũng thường có dạng “chữ V”. Những sườn kiểu này thấy ở Trung Xuân, Trung Thượng, Sơn Hà, Tam Thanh... Sườn xâm thực do rãnh xói có thể nhận thấy dễ dàng qua mạng lưới dày đặc các dòng chảy bậc cao. Bề mặt sườn dốc thường uốn cong lên, dốc dần lên đỉnh tới trên 300, hơi lượn sóng và bị chia cắt mạnh mẽ bởi các rãnh xói. Các rãnh xói thường có dạng tỏa tia, dạng cành cây trong khi các thung lũng thường có dạng “chữ V” hoặc thậm chí “chữ U”.

Sườn trọng lực: Sườn trọng lực dễ thấy nhất trên đá gốc cứng, giòn, dập vỡ mạnh dọc các thung lũng sông suối lớn và trên sườn các cao nguyên đá vôi, bị nâng mạnh trong giai đoạn tân kiến tạo. Sườn trọng lực thường phân cắt yếu với các vách dốc [>600] và tích tụ vật liệu trượt ở chân dốc.

1.2.2.3. Địa hình cacxtơ và cacxtơ - xâm thực

Chúng chủ yếu tập trung ở phía bắc Quốc lộ 217 thuộc các xã: Sơn Điện, Sơn Thủy, Sơn Lư... Địa hình kiểu này có sườn rất dốc, tạo nên chuỗi các tháp karst cao thấp không đều rất độc đáo xen giữa các thung lũng karst - xâm thực hẹp, song song cùng phương. Mạng lưới dòng chảy mặt không phát triển nhưng lại có nhiều hố sụt hoặc dãy các phễu sụt cũng chạy dài theo phương đông - tây. Ở nơi giao cắt giữa các thung lũng karst - xâm thực đôi khi hình thành nên các cánh đồng karst rộng 1 - 2km với dòng chảy mặt thường xuyên.

Thung lũng cacxtơ có dạng chữ U phân tách các khối cacxtơ. Thung lũng thường khô, hẹp, dốc đứng với lớp phủ đất đỏ “terrarosa” tích tụ dưới chân. Ngoài ra, trên các trũng sụt kéo dài, ở nơi đá vôi xen kẹp với các đá lục nguyên khác cũng phát triển các đồi karst dạng nón, sườn không dốc mà lại được phủ bởi đất tàn tích. Chúng phân bố rải rác làm nên địa hình karst tàn dư, rất điển hình ở Sơn Điện, Sơn Thủy.

1.2.2.4. Địa hình tích tụ

Thuộc nhóm địa hình này có bãi bồi, thềm tích tụ bậc I và bậc II, thềm xâm thực bậc III và IV, các nón sườn tích và lũ tích... hình thành chủ yếu do tác động của các dòng chảy thường xuyên, tạm thời và ít hơn là các quá trình trọng lực.

Bãi bồi phát triển liên tục dọc sông Luồng, sông Lò và các dòng suối lớn khác, thường bị ngập trong mùa mưa lũ. Dạng địa hình này thường chỉ rộng 10 - 15m, dày 0,5 - 1,0m, chủ yếu gồm cuội sỏi, cát sạn, sét bột bở rời...

Thềm tích tụ bậc I, phát triển không liên tục dọc sông Luồng, sông Lò, cao khoảng 5 - 12m, rộng khoảng 20 - 100m và dài vài trăm km. Bề mặt thềm khá phẳng, hơi lượn sóng do phân cắt trung bình [0,7 - 1,2km/km2] và chúng thường cấu tạo bởi bột cát và sét, cuội sỏi và tảng, dày 2 - 4m, nằm phủ trên đá gốc là phiến sét phong hóa.

Thềm tích tụ - xâm thực bậc II, nằm cao hơn thềm bậc I khoảng 1 - 3m và tồn tại dọc sông Luồng, sông Lò.

Thềm xâm thực bậc III và IV chỉ còn sót lại dọc sông Lò, sông Luồng, nằm cao hơn mực nước sông khoảng 60 - 80m ở dạng đồi thoải, lộ toàn đá gốc phong hóa.

Các nón tích tụ sườn tích - lũ tích. Các nón tích tụ cả cổ lẫn hiện đại phát triển khá rộng rãi trên địa bàn huyện. Các hiện tượng xói rửa, bóc mòn, trượt lở hiện nay vẫn tiếp tục xảy ra, để lại dọc Quốc lộ 217 vô số tảng lăn, nhiều khi phá hủy, làm ách tắc đường, cuốn theo nhiều vạt nương rẫy. Các nón tích tụ sườn và lũ tích quy mô nhỏ hơn cũng khá phát triển ở cửa các dòng chảy tạm thời, gồm nhiều loại tảng, dăm hỗn độn.

1.3. ĐỊA CHẤT VÀ TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN

Theo Bản đồ Địa chất và Khoáng sản Việt Nam tỷ lệ 1: 200.000 của Cục Địa chất Việt Nam xuất bản năm 1995 thì đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa là đứt gãy sâu phân miền kiến tạo đi qua lãnh thổ Quan Sơn và chia Quan Sơn thành hai miền kiến tạo với những đặc điểm địa tầng, hoạt động macma và thạch học khác nhau: Đới phức nếp lồi sông Mã ở phía bắc và đới võng chồng Sầm Nưa ở phía nam. Hướng chạy của đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa gần trùng với tuyến đường 217.

Đáng chú ý là hiện nay đứt gãy này vẫn đang hoạt động, gắn liền với vận động Tân kiến tạo và sự chuyển dịch của các kiến trúc địa chất của miền Tây Bắc Bộ. Đấy chính là nguyên nhân làm cho lãnh thổ Quan Sơn nói riêng và khu vực Mường Lát, Quan Hóa, Lang Chánh, Bá Thước vẫn thường xuyên xảy ra động đất cấp 3, cấp 4 độ richter. Chẳng hạn như trận động đất lúc 21 giờ ngày 13/3/2015 có cường độ 2,9 độ richter, độ sâu chấn tiêu khoảng 8km tại các xã Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Thủy... Trận động đất xảy ra lúc 19 giờ 38 phút ngày 19/01/2015 tại vị trí khu vực giữa xã Nam Động, huyện Quan Hóa và Sơn Điện, huyện Quan Sơn, độ sâu chấn tiêu là 10km, cường độ 3 độ richter. Trong năm 2010, trên địa bàn huyện cũng đã xảy ra 3 trận động đất, với cường độ từ 3,5 - 4 độ richter. Các trận động đất gây ra tình trạng sụt, lở đất, đá, xuất hiện hố tử thần, đổ nhà và phá hoại các công trình xây dựng...

1.3.1. Địa tầng

Địa tầng [các tầng đất đá] - dấu ấn của hoạt động địa chất trong quá khứ. Phía bắc đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa thống trị chủ yếu là các hệ tầng của đới phức nếp lồi sông Mã như: Hệ tầng Hàm Rồng, hệ tầng sông Mã, hệ tầng Bắc Sơn và hệ tầng La Khê. Phía nam đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa có sự thống trị của các hệ tầng thuộc võng chống Sầm Nưa: hệ tầng Huổi Nhị và hệ tầng Đồng Trầu.

Đới phức nếp lõi sông Mã gồm các hệ tầng:

Hệ tầng sông Mã [Cambri giữa Î2sm] chỉ chiếm một diện tích rất nhỏ tại đông bắc xã Trung Xuân. Bề dày của hệ tầng 500m - 600m và cấu tạo bởi đá phiến thạch anh chứa cuội thạch anh, đá phiến thạch anh sericit xen các lớp mỏng đá vôi tái kết tinh.

Hệ tầng Hàm Rồng [Î3 -O1hr]: dày 650m - 850m cấu tạo bởi đá phiến sericit, đá phiến thạch anh sericit xen đá vôi phân lớp trung bình. Hệ tầng này chiếm diện tích rất lớn tại Mường Lát và Quan Hóa. Tại Quan Sơn chỉ có một diện tích nhỏ thuộc đông bắc xã Trung Xuân.

Hệ tầng La Khê [C1lk]: gồm cát kết dạng quarzit, đá phiến silic, đá vôi silic. Độ dày 115 m. Hệ tầng này chủ yếu phân bố ở nơi tiếp xúc của hệ tầng Bắc Sơn với tập nham granit biotit và granit hai mica của phức hệ Phia bioc pha 1 [T3n pb1]; hoặc tại đới tiếp xúc của hệ tầng Bắc Sơn với tạp nham cát kết, cát bột kết xen đá phiến sét và các thấu kính đá vôi đen phân lớp mỏng. Hệ tầng Huổi Nhị [S2-D1 hn]. Chúng chiếm diện tích không lớn và phân bố rải rác tại các xã: Sơn Thủy, Sơn Điện, Trung Thượng và Trung Tiến.

Hệ tầng Bắc Sơn [C-Pbs]: Tầng kiến trúc này gồm chủ yếu là đá vôi hệ tầng Bắc Sơn [C-P1 bs] dày trung bình 400m có nơi tới 800m - 900m, với xen kẽ luân phiên giữa đá vôi, đá vôi sét, đá vôi silic, dăm kết vôi màu xám, xám sẫm, phân lớp mỏng; đá vôi xám vàng, phân lớp dày; đá vôi dạng trứng cá bị hoang hóa; và đá vôi tái kết tinh dạng đường màu xám trắng, phân lớp dày, cùng tạo nên cánh của một nếp lõm lớn, cắm thoải 20 - 400 về phía đông bắc. Tầng kiến trúc này phân bố trên địa bàn rất rộng chiếm tới gần 1/5 diện tích huyện Quan Sơn và phân bố khá liên tục trên địa bàn các xã phía bắc Quốc lộ 217: Na Mèo, Sơn Thủy, Sơn Điện, Trung Thượng và Trung Tiến. Chuyển động nâng nhanh và các quá trình xói mòn mạnh mẽ đã làm nên cái gọi là “rừng đá” trên các diện lộ đá vôi này, với các đỉnh nhọn nhô lên sàn sàn nhau trên nền của các cánh đồng karst bên dưới.

Đới võng chồng Sầm Nưa gồm các hệ tầng sau:

Hệ tầng Huổi Nhị [S2-D1 hn]: Có bề dày hơn 1.000m, cấu tạo bởi cát kết, cát bột kết xen đá phiến sét và các thấu kính đá vôi đen phân lớp mỏng. Hệ tầng Huổi Nhị phân bố ngay sát rìa Nam của đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa, chiếm khoảng 1/6 diện tích huyện Quan Sơn và phân bố khá liên tục dọc hai bên Quốc lộ 217 chạy từ Biên giới Việt - Lào tới phía đông nam huyện chạy qua rìa Tây thung lũng sông Âm ở Lang Chánh, Ngọc Lặc, tới Thường Xuân và chìm xuống các hệ tầng trẻ hơn ở lòng hồ Cửa Đặt. Ngoài ra hệ tầng này còn phân bố rải rác, xen kép giữa các địa phân bố của các hệ tầng: Hệ tầng Bắc Sơn [C-Pbs], hệ tầng La Khê [C1lk] và đá xâm nhập Phức hệ Phia bioc pha 1 [T3n pb1] ở phía bắc đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa.

Hệ tầng Đồng Trầu [T2a đt], chiếm gần 1/4 diện tích và phân bố chủ yếu ở phía nam của huyện. Hệ tầng này phân bố song song với hệ tầng Huổi Nhị [S2-D1 hn và chạy dọc theo biên giới Việt - Lào tạo thành một dải tương đối liên tục từ các xã Na Mèo, Mường Mìn, Sơn Điện, Tam Thanh, Tam Lư, Sơn Hà và sau đó qua lãnh thổ Lang Chánh. Vận động kiến tạo nâng hệ tầng này lên rất mạnh và tạo thành những đỉnh núi cao trên 1.000m chạy dọc theo biên giới Việt - Lào [phía tây nam của Quan Sơn]. Hệ tầng Đồng Trầu gồm 2 phân hệ tầng:

T2ađt1: Phân hệ tầng dưới, bề dày 700 - 800m cấu tạo bởi cát kết, cát kết tuf, cát bột kết xen ryolit và thấu kính cuội kết, sạn kết.

T2ađt2: Phân hệ tầng trên dày 500 - 600m, cấu tạo bởi cát bột kết, cát kết tuf, xen ít đá vôi phân lớp mỏng.

1.3.2. Lịch sử địa chất - kiến tạo

Trên bình đồ địa chất - kiến tạo, Thanh Hóa là một bộ phận của đới phức nếp lồi sông Mã và đới võng chồng Sầm Nưa. Ranh giới của đới võng chồng Sầm Nưa và đới phức nếp lồi sông Mã là đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa. Các đơn vị cấu trúc trên đây lại là một bộ phận của vùng biển cổ Tetit - một vùng biển cổ nằm giữa lục địa cổ Âu - Á ở phía bắc và lục địa Gônvana ở phía Nam. Quá trình phát triển lâu dài qua nhiều giai đoạn khác nhau của mỗi đới kiến tạo trên đây là nguyên nhân cơ bản hình thành những đặc điểm của lãnh thổ Thanh Hóa và Quan Sơn ngày nay.

Lãnh thổ Quan Sơn cũng thuộc 2 đới kiến tạo lớn quy mô khu vực là: Đới phức nếp lồi sông Mã ở phía bắc và đới võng chồng Sầm Nưa ở phía nam, ngăn cách nhau bởi đứt gãy sâu Điện Biên - Núi Nưa nổi tiếng phương tây bắc - đông nam. Lịch sử kiến tạo - địa chất của Quan Sơn diễn ra theo các giai đoạn sau đây:

Giai đoạn Tiền Cambri [Cách đây khoảng 550 - 570 triệu năm]. Cũng như toàn bộ Việt Nam, lãnh thổ Thanh Hóa là một vũng biển rộng lớn, chỉ nhô lên một vài đảo nhỏ. Các mỏm nhô cổ ấy còn tồn tại đến ngày nay hiện có mặt ở Mường Lát, Quan Hóa, núi Trường Lệ [Sầm Sơn] và núi Hoằng Trường [Hoằng Hóa]. Một diện tích rất nhỏ phía bắc Quan Sơn là rìa Nam của đảo cổ Mường Lát. Phần lớn diện tích còn lại lúc này còn đang nằm dưới biển và chịu tác động của quá trình lắng đọng trầm tích.

Giai đoạn Cổ sinh [Cách đây từ 270 đến 550 triệu năm]. Giai đoạn này có chu kỳ kiến tạo Calêđôni và Hecxini. Chu kỳ tạo núi Calêđôni [từ Cambri tới hết Silua - cách đây từ 420 đến 570 triệu năm] có hai pha: pha sụt lún để lắng đọng trầm tích kéo dài từ Cambri đến O2 và pha uốn nếp kéo dài từ O3 đến S2. Lãnh thổ Quan Sơn lúc này cũng đang nằm trong quá trình nhận trầm tích lắng đọng để hình thành các thành hệ trầm tích từ O3 - S1 của hệ tầng sông Cả với thành hệ đá phiến sericit, đá phiến thạch anh sericit xen đá vôi phân lớp trung bình.

Chu kỳ kiến tạo Hecxini kéo dài từ Dêvôn hạ đến hết Pecmi thượng [cách đây từ 270 đến 400 triệu năm]. Vào D1 có hiện tượng biển tiến mạnh tại các khu vực ven rìa đới phức nếp lồi sông Mã. Trong khi ở đới võng chồng Sầm Nưa vẫn là chế độ biển. Theo S.K Kitôvani [1964], trong khi hầu hết lãnh thổ Thanh Hóa là vùng biển lắng đọng trầm tích, thì Quan Sơn [cùng với Mường Lát, Quan Hóa] đã trở thành lục địa. Đến giai đoạn D2 - P, miền núi Thanh Hóa, trong đó có Quan Sơn lại bị lún chìm để lắng đọng thành hệ trầm tích đá vôi [ở phía bắc đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa] và đá phiến sét, đá vôi, cát kết ở phía nam đứt gãy này.

Giai đoạn Trung sinh [Cách đây từ 65 đến 270 triệu năm]. Giai đoạn này có chu kỳ kiến tạo Inđôxini và kimeri. Chu kỳ Inđôxini diễn ra trong thời gian tương đối ngắn [chỉ khoảng 40 triệu năm] nhưng là chu kỳ quan trọng nhất trong việc hình thành lãnh thổ Việt Nam, Thanh Hóa nói chung và Quan Sơn nói riêng. Nguồn gốc của vận động này chủ yếu có sự liên quan trực tiếp với sự tiến lại gần nhau và xô húc của hai mảng lục địa Ấn Độ ở phía nam và Âu - Á ở phía bắc. Vào đầu chu kỳ, lục địa Cổ sinh bị phân cắt do sự xuất hiện một mạng lưới các đứt gãy mới và sự hồi sinh các đứt gãy cũ tạo nên hàng loạt vùng nâng và sụt có kích thước nhỏ hơn. Lúc này, ở phía bắc Thanh Hóa, địa máng sông Đà sụt lún trước, từ T1 đầu T3 và sụt lún rất mạnh, biển tiến cực đại vào T2a, tốc độ có thể đạt 0,18 - 0,20mm/năm. Đới võng chồng Sầm Nưa trong đó có Quan Sơn bị sụt lún muộn hơn, với tốc độ dưới 0,18mm/năm.

Vào T3 - nr [Triat muộn kỳ nori] có hiện tượng uốn nếp ở địa máng sông Đà và võng chồng Sầm Nưa. Đới sông Mã có lẽ uốn nếp sớm hơn [cuối T2 ?]. Hoạt động macma cũng đã diễn ra để hình thành các khối macma xâm nhập thuộc Phức hệ sông Mã pha 1 [yt T2 sm1] ở phía nam và Phức hệ Phia bioc pha 1 [T3n pb1] ở phía bắc Quốc lộ 217. Cho đến trước Nêôgen, giai đoạn tổng nâng là chủ yếu, làm cho biển lùi và Quan Sơn là lục địa, chịu tác động rửa xói.

Theo S.K Kitovani [1964], vào T1 lãnh thổ Thanh Hóa thuộc phạm vi đới phức nếp lồi sông Mã là lục địa và chịu tác động rửa xói, còn võng chồng Sầm Nưa là vùng biển lắng đọng phiến sét, cát kết. Nhưng vào T3 đầu kỳ Nori, lãnh thổ Thanh Hóa lại bị biển bao phủ, chỉ có mỏm cực Tây thuộc huyện Mường Lát và Vịnh Bắc Bộ là lục địa chịu tác động của quá trình rửa xói. Sang Đệ Tam toàn bộ lãnh thổ Quan Sơn là lục địa, chịu tác động rửa xói.

Giai đoạn Tân sinh bắt đầu từ kỷ Đệ tam cũ [Palêôgen] - cách đây 65 triệu năm và kéo dài đến ngày nay. Trong suốt 40 triệu năm đầu tiên [kỷ Palêôgen] đã diễn ra quá trình bán bình nguyên hóa. Sau sự kiện xô húc vào Trung sinh, đến giai đoạn này diễn ra sự sáp vào nhau của hai mảng lục địa Ấn Độ và Âu - Á [kết quả là hình thành dãy núi Hymalaya vĩ đại]. Chính đây là nguyên nhân làm nảy sinh vận động Tân kiến tạo và được bắt đầu từ Nêôgen [cách đây 25 triệu năm]. Chúng đã làm làm trẻ lại các bán bình nguyên cổ hình thành vào Palêôgen, bóc mòn các nếp núi hình thành trong Trung sinh, chia cắt, hạ thấp địa hình và san bằng các chỗ lõm, làm sụt lún mạnh Vịnh Bắc Bộ và khu vực đồng bằng Thanh Hóa [Vào Plêixtôxen giữa - Plêixtôxen muộn, cách đây 700.000 đến 300.000 năm] tạo điều kiện để lắng đọng vật liệu hình thành đồng bằng Thanh Hóa ngày nay. Vận động Tân kiến tạo trong giai đoạn này diễn ra theo 6 chu kỳ và kết quả đã để lại trên lãnh thổ Thanh Hóa các bậc địa hình có độ cao khác nhau: 1.500 - 1.800m, 1.000 - 1.400m, 600 - 900m, 200 - 600m, 25 - 100m và các bậc thềm sông - biển 15 - 20m, 10 - 12m, 6 - 8m và 4 - 5m. Tại Quan Sơn ngày nay vẫn còn bảo lưu các bề mặt san bằng cổ với các độ cao 1.000 - 1.400m, 600 - 800m và 300 - 500m. Vận động Tân kiến tạo ngày nay vẫn còn tiếp diễn, động đất vẫn thường xảy ra và chúng ta cũng khó lòng mà hình dung được những đặc điểm của địa hình và mạng lưới thủy văn ở Quan Sơn trong nhiều triệu năm nữa.

1.3.3. Các thành tạo macma

Phức hệ sông Mã [yaT2 sm1]: phân bố dọc đứt gãy chạy từ bản Bin [xã Sơn Lư] tới bản Lầu [xã Sơn Hà]. Chúng được cấu tạo bởi granit biotit dạng porphyr, granođiorit horblend - biotit porphyr và lộ diện ở 4 điểm nằm xen kẽ trong khu vực phân bố của hệ tầng Huổi Nhị [S2-D1 hn].

Phức hệ sông Mã pha 1 [yt T2 sm1]: granit biotit dạng porphyr, granođiorit horblend - biotit porphyr. Phức hệ này phân bố gần như ở giữa hệ tầng Đồng Trầu [từ Na Mèo, Mường Mìn], đến khu vực các xã Sơn Điện và Tam Thanh thì phía nam là hệ tầng Đồng Trầu và phía đông bắc là hệ tầng Huổi Nhị.

Phức hệ Phia bioc pha 1 [T3n pb1]: gồm granit biotit và granit hai mica. Trên lãnh thổ Quan Sơn chúng phân bố chủ yếu ở phía bắc đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa và có mặt ở hầu hết các xã trong khu vực này. Ngoài ra phía nam đứt gãy Điện Biên - Núi Nưa cũng có một diện lộ chạy từ bản Bàng [Trung Thượng] về hướng đông nam tới tận lãnh thổ Lang Chánh.

1.3.4. Tài nguyên khoáng sản

Điểm sắt bản Muống, xã Sơn Thủy. Tọa độ trung tâm [VN 2.000]: X= 04 74 591, Y= 22 50 094. Quặng phân bố ở sư­ờn núi thuộc làng Muống, xã Sơn Thủy. Thân quặng có dạng thấu kính dài khoảng 30m, dày từ 2 - 3m kéo dài theo phư­ơng 400 - 2.200, thế nằm 3.100Ð850. Quặng manhêtít có màu đen đặc xít, nằm trong đới tiếp xúc giữa đá granit và các trầm tích lục nguyên. Quặng chư­a bị phá hủy nên phần quặng lăn rất ít. Hàm l­ượng Fe: Cao nhất: 68,10%, Thấp nhất: 16,56%, Trung bình: 52,44%. Trữ lượng 2.000 tấn có thể sử dụng cho luyện kim.

Điểm sắt bản Sủa, xã Sơn Điện. Tọa độ trung tâm [VN 2.000]: X= 04 84 441,Y = 22 47 041. Quặng dư­ới dạng lăn trên s­ườn đồi thuộc đội 1, bản Sủa, xã Sơn Điện và d­ưới chân của đá vôi, diện tích lăn khoảng 1.000m2, dài 100m, rộng 10m. Kích thư­ớc quặng lăn đường kính từ 1,2 - 50cm; hầu hết đã bị phong hóa. Quặng có màu nâu vàng, từ tính yếu. Hàm suất quặng: 10%. Hàm l­ượng quặng Fe: Cao nhất: 50,42%, Thấp nhất: 14,70%, Trung bình: 32,08%. Trữ lượng 3.000 tấn có thể sử dụng làm phụ gia.

Ngoài ra, trên địa bàn huyện Quan Sơn có các loại khoáng sản: Mỏ chì, kẽm ở xã Sơn Thủy, chì, bạc ở xã Sơn Hà, sắt ở xã Tam Lư, Molipden ở xã Mường Mìn, Graphit ở xã Na Mèo, về trữ lượng chưa xác định. Huyện Quan Sơn có nguồn tài nguyên khoáng sản chủ yếu là cát vàng từ các sông suối với chất lượng tốt, đảm bảo xây các công trình nhà cửa kiên cố, cầu, đường; Sỏi khai thác ven các suối và 2 con sông Lò, sông Luồng; Đá có nhiều núi đá dọc tuyến đường 217 và các đường liên xã, đường vành đai biên giới, đường tuần tra biên giới, trong đó nhiều núi đá đen đạt tiêu chuẩn xây dựng công trình kiên cố có thể xay thành đá 1×2, đá mạt, đảm bảo yêu cầu chất lượng công trình cao cấp.

1.4. ĐẤT ĐAI, THỔ NHƯỠNG

1.4.1. Đá gốc [đá mẹ]

Lãnh thổ Quan Sơn có ba nhóm đá mẹ [thường gọi là đá gốc] là cơ sở để hình thành lớp vỏ phong hóa và cùng với các nhân tố tự nhiên khác: khí hậu, sinh vật, thủy văn, địa hình để hình thành các loại đất khác nhau.

Nhóm đá trầm tích: có đá vôi, sa thạch, phiến thạch, sét...

Nhóm đá biến chất có gnai, phiến thạch mica,...

Nhóm đá macma: gồm đá gabro, granit, fooc phia rit...

1.4.2. Đặc điểm các loại đất

Địa hình toàn huyện chủ yếu là núi cao và vừa thuộc các thung lũng sông Lò và sông Luồng, thấp dần theo hướng tây nam - đông bắc. Diện tích đồi núi chiếm khoảng 91%, còn lại xen kẽ là những thung lũng nhỏ, khu vực đất thấp tương đối bằng chủ yếu nằm dọc theo sông Lò và sông Luồng. Diện tích đất của Quan Sơn phân theo độ dốc địa hình bao gồm:

- Đất có độ dốc cấp I [< 30]: 5ha chiếm 0,005% diện tích tự nhiên. Đất có độ dốc cấp II [4 - 80]: 215ha chiếm 0,23%

- Đất có độ dốc cấp III [9 - 150]: 2.285ha chiếm 2,46%

- Đất có độ dốc cấp IV,V,VI [> 150]: 84.837ha chiếm 91,36%

Quan Sơn có các nhóm đất chính sau

Nhóm đất xám Ferralit điển hình [Fa, Fq, Fv]: Diện tích 34.162,24ha, chiếm 36,73% diện tích tự nhiên, thường có ở độ dốc từ 80 trở lên. Loại đất này có đặc điểm tầng đất dày có thể đến vài mét, tỷ lệ sét cao [trên 50%] nên thành phần cơ giới nặng. Tuy nhiên, do cấu tượng tốt nên vẫn tơi xốp, thoáng khí. Đất giàu các cation Ca++, Mg++, Fe+, Al+, đạm và lân tổng số cao, nghèo kali. Nhưng lân dễ tiêu [P205] lại rất thấp, do lân thường kết hợp với Al và Fe ở dạng khó hoà tan: Al[PO4]3 và Fe[PO4]3. Tại nơi có độ dốc 8 - 150 nên trồng cây công nghiệp ngắn ngày, trên 150 nên trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, nông lâm kết hợp, lâm nghiệp. Khi khai thác cần phải có các biện pháp bảo vệ cho đất như chống xói mòn, giữ ẩm cho đất, bón lân, kali và cả đạm nếu cần thiết.

Đất xám Feralit giàu mùn [ACfa - hu]: diện tích 18.769,79ha, chiếm 20,18% diện tích tự nhiên, phân bố ở độ dốc 3 - 150, thích hợp cho trồng cây hàng năm, cây lâu năm.

Đất xám Feralit đá lẫn nông [ACfa - L1]: Diện tích 6.682,71ha, chiếm 7,18% diện tích tự nhiên. Thích hợp cho trồng cây công nghiệp ngắn ngày ở nơi có độ dốc dưới 150 và trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, nông lâm kết hợp và trồng cây lâm nghiệp ở nơi có độ dốc trên 150. Loại đất này phát triển trên đá mẹ giàu sét [đá phiến sét] nên thành phần cơ giới nặng, kém tơi xốp. Đất có độ dày trung bình, phẫu diện đất phân tầng rất rõ. Khi mất lớp phủ rừng, đất rất dễ bị rửa trôi và bào mòn trong mùa mưa, do đó nếu không có biện pháp bảo vệ, đất sẽ bị nghèo đi nhanh chóng.

Đất xám giàu mùn điển hình [AChu - h]: diện tích 19.025,97ha, chiếm 20,45% diện tích tự nhiên, thích hợp cho trồng cây hàng năm, cây lâu năm và cây lâm nghiệp.

Đất xám giàu mùn đá lẫn sâu [AChu - L2]: diện tích 8.701,72ha, chiếm 9,35% diện tích tự nhiên, thích hợp cho trồng cây hàng năm, cây lâu năm và cây lâm nghiệp.

- Nhóm đất mùn Halít trên núi cao [Ha; Hq], chiếm diện tích không lớn và phân bố chủ yếu ở các khu vực núi cao trên 1.000m. Do tác động của độ cao địa hình đã dẫn đến sự giảm nhiệt độ đồng thời lại tăng lượng mưa hạn chế tốc độ phong hóa, nhưng lại thuận lợi cho quá trình tích lũy mùn. Địa hình núi dốc làm cho phẫu diện đất mỏng đi, nhưng lại không có nước đọng, nên không có kết von đá ong và glây, phẫu diện đồng nhất. Lượng mùn có thể lên tới 5 - 8%, đặc biệt xuất hiện tầng thảm mục chưa phân giải triệt để [tầng A0]. Đất ẩm, ngả sang màu vàng, phản ứng rất chua do axit mùn, độ pH xấp xỉ 4. Tại các khu vực có đất này, rừng tự nhiên thường phát triển mạnh, đất được che phủ, ít bị rửa trôi, xói mòn, tầng mùn khá dày, màu sắc đỏ sẫm hay đỏ nâu, tầng đất dày, thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng, đất xốp, giữ ẩm tốt, các chất dinh d­­ưỡng tổng số và chất dễ tiêu đều giàu. Cây trồng chủ yếu là cây lâm nghiệp, rừng gỗ, rừng tre nứa, hỗn giao, luồng... Loại đất này chỉ nên sử dụng vào mục đích nông nghiệp ở mức độ hạn chế. Nếu những khu vực độ dốc thấp có thể khai thác để trồng dược liệu, rau, quả có gốc xứ lạnh.

Nhóm đất Feralit biến đổi do trồng lúa [Fl] phân bố chủ yếu ven đồi do khai hoang xây dựng đồng ruộng sản xuất lương thực theo hệ thống ruộng bậc thang. Đây là loại đất được hình thành từ nguồn gốc ban đầu là các loại đất feralit khác nhau nhưng được sử dụng vào trồng lúa nước, cho nên thành phần đất đã thay đổi so với các loại đất feralit ban đầu. Nhìn chung, chúng đều ẩm, đôi chỗ có tầng đá ong với độ dày, mỏng khác nhau, trên cùng có tầng canh tác [dày 15 - 30 cm] và xuất hiện tầng đế dày.

- Nhóm đất phù sa bồi tụ ven sông, suối [FL]: chiếm khoảng 1% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung ven sông Luồng, sông Lò và rải rác ven một số suối lớn. Đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình, độ phì khá cao, thích hợp trồng lúa, ngô, khoai, rau đậu, hiện chủ yếu đang trồng lúa, hoa màu.

Nhóm đất này gồm đất phù sa và đất dốc tụ. Đất phù sa bồi tụ ven sông, suối [Py] phân bố ven sông Luồng, sông Lò và một số suối lớn. Loại đất này có đặc điểm: tầng đất dày, thường xuyên được bổ sung một lớp phù sa vào mùa nư­­ớc lũ, thành phần tầng đất không đồng nhất, phụ thuộc vào thời gian và l­­ưu tốc của dòng chảy. Đất này rất tốt cả về lý lẫn hóa tính và rất thích hợp cho trồng lúa và rau màu. Tuy nhiên, cần chú ý bố trí cơ cấu cây trồng tránh mùa lũ.

Đất dốc tụ chân đồi [D]: Loại đất này thường phân bố tại các vùng thấp ngay chân núi, chân đồi nên thành phần của nó gần gũi với thành phần của các sườn dưới, sườn giữa và xa hơn là sườn trên của các quả đồi, núi ngay trên đó. Tầng đất dày, thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng, đất chua, nghèo chất dinh dư­­ỡng. Hiện đang đ­­ược sử dụng để trồng lúa, màu và cây công nghiệp hàng năm.

Nhóm đất glây [GL]: diện tích chiếm khoảng 0,2% diện tích tự nhiên, phân bố ở các địa hình trũng, dốc tụ, bị ngập nước thường xuyên hoặc không thường xuyên, một số nơi được nhân dân cải tạo để trồng lúa 1 vụ.

1.4.3. Tình hình sử dụng đất

Trên địa bàn huyện Quan Sơn, diện tích đất tự nhiên giữa các xã không đồng đều. Các xã có diện tích tự nhiên lớn là xã Sơn Thủy; Na Mèo. Diện tích tự nhiên nhỏ là thị trấn Quan Sơn, xã Trung Hạ.

Bảng 1: Diện tích đất phân theo loại đất và phân theo xã, thị trấn

Đơn vị tính: ha

TT

Xã, thị trấn

Tổng số

Trong đó

Đất nông nghiệp

Đất phi nông nghiệp

Đất chưa sử dụng

Tổng số

92.662,5

81.337,5

2.574,56

8.750,44

1

Trung Xuân

4.908,39

4.349,04

157,07

402,28

2

Trung Hạ

3.473,02

3.236,87

216,45

19,70

3

Trung Tiến

4.005,46

3.760,87

138,90

105,69

4

Trung Thượng

5.617,85

5.109,52

163,38

344,95

5

Sơn Lư

4.557,24

4.059,87

167,08

330,29

6

Sơn Hà

8.896,37

8.560,59

157,30

178,48

7

Tam Lư

6.175,69

4.333,09

180,01

1.662,59

8

Tam Thanh

9.924,36

9.367,19

200,72

356,45

9

Sơn Điện

9.437,35

8.522,01

297,45

617,89

10

Mường Mìn

8.920,51

7.823,86

181,35

915,30

11

Sơn Thủy

13.157,79

11.008,03

271,63

1.878,13

12

Na Mèo

12.744,16

10.458,40

360,98

1.924,78

13

Thị trấn Quan Sơn

844,31

748,16

82,24

13,91

Bảng 2: Diễn biến sử dụng đất giai đoạn [2010 - 2014]

TT

Mục đích sử dụng

DT năm 2010 [ha]

CC

[%]

DT năm 2014 [ha]

CC

[%]

Tăng [+] giảm [-]

Tổng diện tích đất của ĐVHC [1+2+3]

93.017,44

100

92.662,73

100

-354,71

1

Đất nông nghiệp

NNP

73.950,7

79,50

81.422,95

87,87

7.472,25

1.1

Đất sản xuất nông nghiệp

SXN

2.521,16

2,71

2.495,78

2,69

-25,38

1.1.1

Đất trồng cây hàng năm

CHN

1.544,37

1,66

1.547,5

1,67

3,13

1.1.1.1

Đất trồng lúa

LUA

1.195,1

1,28

1.209,28

1,31

14,18

1.1.1.2

Đất trồng cây hàng năm khác

HNK

349,27

0,38

338,24

0,37

-11,03

1.1.2

Đất trồng cây lâu năm

CLN

976,79

1,05

948,28

1,02

-28,51

1.2

Đất lâm nghiệp

LNP

71.359,8

76.72

78.854,63

85,10

7.494,83

1.2.1

Đất rừng sản xuất

RSX

35.804,46

38,49

43.171,12

46,59

7.366,66

1.2.2

Đất rừng phòng hộ

RPH

35.555,34

38,22

35.683,53

38,51

128,19

1.2.3

Đất rừng đặc dụng

RDD

0,00

0,00

1.3

Đất nuôi trồng thủy sản

NTS

69,83

0,08

72,49

0,08

2,66

1.4

Đất làm muối

LMU

0,00

0,00

1.5

Đất nông nghiệp khác

NKH

0,00

0,02

0,00

0,02

2

Đất phi nông nghiệp

PNN

2.688,84

2,89

2.689,83

2,90

0,99

2.1

Đất ở

OCT

367,07

0,39

393,77

0,42

26,7

2.1.1

Đất ở tại nông thôn

ONT

357,36

0,38

383,01

0,41

25,65

2.1.2

Đất ở tại đô thị

ODT

9,71

0,01

10,76

0,01

1,05

2.2

Đất chuyên dùng

CDG

550,69

0,59

774,59

0,84

223,9

2.2.1

Đất xây dựng trụ sở cơ quan

TSC

14,4

0,02

8,48

0,01

-5,92

2.2.2

Đất quốc phòng

CQP

11,93

0,01

74,52

0,08

62,59

2.2.3

Đất an ninh

CAN

0,25

0,00

1,78

0,00

1,53

2.2.4

Đất xây dựng công trình sự nghiệp

DSN

45,61

0,05

63,32

0,07

17,71

2.2.5

Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp

CSK

3,71

0,00

46,42

0,05

42,71

2.2.6

Đất có mục đích công cộng

CCC

500,65

0,54

580,08

0,63

79,43

2.3

Đất cơ sở tôn giáo

TON

0,00

0,00

2.4

Đất cơ sở tín ngưỡng

TIN

0,00

0,00

2.5

Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, NHT

NTD

230,27

0,25

226,81

0,24

-3,46

2.6

Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối

SON

1540,71

1,66

1.294,66

1,40

-246,05

2.7

Đất có mặt nước chuyên dùng

MNC

0,00

0,00

2.8

Đất phi nông nghiệp khác

PNK

0,00

0,00

3

Đất chưa sử dụng

CSD

16.377,49

17,61

8.549,96

9,23

-7.827,53

3.1

Đất bằng chưa sử dụng

BCS

426,46

0,46

347,25

0,37

-79,21

3.2

Đất đồi núi chưa sử dụng

DCS

14.520,29

15.61

7.946,09

8,58

-6.574,2

3.3

Núi đá không có rừng cây

NCS

1.430,74

1.54

256,62

0,28

-1.174,12

1.5. KHÍ HẬU

1.5.1. Đặc điểm chung

Do sự tác động của các nhân tố: vị trí địa lý, hoàn lưu gió mùa trong á địa ô gió mùa Trung - Ấn, quy mô lãnh thổ, sự tác động của hướng sơn văn và độ cao của địa hình mà Quan Sơn có đặc điểm khí hậu của khu vực miền núi Bắc Trung Bộ. Mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, lạnh và mưa ít. Mùa hè chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam mưa nhiều, có gió Tây khô nóng.

Nhiệt độ trung bình năm 23 - 240C, mùa đông nhiệt độ trung bình tháng 1 khoảng 14 - 150C, nơi núi cao dưới 130C, có năm thấp nhất dưới 40C, mùa hè nhiệt độ trung bình tháng 7 khoảng 30 - 310C, cao nhất lên tới 38 - 400C.

Lượng mưa trung bình hàng năm khá cao 1.800 - 1.900mm nhưng phân bố không đều theo mùa. Mùa hè tháng 5 đến tháng 10, mưa nhiều chiếm 80 - 85% lượng mưa cả năm. Mùa đông mưa ít chiếm 15 - 20% lượng mưa cả năm, ít mưa nhất vào tháng 12 và tháng 1 năm sau, lượng mưa trung bình tháng 20mm.

Tổng tích ôn trung bình năm 8.3000C - 8.5000C. Độ ẩm không khí trung bình 86%. Số giờ nắng hàng năm trung bình 1.700 - 1.800 giờ, tháng có nhiều ngày nắng là tháng 7, tháng có ít ngày nắng là các tháng 1, 2.

- Bão xuất hiện vào tháng 7 đến tháng 10, trung bình hằng năm có 3 - 4 cơn bão kèm theo mưa to, tốc độ gió cao nhất lên đến 30m/s.

Đặc điểm khí hậu, thời tiết ở Quan Sơn nhìn chung tương đối ôn hòa, nhất là ở các đai núi cao, thuận lợi cho dân sinh và phát triển du lịch. Phát triển sản xuất đa dạng với nhiều loại cây trồng như luồng, thông, chè, cao su, mía, cây ăn quả, cây dược liệu. Nền nhiệt, ẩm cao có tác động mạnh đến thúc đẩy tăng năng suất cây trồng nhất là cây mía, tre luồng. Hạn chế lớn nhất về mùa đông ở Quan Sơn lượng mưa ít gây khô hạn ở nhiều nơi, vùng núi cao thường có sương giá, rét đậm rét hại xảy ra nhiều và kéo dài ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi. Mùa hè, có những đợt mưa bão lớn, gây lũ quét, lũ ống, sạt lở đất ảnh hưởng đến sản xuất, đi lại và sinh hoạt.

1.5.2. Các yếu tố của khí hậu

1.5.2.1. Chế độ bức xạ mặt trời, mây, nắng

Hằng năm lãnh thổ Quan Sơn có 2 lần mặt trời đi qua thiên đỉnh. Độ cao mặt trời lớn nhất vào tháng 5: 88011’ và nhỏ nhất vào tháng 12: 46023’.

Độ dài ngày lớn nhất vào tháng 6 [13 giờ 12 phút] và ngắn nhất vào tháng 10 [10 giờ 48 phút]. Thời gian chiếu sáng trung bình hằng năm trên 4.400 giờ. Tuy nhiên, tại các thung lũng thời gian chiếu sáng thường thấp hơn 1 - 2 giờ mỗi ngày.

Lượng mây trung bình 7,5/10 - 8,0/10 bầu trời và tập trung nhiều vào những tháng cuối mùa đông và mùa xuân. Do có nhiều núi cao nên Quan Sơn có nhiều mây hơn các địa phương ở đồng bằng và ven biển.

Số giờ nắng trung bình hằng năm là 1.684 giờ và ít thay đổi theo các khu vực trong huyện [trừ sự khác nhau giữa đỉnh núi và thung lũng], nhưng lại thay đổi theo mùa: cao nhất vào tháng 7 [235 giờ], sau đó là tháng 6 [200 giờ] và thấp nhất vào tháng 2, tháng 3 [chỉ khoảng 47 - 50 giờ].

Tổng lượng bức xạ hàng năm 100 - 120 kcal/cm2, ít biến đổi theo khu vực khác nhau của lãnh thổ [trừ sự khác nhau giữa đỉnh núi và thung lũng], nhưng lại thay đổi theo mùa. Tháng 5 có lượng tổng xạ cao nhất [trên 12,5 kcal/cm2] và thấp nhất là các tháng 1 - 2 [chỉ 6 kcal/cm2].

Cân bằng bức xạ trung bình năm là 65 - 80 kcal/cm2. Sự khác biệt cân bằng bức xạ giữa các tháng rất lớn. Tháng 5 có cân bằng bức xạ lớn nhất [9,52 kcal/cm2] và tháng 1 chỉ có 2,71 kcal/cm2.

1.5.2.2. Chế độ gió

Các hệ thống gió mùa tác động quanh năm tới lãnh thổ Quan Sơn. Vào mùa đông hướng gió có thành phần thiên Bắc và thiên Đông chiếm ưu thế, các thành phần gió có hướng tây và Nam có tần suất rất nhỏ. Các trường hợp lăng gió có tần suất là 31%. Vào mùa hè, gió có thành phần Nam chiếm ưu thế. Tốc độ gió trung bình năm và trung bình các tháng chỉ dao động 1 - 2 m/giây và ít có sự khác biệt giữa các tháng trong năm. Tốc độ gió giảm dần từ Đông Nam lên Tây Bắc. Chẳng hạn vào tháng 10, tháng 11 tốc độ gió trung bình là 1,3 m/giây. Tuy nhiên, tốc độ gió cực đại ở Quan Sơn có thể đạt tới 40m/giây và thuộc thành phần thiên Đông vào những thời kỳ có nhiều bão. Còn hướng gió thay đổi phức tạp nhất là trong các cơn dông, lốc, xoáy.

1.5.2.3. Nhiệt độ không khí

Nhiệt độ không khí trung bình năm là 22,70C và sự chênh lệch nhiệt độ giữa các vùng không lớn, trừ vùng núi cao, nhưng lại rất khác nhau theo mùa và các tháng trong năm.

Vào mùa nóng [từ tháng 3 đến tháng 8], nhiệt độ không khí đều cao hơn 200C, ba tháng nóng nhất là 5, 6, 7 đều trên 270C, nhiệt độ trung bình tháng 7 là 27,60C. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối ở các vùng của Quan Sơn đều dao động trong khoảng 39 - 400C và tập trung vào tháng 5, tháng 7.

Biên độ giao động năm của nhiệt độ là 6 - 80C. Biên độ giao động nhiệt ngày đêm cao nhất tới 11,40C vào tháng 2.

Các cực trị nhiệt độ cao nhất đạt gần 410C và xảy ra vào tháng 5, thấp nhất là 2,60C vào tháng 12, tháng 1 năm sau. Tại các đỉnh núi cao trên 1.100m vẫn có khả năng gặp nhiệt độ dưới 00C.

Tổng nhiệt độ hoạt động trong năm ở các thung lũng là 8.2850C và 7.000 - 7.5000C tại các đỉnh núi cao.

1.5.2.4. Chế độ mưa, ẩm và bốc hơi

Do nằm ở vị trí bị núi che khuất [về hướng đông nam] nên lượng mưa của Quan Sơn thấp hơn Lang Chánh. Lượng mưa trung bình năm của Quan Sơn dao động trong khoảng 1.600 - 1.800mm. Khu vực mưa ít nhất là thị trấn Quan Sơn dưới 1.600mm. Mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 10 [tháng có lượng mưa trên 100mm]. Tháng có lượng mưa < 100mm là tháng 12; 1; 2; 3 và tháng 4 năm sau. Số ngày mưa 194 ngày/năm, tháng có số ngày mưa nhiều nhất là các tháng 6, 7 và 8.

Độ ẩm tuyệt đối của không khí trung bình năm là 25mb, mùa khô là 16 - 21mb và mùa mư­­a là 28 - 32mb. Độ ẩm t­ương đối trung bình năm là 87%, vào đầu thời kỳ khô hanh có thể xuống tới 45%. L­­ượng bốc hơi trung bình năm là 792mm. Các tháng 5, 6 và 7 có lượng bốc hơi cao nhất và l­­ượng bốc hơi thấp nhất là vào các tháng 1, 2 và 3.

1.5.2.5. Thời tiết đặc biệt và thiên tai

Trung bình hàng năm có 3,11 cơn bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ trực tiếp vào Thanh Hóa. Tuy nhiên, do vị trí xa biển và địa hình thung lũng, nên bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng tới Quan Sơn không nhiều như các địa phương đồng bằng. Tác hại chủ yếu là gây mưa lớn, lũ quét, lũ ống.

Do nằm ở vị trí phía tây nên số ngày có gió tây khô nóng trung bình năm là 21,5 ngày/năm và gió tây khô nóng tác động tới Quan Sơn sớm hơn vùng đồng bằng khoảng ½ tháng. Gió tây khô nóng chi phối khá mạnh các đặc điểm tự nhiên và hoạt động sản xuất, sinh hoạt của Quan Sơn.

Gió mùa Đông Bắc mang tính chất lạnh khô vào đầu mùa đông và lạnh ẩm vào cuối mùa đông. Trung bình hằng năm, số đợt gió mùa Đông Bắc ở Quan Sơn là khoảng 18 đợt, chủ yếu vào tháng 10 đến tháng 3 năm sau.

Dông: Trung bình hằng năm Quan Sơn có 53 - 55 ngày dông. Các tháng mùa hè có thể có tới 10 - 15 ngày dông/tháng.

Số ngày rét đậm có sương giá trung bình 5,4 ngày/năm; Số ngày có khả năng sương muối 1,2 ngày/năm [vào tháng 12 và tháng 1 năm sau];

Số ngày mưa phùn trung bình 48,2 ngày/năm [vào tháng 1 - 3];

Số ngày hanh heo trung bình 11,4 ngày/năm [vào tháng 11 - 12];

Trung bình cũng có 15 - 18 ngày có s­­ương mù và thường tập trung nhiều vào các tháng 1, 2 và 3.

Những đặc điểm trên đây của khí hậu cho phép Quan Sơn có thể tiến hành các hoạt động sản xuất và sinh hoạt quanh năm mà không bị gián đoạn bởi một mùa băng tuyết như ở các nước xứ lạnh; có thể phát triển được một nền lâm nghiệp, nông nghiệp nhiệt đới, với đặc điểm đa dạng cây trồng, vật nuôi, làm được nhiều vụ trong năm, thực hiện được các biện pháp xen canh, gối vụ, tăng vụ nhằm tăng năng suất và sản lượng trên một diện tích đất canh tác hạn chế ở một huyện miền núi. Với số giờ nắng lớn, cho phép đồng bào có thể phơi nông, lâm sản, lắp đặt các thiết bị làm nước nóng phục vụ sinh hoạt, hay sản xuất nguồn năng lượng sạch [điện Mặt Trời]... nhằm hạn chế sử dụng nguồn nhiên liệu từ rừng vốn đang có nguy cơ cạn kiệt và tài nguyên rừng còn có thể sử dụng cho các mục đích khác nhau.

Tuy nhiên, nóng ẩm cao cũng làm cho sâu bệnh, dịch bệnh phát triển mạnh, nông sản khó bảo quản sau khi thu hoạch. Cường độ của những trận mưa nhiệt đới rất mạnh, kéo dài và tập trung làm cho quá trình xói mòn, rửa trôi diễn ra rất mãnh liệt, xuất hiện các trận lũ quét, lũ bùn đá, lũ ống gây thiệt hại lớn cho sinh hoạt và sản xuất. Những ngày có nhiều sương mù hạn chế tốc độ giao thông. Giông, tố lớn cũng gây ra nhiều thiệt hại về nhà cửa và hoa màu. Mùa khô có thể gây tình trạng thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt, dễ gây nguy cơ cháy rừng.

Bởi vậy, cần làm tốt công tác dự báo thời tiết, xây dựng lịch sản xuất, bố trí cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý... để hạn chế bớt tác động tiêu cực của khí hậu.

1.5.3. Sự phân hóa của khí hậu

1.5.3.1. Sự phân hóa theo các tháng trong năm

Tháng 1: là tháng rét nhất, với 3 - 4 đợt gió mùa Đông Bắc và 9 - 10 ngày rét đậm. Nhiệt độ trung bình 15,50 - 16,50C, thấp nhất trên núi cao có khi 20 - 30C và cao nhất 220 - 250C. Lư­ợng mư­a 10 - 40 mm, độ ẩm không khí 84 - 89%.

Tháng 2: Trời rét ẩm, nhiều ngày âm u và mư­­a phùn, có 3 - 4 đợt gió mùa Đông Bắc hoạt động với 6 - 8 ngày rét đậm, nhiệt độ trung bình 17 - 180C, thấp nhất 50 - 70C, cao nhất 230 - 270C. Lượng mư­­a 15 - 45mm, độ ẩm không khí 85 - 91%. Tổng số giờ nắng 30 - 70 giờ.

Tháng 3: Trời lạnh và rất ẩm, nhiều ngày có m­­ưa phùn, có 2 - 3 đợt gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình 190 - 200C, thấp nhất 80 - 100C, cao nhất 270 - 290C. Tổng lượng m­­ưa 30 - 60mm, độ ẩm 85 - 93%.

Tháng 4: có 2 - 3 đợt gió mùa Đông Bắc tràn về gây ra mư­­a rào và dông đầu mùa. Nhiệt độ trung bình 230 - 240C, thấp nhất 110 - 130C, cao nhất 310 - 330C. Tổng l­­ượng m­­ưa 40 - 90mm, độ ẩm không khí 84 - 92%. Tổng số giờ nắng 90 - 120 giờ.

Tháng 5: Tháng đầu mùa nóng và mùa mư­a, có 2 - 3 ngày có gió Tây khô nóng và 1 - 2 đợt gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình 270 - 280C, thấp nhất 140 - 160C, cao nhất 360 - 380C. L­­ượng mư­­a 110 - 230mm. Độ ẩm không khí trung bình 83 - 86%. Tổng số giờ nắng 170 - 220 giờ. Có khả năng xảy ra lũ Tiểu mãn.

Tháng 6: Trời rất nóng, có thể xuất hiện bão đầu mùa. Có 1 - 2 đợt không khí lạnh yếu tràn về. Nhiệt độ trung bình 28,50 - 29,50C, cao nhất 370 - 390C. Tổng l­ượng mưa 140 - 255mm. Độ ẩm không khí trung bình 80 - 85%. Tổng số giờ nắng 160 - 210 giờ. N­ước sông nâng lên nhiều và bắt đầu bước vào mùa lũ.

Tháng 7: là tháng nóng nhất và bắt đầu chịu ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới và bão. Trong tháng có 1 - 2 ngày m­­ưa rất to. Nhiệt độ không khí trung bình 290 - 300C, cao nhất 37,50 - 39,50C. Tổng l­ượng mư­­a 165 - 335mm. Độ ẩm không khí 79 - 86%. Tổng số giờ nắng 170 - 240 giờ.

Tháng 8: Có nhiều ngày mư­a to và rất to do chịu ảnh h­­ưởng của bão và áp thấp nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình 27,50 - 28,50C, cao nhất 360 - 380C. Tổng l­­ượng m­­ưa 450 - 330mm, độ ẩm không khí trung bình 85 - 88%. Khả năng xảy ra lũ quét, lũ ống, lũ bùn đá lớn. Tổng số giờ nắng 180 - 200 giờ. Các sông có lũ lớn.

Tháng 9: Là tháng có sự tác động bão và áp thấp nhiều nhất và tổng lượng mưa lớn nhất. Tổng l­­ượng m­­ưa 400 - 600mm, nhiệt độ trung bình 26,50 - 27,50C, cao nhất 340 - 360C. Tổng số giờ nắng 160 - 200 giờ. Khả năng xảy ra lũ quét, lũ ống, lũ bùn đá lớn. Có năm đã xuất hiện 1 - 2 đợt không khí lạnh đầu mùa tràn về.

Tháng 10: Thời tiết chuyển từ mùa nóng sang mùa lạnh, có 2 - 3 đợt gió mùa Đông Bắc tràn về. Nhiệt độ không khí trung bình 240 - 250C, thấp nhất 15 - 170C và cao nhất 310 - 330C. Tổng l­­ượng m­­ưa 160 - 400mm. Độ ẩm không khí 84 - 87%. Tổng số giờ nắng 120 - 170 giờ.

Tháng 11: Trời lạnh và khô hanh, có 2 - 3 đợt gió mùa Đông Bắc tràn về, gây ra 1 - 2 ngày rét đậm. Nhiệt độ không khí trung bình 21 - 220C, thấp nhất 100 - 120C và cao nhất 290 - 310C. Tổng l­­ượng mư­­a 40 - 110mm. Độ ẩm không khí 83 - 87%. Tổng số giờ nắng 110 - 150 giờ.

Tháng 12: Trời rét xen kẽ nhiều ngày khô hanh, có 3 - 4 đợt gió mùa Đông Bắc tràn về, gây ra 4 - 6 ngày rét đậm. Nhiệt độ không khí trung bình 180 - 190C, thấp nhất 60 - 80C, cao nhất 280 - 300C. Tổng số giờ nắng 120 - 140 giờ, l­­ượng mư­­a 15 - 35mm. Độ ẩm không khí trung bình 83 - 86%.

Sự phân hóa theo mùa, theo tháng của khí hậu Quan Sơn đã tạo nên sự thay đổi theo mùa của cảnh sắc thiên nhiên và các quá trình tự nhiên, làm cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người cũng in đậm nhịp điệu mùa. Đấy cũng là nền móng để tạo nên sự đa dạng về văn hóa của Quan Sơn. Đồng thời đặc điểm này cũng đòi hỏi phải làm tốt công tác dự báo thời tiết, xác lập nông lịch một cách khoa học và chính xác, xây dựng lịch canh tác cụ thể cho từng thời kỳ trong năm.

1.5.3.2. Phân hóa khí hậu theo đai cao [từ thấp lên cao]

Theo quy luật chung càng lên cao nhiệt độ càng giảm. Đây là nguyên nhân làm cho Quan Sơn có 2 đai và 4 á đai khí hậu:

1. Đai nhiệt đới hơi ẩm đến ẩm ­­ướt chân núi từ 0m đến 750m. Đai này có hai á đai:

1a: Dưới 350m: Á đai nhiệt đới hơi ẩm đến ẩm ­­ướt chân núi có 1 tháng mùa đông rét [nhiệt độ dưới 150C]. Á đai khí hậu này chiếm khoảng 15% diện tích của Quan Sơn và chủ yếu phân bố ở khu vực dọc thung lũng sông Luồng, sông Lò.

1b: Từ 350 - 750m: Á đai nhiệt đới hơi ẩm đến ẩm ư­­ớt chân núi có mùa đông rét [3 tháng nhiệt độ dưới 150C]. Á đai khí hậu này chiếm khoảng 50% diện tích của Quan Sơn và chủ yếu phân bố ở khu vực trung tâm và phía đông, phía nam Quan Sơn.

2. Đai cận nhiệt đới hơi ẩm đến ẩm ­­ướt trên núi từ 700m đến 2.700m, với tổng nhiệt độ từ 4.500 - 7.5000C, t­­ương quan nhiệt ẩm trên 1,5 và có mùa hạ cận nhiệt đới mát, nhiệt độ trung bình năm d­ưới 220C. Đai có hai á đai:

2a: Từ 750 - 1.100m: Á đai chuyển tiếp từ nhiệt đới sang cận nhiệt đới. Á đai khí hậu này chiếm khoảng 28% diện tích của Quan Sơn và chủ yếu có ở biên giới Việt - Lào và địa giới Quan Sơn - Mường Lát.

2b: Từ 1.100 - 1.750m: Á đai cận nhiệt đới điển hình. Á đai khí hậu này chiếm khoảng 5% diện tích của Quan Sơn và chủ yếu phân bố ở biên giới Việt - Lào.

Sự phân hóa theo đai cao của khí hậu ở đây không chỉ tạo nên sự khác biệt lớn giữa khí hậu Quan Sơn với khí hậu các khu vực đồng bằng và ven biển mà còn tạo nên tính vành đai theo độ cao của các hoạt động sản xuất mà nhất là nông và lâm nghiệp. Trong khu vực nhiệt đới, khí hậu mát mẻ trên núi cao là một lợi thế cần được nghiên cứu khai thác, sử dụng.

1.6. TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ MẠNG LƯỚI SÔNG SUỐI

1.6.1. Tài nguyên nước

Một số thông số về tài nguyên nước của lãnh thổ Quan Sơn:

Tổng lượng nước mưa rơi xuống trung bình năm là 1,581 tỷ m3.

Tổng lượng nước bốc hơi trung bình năm là 0,736 tỷ m3.

Tổng lượng nước sinh ra dòng chảy ngầm: 0,210 tỷ m3

Tổng lượng nước sinh ra dòng chảy mặt: 0,635 tỷ m3.

Tổng trữ lượng ẩm của lãnh thổ là 0,845 tỷ m3

Theo số liệu tính toán trên thì tài nguyên n­ước của Quan Sơn rất phong phú. Trữ lượng nước ngọt tính theo đầu người của Quan Sơn là 17.500m3 nước/người. Trong khi trung bình cả nước chỉ 10.163m3/người.

Hằng năm, hệ thống sông của Quan Sơn vận chuyển trên 0,635 tỷ m3 nước.

Độ sâu lớp dòng chảy là 908mm, modul dòng chảy mặt trung bình là 37,9 lít/giây/km2. Chất l­­ượng n­­ước mặt khá tốt.

Modul dòng chảy ngầm biến thiên từ 2,5 l/s/km2 đến 19,0 l/s/km2. Nhìn chung chất l­­ượng n­­ước ngầm tốt, hầu như­­ ch­­ưa bị ô nhiễm.

1.6.2. Mạng lưới sông suối

1.6.2.1. Đặc điểm chung

Do cấu tạo địa hình và địa chất phức tạp, có nhiều núi cao, độ dốc lớn cùng với l­­ượng m­­ưa khá lớn nên Quan Sơn có mạng l­­ưới sông suối khá dày đặc. Toàn huyện có trên 300 khe, suối lớn nhỏ với tổng chiều dài của các khe, suối gần 1.000km. Mật độ lưới sông biến đổi từ 0,8 tới 1,3km/km2, trung bình là 1,05km/km2.

Phần lớn các sông trên địa phận Quan Sơn đều ngắn, dốc với độ dốc biến thiên từ 10,0 - 33,9%, lòng hẹp n­­ước chảy xiết, lắm ghềnh thác, mang tiềm năng thủy điện lớn, nhưng cũng thường xuyên gây ra lũ ống, lũ quét khi có mưa to. Các địa điểm đã xảy ra lũ quét trong những năm gần đây là bản Xộp Huổi [xã Na Mèo]; bản Yên, bản Mìn [xã Mường Mìn]; Km 35, bản Bon [xã Sơn Lư]; bản Khạn, bản Bôn, bản Máy [xã Trung Thượng]; bản Xày, bản Bá [xã Trung Hạ]; bản Muống, bản Cạn, bản Phú Nam [xã Trung Xuân]; bản Lầu [xã Sơn Hà]; bản Muống, bản Hát [xã Tam Lư]; bản Bôn [xã Tam Thanh]; bản Chanh [xã Sơn Thủy].

Sông, suối Quan Sơn có nhiều n­­ước, nước chảy quanh năm, nh­­ưng lượng nước thay đổi theo mùa. Mùa kiệt từ tháng 12 đến đầu tháng 5 năm sau chỉ chiếm 20 - 30% tổng l­­ượng nư­­ớc, mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 9 chiếm tới 70 - 80% tổng lượng n­ư­ớc và đến chậm so với sông Mã từ nửa tháng đến 1 tháng. Các hệ thống sông ở Quan Sơn hằng năm vận chuyển ra biển 0,186 triệu tấn phù sa [modul xâm thực là 20 tấn/km2] cùng nhiều phù du sinh vật và các chất khoáng hòa tan trong nước.

Đáng chú ý là mạng lưới sông suối của Quan Sơn ít có giá trị giao thông. Trên nhiều vị trí, nhân dân đã đặt các guồng nước hoặc xây các đập dâng nước để lấy nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Hiện trên địa bàn huyện có trên 40 đập ngăn giữ nước phục vụ phát triển sản xuất và cấp nuớc sinh hoạt cho nhân dân.

1.6.2.2. Các hệ thống sông

Sông Lò

Sông Lò bắt nguồn từ Mường Pao, huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đoạn nguồn ở đất Lào gọi là Nặm Pao. Đoạn chảy vào Việt Nam thuộc địa giới bản Kham, xã Tam Thanh, huyện Quan Sơn, tiếng Thái gọi là Nặm Mò [sông chảy vào Mường Mò, xã Tam Thanh]. Tiếng phổ thông gọi là sông Lò.

Sông Lò chảy qua huyện Quan Sơn dài trên 62km chạy qua các xã: Tam Thanh, Tam Lư, Sơn Lư, Sơn Hà, thị trấn Quan Sơn, xã Trung Thượng, Trung Tiến, Trung Hạ, Trung Xuân rồi đổ ra sông Mã ngoài Pha Lý, xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa.

Trên địa bàn huyện Quan Sơn, sông Lò được bổ sung nguồn nước từ hàng trăm con suối lớn nhỏ ở các địa bàn mà nó chảy qua. Trong đó có các suối lớn: suối Cáng, suối Pa, suối Khà, suối Tình, suối Tuốp [nguồn suối Tuốp là suối Sỏi], suối Hạ, suối Máy Bàng, suối Ngàm, suối Cum, suối Đe, suối Xày, suối Din, suối Bá, suối Phụn, suối Cắn, suối Túng, suối Pa O, suối Cạn, suối Dú, suối La.

Sông Lò chảy từ hướng tây - nam về hướng đông - bắc là con sông có nguồn nước tương đối lớn cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt, thủy lợi, nguồn lợi thủy sản phong phú đa dạng. Mỗi năm đồng bào các dân tộc dọc tuyến sông Lò đánh bắt được hàng chục tấn cá, ốc... Con sông Lò là mạch giao thông đường thủy chính vận chuyển hàng hóa lâm sản của đồng bào các xã dọc tuyến về Hồi Xuân, huyện bán cho nhà nước rồi mua hàng hóa vật tư về phục vụ đời sống sinh hoạt sản xuất canh tác của người dân.

Từ thập niên 70 của thế kỷ XX trở về trước, sông Lò có lưu lượng nước lớn, nhiều vụng nước sâu đến 10 sải tay người lớn [khoảng 16 - 17m độ sâu]. Sông Lò có nhiều loài cá, trong đó nổi tiếng có loài cá Dốc, con to đến 15kg, cá Lăng, cá Ké, cá Chày vây đỏ to như cá Dốc, các loại cá nhỏ khác thì nhiều vô kể. Đây là nguồn lợi thủy sản lớn nuôi sống đồng bào dọc hai bên bờ sông. Cá sông Lò ngon, nhiều mỡ hơn cá sông Luồng do nhiều vụng nước sâu và trong veo, nước chảy chậm hơn sông Luồng.

Sông Lò gắn với nhiều dấu ấn lịch sử, danh thắng và những câu chuyện dân gian ly kỳ: Cầu Pha Lò tại Km 33 [từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên] nơi dân quân xã Trung Thượng bắn cháy máy bay F105 vào năm 1966, Km 35 nơi đặt thị trấn huyện lỵ Quan Sơn, nay có cây cầu bắc qua sông Lò; Động Nang Non [pha Su Lú] Km 39 núi đá giao với sông Lò tạo thành cảnh quan đẹp với hang động Nang Non kỳ vĩ; Noong Dạ là ao nước tự nhiên, quanh năm trong veo, ở đỉnh Pù Dạ, xã Trung Tiến; Vằng Hậu [Vụng Hậu] sông Lò ở bản Hậu, xã Tam Lư; Pù Kùn - Đỉnh Pù Kùn, bản Xum, xã Sơn Hà, nơi đó có “Bo Lồm” [Mỏ gió], một hang đất suốt ngày có gió thổi tuôn từ trong hang ra, người xưa truyền lại nếu ta thả một bó lá dong rừng xuống đó thì sau 7 ngày nó sẽ xuất hiện ở Vụng Hậu, bản Hậu, xã Tam Lư.

Trong những năm gần đây, do nhiều yếu tố tác động, sông Lò bị cạn hơn, chỗ sâu nhất chỉ vào khoảng 4 - 5m nước, cá đã giảm nhiều, cá Dốc, cá Chày, cá Ké to, nặng đến 10kg hầu như không còn. Nhưng cho đến nay, sông Lò vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống của nhân dân huyện Quan Sơn. Sông Lò là một biểu tượng đẹp, luôn sống mãi trong tâm thức, tình cảm của người dân các bản huyện Quan Sơn.

Sông Luồng

Sông Luồng do hai con suối lớn của Lào là Nặm Xôi và Nặm Pùn hợp nhau tại Cửa khẩu Quốc Tế Na Mèo tạo thành Nặm Tuông, tiếng phổ thông gọi là sông Luồng.

Sông Luồng có tổng chiều dài trên 106km, đoạn chảy qua huyện Quan Sơn dài 46km, chảy qua các xã Na Mèo, Sơn Thủy, Mường Mìn, Sơn Điện rồi về các xã Nam Động, Nam Tiến, Nam Xuân của huyện Quan Hóa, dài gần 60km. Sông Luồng đổ ra sông Mã tại hòn Đá Ngang [Cón hín khoáng] sộp Tuồng ngoài hang Ma, xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa.

Lưu lượng nước sông Luồng cũng ngang với sông Lò, nhưng dòng chảy ở địa phận Quan Sơn xiết hơn vì độ dốc cao hơn. Sông Luồng có hàng trăm con suối lớn nhỏ dẫn nước về sông, trong đó đáng kể nhất là các con suối lớn như: suối Sàng, suối Cài, suối Cha Khót, suối Son, suối Xia, suối Lế, suối Bóng, suối Yên, suối Nhài, suối Bun, suối Sủa [bản Na Phường, bản Sủa].

Trong các suối lớn đổ ra sông Luồng thì lớn nhất và dài nhất là suối Xia [dài khoảng 30km], bắt nguồn từ Lào, chạy qua Xia Nọi, đổ ra sông Luồng tại bản Thủy Sơn, xã Sơn Thủy.

Suối Yên bắt nguồn từ bản Yên, giáp với biên giới Việt - Lào đổ ra sông Luồng tại bản Chiềng [Mường Mìn] dài khoảng 25km. Trước đây các con suối này rất nhiều cá, có cả cá Dốc là loại cá chuyên ở nước sâu, nay nước suối Yên, suối Xia đã cạn, chỗ sâu nhất chỉ có 2 - 3m.

Sông Luồng từ Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo chảy theo hướng tây - đông, càng xuống hạ lưu thì lượng nước càng nhiều, sông càng rộng do nhiều con suối có nước đổ vào.

Cũng như sông Lò, trước thập niên 70, thế kỷ XX sông Luồng là mạch giao thông đường thủy quan trọng giúp đồng bào xuôi bè đưa lâm sản và hàng hóa về Hồi Xuân, Quan Hóa trao đổi, mua bán. Hai con sông Lò, sông Luồng mỗi năm đưa hàng triệu cây vầu, nứa, luồng, hàng ngàn mét khối gỗ từ thượng nguồn về Hồi Xuân bán cho nhà nước, do ngành lâm nghiệp tổ chức thu mua.

Sông Luồng có nguồn lợi thủy sản lớn, là nguồn nước giúp đồng bào làm thủy lợi tưới tiêu cho ruộng đồng dọc theo hai bờ sông. Sông Luồng có nhiều cảnh đẹp, nhiều thác nước gắn với những câu chuyện dân gian ly kỳ như “Vằng chạng nặm” [vụng Voi Nước], “vằng Xuốm” [vụng Xuốm], thác Nhài.

“Vằng chạng nặm” [vụng Voi Nước] ở bản Xuân Thành, xã Sơn Thủy gần bản Bo, xã Na Mèo, đây là vụng nước rộng, sâu, ngày xưa có hai con voi thường tắm mát ở đó, tương truyền rằng mỗi khi có người, nó lặn xuống chỗ sâu nhất ở ngay chỗ dòng nước lao vào núi đá cuộn thành vụng nước sâu khoảng 9 - 10 sải tay [15 - 17m].

“Vằng Xuốm” [vụng Xuốm] ở đoạn xã Mường Mìn sâu khoảng 10 - 12m nước, có hẻm đá là nơi ở của rồng, tiếng Thái gọi là “Nghém ngước”, dưới đáy hang sâu chảy dài khoảng 10m vào hang đá, chỗ này rất nhiều cá nhưng người không có tài không thể lặn xuống bắt cá được vì hai lý do. Một là nước sâu, hang dài, phải có hơi dài mới lặn xuống mà vào hang bắt cá được. Hai là sợ xuống đó gặp thuồng luồng. Nay vụng nước này đã bị nhiều cát, đá, gốc cây vùi lấp, nước đã cạn, chỉ còn sâu khoảng 4 - 5m, cá đã ít đi nhiều, thuồng luồng cũng không còn nữa.

Thác Nhài, đoạn sông Luồng chảy qua bản Nhài, xã Sơn Điện có một hòn đá rộng ở cuối thác đầu vũng nước, dưới hòn đá có một hang sâu vào núi. Tương truyền, trước đây người xuôi bè xuống đó thường bị con “Kô Kê” [bạch tuộc] đón sẵn ở tràn đá bắt ăn thịt. Người xuôi bè xuống đến gần đó phải dỡ bè ra, vác qua khúc sông ấy rồi đóng bè lại mới xuôi tiếp. Nếu ai làm liều xuôi bè xuống thác sẽ bị con Kô Kê ăn thịt. Vào khoảng thế kỷ XVII, con Kô Kê này đã chết do ăn thịt một bà lão người Xá [Khơ mú] chết trôi từ suối Yên ra, trong người bà có gói thuốc độc dùng để tẩm tên nỏ để bắn thú, con Kô Kê ăn phải đã chết, người dân cắt lấy đầu nó về trình tạo Mường Mìn, lúc đó là ông Mường Đồng ở bản Luốc Làu. Từ đó trở đi thác nước này không làm cho người xuôi bè sợ hãi nữa. Do Tạo Mường Mìn giữ đầu con Kô Kê nên năm đó thuồng luồng làm nước sông Luồng dâng lên ngập bản và nhà Tạo Mường bị cuốn ra sông Luồng, may mà tạo mường Mìn và một số dân thoát chết. Từ đó nhân dân đặt tên là bản “Ngước Làu” [thuồng luồng ăn], sau này gọi chệch đi là bản Luốc Làu, để khỏi bị ám ảnh, sợ hãi. Bản Luốc Làu nay thuộc xã Mường Mìn, huyện Quan Sơn.

Còn nhiều cảnh đẹp và những câu chuyện ly kỳ liên quan đến dòng sông Luồng, như “Cánh mé nài” [Thác bà ngoại] ở bản Bau, xã Nam Động, “Cánh Luông”, “Cánh Tạng” ở bản Lở, xã Nam Động, hang Phí [hang ma], xã Hồi Xuân [huyện Quan Hóa]... Thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hầu hết thanh niên trai tráng lên đường tòng quân vào miền Nam đánh giặc cứu nước, ở lại quê nhà phần lớn là phụ nữ, người già và trẻ em. Nhiều chị em phụ nữ lứa tuổi trung niên, thanh niên đã xuôi bè đưa luồng, nứa, gỗ theo sông Luồng về sông Mã nhập cho nhà nước để góp phần xây dựng hậu phương phục vụ tiền tuyến.

Ngoài việc phục vụ dân sinh kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân địa phương, phục vụ quốc phòng, an ninh, du lịch sinh thái, hai con sông Luồng và sông Lò còn là cầu nối tình hữu nghị Việt - Lào, vì ngọn nguồn của hai con sông này đều ở đất Lào chảy về Việt Nam. Từ xa xưa, đồng bào hai bên biên giới đã có câu tục ngữ:

Cáy khắn hâu hó phăng

Ngua khoai lí hó căng kín nhá

Dịch:

Gà gáy ta cùng nghe

Trâu, bò đẹp cùng chung đồng cỏ

Hoặc:

Kín cuối hó bí

Kín pí hó cáp

Áp nặm hau hó vằng điếu

Dịch:

Ăn chuối cùng nải

Ăn hoa chuối cùng bẹ

Tắm suối cùng vụng nước trong

1.6.2.3. Hệ thống suối chính

Ngoài sông Luồng, sông Lò, địa bàn huyện Quan Sơn còn có hàng trăm con suối lớn nhỏ dồn về hai con sông. Chính hệ thống suối này đã tạo ra nguồn tài nguyên nước tự nhiên ở Quan Sơn trở nên phong phú, đồng thời tạo ra môi trường sinh thái cảnh quan cho vùng đất Quan Sơn thêm đa dạng, hấp dẫn. Sau đây là hệ thống suối tiêu biểu ở các xã:

* Xã Na Mèo

Suối Tà Ngơn

Suối Tà Ngơn chạy theo hướng bắc - nam, bắt nguồn từ Pù Xam Lán [Pù Lông Lênh] giáp bản Son, xã Na Mèo chảy ra suối Pùn. Suối Tà Ngơn dài khoảng 9km, cũng là đường ranh giới Việt Nam - Lào. Từ giữa suối Tà Ngơn về phía đông là đất Việt Nam, từ giữa suối Tà Ngơn về phía tây là đất Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

Quá trình dòng chảy của suối Tà Ngơn do nhiều con suối nhỏ hợp thành, trong đó đáng kể nhất là suối Sài Lương ở phía đông ngọn nguồn Tà Ngơn. Dọc theo hai bờ suối Tà Ngơn có nhiều bãi bằng được bù đắp bởi phù sa. Hiện nay đồng bào Việt - Lào hai bên bờ suối làm ruộng nước, trồng cây, cá ở suối Tà Ngơn, dân hai bên cùng hưởng, nước suối Tà Ngơn hai bên cùng sử dụng.

Suối Pùn

Suối Pùn thuộc huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, chảy theo hướng tây - đông đến Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo gặp suối Xôi tạo thành sông Luồng, đoạn từ cửa suối Pùn vào gặp suối Tà Ngơn là đường biên giới Việt - Lào đi giữa suối. Trên đoạn suối này, thủy sản, nguồn nước, đồng bào hai bên cùng dùng chung, từ lâu đời đã lưu truyền câu ca:

“Xong Mường hàu kín pá huốm hát

Áp nặm hàu hó bằng điếu

Pành yêu cắn tay dàm páng cón”

Dịch:

“Hai Mường [hai nước] ta ăn cá chung thác

Tắm mát chung vụng nước

Yêu quý nhau từ trước đến nay”

Suối Xôi

Suối Xôi cũng thuộc huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, chảy theo hướng tây nam về đông bắc, gặp suối Pùn tạo thành sông Luồng tại Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo.

Từ ngã ba suối Xôi, suối Pùn, sông Luồng theo suối Xôi vào có một đoạn khá dài là đường biên giới Việt - Lào đi giữa suối, phía đông nam là đất Việt Nam, phía tây bắc là đất Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Dọc hai bên suối từ xưa đến nay nhân dân hai nước cùng hòa thuận làm ăn, không xâm canh, xâm cư, cùng giúp nhau phát triển kinh tế, xây dựng vun đắp tình hữu nghị Việt - Lào.

Suối Sàng

Suối Sàng, bắt nguồn từ Pù Xam Lán giáp bản Son, chảy theo hướng đông bắc về tây nam đổ ra sông Luồng tại bản Na Mèo. Suối Sàng dài khoảng 8km được hợp thành bởi nhiều con suối nhỏ, trong đó có một số suối lưu lượng nước tương đối lớn chảy quanh năm vào suối Sàng là: suối Coọng Vắng, suối Pha Tán, suối Tín Cánh... suối Sàng có thác 20 sải [cao khoảng 35 - 36m] đổ nước trắng xóa quanh năm rất đẹp, cách sông Luồng vào khoảng 3km theo đường biên phòng mở đi bản Ché Làu, bản Mùa Xuân. Lưu vực suối Sàng có nhiều gỗ quý với trữ lượng lớn như: dổi, chò chỉ, lát hoa, de thơm, vàng tâm, bi, sú...

Suối Pu

Suối Pu thuộc địa phận xóm 87, xã Na Mèo, bắt nguồn từ Pha Lanh giáp bản Xa Ná, xã Na Mèo chảy theo hướng bắc - nam đổ ra sông Luồng tại Km 86, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. Suối dài khoảng 5km, nước chảy quanh năm, có nhiều gỗ, vầu, nứa là nguồn lâm sản quý. Lưu vực suối Pu trước đây do Ban Quản lý rừng phòng hộ Na Mèo quản lý, đến năm 2008 chuyển về cho xã Na Mèo quản lý.

Suối Cài

Suối Cài thuộc tiểu khu 208 do Ban Quản lý rừng phòng hộ Na Mèo quản lý trên địa bàn xã Na Mèo, suối bắt nguồn từ giáp bản Cha Khót, xã Na Mèo theo hướng nam - bắc chảy ra sông Luồng tại Km 84, đường 217 [từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. Bên dưới cửa suối là bản 83, thuộc xã Na Mèo, lên trên cửa suối là Trạm Bảo vệ rừng suối Cài, thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Na Mèo.

Suối Cài dài khoảng 6km, nước chảy quanh năm, lưu lượng nước tương đối lớn. Suối Cài nổi tiếng có “Pung Quáng” [Vũng Nai], cách đường 217 vào khoảng 5km, ở đó có một bãi có mó nước mặn tạo thành ao, hồ, trước đây nai khắp nơi tập trung về đây uống nước, tắm mát thành từng đàn. Lưu vực suối Cài có nhiều gỗ nứa, vầu, bương với trữ lượng, sản lượng lớn, đây là nguồn lợi về kinh tế, môi trường rất tiềm năng.

Vào khoảng năm 1955 - 1957, Hoàng thân Xu Pha Nu Vông, Chủ tịch Ủy ban Cách mạng Lào và một số cán bộ Trung ương Lào đã đến ở suối Cài trước khi dời lên ở Căn cứ kháng chiến Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn - Lào.

Suối Cha Khót

Suối Cha Khót bắt nguồn từ biên giới Việt - Lào [bản Chía - Lào] chảy qua bản Cha Khót, Na Pọng, Sộp Huối của Quan Sơn, đổ ra sông Luồng tại cầu Km 79, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. Suối Cha Khót dài trên 20km, lưu lượng nước tương đối lớn, là nguồn lợi về thủy sản, thủy lợi tưới tiêu cho hàng chục héc-ta ruộng dọc 2 bên bờ suối.

Lưu vực suối Cha Khót có nhiều gỗ, vầu, nứa, bương, giang, lá dong, song, mây, dược liệu, lâm đặc sản khác... và thú rừng như: bò tót, nai, hoẵng, lợn lòi, khỉ, vượn, chim, các loại này trước đây rất nhiều, các thợ săn năm xưa khi đã vào suối Cha Khót đi săn thường bắn được nhiều chim, thú. Hiện nay thú đã hiếm, nước cạn hơn trước, gỗ, vầu, nứa cũng bị khai thác nên giảm nhiều.

Suối Cha Khót có nhiều suối nhỏ hợp thành như suối “Hin Lặp” [suối đá mài], suối “Pá” [suối cá], suối “Bum”, suối “Pọng”...

Suối Son

Suối Son bắt nguồn từ hướng Đông Pù Xam Lán [Lông Lênh] giáp biên giới Việt - Lào cùng chụm đầu về với các suối Tà Ngơn, suối Sàng. Suối Son chảy theo hướng tây - đông qua bản Son, Sa Ná, xã Na Mèo đổ ra sông Luồng tại bản Hiềng, xã Na Mèo. Suối Son dài khoảng 18km, lượng nước tương đối lớn, chảy quanh năm.

Trước đây suối Son nổi tiếng lắm cá, nhiều tôm, có cánh đồng bản Son rộng lớn, có tiếng ở mường Xia. Tạo mường Xia, Chánh tổng mường Xia trước năm 1945 là người bản Son, cai quản đất mường Xia rộng lớn qua nhiều thế hệ.

Lưu vực suối Son thuộc địa phận bản Son, Sa Ná, giáp Ché Làu, trước đây rất nhiều gỗ quý mà nơi khác không có như Xa Mu dầu, Xa Mu trắng, thông ba lá, gỗ lát, dổi, chò, de thơm, de hương, vàng tâm... và các loại thú rừng như bò tót, bò rừng, trâu rừng, nai, hoẵng, lợn lòi, khỉ, vượn, gấu, chim thú.

* Xã Sơn Thủy

Suối Muống

Suối Muống thuộc địa phận bản Muống, xã Sơn Thủy, bắt nguồn do 2 con suối “Mưn Bằng” và suối “Keo Nưa” hợp nhau tạo thành suối Muống, dài trên 4km, có lưu lượng nước tương đối lớn, chảy theo hướng tây - đông, đổ ra suối Xia tại “Vằng Muống” bản Muống.

Nếu đi theo hướng suối “Mưn Bằng” thì lên gặp bản Ché Làu - Na Mèo, đi theo hướng suối Keo Nưa sẽ lên bản Khà, bản Mùa Xuân của xã Sơn Thủy.

Suối Khà

Suối Khà là suối nhỏ hơn suối Muống đổ ra suối Xia ở địa phận bản Khà trong bản Chanh.

Suối Xia

Suối Xia là suối lớn nhất xã Sơn Thủy. Suối Xia bắt nguồn từ Na Ham - Lào, đầu nguồn ở phía Lào gọi là suối Hin Đăm [suối Đá Đen] chảy vào Việt Nam qua địa phận bản Xia Nọi gọi là Nặm Xia [suối Xia] rồi qua bản Khà, qua hang Bo Cúng, bản Chanh về bản Hiết, bản Muống, Na Cò, Thủy Chung đổ ra sông Luồng tại cầu Sơn Thủy, đường vành đai biên giới thuộc địa phận bản Thủy Chung. Suối Xia kéo dài trên 30km, nước trong veo, có nhiều tôm, cá, ốc, ếch, cua là nguồn thủy sản lớn.

Nặm Xia trước đây có nhiều vũng nước sâu, có cá Dốc, loài cá lớn ở sông Mã, sông Luồng di cư lên sinh sống. Cá suối Xia ngon có tiếng, ốc suối Xia trước đây nhiều vô kể, chỉ cần xuống suối 30 - 40 phút, một người có thể bắt được 10kg ốc suối rất ngon. Ngày nay, do nước cạn, tôm cá thưa dần, việc đánh bắt chúng khó khăn hơn trước rất nhiều.

Suối Cóc

Suối Cóc bắt nguồn từ phía trong bản Cóc, ra suối Xia tại bản Muống theo hướng đông - tây. Suối Cóc dài khoảng 5km, nước trong, có nhiều tôm, cá, cua, ếch. Lưu lượng nước suối Cóc khá lớn, phục vụ tưới tiêu và sinh hoạt cho các cánh đồng bản Cóc, bản Muống và làm nước dùng sinh hoạt cho người dân. Bản Cóc ở đầu nguồn suối Cóc trước đây nổi tiếng có nhiều cây quế to, vỏ dày, độ dầu cao, khách thập phương rất ưa thích loại quế này.

* Xã Mường Mìn

Suối Lế

Suối Lế thuộc địa phận bản Bơn, xã Mường Mìn, suối Lế giáp suối Cóc, xã Sơn Thủy và suối Sủa, xã Sơn Điện ở phía bắc. Suối Lế chạy theo hướng bắc về hướng tây nam, dài khoảng 5km đổ ra sông Luồng tại Vằng Lế, bản Bơn, xã Mường Mìn.

Suối Bóng

Suối Bóng bắt nguồn từ Pù Cút, chảy qua đường 217 tại Km 73, thuộc tiểu khu 212 B [bản Chiềng], chảy qua tiểu khu 203 của bản Luốc Làu, xã Mường Mìn qua cầu suối Bóng, đường vành đai biên giới Km 66, đường 217 vào Sơn Thủy, đổ ra sông Luồng tại Hát Bóng [thác Bóng] thuộc địa phận bản Luốc Làu, xã Mường Mìn.

Suối Bóng dài khoảng 15km, lưu vực suối Bóng có nhiều khe suối nhỏ dồn nước vào như: Suối Cánh Giáng, suối Cha Khụ, suối Pán, suối Tá Nọi, suối Bó, suối Co Mác, suối Khuông, suối Co Phày, suối Sộp Mu, suối Dồm...

Dọc theo suối Bóng là rừng vầu, nứa bạt ngàn của các tiểu khu 212B, 203. Suối Bóng có Cánh Giáng [thác Cánh Giáng] cao khoảng 20m, dưới chân thác Cánh Giáng có vụng nước sâu gọi là “Văng Pa O” [vũng cá dồn] vì cá từ sông Luồng theo suối Bóng ngược lên chừng 10km thì gặp thác nước dựng đứng bởi phiến đá lớn ngăn cách, cá không thể nhảy lên được đành dồn lại vụng nước chân thác, tạo cơ hội tốt cho người vào quăng chài, thả lưới bắt cá rất thuận lợi.

Từ sông Luồng theo suối Bóng vào khoảng 3 - 5km dọc 2 bên bờ có nhiều bãi bằng, từ xưa đồng bào Thái ở bản Chiềng, bản Luốc Làu đã vào khai hoang làm ruộng, lập bản gọi là bản Huối Bóng [thuộc bản Chiềng ngày nay].

Suối Yên

Suối Yên bắt nguồn từ biên giới Việt Lào, đầu nguồn suối Yên là suối Khé, suối Pha Phứng, suối On hợp lại tạo thành suối Yên chảy qua bản Yên theo hướng tây nam về đông bắc qua bản Yên, bản Cha, bản Na Pạng, bản Mìn về bản Luốc Làu, bản Chiềng đổ ra sông Luồng tại bản Chiềng.

Suối Yên dài khoảng 25km, có nhiều con suối nhỏ dồn nước vào suối Yên. Ngoài các con suối đã nêu ở trên, còn có suối Cộng, suối Hặc, suối Phứng, suối Cha, suối Ngóm, suối Én, suối Xá, suối Nà Mòn cũng dồn nước vào suối Yên.

Dọc suối Yên có nhiều cánh đồng rộng. Thượng nguồn suối Yên có nhiều chim, thú quý. Theo ông cha kể lại, từ thế kỷ thứ XIX trở về trước, vùng rừng núi thượng nguồn suối Yên có voi, tê giác, trâu rừng, bò rừng, bò tót, gấu, khỉ, vượn rất nhiều. Đặc biệt, đầu suối Yên có nhiều cây cọ nên chim phượng hoàng, chim mỏ sừng trắng, mỏ sừng nâu bay từng đàn lớn hàng trăm con đến ăn quả cọ. Nay các loài thú, chim, gà rừng, công, trĩ đã thưa dần, có loài vắng bóng. Hiện nay, bên trong bản Yên có Đồn Biên phòng Mường Mìn. Nước suối Yên phục vụ tốt cho việc tưới tiêu đồng ruộng bậc thang 2 vụ của bản Yên, bản Mìn, bản Luốc Làu, bản Chiềng, xã Mường Mìn, bản Tân Sơn xã Sơn Điện.

Khu vực suối Yên cũng có nhiều phong cảnh đẹp, là tiềm năng tốt cho du lịch sinh thái như Pù Xà Lày cao 1.416m, Pù Phạ Mứt cao 1.380m so với mặt nước biển.

Suối Én

Suối Én bắt nguồn từ Pù Cút, giáp biên giới Việt - Lào chảy ra suối Yên tại bản Luốc Cháo [bản Mìn] tại Km 67, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. Suối Én dài trên 10km, có lưu lượng nước khá lớn. Lâm phần suối Én chảy qua là tiểu khu 213 của bản Mìn, xã Mường Mìn, qua xóm Nà Kéo, Luốc Cháo rồi đổ ra suối Yên, dồn nước về sông Luồng. Suối Én cung cấp nước tưới tiêu cho nhiều cánh đồng của bản Mìn, cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất cây trồng, vật nuôi cho hàng trăm hộ dân từ ngàn đời nay.

* Xã Sơn Điện

Suối Nhài

Suối Nhài chảy theo hướng nam - bắc đổ ra sông Luồng tại bản Nhài, đập tràn bản Nhài [suối Nhài] tại Km 63, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên], đây cũng là điểm nóng thời chiến tranh, máy bay Mỹ thường bắn phá ác liệt.

Suối Nhài có thác Cánh Nhài, cách đường 217, theo suối vào khoảng 5km, thác có 3 tầng, tầng cao nhất là 20 sải tay [khoảng 32 - 35m], tổng chiều ba bậc 50 - 60m, nước tung bọt trắng xóa, không khí trong lành, mát rượi, đây cũng là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, có tiềm năng trong tương lai. Suối Nhài tưới cho hàng chục héc-ta ruộng bậc thang của bản Nhài và Na Nghịu, xã Sơn Điện, cung cấp nước sinh hoạt cho bản Nhài có đường nước sạch lấy từ độ cao ở nguồn suối về bản. Dân gian gọi thác này là thác nàng Han [thác nàng Gan Dạ]. Tương truyền, thời quân giặc cờ đỏ, mũ đỏ [quân Thanh] sang quấy nhiễu nước ta, có 3 tên giặc đuổi theo một cô gái người dân tộc Thái vào suối Nhài. Tại thác này, cô gái đã mưu trí, dũng cảm dùng sào nứa xô 3 tên giặc xuống thác làm chúng chết khi đang đuổi bắt cô.

Suối Xa Mang

Suối Xa Mang bắt nguồn từ bản Xa Mang do suối Côi và suối Lào hợp lại. Suối Xa Mang chạy theo hướng tây - đông hướng ra đường 217, khi cách đường 217 khoảng 2km gặp suối Cải chảy theo hướng nam - bắc dồn lại thành suối Bun. Đoạn suối Xa Mang dài khoảng 3km, suối Bun do suối Xa Mang và suối Cải hợp thành chảy qua bản Ban, bản Bun, xã Sơn Điện qua đường 217 tại đập tràn Km 54 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. Suối dài gần 10km, đổ ra sông Luồng tại bản Na Hồ, xã Sơn Điện.

Suối Bun tưới tiêu cho hàng chục ha ruộng 2 vụ của các bản Ban, Bun, Na Hồ và cung cấp nước sinh hoạt cho con người, nơi dòng suối đi qua. Trước đây suối Bun có lưu lượng nước khá lớn, tôm, cá suối rất nhiều, nay suối đã cạn hơn trước nên tôm, cá ít dần.

Tại piềng Púng Quáng cạnh suối Xa Mang về phía nam, năm 2008 Ban quản lý rừng phòng hộ Na Mèo đào hồ chứa nước đã phát hiện 3 cổ vật bằng đá hình lưỡi mai. Các hiện vật này đã được giao cho Phòng Văn hóa huyện Quan Sơn lưu giữ.

Suối Súa [Sủa]

Suối Sủa người Thái gọi là suối Súa, dài khoảng 8km, thuộc địa phận bản Na Phường, bản Súa, xã Sơn Điện. Suối Súa bắt nguồn giáp với suối Lế ở xã Mường Mìn, suối Cóc, xã Sơn Thủy. Suối Súa chạy theo hướng tây bắc về hướng đông nam đổ ra sông Luồng tại bản Sủa nên nhân dân đặt tên là suối Sủa. Suối Sủa có lưu lượng nước khá lớn, đủ tưới tiêu cho ruộng nước 2 vụ của các bản Na Phường, bản Sủa và nước sinh hoạt cho nhân dân 2 bản. Thời kháng chiến chống Pháp [1947 - 1953]; lưu vực suối Sủa từng là căn cứ kháng chiến của xã Sơn Điện, có nhiều đơn vị du kích, bộ đội vào tập kết trước khi đi đánh giặc.

* Xã Sơn Lư

Suối Sỏi

Suối Sỏi bắt nguồn từ dãy núi Keo Pán giáp ranh giữa bản Sỏi, xã Sơn Lư và bản Tình, xã Tam Lư, chảy theo hướng tây nam - đông bắc ra gặp suối Bìn tại Km 46 + 700 đường 217 thuộc địa phận bản Sỏi nên người dân địa phương gọi là suối Sỏi.

Từ đập tràn suối Sỏi nơi giao nhau giữa suối Sỏi và suối Bìn, suối được đổi tên thành suối Tuốp [suối Tuốp chảy theo hướng tây - đông qua bản Sỏi, bản Hẹ, bản Hao, bản Bon, xã Sơn Lư đổ ra sông Lò tại bản Bon]. Chiều dài suối Sỏi khoảng 6km, chiều dài suối Tuốp gần 8km.

Suối Sỏi, suối Tuốp là nguồn nước thủy lợi cung cấp cho ruộng nước hai vụ của bản Sỏi, bản Hẹ, Hao, Bon với diện tích hàng chục ha mà suối đi qua.

* Xã Tam Thanh

Suối Cáng

Suối Cáng hợp lưu giữa suối Hừa và nhiều suối nhỏ khác nằm ở phía đông sông Lò thuộc địa phận bản Ngàm, xã Tam Thanh. Suối chảy theo hướng đông nam về tây nam đổ ra sông Lò, cách biên giới Việt - Lào về phía Việt Nam trên 1km. Chiều dài và lưu lượng nước suối Cáng tương đương với suối Khà [bản Ngàm - Tam Thanh].

Suối Pa

Suối Pa bắt nguồn từ hang Trình gần biên giới Việt - Lào bên trong bản Pa, xã Tam Thanh, chảy qua bản Pa, Cha Lung, Phe, Bôn đổ ra sông Lò tại bản Bôn, nay là địa điểm chợ Tam Thanh [thuộc bản Piềng Pa], trụ sở xã Tam Thanh và cầu treo bắc qua sông Lò đi bản Ngàm.

Suối Pa dài trên 25km, có nhiều con suối nhỏ hợp vào nên lưu lượng nước khá lớn, suối Pa cung cấp nước cho ruộng 2 vụ của các bản có suối chảy qua. Suối Pa theo tiếng Thái là “suối Cá”, ngày xưa suối rất nhiều cá, ở bản Pa có thác nước dựng đứng, cao khoảng 10m, cá vào đến đó không vượt lên được, đồng bào gọi thác đó là “Cánh Pa Tốt”, tiếng Thái “tốt” có nghĩa là “dừng” [thác cá dừng]. Hàng năm vào mùa cá lên, nhân dân bản Pa ra bắt được rất nhiều, cũng từ đó đồng bào đặt tên cho bản mình là bản Pa [bản Cá].

Suối Khà

Suối Khà thuộc địa phận bản Ngàm, xã Tam Thanh. Suối bắt nguồn từ “sắn co Mòn” [dông cây Dâu] giáp ranh với xã Sơn Hà và xã Tam Lư chảy theo hướng đông nam về tây bắc qua xóm Co Lương, Nà Pa Vai [bản Ngàm] đổ ra sông Lò. Đoạn suối đi qua có nhiều ruộng nước 2 vụ của người dân địa phương. Suối Khà dài khoảng 7km.

* Xã Tam Lư

Suối Tình

Ngọn suối Tình là suối La, đoạn chảy qua địa phận bản Tình gọi là suối Tình. Suối Tình chảy theo hướng tây nam qua bản Tình, bản Hát, đổ nước ra sông Lò tại phía trên bản Hát, suối dài khoảng 15km.

Suối Cha Loóc

Suối Cha Loóc có chiều dài khoảng 9km, thuộc bản Sại, xã Tam Lư, bắt nguồn từ Pom Pha Sần [Núi Pha Sần] giáp ranh với xã Sơn Hà và xã Tam Thanh chạy theo hướng đông nam về tây bắc qua Na Sắng [bản Nà Sắng trước đây] chạy ra bản Sại rồi đổ ra sông Lò. Đoạn suối đi qua có nhiều ruộng nước [trên 25ha] của bản Sại và bản Piềng Khóe.

* Xã Sơn Hà

Suối Hạ

Bắt nguồn từ dãy Pù Món, Pha Mè giáp biên giới Việt - Lào và xã Yên Khương, huyện Lang Chánh. Suối Hạ chảy theo hướng nam - bắc qua bản Xum, bản Làu, bản Hạ, bản Làng ra sông Lò tại Km 36, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. Suối Hạ dài trên 20km, thượng lưu suối Hạ có mỏ bạc sâu dưới lòng đất, thời quân Thanh chiếm đóng nước ta, chúng đã cho khai thác, đến nay chưa có ai vào khai thác lại.

Suối Hạ có nhiều suối nhỏ dồn nước về như suối Sài Khao từ Pù Mằn ra, suối Xum từ Pù Kùn xuống, suối Nà Ơi từ hướng tây dồn về và nhiều con suối có nước chảy quanh năm đổ dồn vào nữa nên suối Hạ có lưu lượng nước khá lớn. Trước đây đồng bào các bản ven suối thường xuôi bè nứa, vầu, luồng ra sông Lò bán cho trạm lâm nghiệp tại Km 35. Đầu nguồn suối Hạ là rừng nguyên sinh, có nhiều gỗ, vầu, nứa. Hiện nay Ban Quản lý rừng phòng hộ sông Lò cùng các hộ dân bản Xum, bản Làu, xã Sơn Hà quản lý. Suối Hạ có nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho các bản nơi nó chảy qua, đồng thời cá, tôm, ốc suối rất sẵn, là nguồn thực phẩm cung cấp cho dân bản hàng ngày.

* Xã Trung Thượng

Suối Ngàm

Bắt nguồn từ hướng tây - bắc của Pù Mằn chảy ra sông Lò tại Km 28 - bản Ngàm, xã Trung Thượng. Suối Ngàm là nguồn nước tưới tiêu cho đồng ruộng bản Ngàm, nước sinh hoạt cho dân bản, suối Ngàm cũng có nhiều cá, tôm, là nguồn thủy sản cho đồng bào đánh bắt.

Suối Máy Bàng

Bắt nguồn từ dãy Pha Phanh giáp với xã Nam Động, huyện Quan Hóa. Suối Máy Bàng dài khoảng 13km, chảy qua bản Bàng ra bản Mảy đổ ra sông Lò tại Km 30, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên].

Suối Máy Bàng có tiếng là nước trong, con gái tắm nước suối Máy Bàng da đẹp hồng hào.

Suối Khạn

Bắt nguồn từ phía trong bản Khạn, đầu nguồn có 3 mỏ nước nóng là: Bo Khằm, Bo Ngoang, Bo Khạn. Bo Khạn là bến của bản, suối Khạn lượng nước khá lớn. Cả 3 mỏ nước đều ấm về mùa Thu - Đông, mát về Xuân - Hè. Đây là tiềm năng du lịch chưa được khai thác.

* Xã Trung Tiến

Suối Cum

Bắt nguồn từ hướng đông của dãy Pù Mằn, chảy qua bản Cum, Pa Chè ra sông Lò tại Km 25 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. Suối Cum dài khoảng 12km, là nguồn nước tưới tiêu đồng ruộng, cây trồng và nước sinh hoạt cho các khu dân cư mà nó đi qua.

Suối Đe

Suối Đe bắt nguồn từ bản Bất, xã Nam, Động huyện Quan Hóa. Suối chảy theo hướng bắc - nam ra sông Lò tại Km 22, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. Suối Đe dài khoảng 18km, chảy qua bản Đe, bản Poọng, bản Lầm, xã Trung Tiến. Suối Đe cũng có nhiều suối nhỏ dồn nước vào nên lưu lượng nước khá lớn, đủ sức tưới tiêu cho đồng ruộng, cây trồng và nước sinh hoạt cho các bản mà nó đi qua. Nguồn thủy sản suối Đe cũng dồi dào, tạo nguồn thực phẩm sạch tại chỗ cho đồng bào dọc lưu vực suối Đe.

* Xã Trung Hạ

Suối Din [suối Cánh]

Suối Din ở phía bắc sông Lò, thuộc địa phận bản Din tại Km 21, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên]. “Din” tiếng Thái có nghĩa là “mát”, suối chảy theo hướng bắc nam bắt nguồn từ dãy Pha Phanh, giáp xã Nam Tiến đổ về. Suối Din có độ dài khoảng 4km, cách sông Lò khoảng 500m có một đoạn suối nhiều thác liên tục, thác cao nhất khoảng 15m dựng đứng, tỏa hơi nước mát rượi quanh vùng. Đối diện với suối Din về phía nam sông Lò có bãi rộng dân địa phương gọi đó là “Piềng Din” [Bãi mát]. Hiện nay Piềng Din có bản Din ở phía nam, đường 217, phía bắc đường 217 là trung tâm các cơ quan xã Trung Hạ.

Suối Xày

Suối Xày chính là phần hạ lưu của suối Tiên, xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh. Suối Tiên bắt nguồn từ bản Đôn, xã Lâm Phú, chảy qua bản Đôn, bản Cháo, bản Tiên ra bản Xày thuộc xã Trung Hạ, huyện Quan Sơn. Từ bản Tiên, xã Lâm Phú ra sông Lò thuộc địa phận bản Xày, nhân dân địa phương gọi đoạn suối này là suối Xày, suối dài khoảng 4km, chạy qua đường 217, thuộc bản Xày tại cầu Xày Km 19, xã Trung Hạ, huyện Quan Sơn ra sông Lò.

Suối Bá

Suối Bá bắt nguồn từ bản Xanh, đoạn qua bản Xanh gọi là suối Xanh, đoạn qua bản Bá gọi là suối Bá. Đoạn qua bản Xanh dài trên 2km, có nhiều đá mài nổi tiếng khắp vùng, đoạn qua suối Bá ra sông Lò tại Km 18, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên] dài trên 3km, đổ xuống sông Lò trên tầm cao 100m, tạo thành thác nước trắng xóa rất hùng vĩ, nên thơ.

Suối Xanh, suối Bá là nguồn nước tưới tiêu cho bản Xanh, bản Bá, xã Trung Hạ, suối chảy theo hướng nam - bắc đổ ra sông Lò.

* Xã Trung Xuân

Suối Phụn

Bắt nguồn từ Pù Đền, giáp xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước, chảy theo hướng nam - bắc ra sông Lò qua bản Phú Nam, bản Phụn, xã Trung Xuân. Suối dài trên 4km, có lưu lượng nước khá lớn, nước không bị ô nhiễm, đủ tưới tiêu cho đồng ruộng và sinh hoạt của người dân ở các bản mà suối đi qua. Suối đổ ra sông Lò tại bản Phụn nên dân địa phương đặt tên suối là suối Phụn. Trên địa bàn xã Trung Xuân còn có nhiều suối nhỏ nữa như:

Suối Cắn

Suối Cắn ở phía bắc sông Lò, dài hơn 3km, bắt nguồn từ triền núi Pu Ngua có độ dốc cao, lượng nước mùa mưa đổ về sông Lò rất lớn.

Suối Túng: Ở phía nam sông Lò, dài khoảng 2km, bắt nguồn từ dông giáp ranh bản Lang, xã Trung Hạ, đổ ra sông Lò.

Suối Pa O: Ở phía bắc sông Lò, bắt nguồn từ triền núi Pu Ngua, có độ dốc cao, mùa mưa có lượng nước rất lớn chảy ra sông Lò.

Suối Cạn: Ở phía bắc sông Lò, dài hơn 4km, bắt nguồn từ triền núi Pu Cọ và Pu Ngua chảy được khoảng 500m thì vào hang Nặm Kháu Hu, đi ngầm trong hang khoảng 2km ra 2 cửa: một ra cửa Pác Bo, một ra cửa Cộc Bó Cạn chảy 2km đến sông Lò. Suối Cạn có lượng nước tưới và nước sinh hoạt quanh năm, rất thuận lợi cho nhân dân trong bản.

Suối Dú: Nằm ở phía bắc sông Lò, dài hơn 4km, bắt nguồn từ địa phận bản Hui và bản Đun Pù, xã Nam Xuân, huyện Quan Hóa, suối có độ dốc cao, quanh năm có lượng nước lớn đủ nước tưới, nước sinh hoạt cho nhân dân bản Mòn.

Suối La: Ở phía nam sông Lò, dài khoảng 3km, bắt nguồn từ dông Pu Sâm, phía bên kia là bản Buốc, xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước, chảy qua Pu Cú đổ về sông Lò. Suối La cung cấp lượng nước tưới và sinh hoạt cho cánh đồng bản La và nhân dân trong bản.

Nhìn chung sông, suối ở Quan Sơn có giá trị cung cấp nước khá sạch cho các ngành sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, tạo khả năng sản xuất nguồn năng lượng thủy điện [điển hình như sông Lò tại xã Tam Lư có thể cho phép xây dựng nhà máy thủy điện có công suất 6MW]. Đồng bào các dân tộc sử dụng năng lượng nước để giã gạo. Sông Luồng, sông Lò còn là con đường vận chuyển lâm sản, là môi trường để nuôi cá bè, cá lồng và cung cấp một nguồn thủy sinh cho con người [cá, tôm, cua...]. Một số bãi đất vùng ven sông là nơi sinh hoạt cộng đồng của dân cư. Một số thác nước đẹp trên sông Luồng, sông Lò tạo khả năng để phát triển du lịch.

Quan Sơn còn có nguồn nước ngầm khá phong phú. Tổng lượng dòng chảy ngầm khoảng 0,210 tỷ m3. Nước ngầm chủ yếu nằm trong lớp vỏ phong hóa và trầm tích lục địa rời bở tại các thung lũng hay bồn địa; phân bố chủ yếu ở một số khu vực dọc theo sông Luồng, sông Lò, khu vực núi cao nước dưới đất khan hiếm, thiếu nước sinh hoạt vào mùa khô. Hiện nay nước ngầm chủ yếu được nhân dân khai thác để phục vụ nhu cầu sinh hoạt.

Tài nguyên nước khoáng ở Quan Sơn có điểm nước khoáng nóng Cha Khót, bản Sủa [Súa], xã Sơn Điện, 3 mó ở bản Khạn, xã Trung Thượng có thể khai thác phát triển du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh.

1.7 NGUYÊN RỪNG, THỰC VẬT, ĐỘNG VẬT

1.7.1. Đặc điểm chung

Theo tài liệu của Trường Đại học Lâm nghiệp Hà Nội, Viện Điều tra Qui hoạch rừng Bắc miền Trung và Đoàn Điều tra Qui hoạch Lâm nghiệp tỉnh Thanh Hóa: huyện Quan Sơn nằm ở vị trí trung gian giữa các hệ thực vật Himalaya, Hoa Nam, Ấn Độ - Mianma, Malaixia - Inđônêxia và sự tác động của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa trên nền thổ như­ỡng và địa hình khác nhau nên có hệ thực vật rất phong phú. Ước l­­ượng có thể tới 1.000 loài thực vật bậc cao. Thảm thực vật rừng Quan Sơn thuộc hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều. Rừng nguyên sinh cơ bản là kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới với các họ thực vật đặc trưng như chò chỉ, lim, lát, nghiến, sa mu, pơ mu, sến, vàng tâm, các loại cây dược liệu, thuộc họ tre có luồng, nứa, vầu, giang, bương, ngoài ra còn có mây, song. Đến nay chỉ còn rừng thứ sinh, rừng trồng, đa số là rừng nghèo và trung bình. Các loài thú rừng còn ít, một số loài hiếm gặp như khỉ, sơn dương, gà rừng, mèo rừng, các loài bò sát.

Toàn huyện hiện có 87.854,6ha rừng các loại, chiếm 14,6% tổng diện tích rừng toàn tỉnh, độ che phủ rừng năm 2015 là 88%. Trữ lượng ước tính có khoảng 2,3 triệu m3 gỗ; 60 triệu cây luồng; 170 triệu cây tre, nứa. Rừng giàu và rừng trung bình phân bố ở các dãy núi cao dọc theo đường biên giới giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, chủ yếu là rừng phòng hộ đầu nguồn. Rừng Quan Sơn có các loại cây điển hình là lát hoa, chò chỉ, táu, sến, đinh, dổi, nứa, vầu, luồng,.. ngoài ra còn có sâm đất, thảo quả,..

Rừng sản xuất chiếm trên 54,7% diện tích rừng toàn huyện. Rừng sản xuất chủ yếu trồng luồng, vầu, tre, nứa, do khai thác nhiều nên rừng luồng đang bị thoái hóa, cần được cải tạo phục tráng.

Rừng phòng hộ chiếm 45,3%, phân bố tập trung ở các xã Trung Xuân, Trung Thượng, Sơn Hà, Sơn Thủy, Tam Thanh, Na Mèo, Tam Lư, Sơn Điện và Mường Mìn.

Thực vật ngoài tầng chủ yếu là dây cóc, sống rắn, dây chạc chìu,... Thảm tươi gồm cỏ ba cạnh, lá dong, thiên niên kiện, sa nhân... phân bố rải rác. Trong số đó có sáu loài hạt trần quý hiếm gồm: Thông Pà Cò, Đinh tùng, Dẻ tùng sọc hẹp, Dẻ tùng sọc rộng, Thông đỏ đá vôi, Thông tre lá dài... ở dãy Pha Phanh, bản Na Hồ, bản Sủa, xã Sơn Điện, bản Bàng, xã Trung Thượng

Ngoài hệ thực vật tự nhiên, Quan Sơn cũng có hệ thực vật hình thành do tác động của con người. Đó là hệ thống các rừng trồng [luồng] và cây trồng trong nông nghiệp, trong vư­ờn, các lâm trại, các khuôn viên cơ quan, công sở và ven đường giao thông....

Bảng 3: Phân loại diện tích đất rừng

TT

Loại rừng

Diện tích

Rừng phòng hộ

Rừng

sản xuất

I

Rừng tự nhiên

61.965,49

27.292,21

34.673,28

1

Rừng gỗ

21.414,03

10.134,34

11.279,29

1.1

Rừng giàu

3.821,04

2.559,14

1.261,09

1.2

Rừng trung bình

5.872,22

4.298,82

1.573,40

1.3

Rừng nghèo

4.912,58

1.690,54

3.222,04

1.4

Rừng phục hồi

3.516,26

552,57

2.963,69

1.5

Rừng gỗ núi đá

3.291,93

1.033,67

2.258,26

2

Rừng hỗn giao gỗ, nứa

15.689,17

8.286,28

7.402,89

3

Rừng tre, nứa, vầu

24.862,29

8.871,19

15.991,10

3.1

Rừng nứa

20.331,32

7.304,49

13.026,83

3.2

Rừng vầu

3.734,73

1.248,06

2.486,67

3.3

Rừng giang

796,24

318,64

477,60

II

Rừng trồng

11.931,36

1.725,49

10.205,87

1

Rừng trồng gỗ

2.945,55

870,23

2.075,32

2

Rừng hỗn giao gỗ, luồng

622,08

387,68

234,40

3

Rừng luồng

8.363,73

467,58

7.896,15

1.7.2. Các thảm thực vật tự nhiên

Rừng nhiệt đới ở đai thấp. Các loại rừng này phân bố ở độ cao thường dưới 500m và chiếm diện tích chủ yếu của huyện. Chúng đ­­ược phát triển trong điều kiện tự nhiên thuận lợi nhất: chỉ có 4 tháng nhiệt độ trung bình dưới 200C, trong đó tháng lạnh nhất không d­­ưới 16,50C, có 4 tháng khô, 2 tháng hạn và không có tháng kiệt, mùa khô trùng với mùa lạnh, tầng thổ nhưỡng dày và khá ẩm. Thành phần loài trong thảm rất phong phú. Các loại cây gỗ chiếm ­­ưu thế là các cây thuộc họ Đậu, họ Dầu, họ Xoan, họ Bồ hòn... hầu như­­ không có cây hạt trần. Loại rừng này ở Quan Sơn có ba kiểu sau:

+ Rừng rậm nhiệt đới m­­ưa mùa cây lá rộng với mùa đông hơi khô và hơi lạnh trên các loại đất khác nhau [trừ đất trên núi đá vôi]. Th­­ường gọi là rừng trên đồi núi đất. Đây là loại rừng vốn chiếm diện tích lớn nhất, đ­­ược phát triển trong các điều kiện tự nhiên thuận lợi nhất, có thành phần loài phong phú nhất, cấu trúc đa dạng nhất, có nguồn lâm sản giàu nhất. Rừng có 5 tầng cây, trong đó có 3 tầng cây gỗ, 1 tầng cây bụi, tầng cỏ và nhiều dây leo, thực bì ký sinh, gốc có nhiều bạnh vè, có hoa mọc trên thân, nhiều loài cây bóp cổ,... Sinh khối của chúng khoảng 150 - 300m3/ha. Kiểu rừng này đã và đang bị khai thác mạnh nhất, chỉ còn sót lại một ít ở biên giới Việt - Lào

+ Rừng rậm th­­ường xanh nhiệt đới m­ưa mùa cây lá rộng với mùa đông hơi khô và hơi lạnh trên núi đá vôi. Nó phân bố trên diện tích khoảng 500ha của vùng đá vôi trên địa bàn huyện. Trong đó nhiều nhất thuộc vùng biên giới Việt - Lào. Kiểu rừng này có các quần xã Chò đãi, Lòng mang, Sấu, Chò xanh, Dẻ gai, Chò nhai, Đinh vàng, Re, Nghiến...

+ Rừng rậm th­­ường xanh nhiệt đới m­ưa mùa cây lá rộng trên bãi bồi cát sỏi ven suối.

Rừng cận nhiệt đới trên núi phân bố ở độ cao từ 500m tới 1.600m [còn gọi là rừng nhiệt đới trên núi thấp]. Chúng phân bố trên các khu vực núi có độ cao 500m đến 1.600m ở phía nam, tây và tây bắc của huyện. Khu phân bố của chúng chịu tác động mạnh của gió mùa Đông Bắc, nền nhiệt độ thấp, mư­a nhiều [th­ường khoảng 2.000mm], mùa khô ngắn và không khắc nghiệt lắm. Địa hình có độ dốc lớn nên dễ thoát n­­ước, tầng đất mỏng. Mặc dù phần lớn là loại cây th­­ường xanh, nhưng tất cả đều có vẩy, chồi bao bọc và có thời kỳ nghỉ sinh tr­­ưởng rõ rệt vào mùa đông. Các loại cây gỗ chiếm ­­ưu thế th­ường là họ Dẻ, họ Long não, họ Ngọc lan. Số loài cây lá kim càng lên cao càng xuất hiện nhiều hơn, các loại cây bóp cổ, dây leo và cây họ Cau càng giảm bớt. Ngược lại D­­ương xỉ thân gỗ, D­ương xỉ bì sinh, Trúc chịu bóng và Lan bì sinh ngày càng tăng. Rừng cận nhiệt đới trên núi ở Quan Sơn còn có mặt của những cây hạt trần quý hiếm là thông pà cò, đỉnh tùng, dẻ tùng sọc hẹp, dẻ tùng sọc rộng, thông đỏ đá vôi, thông tre lá dài. Đây là những loài cần được bảo vệ.

Cấu trúc của các kiểu rừng này th­ường có 4 tầng. Cây gỗ trong tầng ­­ưu thế sinh thái th­­ường không cao quá 20 - 25m với đư­ờng kính thân cây thường 40 - 50cm, ít bạnh vè. Trữ l­­ượng gỗ ít khi v­­ượt quá 200m3/ha. Rừng ở núi thấp có các kiểu rừng sau:

+Rừng rậm th­­ường xanh cận nhiệt đới m­ưa mùa cây lá rộng trên sản phẩm phong hóa của các loại đá mẹ khác nhau [trừ đá vôi]. Kiểu rừng này có các quần xã Sồi đá trên s­ườn núi, xen lẫn dẻ gai, thông tre... Quần xã Pơ mu trên đỉnh và đường đỉnh như­ ở biên giới Việt - Lào.

+ Rừng rậm cận nhiệt đới th­­ường xanh mư­a mùa cây lá rộng với mùa đông hơi khô và lạnh trên núi đá vôi. Phân bố trên diện tích rất nhỏ ở s­­ườn núi đá vôi. Cây chiếm ­­ưu thế là kiêng, ba đậu lá vòng, thông tre, thông Pà cò.

Rừng trồng: Những cây đầu tiên trồng là luồng. Hiện nay, rừng trồng có diện tích lớn nhất là rừng luồng. Cây luồng ở đây được thuần hóa từ luồng tự nhiên. Luồng Quan Sơn dài, dóng luồng dài, ngọn luồng thon đều và gần bằng nhau [khoảng 12 cm], thân luồng dày, cây to cân nặng trên 80kg. Luồng được trồng ở tất cả các xã trong huyện. Ngoài rừng luồng, Quan Sơn còn phát triển trồng cây keo, cây tràm, xoan, lát, dổi, lim, muồng,...

1.7.3. Các loại thực vật

Rừng Quan Sơn thuộc vùng đa dạng thực vật Bắc miền Trung của Việt Nam, chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thực vật rừng chủ yếu là cây lá rộng, rừng tự nhiên nhiều tầng. Dưới tán cây gỗ có thảm thực vật như dây leo, cây bụi, chuối rừng, dương xỉ, cây thảo dược, rêu, thảm mục, cây thân gỗ đa tầng với nhiều đường kính thân cây to nhỏ khác nhau. Gỗ nhiều loài sống hỗn giao, nhiều diện tích hỗn giao gỗ, nứa, vầu, giang, mây...

Rừng Quan Sơn còn có nhiều cây dược liệu quý, đồng bào địa phương thường thu hái làm các bài thuốc cổ truyền chữa được nhiều bệnh cho người và gia súc, gia cầm. Trong đó thường gặp nhất là thuốc cầm máu khi bị thương, thuốc chữa rắn cắn, thuốc chữa gãy chân, thuốc dùng cho người hiếm muộn con cái, thuốc chữa ung nhọt, ròi leo vết thương của người và trâu, bò; nhiều cây dược liệu được thu hái bán cho công ty dược phẩm chế thuốc như thiên niên kiện, sa nhân, máu chó, hoằng đằng, củ ba mươi, dây ba kích, củ mài [hoài sơn]....

1.7.3.1. Các loại cây thân gỗ

Cây thân gỗ ở Quan Sơn rất đa dạng về nhóm, loài. Tổng hợp có một số nhóm gỗ sau đây:

Gỗ nhóm 1: thường mọc ở vùng sâu, núi cao, độ ẩm lớn, sương mù nhiều, riêng sa mu dầu thường ở độ cao trên 800m so với mực nước biển. Tỷ trọng gỗ nhóm 1 chiếm khoảng 1% so với trữ lượng gỗ rừng Quan Sơn.

Gỗ nhóm 1 cây thường to, cao, thân thẳng ít tẻ cành gốc. Do vậy tỷ lệ lợi dụng gỗ lớn, cây lát mọc ở núi đá, đỉnh núi đá cao gỗ càng chắc, vân hoa, vân chun càng đẹp. Nhiều cây gỗ sa mu dầu ở bản Yên xã Mường Mìn, bản Son xã Na Mèo cao vút ngọn hàng 100m, đường kính 2-3m, khối lượng gỗ tròn mỗi cây có thể lên đến 30-40m3. Tuy nhiên, gỗ sa mu thường hổng ruột, cây càng lớn, càng già độ hổng càng cao. Có cây lỗ hổng người lớn có thể chui vào dễ dàng trong thân cây. Do vậy cây dễ bị lốc gốc, đổ. Nhất là vào mùa mưa tháng 7, 8, 9. Gỗ sa mu thường gặp ở Pù Mằn, tiểu khu 209 thuộc địa phận xã Trung Thượng, tiểu khu 223, 224 thuộc bản Yên, xã Mường Mìn, tiểu khu 155, 178 thuộc bản Son, Ché Làu, xã Na Mèo, tiểu khu 151, 149 thuộc bản Xia Nọi, bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy. Cây lát mọc rải rác trong rừng tự nhiên ở các xã trong huyện.

Hiện nay, được sự chỉ đạo của chính quyền và ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, nhân dân, các chủ rừng Nhà nước đã trồng nhiều cây lát ở vườn hộ gia đình, ở rừng trồng là rừng sản xuất, rừng phòng hộ. Từ năm 2007 đến 2010 các Ban Quản lý rừng phòng hộ Na Mèo, sông Lò, Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, Đồn Biên phòng 501 Tam Thanh, mỗi năm trồng hàng trăm héc-ta cây lát tập trung, trồng xen luồng hoặc trồng thuần loài. Riêng cây sa mu dầu chưa có nơi nào trồng được.

Cây lát trong rừng tự nhiên có đường kính trên 40cm đến nay đã hiếm do nạn khai thác rừng trái phép, những năm thập kỷ 80, 90 của thế kỷ trước, gỗ sa mu dầu cũng bị khai thác phát rừng làm rẫy nhiều, thời kỳ 1990 - 1994. Hiện còn là cây nhỏ ở tiểu khu 155, 178 bản Son, xã Na Mèo, một số ít ở tiểu khu 223, 224 bản Yên, xã Mường Mìn, tiểu khu 209 bản Ngàm, xã Trung Thượng. Cây sa mu dầu thường mọc tập trung từng đám, cây lát và cây khác mọc phân tán trong rừng.

Công dụng gỗ nhóm I ở Quan Sơn rất quý: Gỗ lát thường dùng làm đồ mộc, cánh cửa, ván thưng, ván lát sàn nhà rất đẹp. Gỗ ít bị mối mọt xâm hại, chịu được ẩm mốc. Cây sa mu dầu dùng để lợp nhà, ốp tường nhà, ốp trần nhà hạn chế được muỗi, gỗ chịu được nóng, ẩm, ít bị nứt, tách, mối mọt [trừ phần dác] và có mùi thơm hắc nhẹ.

Gỗ nhóm II: thường mọc ở núi cao, rừng sâu, núi đá. Phần nhiều mọc rải rác trong rừng khắp các xã trong huyện. Một số nơi cây táu mật mọc tập trung thuần loài từng đám trên dông cao núi đất có tầng dày. Gỗ nhóm II thường chắc, nặng, đồng bào địa phương thường dùng gỗ nhóm II làm cột, xà, kèo nhà rất chắc, bền, có nhiều ngôi nhà tuổi thọ đến hàng trăm năm. Trong công nghiệp, gỗ nhóm II thường dùng cho việc đóng tàu, thuyền, đường ray xe lửa và một số công việc cần chôn gỗ xuống đất, để gỗ ngoài trời lâu ngày gỗ vẫn chịu được.

Gỗ Nhóm II, ở rừng tự nhiên chiếm khoảng 3% trữ lượng gỗ. Sản lượng khai thác gỗ hiện nay chiếm khoảng 5% so với khối lượng hàng năm.

Gỗ nhóm III: thường gặp ở rừng Quan Sơn gồm có chò chỉ, săng lẻ, chua khét, chự, trường mật.

Gỗ nhóm III phân bố hầu hết ở các xã có rừng tự nhiên. Đặc điểm cây thường cao, to, thẳng. Cây chò có thể cao vút ngọn đến 100m, đường kính 2 -3m. Gỗ nhóm III ít bị mối mọt, sử dụng được nhiều việc. Nhất là gỗ dổi đóng đồ gia dụng rất tốt, làm nhà, làm ván hòm được rất nhiều người sử dụng.

Tỷ lệ gỗ nhóm III chiếm khoảng 10% trữ lượng gỗ rừng tự nhiên. Ở Quan Sơn những năm trước đây gỗ nhóm III bị khai thác rất nhiều nên hiện nay còn lại trong rừng là cây nhỏ. Những gỗ tốt đã bị khai thác để làm nhà, khai thác thương mại. Nhất là những năm 70, 80, 90 của thế kỷ XX. Có năm trên địa bàn khai thác hàng chục ngàn mét khối gỗ, trong đó gỗ nhóm III chiếm tỷ lệ khá lớn. Từ năm 2000, huyện Quan Sơn đã hoàn thành việc giao đất lâm nghiệp đến tổ chức và hộ gia đình, do đó việc khai thác rừng giảm đi. Song gỗ quý như dổi vẫn bị lâm tặc khai thác trộm bằng nhiều hình thức. Đến nay, cây dổi, cây chò có đường kính đến 1m trong rừng Quan Sơn rất hiếm.

Gỗ nhóm IV: trên địa bàn huyện Quan Sơn thường là vàng tâm, de hương, gội nếp, vù hương, mít rừng, vàng rè, vàng en, sến đỏ....

Chúng phân bố hầu khắp địa bàn rừng tự nhiên Quan Sơn, nhưng mọc nhiều hơn ở rừng vùng sâu, vùng xa, độ ẩm cao ở các xã biên giới. Thổ nhưỡng ưa thích là đất ferarit tầng dày ở đỉnh dông, sườn dông hoặc thung bằng đất macma axit cây đều phát triển tốt. Nhưng gỗ ở đỉnh dông, sườn dông thì chắc hơn, ít nứt tách. Các loài cây nhóm IV thường cao, to, thẳng, ít khi phân cành gốc. Gỗ nhóm IV ít bị mối mọt, chịu nắng, ẩm, ít cong vênh. Là loại gỗ được nhân dân ưa chuộng làm xà nhà, ván thưng, đóng cửa, lát sàn. Đặc biệt, lõi gỗ vàng tâm dùng làm gỗ hòm [quan tài] chôn dưới đất lâu ngày không hỏng. Gỗ nhóm IV chiếm khoảng 3% trữ lượng gỗ toàn huyện.

Gỗ nhóm V: trong rừng tự nhiên Quan Sơn có rất nhiều loài cây. Chúng mọc rải rác ở các đỉnh dông, sườn dông hoặc thung bằng. Có khi mọc thành từng đám thuần loài như dẻ gai, dẻ sừng, mang, ràng ràng, mít, trường kén... Gỗ nhóm V thường gặp là: dẻ đỏ, dẻ cau, dẻ gai, kháo dầu, thành ngạnh, trâm sừng, trâm tía.

Nhóm V chiếm tỷ lệ khoảng 15% trữ lượng gỗ trong rừng tự nhiên Quan Sơn. Chúng có mặt hầu hết ở diện tích đất lâm nghiệp các xã trong huyện, cả rừng tự nhiên và tái sinh trong rừng trồng. Là các loài cây sống khỏe, ít sâu bệnh, ít mọt trừ ràng ràng, mít. Tuy nhiên, mối thường ăn nên gỗ nhóm V không làm cột chôn xuống đất vì không được lâu. Nếu lấy làm cột nhà phải kê tảng hoặc chỉ dùng làm đà, xà, kèo, ván thưng nơi che được mưa, nắng thì gỗ mới bền. Gỗ dẻ đỏ, dẻ sừng cứng ít mọt nên thường sử dụng làm khung hộc, xà, kèo nhà. Nhưng nếu bảo quản không tốt bị nắng nhiều thì gỗ sẽ bị nứt tách. Riêng trâm đất, trâm sừng có thể chôn xuống đất được lâu hơn các loài cây cùng nhóm. Nhưng đóng đồ mộc không đẹp vì màu gỗ thâm nên nhân dân ít dùng.

Gỗ nhóm VI: thường gặp trên địa bàn Quan Sơn là phay, sâng, ràng ràng đá, vẩy ốc, quế, xoan đào, thị rừng.

Gỗ nhóm VI: phân bố hầu khắp diện tích rừng Quan Sơn, chiếm tỷ lệ khoảng 30% trữ lượng gỗ rừng tự nhiên. Là các loại cây sống khỏe, chịu được thời tiết khí hậu khắc nghiệt, chúng thường mọc ở ven sông, suối, sườn dông, trên đỉnh dông. Mọc xen cả rừng vầu, nứa, giang, tái sinh trong rừng trồng. Gỗ nhóm VI có nhiều loại cây, ít mọt, chịu ẩm và bùn nước như phay vi, bi, sú... gỗ nhóm VI được sử dụng làm nhà như sú, sâng, kháo trắng, xoan đào, dùng làm gỗ quan tài rất tốt như bi, phay vi, sú tía...

Do các loại gỗ nhóm I, II, III, IV ít bị khai thác nhiều nên thời gian gần đây nhân dân thường dùng gỗ nhóm V, VI làm đồ nhà là chủ yếu. Khi dùng người ta ngâm xuống nước để từ 6 tháng trở lên thì gỗ sẽ hết mọt.

Tục ngữ Thái có câu: “Mạy ché nặm xam pi pến ken” [Gỗ ngâm nước 3 năm thành lõi], có nghĩa là dù gỗ xấu, gỗ mọt nhưng đã ngâm nước đến 3 năm thì trở thành lõi gỗ. Lõi gỗ thường là phần tốt nhất của gỗ, ít bị mối mọt, chịu được nóng, ẩm.

Gỗ nhóm VII: có rất nhiều loài và phân bố khắp diện tích rừng Quan Sơn. Gỗ nhóm VII thường là gỗ tạp mềm, dễ bị đổ gãy khi có mưa to gió lớn.

Các loại cây nhóm VII thường gặp ở Quan Sơn: trám trắng, vạng trứng, ngát...

Gỗ nhóm VII thuộc loại cây tiên phong ưa sáng, chóng lớn. Gỗ hay bị mối mọt, thớ thô nên nhân dân ít sử dụng làm nhà và đồ gia dụng trong gia đình. Chỉ dùng làm nhà tạm, chòi rẫy với thời gian không quá 2 năm mà phải ở trong bóng che không tiếp đất. Gỗ nhóm VII mềm, dễ bóc ép. Vì vậy trong công nghiệp bóc ép, ván dăm thường lấy gỗ nhóm VII làm nguyên liệu với giá thành rẻ, nguyên liệu dồi dào. Tỷ lệ gỗ nhóm VII chiếm khoảng 25% trữ lượng gỗ rừng Quan Sơn. Gỗ nhóm VII thường nhiều cành, phân cành sớm, thuộc loại cây lá rộng, chóng lớn nên tác dụng che phủ rừng lớn, tán che rừng rộng và hiệu quả.

Gỗ nhóm VIII: mọc được trong các loại địa hình, phân bố khắp diện tích đất lâm nghiệp của Quan Sơn. Nhất là các diện tích sau nương rẫy, diện tích nứa, vầu, le, giang bị chết thì xuất hiện cây thân gỗ nhóm VIII phát triển. Gỗ nhóm VIII ở Quan Sơn có nhiều loài nhưng thường gặp nhất là: cây bộp, sung, chay, ba soi, ba bét, trẩu.

Gỗ nhóm VIII thường mềm, không có lõi, dễ dập gãy nên nhân dân ít dùng trong làm nhà và đồ gia dụng.

Các loại cây thuộc nhóm VIII mọc nhanh, chóng lớn nên có tác dụng tốt trong việc tăng nhanh độ tàn che, độ che phủ rừng góp phần chống xói mòn, tạo nguồn sinh thủy.

Do nhân dân ít sử dụng, lâm tặc không khai thác nên gỗ nhóm VIII thường tồn tại lâu dài, từ đó có cơ hội sinh trưởng phát triển tốt. Tuy nhiên, do giá trị kinh tế không cao nên diện tích mọc nhiều cây gỗ nhóm VIII [rừng tạp] thường được cải tạo thành rừng trồng. Nhân dân phát bỏ gỗ tạp để trồng rừng mới có giá trị kinh tế cao hơn như: trồng lát, keo, xoan, luồng trên các diện tích rừng gỗ tạp. Hiện nay gỗ nhóm VIII chiếm khoảng 13% tổng sản lượng gỗ rừng tự nhiên toàn huyện.

1.7.3.2. Các loại cây họ tre, trúc

Các loại cây họ tre, trúc ở Quan Sơn thường có là vầu, nứa, bương, giang, trúc, le, sặt, măng đắng, hẹ, tre gai, luồng, mai, song sào, là ngà, tre vàng, luồng vàng, mạy cần... Trong đó tre gai, mai, song sào, là ngà, tre vàng, luồng vàng, mạy cần là rừng trồng phân bố tương đối rộng khắp toàn huyện. Rừng vầu, nứa chiếm tỷ lệ lớn nhất, phân bố nhiều ở các xã Trung Tiến, Trung Thượng, Sơn Lư, Sơn Hà, Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Điện, Mường Mìn, Sơn Thủy, Na Mèo.

Vầu, nứa mọc thuần loài thành từng diện tích lớn hàng 100ha, ngoài ra còn mọc hỗn giao trong rừng gỗ, rừng bương. Đây là nguồn thu nhập chính của đồng bào các dân tộc huyện Quan Sơn. Nhiều hộ đã thoát nghèo nhờ bảo vệ khoanh nuôi, chăm sóc được rừng nứa, vầu, luồng; nhiều hộ mở xưởng chế biến tăm mành nứa, vầu, đũa luồng.

Cây vầu: tiếng Thái gọi là “mạy quăn”. Cây vầu mọc thành từng bụi, tái sinh bằng măng hoặc bằng hạt. Tái sinh hạt sau chu kỳ khoảng 60 năm, cây vầu ra hoa và quả một lần. Lúc đó toàn bụi vầu chết hết, kết thúc việc tái sinh măng chuyển thành tái sinh hạt do hạt vầu già rụng xuống xung quanh gốc, một số do chim, chuột công đi nơi khác ăn để rơi rớt xuống đất, hạt đã nảy mầm. Từ khi tái sinh mầm cho đến lúc bụi vầu trưởng thành có thể khai thác được nhanh nhất là 5 năm, nơi đất xấu 7 - 10 năm cây vầu mới thành hàng hóa. Việc tái sinh măng xảy ra liên tục hằng năm vào mùa mưa. Từ tháng 6, 7 măng vầu bắt đầu mọc đến tháng 10 thì măng không mọc nữa, tháng 10 cây măng bắt đầu có lá ở ngọn đến tháng 12 thì cây măng đã trở thành cây vầu non có đủ cành lá có thể chẻ lạt được.

Cây vầu non có nhiều phấn trắng. Quá trình trưởng thành từ măng thành cây vầu nó thay bẹ lần lượt từ gốc cho đến ngọn, cứ 1 ống vầu có một bẹ bao bọc khi cây măng già thì bẹ khô và tự rơi ra khỏi cây măng, khi bẹ bóc hết thì cây măng đã trở thành cây vầu có đủ nhánh lá từ 1/3 thân cây về phía ngọn.

Cây vầu thành thục từ năm thứ 3 trở đi, trở thành cây vầu già sau năm thứ 5. Thân vầu thành thục thường nhẵn, phấn trắng đã rụng hết. Những cây vầu có tuổi từ 1 - 3 tuổi là giai đoạn phát triển măng [đẻ măng] nhiều nhất. Do vậy trong quy trình kỹ thuật khai thác vầu, nứa, ngành lâm nghiệp đã quy định không được chặt cây vầu dưới 3 năm tuổi để chúng sinh măng phát triển rừng. Cây vầu càng già thì tốc độ sinh măng càng yếu, xấu. Thường cây vầu thích nghi ở đất ferarit có tầng dày ít đá sỏi. Nếu mọc ở đất macma axit bãi bằng bồi tụ bên sông suối thì cây vầu rất to, dài nhưng thường bị ốp, dễ bị mọt ăn, làm hàng không nhẵn, không đẹp, xơ nhiều.

Nơi đất tốt cây vầu có thể to gần như cây luồng loại 2, 3 với đường kính gốc 10 - 12cm, dài 10 - 15m, nặng đến 30 - 40kg/1cây. Nơi đất xấu, nhiều sỏi đá, cây vầu nhỏ thường gọi là vầu tép, đường kính gốc chỉ khoảng 2 - 3cm, dài 5 - 7m, cân nặng 3 - 5kg/cây.

Người ta thường phân cây vầu thành nhiều loại: loại 1, 2, 3, 4 và tép. Thời gian gần đây cây vầu rất được giá, nếu so cây luồng cùng cỡ đường kính có khi giá vầu bán gấp 2 lần, lại là cây rừng tự nhiên không phải chăm bón, chỉ cần bảo vệ tốt, khai thác đúng cường độ, hàng năm mỗi bụi vầu sinh măng 10 - 20 cây là nguồn lợi lớn cho người sản xuất nghề rừng. Bụi vầu thành thục có thể cho ta hàng trăm cây, bình quân 45 - 50 cây/bụi, vừa có lợi kinh tế vừa có lợi cho môi trường, góp phần tích cực trong việc tạo độ che phủ, độ tàn che, chống xói mòn, làm mát không khí. Ở Quan Sơn, cây vầu bị khuy [tái sinh hạt], năm 1976 đến nay đã 37 năm. Nếu đúng chu kỳ thì khoảng 23 năm nữa cây vầu sẽ ra hoa, quả và cây chết hàng loạt. Đây là mối lo không chỉ thiệt hại về kinh tế [mất nguồn thu nhập] mà còn là mối lo cháy rừng xảy ra vì cây vầu chết khô hàng loạt tạo ra nhiều vật liệu dễ cháy làm nguy cơ cháy rừng càng cao. Để ứng phó với những vấn đề này, đồng bào và các chủ rừng Nhà nước phải chủ động tạo việc làm mới, lập đường băng cản lửa, chia nhỏ diện tích vầu chết khô để phòng xảy ra cháy lớn. Khi rừng bị cháy sẽ cháy cả hạt và mầm vầu đang lên, do đó việc phục hồi rừng vầu sau 5 - 10 năm sẽ rất khó. Để kéo dài tuổi thọ rừng vầu cần khai thác đúng chu kỳ, cường độ. Không chặt cây non dưới 3 năm tuổi để rừng tái sinh tốt, bụi vầu sẽ khỏe hơn. Khi có hiện tượng vầu ra hoa, lá vàng, cây mọng nước, mùa măng không có măng thì nên nâng cường độ chặt có khi chặt trắng để tận thu lâm sản đồng thời giải phóng bớt vật liệu cháy trong rừng.

Cây vầu có trữ lượng chiếm khoảng 30% tổng trữ lượng vầu, nứa, bường, giang và cây họ tre trúc trong rừng tự nhiên ở Quan Sơn. Trọng lượng bình quân cây vầu khoảng 10kg, dài vút ngọn 9m, đường kính gốc 7cm. Cây to nặng nhất đến 40kg, cây nhỏ chỉ 2-3 kg.

Cây nứa: Nứa thường mọc ở đồi [dông] đất hoặc bãi bằng bên sông suối. Chu kỳ sinh trưởng và tái sinh của cây nứa cũng như cây vầu, có khi nứa mọc thuần loài với diện tích hàng 100ha, có khi hỗn giao vầu, luồng, gỗ, bương. Cây nứa ở trên đỉnh dông, sườn dông [đỉnh đồi, sườn đồi] có chất lượng tốt hơn cây mọc ở thung bằng hoặc ven sông suối. Cây nứa mọc ở thung bằng, ven sông suối thường to, dài, nhưng hay bị ốp, bị mọt. Trọng lượng cây nứa có thể đến 30kg, dài 10 - 12m. Có cây đường kính gốc 9 - 10cm, bình quân khoảng 7cm. Nứa cũng được phân nhiều loại như vầu: loại 1, 2, 3, 4 và tép. Nứa tép là những cây nhỏ có đường kính dưới 4 cm. Nứa cũng mọc thành bụi, có bụi đến 150 cây, bình quân 50 - 60 cây/bụi. Đến nay đồng bào khai thác nhiều nên bụi nứa giảm nhiều về số cây, chiều cao và đường kính.

Để bảo vệ rừng nứa phát triển, sinh trưởng tốt, cường độ khai thác hàng năm không quá 25%, chặt cao gốc không quá 30cm, kéo ngọn nứa đã chặt ra khỏi bụi nứa để khi măng mọc lên khỏi vướng làm cong cây măng. Chu kỳ khai nứa 3 năm quay lại một lần, không chặt những cây dưới 3 tuổi. Vì cây nứa dưới 3 tuổi là cây sinh măng [đẻ măng] mạnh nhất, măng khỏe và to. Đồng thời cây nứa dưới 3 tuổi chưa già [bánh tẻ] nên làm hàng không đẹp, không bóng, ốp, hay bị mốc, mọt, trọng lượng khi sấy khô thường hao hụt nhiều.

Chu kỳ sinh trưởng của cây nứa khoảng 60 năm thì ra hoa, kết quả một lần. Lúc đó nứa sẽ chết hàng loạt để tái sinh mầm từ hạt già gieo xuống đất. Từ lúc nảy mầm cho đến khi cho sản phẩm và hình thành bụi nứa khoảng 5 - 7 năm tùy chỗ đất tốt hay xấu. Hiện tượng nứa sắp ra hoa cũng giống như vầu: Lá vàng từ ngọn dần xuống gốc, trong cây nứa có nhiều nước, cây nứa mềm dễ gãy, năm sắp ra hoa nứa không mọc măng. Quả nứa, quả vầu gà rừng và chuột rất ưa thích. Do đó, năm nào vầu, nứa ra hoa kết quả [khuy] thì trong rừng rất nhiều chuột và gà rừng. Ở Quan Sơn, nứa ra hoa gần đây nhất là năm 2004 - 2005. Kỹ thuật xử lý nứa khuy cũng như đối với cây vầu. Cây nứa ở Quan Sơn chiếm khoảng 45% trữ lượng họ tre, trúc.

Cây bương: tiếng Thái gọi là “mạy hộc”. Cây bương mọc thành bụi trong rừng tự nhiên, thân cây to gần như cây luồng nhưng đẻ nhiều nhánh và nhánh dài hơn nhánh luồng. Bụi bương thành thục có 50 đến 60 cây, bình quân mỗi bụi bương khoảng 30 - 35 cây/bụi.

Cây bương thường mọc măng từ tháng 6 đến hết tháng 9 hằng năm. Quá trình mọc măng và thành cây bương cũng như cây vầu, cây nứa. Măng bương to, ống bương dày, bương thường mọc ở đầu nguồn nước, bên khe suối, có khi phân bố thành đám rộng vài héc-ta, có khi mọc hỗn giao với vầu, nứa, gỗ, trong rừng sâu. Do vậy hái măng bương thường phải đi xa.

Măng bương ăn ngon [cả măng tươi, hay măng phơi khô] đều dùng tốt. Do vậy măng bương thường bị thu hái nhiều, ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của rừng bương. Đến nay, cây bương ít được sử dụng vì khai thác khó, giá thành không cao, vận chuyển xa, thu nhập không đáng kể nên đồng bào ít quan tâm. Trữ lượng bương ở Quan Sơn chiếm khoảng 2% trữ lượng họ tre, trúc trong rừng tự nhiên.

Cây bương ở Quan Sơn bị chết khuy [ra hoa kết quả] năm 1986, chu kỳ ra hoa kết quả của cây bương cũng tương tự như cây nứa, cây vầu.

Cây bương thành thục có thể dài đến 15m, đường kính gốc đến 12cm, nặng đến 50kg. Bình quân cây có đường kính 9cm, dài 12m, nặng khoảng 25kg. Cây bương dễ bị uốn cong do nhiều nhánh, nhiều lá. Lá màu xanh xẫm to hơn lá tre, luồng và lá vầu, nứa.

Cây giang: tên tiếng Thái “mạy háng”. Cây giang thường phân bố ở đỉnh núi cao, nơi rừng sâu, rừng xa, có độ cao so với mặt nước biển trên 700m, độ ẩm lớn. Bụi giang khoảng 15 - 20 cây/bụi, nhưng thường mọc liền nhau, cây giang dài 20 - 30m leo trèo trên cây thân gỗ, nếu không có cây thân gỗ hoặc cây vầu, nứa, bương làm chỗ dựa thì cây giang lan bò dưới đất đan cài với nhau dày đặc. Đây là môi trường tốt cho trăn, rắn, rết, rùa.... ẩn nấp, có khi cả hổ, gấu, nai cũng vào trong rừng giang để ở. Người đi rừng gặp rừng giang rất vất vả mới qua được. Giang thường mọc từng đám, có đám rộng vài chục héc-ta, lá giang xanh đậm, dài hơn lá nứa. Trong rừng giang, tầng thảm mục thường dày, rất dễ cháy. Ống giang dài đến 60cm, có lỗ hổng bé có khi đặc, lạt giang rất dẻo, bền. Do đó giang thường được dùng trong đan lát thủ công mỹ nghệ, đan đồ dùng gia đình, làm lạt buộc rất tốt. Tuy nhiên, rừng giang thường ở xa, khai thác giang khó khăn, năng suất thấp, giá bán không cao nên sản phẩm giang ít được khai thác sử dụng trên địa bàn Quan Sơn.

Cây giang cũng tái sinh chồi [măng] và hạt như vầu, nứa, bương. Chu kỳ ra hoa kết quả [khuy] cũng tương tự như vầu, nứa. Trên địa bàn Quan Sơn, cây giang bị khuy chết hàng loạt năm 2010, nay đang lên cây non. Trữ lượng giang chiếm khoảng 3% so với tổng trữ lượng họ tre, trúc ở Quan Sơn.

Cây le: tiếng Thái gọi là “mạy láy”. Cây le mọc thành bụi, có bụi đến hàng trăm cây dày đặc, thân le chắc nhưng do nhiều cành, nhánh, lá dày nên cây thường bị uốn cong. Le mọc thành đám trong rừng tự nhiên, trên đồi hoặc ở sườn dông, nơi đất pha sỏi, đá, le càng sống khỏe. Ống le thường đặc, lỗ hổng rất nhỏ, ống dài khoảng 25 - 35cm, cây le dài khoảng 8 - 10m đan cài vào nhau trong cùng bụi hoặc trong đám le, mọc thuần loài, mọc ở núi thấp, rừng le rất dễ cháy.

Măng le ngon với nhiều cách chế biến khác nhau, nhưng hái măng le khó do bụi le rậm rạp, thường có ong, rắn, đến cư trú nên đồng bào ít hái măng le. Cây le ít sử dụng trong đời sống con người. Chỉ vài nơi lấy le làm cán dao, cán liềm, cán cuốc... trong sinh hoạt gia đình. Ngoài ra hiếm thấy sản phẩm từ cây le trong sản xuất hàng hóa ở Quan Sơn. Cây le chiếm khoảng 1% trữ lượng họ tre, trúc Quan Sơn.

Cây măng đắng: thuộc loài trúc, tiếng Thái ở địa phương gọi là “mạy mu”, “mạy khôm”. Cây măng đắng mọc phân tán trong rừng [không thành bụi], có khi mọc thành đám rộng thuần loài vài héc-ta, phần nhiều mọc xen dưới tán rừng gỗ, nơi độ ẩm cao. Hái măng đắng phải dùng thuổng đi đào khi măng mới nhú lên mặt đất, thậm chí mới nứt đất đã đào xuống lấy thì măng đỡ đắng, ăn sống có vị ngọt. Nếu măng lên khỏi mặt đất thì đắng, càng lên cao càng đắng, măng đắng được nhiều người sử dụng. Măng mọc vào tháng 1 đến tháng 3, rộ nhất vào tháng 2 dương lịch hằng năm.

Cây măng đắng ống ngắn khoảng 20 - 30cm, cây dài đến 7 - 8m, thân thẳng. Nhân dân thường lấy làm đòn tay, rui nhà tạm, chòi rẫy nơi có rừng măng đắng ở gần. Cây măng đắng ở Quan Sơn ít, chỉ phân bố ở một số xã như Trung Hạ, Sơn Điện, Mường Mìn, Sơn Thủy, Na Mèo. Trữ lượng cây măng đắng chiếm khoảng 0,1% trữ lượng cây họ tre, trúc. Cây măng đắng chưa thành hàng hóa ở Quan Sơn.

Cây sặt: tiếng Thái gọi là “mạy chá”. Cây sặt mọc trong rừng sâu, nơi độ ẩm cao, chân núi đá. Măng sặt mọc vào mùa xuân khoảng tháng 2 - 4 hằng năm. Măng sặt có 2 loại: một loại đắng [no chá khốm] loại không đắng [No chá ban]. Măng sặt ăn ngon, là loại thức ăn mà hoẵng, nai, gấu, trâu, bò, rùa núi yêu thích. Trước đây còn nhiều thú rừng, những người thợ săn thường vào rừng cây sặt mùa sinh măng để săn bắt gấu, nai, hoẵng, rùa...

Cây sặt có đường kính dưới 2cm, thân dài khoảng 4 - 5m, mọc rải rác [không thành bụi] trong rừng. Cây sặt ít được khai thác sử dụng, chủ yếu đồng bào chỉ để hái măng dùng trong gia đình, đôi khi cũng đem bán hoặc trao đổi hàng hóa. Ở Quan Sơn trữ lượng cây sặt không nhiều, chỉ chiếm khoảng 0,5% trữ lượng họ tre, trúc.

Cây nứa đá: Tiếng Thái gọi là “mạy pao”. Cây nứa đá thường mọc trên núi đá, về hình dáng giống cây nứa nhưng có thân nhỏ, mỏng, đường kính dưới 1cm, chiều cao khoảng 2 - 3m [mạy pao] thường được dùng làm khèn bè, sáo ôi... ngoài ra ít dùng vào việc khác. Về chu kỳ sinh trưởng và phát triển của “mạy pao” [nứa đá] cũng như cây nứa, cây vầu. Măng nứa đá ăn được nhưng vì ít, thu hái khó khăn nên đồng bào ít sử dụng.

Cây sậy đồi: Tiếng Thái gọi là “mạy vua”. Mạy vua hình dáng giống cây sậy hay mọc ven suối, ven bờ ruộng, ao, đầm. Nhưng nó có thân cứng hơn, dẻo hơn. Cây có đường kính dưới 0,5cm, thân dài 1 - 2m. Đồng bào miền núi thường lấy cây này làm cần hút rượu cần, tiếng Thái gọi là “Vua làu láu”. Do cây nhỏ, trữ lượng ít nên đồng bào ít hái măng hay chặt cây làm vào việc khác ngoài cần rượu.

Cây sậy đồi thường mọc ở đồi thấp nơi đất pha đá sỏi, phân bố ở một số nơi như Sơn Thủy, Tam Thanh, Sơn Điện, Trung Thượng. Nhìn chung loại cây này hiếm và ít tác dụng trong đời sống con người, tỷ lệ không đáng kể trong trữ lượng họ tre, trúc ở Quan Sơn.

Cây luồng: tiếng Thái gọi là “mạy luông”. Cây luồng do con người trồng bằng hom. Có thể dâm hom ở vườn sau khi cây đẻ nhánh thế hệ 2 mới đem trồng hoặc chặt từng đoạn có 1 mắt ở giữa cắm đầu gốc xuống đất sâu khoảng 15 - 20cm, cây luồng vẫn phát triển tốt. Lâu nay trên địa bàn huyện Quan Sơn nhân dân thường trồng luồng theo cách thứ 2 là chủ yếu. Trồng theo cách này vừa dễ trồng, năng suất mà tỷ lệ sống khá cao [chiếm đến 80 - 90%]. Chặt cây luồng có tuổi từ 1 - 3 tuổi vát đầu gốc, để mắt ở giữa. Mỗi cây luồng có thể được 10 - 15 đoạn đem ra nơi đã xử lý thực bì cắm xuống đất như đã nói ở trên vào mùa tháng 5, 6 trước mùa sinh măng thì cây luồng dễ sống. Nếu trồng trong mùa sinh măng tháng 7, 8, 9 thì tỷ lệ sống thấp hơn. Cây luồng trên 3 tuổi thì lấy phần ngọn trồng vẫn sống.

Rừng luồng Quan Sơn đã có từ lâu đời. Có những bụi luồng đã sống hàng trăm năm. Chưa thấy cây luồng ra hoa kết quả [khuy] hàng loạt như nứa, vầu, bương, mà chỉ phát sinh khuy cục bộ. Cây luồng trước khi khuy [ra hoa] thường tạo thành từng chùm lá hình tròn như tổ ong ở nhánh luồng. Khi xuất hiện các “tổ ong” bằng lá luồng còn xanh ở ngọn luồng thì nên chặt bỏ cây đó đi để tránh lan sang cây khác. Đây chính là hiện tượng sâu hại luồng và làm cho cây luồng yếu đi dẫn đến việc ra hoa sớm.

Lâu nay rừng luồng trên Quan Sơn mới ra hoa cục bộ, do đó nhân dân vẫn phát triển trồng luồng. Có hộ trồng đến 30ha. Mỗi bụi luồng hằng năm cho măng đạt tiêu chuẩn từ 3 - 10 cây tùy đất tốt, xấu và thời tiết khí hậu phù hợp. Trên địa bàn Quan Sơn đến năm 2010 có 8.400ha rừng luồng thuần loài đã thành thục, mỗi héc-ta có từ 250 - 300 gốc, mỗi gốc thu từ 3 - 5 cây/năm, mỗi cây bán giá bình quân 15.000 đồng/cây, là nguồn thu khá lớn của đồng bào. Mỗi năm Quan Sơn khai thác và bán ra thị trường từ 6 - 8 triệu cây luồng, cây luồng Quan Sơn to, thẳng. Nhiều khu rừng luồng, luồng phao [luồng to] chiếm đến 30%, giá mỗi cây luồng phao bán tại chỗ khoảng 25.000 - 27.000 đồng/cây. Để tận dụng nguyên liệu tại chỗ, những năm gần đây đã xuất hiện nhiều xưởng chế biến đũa. Mỗi năm các xưởng tiêu thụ hàng triệu cây luồng tại chỗ cho nhân dân, tạo thêm việc làm và thu nhập cho đồng bào vùng cao.

Cây luồng dễ trồng, phát triển nhanh, sớm đưa lại hiệu quả kinh tế và môi trường do tàn che rộng, rễ dày, chống xói mòn đất. Là cây “xóa đói giảm nghèo” của đồng bào Quan Sơn. Hiện nay trữ lượng cây luồng chiếm ưu thế về rừng trồng và chiếm khoảng 15% trữ lượng cây họ tre, trúc trên địa bàn. Là nguồn nguyên liệu dồi dào cho xây dựng cơ bản và chế biến đũa luồng.

Cây tre gai: tiếng Thái gọi là “Co phéo nám” được trồng từ trước tới nay ở xung quanh làng, bản, ven sông suối, ven ruộng, vườn, làm tác dụng hàng rào che chắn. Kỹ thuật trồng tre như trồng luồng.

Đồng bào Quan Sơn ít sử dụng cây tre trong cuộc sống hàng ngày, chủ yếu trồng tre gai để chắn gió, chắn bụi, thay tường rào bảo vệ ruộng vườn, cây cối, làng bản. Trữ lượng tre gai trên Quan Sơn ít, chiếm dưới 0,1% trữ lượng họ tre, trúc trên địa bàn. Đường kính cây tre to đến 12cm, dài 10m.

Cây song sào: tiếng Thái gọi là “Co phéo khóng” cây song sào [tre nhỏ] thuộc loại tre gai mọc thành bụi nhưng có đường kính thân cây nhỏ, chỉ khoảng ½ đường kính cây tre gai. Cây song sào thường mọc thẳng, dài 10 - 12m, vút ngọn. Trồng song sào cũng như trồng luồng. Do song sào thẳng, đều, ít bị mối mọt nên đồng bào thường lấy làm đòn tay nhà rất đều, đẹp. Đũa cây song sào cũng là một sản phẩm đẹp, bền, được nhiều người ưa chuộng. Cây song sào có thể trồng ở mọi địa hình, thích hợp nhất là tầng đất dày, có nhiều mùn. Do ít công dụng và khai thác khó [có nhiều gai ở gốc] nên đồng bào ít trồng, mỗi làng chỉ có vài bụi cây song sào. Trữ lượng song sào so với tổng trữ lượng cây họ tre, trúc trên địa bàn Quan Sơn không đáng kể.

Cây mạy cần: tiếng Thái gọi là “mạy cần” là loại cây nhân dân trồng để làm rui nhà, làm đà lát sàn luồng, làm cánh nỏ, cây có hình dạng như cây trúc nhưng đặc ruột, mọc thành bụi. Cây thường đều, thẳng, đường kính gốc cây to khoảng 4 - 5cm, dài 9 - 10m.

Kỹ thuật trồng “mạy cần” cũng tương tự như trồng tre, luồng. Nhưng phần nhiều đào lấy gốc đi trồng. Gốc “mạy cần” không có gai nên khi khai thác dễ chặt. Trữ lượng mạy cần chưa đến 0,1% trữ lượng họ tre, trúc.

Cây mai: tiếng Thái gọi là “mạy mai, mạy mười”, cây to như cây luồng, mọc thành bụi, những cây bánh tẻ thường có phấn trắng, nhiều cây có màu mốc, gốc không có gai, lá mai to và dài hơn lá luồng, nhìn gần giống như lá bương. Cây mai ít sử dụng trong xây dựng, chỉ sử dụng làm bè mảng nơi gần sông nước. Cây mai được đồng bào trồng để lấy măng ăn là chủ yếu. Măng mai ngon, búp măng to. Trên địa bàn Quan Sơn cây mai chỉ trồng ở vườn hộ gia đình, xung quanh nhà, thường xuất hiện nhiều ở các xã: Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Tiến, Trung Thượng. Các xã vùng trên hầu như không có cây mai vì đồng bào có nhiều luồng và bương nên ít dùng đến cây mai, măng mai.

Kỹ thuật trồng cây mai cũng như trồng cây luồng, cây mai thành thục đường kính gốc có thể từ 12 - 15cm, chiều cao từ 10 - 12m. Hình dáng cây mai không đẹp và chắc như cây luồng. Cây mai thường mắt to, cật thô, ráp, thớ mai mềm xốp trong khi cây luồng có cật bóng, thớ, trắng, dai khỏe. Trữ lượng cây mai trên địa bàn Quan Sơn chiếm dưới 0,1% trữ lượng cây họ tre, trúc.

Tre ngà [Tre vàng]: tiếng Thái là “mạy phéo khằm”, cây tre vàng về hình dáng giống cây tre nhưng có đường kính nhỏ hơn. Toàn thân cành nhánh có màu vàng nên gọi là tre vàng [phéo khằm]. Trước đây tre vàng xuất hiện ở Trung Hạ, Trung Thượng, Sơn Điện, Mường Mìn, nay ít thấy đồng bào trồng.

Đặc điểm cây tre này cứng dẻo hơn cây tre thường nên đồng bào thường làm cánh nỏ cùng với cây mạy cần.

Tre La Nga: tiếng Thái là “Có La Nga” Loại tre này to, dài, từ gốc đến ngọn dài 30m, có gai nhưng mềm hơn tre gai [Có phéo hóa], gai mềm như gai tre song [Có phéo khóng].

Cây luồng vàng: tiếng Thái gọi là “luồng khằm”. Cây luồng vàng có hình dáng bên ngoài như cây luồng nhưng cành, nhánh có màu vàng. Cây luồng vàng ít sử dụng trong xây dựng cơ bản, chủ yếu trồng làm cảnh nơi cổng làng, nơi nghĩa địa để tôn thờ thần linh, hồn vía con người. Từ cây luồng vàng có nhiều câu ca tục ngữ, bài khặp tả cảnh vật rất đẹp và duyên dáng như một nàng tiên.

1.7.3.3. Các loại cây dược liệu và lâm sản khác

Trên địa bàn huyện Quan Sơn có rất nhiều cây dược liệu quý, mọc trong rừng, ngoài đồng, bên cạnh đường đi, có loại cây thân gỗ, có loại thân thảo [cỏ], có loại dây leo, củ, quả.

Loại cây thân gỗ làm thuốc có nhiều loại, chữa được nhiều bệnh, trong đó cây thành ngạnh vàng phối hợp cùng ngô đá, cây khế chữa bệnh thận.

Cây thảo dược cũng có nhiều loại chữa được nhiều thứ bệnh, công ty dược thường mua như: thiên niên kiện, củ ba mươi, sa nhân, củ mài, củ nâu chó, hà thủ ô, vỏ quế, lá quế, quả cây mát.

Trong rừng Quan Sơn còn nhiều lâm sản phụ như: song, mây, lá dong, chuối rừng, củ nâu, dây móc, lá cọ, lá kè... đều có tác dụng thiết thực với đời sống đồng bào và trở thành hàng hóa đem lại lợi ích kinh tế không nhỏ. Đó là nguồn lợi do sản phẩm rừng đem lại cho đồng bào.

Cây đót, cây bông lau cũng là sản phẩm rừng có giá trị. Bông đót làm chổi, bông lau làm đệm ngồi, đệm nằm là những sản phẩm hàng hóa, vật dụng gia đình không thể thiếu trong đời sống đồng bào Quan Sơn cũng như phục vụ nhu cầu chung của xã hội.

Cây guột ở Quan Sơn cũng nhiều, guột là nguyên liệu làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu rất có giá trị, được nhiều khách hàng trong và ngoài nước đặt mua.

Các loại quả như quả trám hồng, trám đen, hạt trẩu, hạt quế là những sản phẩm ở Quan Sơn mà thị trường luôn cần đến. Đặc biệt, ở bản Tân Sơn, xã Sơn Điện có rừng giống lim duy nhất của tỉnh Thanh Hóa được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Hóa cấp chứng chỉ rừng giống của tỉnh. Mấy năm gần đây, nhiều cơ sở sản xuất giống cây lâm nghiệp trong tỉnh ta đã đến mua với số lượng khá lớn, chất lượng hạt rất tốt. Hạt quế ở trên địa bàn xã Na Mèo, huyện Quan Sơn những năm qua cũng là nguồn giống tốt mỗi năm bán ra thị trường trong và ngoài tỉnh hàng tấn hạt. Ngoài ra, trong rừng Quan Sơn còn có nhiều loại rau rừng ăn rất ngon, số lượng nhiều, có những loại rau rừng là vị thuốc rất hiệu nghiệm, chữa được nhiều bệnh cho người và gia súc.

1.7.4. Động vật

1.7.4.1. Đặc điểm chung

Hệ động vật của Quan Sơn rất phong phú, đa dạng, bao gồm cả động vật trên cạn lẫn động vật d­­ưới n­ư­ớc, cả động vật bản địa lẫn động vật di cư­­ đến, cả động vật tự nhiên lẫn động vật do con ng­­ười nuôi,... các động vật này có giá trị nhiều mặt: cung cấp thịt, dùng làm thuốc, làm đồ trang sức, làm cảnh và dùng để nghiên cứu khoa học. Lãnh thổ Quan Sơn có 4 quần cư­­ động vật trên cạn chính:

Quần cư­­ động vật ở rừng gỗ và trảng cây. Quần cư này phân bố tại các khu rừng giàu, rừng trung bình, rừng hỗn giao gỗ, tre, nứa. Quần cư­­ này có các loài ăn sâu bọ, lá, quả cây, ăn thịt, sống trên cây, trên đất. Một số loài đặc trưng là: nhái bén, thằn lằn, nhông xanh, trĩ, trĩ sao, cu xanh đuôi nhọn, vẹt đậu xám, cày lon, thỏ, sóc bụng xám, sóc chân vàng, gà rừng, gõ kiến, bìm bịp, cày h­­ương, lợn rừng,... Một số loài quý hiếm là lợn rừng, khỉ, nai, gấu, hổ, gà lôi.

Quần cư­­ động vật ở rừng cây bụi, trảng cỏ. Chúng phân bố tại các khu vực rừng nghèo, đồi cỏ tranh. Quần cư­­ này th­­ường có các loài ăn sâu bọ, chim nhỏ ăn hạt, ăn sâu, thú ăn hạt, rễ, lá, cỏ ở đất. Một số loài đặc trưng là: ếch cây, rắn giun, rắn roi, cun cút, chèo bẻo, chuột chù, chuột nhắt, chuột dũi, cáo lửa, thỏ rừng, cày lon, gà rừng, gà gô, sóc bụng đỏ,...

Quần cư­­ động vật ở rừng tre, nứa, luồng, vầu, giang. Quần cư­­ này có các loài sống ở hốc tre hay d­­ưới đất, ít khi sống trên cây, hay trên đất, th­­ường ăn rễ, sâu bọ. Một số loài đặc trư­­ng: ếch cây, rắn giun, gà rừng, gõ kiến, chuột khuy, tắc kè, trăn đất, thằn lằn bóng đuôi dài, chuột nứa, tê tê, rùa...

Quần c­ư động vật đồng ruộng và đồi thấp. Quần cư­­ này có các loài đặc trưng ếch, nhái, bò sát ăn sâu bọ thư­­ờng ở n­­ước, chim thú ăn hạt. Các loài đặc trư­­ng là ếch đồng, rắn n­­ước, sơn ca, cu gáy, sáo mỏ ngà, chuột nhắt, chuột đồng,... ngoài ra có thêm thằn lằn bóng đuôi dài, nhái, cóc nhà, thạch sùng đuôi sần, tê tê, cò trắng, chèo bẻo, chào mào, chích choè, chẫu chuộc, cóc.

Phân bố lồng ghép trong các sinh quần cư­­ trên là rất nhiều sâu bọ có hại: rầy nâu, sâu b­ướm hai chấm, sâu cuốn lá nhỏ, sâu cắn gié, bọ xít dài, bọ trĩ, sâu đục thân ngô, sâu xám, sâu xanh, sâu đục quả đậu tương, ruồi đục thân đậu, vòi voi đục thân,vòi voi đục gốc, bọ giáp, sâu khoang.

Quần c­­ư động vật n­­ước ngọt. Quan Sơn có 69,74ha thủy vực nư­­ớc ngọt, chủ yếu là ao, hồ, ruộng... đã được sử dụng để nuôi thủy sản. Ngoài ra, còn hàng trăm héc-ta diện tích mặt nước của sông Luồng, sông Lò. Các thủy vực ở đây có độ sâu trung bình 0,3 - 1,0m; độ pH: 6,7 - 7,5; động vật phù du: 4 -10.104 con/m3; thực vật phù du: 1 - 50.105 tế bào/m3; sinh vật đáy: 2 - 10g/m2. Các giống thủy sinh chính ở Quan Sơn gồm cá chép, cá lăng, cá trê, tôm càng sông, cua đồng, l­ươn, ếch, ốc.

Hiện nay, nguồn loại động vật bị giảm sút nhanh cả về trữ l­­ượng lẫn chủng loại. Nhiều động vật tr­­ước đây rất nhiều hiện không còn nữa hoặc rất hiếm gặp như: voi, sư­­ tử, hổ, tê giác một sừng, công, voọc, bò tót, trâu rừng, khỉ mặt đỏ, khỉ mốc, kỳ đà,... Do đó, cần có chiến l­uợc bảo tồn và phát triển quỹ gen động vật.

1.7.4.2. Một số loài động vật

Động vật rừng phân bố hầu khắp các địa bàn trong huyện, nhất là chuột, bò sát, dơi, sóc, chồn, cáo, hoẵng, lợn lòi xã nào cũng có. Những thú lớn như: báo, hổ, nai, bò rừng, trâu rừng, tê giác, voi thì chỉ một số địa bàn mới có. Riêng tê giác và voi hiện nay không còn, chỉ còn dấu tích của chúng với những câu chuyện truyền miệng của dân gian để lại như: nà luốc chạng [ruộng thung voi], vung hét [ao tê giác]. Đó là những nơi mà trước đây voi, tê giác thường đến ăn cỏ, uống nước, tắm mát. Nay chúng không còn, chỉ để lại dấu tích là vết ruộng, ao hồ mà người dân ở địa phương đã đặt tên cho chúng.

Nai, bò tót, bò rừng cũng có thói quen uống nước tập trung ở một số nơi nhất định. Dù đi đâu về đâu cứ đến ngày đến tháng chúng tập trung về nơi chúng ưa thích để uống nước tắm mát. Do đó nhân dân địa phương đã đặt tên các địa danh chúng hay đến như: Pung ngùa [đầm bò], pung quáng [đầm nai]. Trước đây những nơi này các thợ săn thường nhớ quy luật chúng sinh hoạt mà đến phục sẵn để săn rất hiệu quả.

Trước thập niên 70 của thế kỷ XX, các loại bò tót, bò rừng còn sống tập trung thành đàn ở Pù Khạn, xã Trung Thượng, bản Đe Nọi, xã Trung Tiến, bản Pa, xã Tam Thanh, bản Xa Mang, xã Sơn Điện, bản Yên, xã Mường Mìn, suối Cài, bản Cha khót, xã Na Mèo, suối Lế, xã Mường Mìn, bản Xia Nọi, Mùa Xuân, xã Sơn Thủy, Nong Uân, Pha Đón, xã Sơn Điện. Hiện nay, ở các địa bàn này đã vắng bóng các thú lớn. Vào khoảng tháng 10 năm 2002 có con trâu rừng khoảng 700kg từ Pha Đón theo đàn trâu nhà của bản Ngàm, xã Sơn Điện về bản. Do thấy nhiều người nên trâu chạy thục mạng lao vào dây chăng điện bị chết. Từ đó đến nay không còn bò tót, bò rừng, trâu rừng xuất hiện.

- Động vật không xương

Trùng chân giả [Sên], tiếng Thái gọi là Tô lịn má: Di chuyển bằng chân giả [dùng chất nhờn của thân để di chuyển]. Nơi chúng đi qua kéo thành vết nhựa màu bạc kết dính. Thân chúng dẹt như lưỡi chó nên đồng bào Thái gọi là “tố lịn má” [con lưỡi chó].

Trùng chân giả [Sên] sống cả trong rừng, vườn cây, vườn rau, nơi ẩm ướt, dưới thảm mục... không có nọc độc, thức ăn của chúng là thảm mục, thực vật, do vậy chúng thuộc loại động vật có hại cho cây trồng.

Cuốn chiếu, tiếng Thái gọi là tố cớ: Cuốn chiếu là loại động vật chân kép [nhiều chân]: mỗi đốt thân có 2 cặp chân. Dao động mỗi con có 40 - 400 chân. Trên thế giới có 10 nghìn loài cuốn chiếu, ở Việt Nam có khoảng 8.000 loài. Loài cuốn chiếu lớn nhất của Thế giới ở Châu Phi có 750 chân. Ở Quan Sơn có các loài cuốn chiếu tròn, nhiều chân như: “tố cớ” cuốn chiếu tròn, “tố cớ pén” cuốn chiếu dẹp hình ngắn hơn và nhiều loài cuốn chiếu khác. Loài cuốn chiếu là động vật ăn vụn hữu cơ. Cũng có khi chúng ăn cả mầm non mới mọc như mầm lúa, mầm ngô, khoai, rau... Do đó, chúng góp phần gây hại cho cây trồng.

Ốc rừng: Ốc ở Quan Sơn có cả trên rừng tự nhiên [nhất là núi đá] rừng trồng, vườn cây, bãi cỏ, dưới ao hồ, sông suối. Ốc ở Quan Sơn có nhiều loài với hình dáng, kích thước khác nhau, nhiều loài ăn ngon, bổ. Nhất là ốc ở các sông và suối lớn.

Ốc núi, tiếng Thái gọi là “tô hoi pù, hoi pha”, đồng bào ít ăn, chỉ mang về chăn nuôi lợn, ếch, cá trê lai hoặc bắt để diệt tránh chúng phá hoa màu. Ốc sống dưới ao, hồ, ruộng có hình hơi tròn, vỏ mỏng, thân to hơn ốc sông suối. Tiếng Thái gọi là “hoi na” [ốc ruộng]. Loài này đồng bào thường bắt về ăn. Nhưng trước khi ăn phải ngâm nước gạo 1 buổi để thải bùn và tạp chất ra ngoài. Ốc sông suối: mình nhỏ và dài, loại có gai, có loại trơn, vỏ cứng. Loài này đồng bào thường bắt về chế biến thành nhiều món ăn rất ngon, bổ. Hiện nay, do sông suối bị ô nhiễm nguồn nước, chỗ chúng ở bị đất bùn phủ lấp nên ốc sông suối không còn nhiều, chỉ nơi nào nước không bị ô nhiễm, sông suối nước trong thì ốc mới còn.

Rết, tiếng Thái là [tố khệp phan]. Rết là động vật không xương, chân kép, mỗi đốt thân chúng mọc chân ra 2 bên [mỗi đốt một cặp chân] khác với cuốn chiếu mỗi đốt thân 2 cặp chân. Cuốn chiếu di chuyển chậm chạp thì rết di chuyển rất nhanh nhẹn, linh hoạt [có thể tiến lùi] rất nhanh. Đồng bào Thái đặt tên rết là “khệp phan” vì đầu chúng giống con bét [tô khệp] đầu bét có 2 răng vòng như rết. Rết có thân nâu xậm như con hoẵng chân vàng. Rết có nọc độc, khi bị rết cắn người dân địa phương thường lấy nước bọt gà [được gà mái đang ấp trứng càng tốt] bôi vào vết thương sẽ mau khỏi.

Rết có các cặp chân nhưng thường là số lẻ: 13, 15, 17... cặp. Phần lớn các loài rết có từ 30 - 50 chân, còn bộ rết Geophilomorpha có nhiều chân hơn, có thể đến 350 cái [175 cặp chân]. Rết có chiều dài thân hình khi thành thục khoảng 30cm. Hiện trên thế giới có khoảng 8.000 loài rết, trong đó có 3.000 loài đã được mô tả. Ở Việt Nam cũng có nhiều loài rết bao gồm rết nhà, rết rừng, rết có thân màu vàng sậm, chân vàng, có loại thân màu xanh, chân vàng hay còn gọi là rết xanh. Rết xanh nọc độc mạnh hơn rết vàng.

Rết thường sống trên cạn: dưới thảm mục, hốc cây, hốc đất đá, chui vào ống nứa, vầu, đống quần áo, chăn màn, dưới chiếu... sau những cơn mưa rào rết từ các kẽ đá, kẽ đất, dưới lớp lá khô do không chịu được nước thường ra đi tìm nơi trú ẩn, vào cả nhà để trú. Do vậy, khi có mưa phải chú ý đề phòng rết vào nhà, nhất là mùa hè [tháng 4 - 6]. Do vậy, đồng bào Thái thường ở nhà sàn để tránh rắn, rết vào nhà.

Ong: Rừng Quan Sơn có nhiều loài ong. Trong đó, ta có thể phân chia thành 2 ngành: ong có mật [ong mật] và ong không có mật. Ong mật thường có 4 loài:

Ong mật - tiếng Thái là “tố châng” loài này thường làm tổ trong hốc cây, hốc đất, kẽ đá... con người hay đem về nuôi. Chúng có thân hình ngắn, bẹp màu vàng, có khoang đen, mỗi đàn có vài ngàn con. Đây là loài ong có lợi bởi hoạt động của chúng giúp thụ phấn cho cây, làm mật cung cấp cho con người một sản phẩm quý. Ong mật khi đốt vào vật chủ thường bị đứt rốn, kim châm cắm lại vật chủ.

Ong khoái - tiếng Thái là “Tố phấng” [phứng]. Loài ong này thường làm tổ trên cành cây, vòm núi đá. Thân chúng tròn và dài, lớn hơn ong mật nuôi. Loài này cũng làm mật nhưng không nuôi được. Tổ chúng thường lớn và cho nhiều mật hơn ong mật nuôi. Mỗi đàn có đến hàng vạn con, nhiều nhất có đến 50 ngàn con. Chúng có màu nâu đen, một con có thể đốt vật chủ nhiều lần mà không bị đứt rốn và hung dữ, đốt đau hơn ong mật nuôi.

Ong muỗi - tiếng Thái là “tô mịn”. Loài này có màu đen, thân nhỏ, mỗi đàn có vài trăm con. Tổ của chúng thường làm ở cành cây, lá cây tầm thấp, mật ít, mỗi tổ chỉ được khoảng 650ml mật. Mật loài ong này rất quý vào loại tốt nhất trong các loại mật ong ở Quan Sơn.

Ong muỗi nhỏ - tiếng Thái là “tố khỉ sút”. Loài ong này rất hiếm, chúng có thân hình bé, màu đen, rất hiền. Chúng thường làm tổ ở kẽ đá, hốc cây, trong ống nứa, vầu khô, mỗi đàn vài chục con. Mật của loại ong này đặc quánh, thơm, có màu vàng nâu, vị chua ngọt. Sáp tổ của chúng rất dẻo, có màu đen, thơm dịu. Phụ nữ Thái thường lấy sáp của chúng dùng trong dệt vải [lăn sợi] để sợi bền khó đứt.

Trong một đàn ong loài nào cũng vậy, gồm có: ong cái, ong đực, ong thợ kiêm bảo vệ tổ. Việc xây dựng tổ và nuôi đàn do ong thợ đảm nhiệm, ong thợ là ong cái nhưng không có khả năng sinh sản, thân hình chúng vào loài nhỏ nhất trong đàn.

Ong chúa, con to nhất trong tổ là ong chúa [ong cái] có thân hình lớn, dài, cánh ngắn, chuyên làm nhiệm vụ đẻ trứng cho đàn. Mỗi đàn ong chỉ có một ong chúa. Nếu trong tổ ong mà phát sinh 2 ong chúa trở lên thì chúng sẽ chia đàn, việc chia đàn thường vào mùa xuân, ong chúa sống được khoảng 3 - 5 năm thì chết.

Ong đực, nhỏ hơn ong chúa, to hơn ong thợ, số lượng ít hơn ong thợ. Mỗi tổ ong chỉ vài chục đến vài trăm con ong đực. Ong đực làm nhiệm vụ giao phối với ong chúa, ong đực thường xuất hiện vào mùa hè và chỉ sống được 1, 2 tháng. Sang mùa thu, khi hoàn thành việc giao phối thì chúng bị đuổi ra khỏi tổ và chết do bị bỏ đói.

Ong thợ là ong cái vô sinh, có thân hình nhỏ hơn ong chúa và ong đực. Là lực lượng đông nhất trong đàn, chúng rất siêng năng, cần mẫn làm việc, vừa xây tổ kiếm ăn, tạo mật cho đàn vừa bảo vệ đàn, ong thợ sống được 2 - 6 tháng tuổi.

Ong không mật: thường to hơn ong mật và có nọc độc mạnh, có nhiều loài ong khác nhau. Ở Quan Sơn thường gặp các loại ong không mật là:

- Ong vò vẽ: tiếng Thái là “tố to vao”, thân và bụng thon có khoang đen xen kẽ màu vàng, to, dài hơn ong mật. Đầu của chúng rộng bằng ngực, không nhẵn, có nhiều nốt rỗ lấm chấm nhỏ, lông tơ cứng, ngắn và thưa. Là loài ong hung dữ và đốt rất đau. Ong vò vẽ thường làm tổ nơi lộ thiên, cành cây cao không có lá [nếu cành còn lá chúng sẽ cắn trụi trước khi làm tổ]. Tổ ong vò vẽ gồm nhiều lớp, vật liệu làm tổ của chúng chủ yếu là phân trâu, bò khô, lá khô, tổ tròn như quả bóng, quả bưởi, bắp cải, có nhiều lỗ xuôi xuống, nhìn bề mặt nhăn nhúm như mặt qủy nên một số người còn gọi chúng là ong mặt qủy. Ong vò vẽ là loài ăn côn trùng, ấu trùng nhện, ấu trùng loại ong khác. Chỉ có ong thợ mới đốt người và động vật để tự vệ và tranh con mồi. Do vậy thấy tổ ong vò vẽ phải tránh xa hoặc khi chúng đang bắt mồi, ăn mồi không được tấn công chúng. Nếu không chúng sẽ kéo cả đàn đến tấn công đối phương rất dai dẳng quyết liệt. Đến mức lặn xuống nước, chui vào màn cũng không tránh đựơc chúng đốt. Ong vò vẽ thường bị thu hút sự chú ý và tấn công người khi mặc quần áo có màu sặc sỡ bị chúng phát hiện, hoặc gây tiếng động ồn ào gần tổ của chúng, đụng đến tổ và thân của chúng. Khi bị ong đuổi, người ta lấy cành cây, lá chuối tủ vào người, nằm yên chúng sẽ bay qua.

Người dân địa phương thường lấy tổ ong vò vẽ về ban đêm. Bằng cách mặc nhiều đồ bảo hộ che kín người, đem lửa đốt tổ của chúng, đồng thời đốt một đống lửa ở gần tổ để chúng lao vào lửa mà chết. Sở dĩ làm như vậy vì về ban đêm ong vò vẽ thường vào trong tổ ẩn náu, chỉ có vài con ở ngoài canh tổ. Do đó, khi đốt vào tổ chúng không kịp ra sẽ bị chết, những con ở ngoài thấy đống lửa lao vào bị thiêu chết. Tổ của chúng là vật liệu dễ cháy nên thuận lợi cho việc đốt tổ ong vò vẽ. Nhộng ong vò vẽ ăn ngon, ong già ngâm rượu làm thuốc chữa viêm khớp rất tốt.

Ong đất: Còn gọi là ong bắp cày. Ong đất - tiếng Thái gọi là “tô to đín” [tô to khúm], “to mú xi”. Ong đất to hơn ong vò vẽ, thân khoang đen không vàng, có loài thân vàng chấm đen [màu vàng nhiều hơn màu đen] tiếng Thái gọi là “to lương nàng”. Đầu của chúng có 2 râu màu nâu nhạt, râu không có lông. Thân chúng có lông, đầu và ngực có nhiều lông tơ màu vàng. Ong đất cũng có nhiều loài: Có loài làm tổ dưới đất [to khúm], có loài làm tổ ở cành cây sát đất [to mú xi]. Loài làm tổ dưới đất có thân to hơn, màu vàng nhiều hơn, hung dữ và đốt đau hơn, tổ lớn đàn đông. Có tổ đến 10 tầng, riêng con nhông [ong non] có thể đến 10kg 1 tổ, ong trưởng thành vài ngàn con một tổ. Loài ong đất làm tổ treo cây hiền hơn, tiếng Thái gọi “to mú xi”, thân hình chúng nhỏ hơn ong ở dưới đất, có màu đỏ đen. Tổ chúng tròn như quả bóng, đàn thường chỉ vài trăm con đến ngàn con, nếu người, súc vật không đụng đến chúng thì chúng không tấn công. Người dân địa phương thường đi bắt ong đất cả 2 loài lấy nhộng để ăn, ong già về ngâm rượu làm thuốc chữa các bệnh sưng cơ, viêm khớp, đau lưng.

Ong bầu: tiếng Thái là “tô to lánh” [ong đỏ]. Tổ ong bầu cũng giống tổ ong đất treo cây nhưng nhỏ hơn, mỗi đàn ong bầu chỉ vài chục đến vài trăm con. Ong bầu đốt không đau bằng ong đất, ong vò vẽ. Tổ ong bầu thường làm trên cành cây, trong vườn, trong rừng, trên mái nhà...

Ong vàng: tiếng Thái là “tô ten lướng” [ten bỏng]. Loài ong này có thân nhỏ hơn ong đất, ong vò vẽ, ong bầu, toàn thân chúng có màu vàng. Thường làm tổ ở gốc cây, cành cây, bụi rậm, mái nhà, trong ống nứa, vầu luồng khô. Loài ong này đốt đau không bằng ong đất, ong vò vẽ, ong bầu. Mỗi đàn ong vàng thường có vài chục con đến khoảng một trăm con.

Ong ký sinh: là loài ong nhỏ có lợi cho cây trồng vì chúng bắt côn trùng, đẻ trứng vào ấu trùng sâu, rầy hại lúa, diệt bớt sâu bệnh hại cho cây trồng. Chúng có một số loài sau:

Ong xanh: sống trên ruộng nước và ruộng cạn. Mỗi con ong cái có thể đẻ 10 - 15 con vào ấu trùng của sâu đục thân, sau đó ong non phát triển ăn hết ấu trùng của sâu đục thân.

Ong ký sinh trứng bọ xít nước: Là loài ong ký sinh trên trứng của bướm và bọ xít. Ong ký sinh rất khôn ngoan khi tấn công trứng bướm và bọ xít. Mặc dù bọ xít bảo vệ trứng của chúng rất nghiêm ngặt, khi bị ong tấn công dần dần trứng bọ xít, trứng bướm sẽ bị ong ký sinh hủy hoại.

Ong ký sinh trứng rầy lúa: Có 5 loài ong ký sinh trứng rầy lúa. Trứng rầy lúa khi bị ong ký sinh tấn công sẽ không phát triển thành rẫy được nữa.

Ong ký sinh trứng và nhộng: Loài ong này sống bằng trứng của sâu đục thân, bướm 2 chấm và nhộng của sâu cuốn lá lớn, chúng đẻ một trứng vào trứng ký chủ và từ 20 - 50 trứng vào nhộng ký chủ làm cho trứng và nhộng của ký chủ bị hủy hoại.

Ong đa phối ký sinh sâu cuốn lá nhỏ: Loài ong này thường tìm trứng sâu cuốn lá nhỏ ở cả ruộng nước, ruộng khô [rẫy lúa]. Ong ký sinh đẻ trứng lên trứng và sâu non của sâu cuốn lá nhỏ, dần dần ăn hết ký chủ. Trứng ong cắt nhiều lần có 200 - 300 ong non có thể sinh ra từ vài trứng ong.

Ong cự khoang ký sinh sâu đục thân: Là loài ong thường xuất hiện ở ruộng nước chuyên ký sinh sâu đục thân 2 chấm và sâu đục thân mình trắng. Chúng đẻ trứng vào trứng ký chủ. Khi ong non nở trong ký chủ sẽ làm chết ký chủ.

Ong ký sinh sâu đục thân 2 chấm: Ong có màu đen, nhỏ, tấn công trứng và sâu đục thân 2 chấm.

- Động vật lưỡng cư

Loài ếch nhái: Thường sống trong những hốc đá, kẽ đất, dưới thảm mục, thảm tươi ven suối, ven các ao đầm trong rừng. Khi có sự đe dọa đến tính mạng thường nhảy xuống nước chui vào đám rác, hốc đá, bùn đất... để ẩn náu. Ếch nhái thường kiếm ăn về ban đêm, ban ngày trú ngủ nơi ẩn náu. Do vậy nhân dân địa phương thường đốt đuốc hoặc mang đèn đi soi ếch ở các khe suối, bờ ruộng, bờ ao, bên hồ nước, bãi bằng, sau cơn mưa rào chúng ra kiếm ăn nhiều về đêm. Một số như ếch xanh, chão tràng, nhái bầu, ếch có thể sống trên cây.

Ếch vạch [cộp ho], ếch nhẽo [cộp mứn], ếch xanh [tô xa lông] thường ở trong khe suối, nơi rừng già; nhái bén, chão tràng, nhái bầu thường ở gần đầm nước. Vào mùa sinh sản chúng tập trung thành đàn rất đông. Nhân dân đi bắt cả ban ngày, ban đêm có khi được hàng chục kilôgam nhái bầu [tô chóe].

Ếch nhái thường sinh sản bằng trứng chùm dưới nước hoặc trên cành cây ven ao, hồ, sông suối vào tháng 5, 6 đầu mùa mưa hằng năm. Trứng nở nòng nọc, nòng nọc lớn lên có chân, rụng đuôi lên bờ thành ếch, nhái. Ở nước ta hiện đã ghi nhận được 82 loài thuộc 9 họ, 3 bộ ếch nhái thì rừng Quan Sơn cũng gần như xuất hiện đủ các loại ếch nhái của Việt Nam. Tuy nhiên, do bị săn bắt nhiều [cả trứng và cá thể], phun thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ nên ếch nhái trong rừng cũng như ngoài ruộng, ao hồ đã sụt giảm nhiều. Trong đó, nhiều loài gần như tuyệt chủng.

Loài bò sát: Bò sát thường sống trên cạn, một số sống được cả dưới nước, trên cây. Riêng rùa núi chỉ sống trên cạn, kỳ nhông, kỳ đà, rắn có thể ở cả trên cạn, dưới nước, trên cây. Nhất là loài kỳ nhông, tắc kè, môi trường sống chủ yếu là trên cây. Ba ba chủ yếu sống dưới nước. Chu kỳ sinh hoạt của bò sát cả ngày lẫn đêm, nhiệt độ thích hợp nhất là 18 - 400C, vào mùa rét nhiệt độ xuống dưới 180C bò sát ít hoạt động, vào hang ẩn nấp. Các loại rắn hổ, rắn xanh ít xuống nước. Trăn, rắn ăn no có thể ngủ một chỗ từ 4 - 7 ngày mới ra khỏi nơi ẩn nấp để đi kiếm ăn trở lại. Trăn nếu ăn được con mồi lớn thì ngủ dài ngày hơn.

Ở Quan Sơn có loài thằn lằn xanh rất dễ nhiễm điện. Người dân thấy thằn lằn xanh khi trời dông, bão, sấm chớp sắp mưa thường tránh xa chúng để khỏi bị sét đánh ảnh hưởng đến mình.

Bò sát thường đẻ trứng vào ổ, sau khi đẻ chúng ấp trứng [canh trứng] nhất là hổ mang, hổ chúa. Nên mùa tháng 5, 6, 7 người đi rừng phải hết sức cẩn thận đề phòng gặp rắn hổ mang, hổ chúa canh trứng tấn công thì rất nguy hiểm. Trong thời kỳ canh trứng các loại bò sát rất hung dữ [nhất là rắn], khi thấy rắn phải tránh xa.

Trong các loại bò sát, thì rắn dùng hình thức lột xác để tăng trưởng cơ thể. Cứ sau một lần lột xác là một lần chúng tăng trọng lượng, chu kỳ lột xác mỗi năm một lần vào mùa hè là chủ yếu. Chúng có thể lột xác trên cây, dưới đất, trong hang hốc, bụi rậm...

Rắn hổ mang cổ vàng, hổ chúa thường sống ở rừng sâu trong hang hốc kể cả hốc đất, hốc cây, hốc đá tự nhiên hoặc do chuột, nhím đào để lại, trong bụi nứa, vầu, bụi rậm....

Trăn có 2 loại: Loại trăn đất có trọng lượng lớn nhưng hiền hơn trăn gió. Chúng thường sống kiếm ăn dưới đất. Loại trăn gió có trọng lượng nhỏ hơn nhưng hung dữ hơn thường sống bám trên cây khi có người hoặc con mồi đi qua chúng lao xuống cuộn bắt mồi. Cả 2 loại trăn đều ăn thịt, mồm chúng rất rộng, bụng dãn mạnh. Một con trăn có trọng lượng khoảng 20kg có thể nuốt được con hoẵng 30 - 40kg vào bụng. Trăn, rắn ăn không nhai mà nuốt luôn mồi vào bụng sau đó nằm chờ miếng mồi tiêu hóa.

Rùa núi sống trong rừng, cả rừng sâu, rừng già, rừng thứ sinh. Chúng ăn măng, lá cây, tổ mối, cây mục, côn trùng, thực vật rừng. Rùa núi thường ẩn nấp dưới gốc cây, thảm mục, hang đá, hốc đất. Thường đi kiếm ăn vào ban ngày. Trước đây rừng Quan Sơn có 3 loài chủ yếu là: Loài rùa mốc trọng lượng lớn hơn rùa vàng, dân địa phương gọi là rùa đá [tau phá], loài rùa vàng [tau khằm] nhỏ hơn rùa mốc nhưng có giá trị kinh tế cao hơn. Loài thứ 3 là rùa có đuôi [tô cặp coong] nhỏ hơn rùa vàng, có mùi khét nên nhân dân ít dùng đến chúng. Từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, các loại rùa núi ở Quan Sơn bị săn bắt nhiều nên cá thể và loài còn lại rất ít.

Kỳ đà: Ở rừng Quan Sơn có 2 loài chủ yếu là kỳ đà hoa và kỳ đà mốc. Kỳ đà mốc to hơn, có con trọng lượng đến 20 - 25kg. Kỳ đà thường kiếm ăn ở khe suối, ao đầm trong rừng. Kỳ đà thường sống ở rừng thứ sinh, ít gặp kỳ đà ở rừng nguyên sinh, rừng già.

Loài chim: Ở Quan Sơn trước đây có rất nhiều loài chim, họ và cá thể. Hiện nay tuy đã suy giảm nhưng do diện tích rừng lớn, cây rừng nhiều tạo thức ăn cho chim nên cả loài, họ và cá thể chim vẫn còn khá nhiều. Tuy nhiên, cũng có loài bị tuyệt chủng như: Loài công hiện nay rừng Quan Sơn không còn. Các loài chim khác cũng giảm nhiều về lượng cá thể. Một số họ như gà lôi, trĩ, hồng hoàng, quạ thi thoảng mới thấy xuất hiện. Phần lớn chim thích sống ở rừng thứ sinh, chỉ một số ít như công, trĩ, hồng hoàng mới sống ở rừng già.

Họ chim lặn: Ở Quan Sơn thường thấy loài két. Loài két có lông màu xám hồng, mỏ bẹp như vịt, thường đi ăn ở sông suối ao hồ, lặn dưới nước kiếm mồi. Tiếng Thái địa phương gọi là [tố pệt poong], chim có trọng lượng cá thể khoảng 0,5 - 0,6 kg/con. Họ cò: cò trắng, cò nâu, cò mốc trong đó cò trắng có số cá thể nhiều hơn. Bộ gà: trĩ, gà rừng. Bộ ngỗng: vịt trời [vịt rừng] tuy không nhiều nhưng một số cá thể vẫn thường xuất hiện. Bộ cắt: họ ó, họ ưng, tù tì, đại bàng. Bộ sếu: cun cút, sến, thi thoảng vẫn xuất hiện ở Quan Sơn. Bộ rẽ: gà lôi, choi choi. Bộ bồ câu: bồ câu xám, trắng, xanh [bồ câu nhà và bồ câu rừng]. Bộ cúc cu: cúc cu gáy, cúc cu xanh [cúc cu đất], cúc cu xám cổ hoa [nộc pung]. Bộ cú: cú mèo, cú lợn. Bộ sả: bói cá xanh, bói cá xám, họ đầu rùi. Họ hồng hoàng có 3 loại: hồng hoàng cổ vàng [nộc cộc khằm], hồng hoàng cổ trắng [nộc ngách], hồng hoàng đen [nộc mè]. Họ gõ kiến thường gặp có 2 loài: loài màu nâu có mào, loài lông xám cổ hoa có mào, cả 2 loài có mỏ dài, khỏe. Họ xẻ: có nhiều loài sống thành từng đàn. Họ sáo có: sáo đen [nộc yếng keo], sáo khoang [nộc yếng lang], yểng [nộc yếng khằm viền vàng ở cổ, mỏ vàng].

Trong rừng Quan Sơn có nhiều loài chim, một số loài chim hiện còn tồn tại với số lượng đông, một số loài còn lại ít, một số loài đã thưa thớt. Những năm 60 của thế kỷ XX trở về trước, chim rừng ở Quan Sơn rất nhiều về họ và cá thể. Vào mùa sinh trưởng từng đàn sáo, yểng đông đến hàng ngàn con bay trên bầu trời, chúng đậu đen ở những cây đa, cây si mà chúng thường ăn quả. Từng đàn hồng hoàng [nộc cộc, nộc ngách, cộc mè] đông vài trăm con bay đến rừng cọ, rừng kè, cây trám đen, cây si ăn quả. Khướu cũng bay hàng đàn vài trăm con quanh bản, gà rừng ra ăn chung với gà nhà là chuyện thường thấy.

Đến nay, do rừng nguyên sinh giảm đi, một số cây rừng mà chúng thường ăn quả không còn, thức ăn bị thiếu, hơn nữa nhiều phương tiện săn bắt do đó một số loài chim cũng thưa dần và biến mất. Hồng hoàng, quạ đen rất hiếm, thi thoảng mới thấy vài con bay đến, công không còn. Khướu, sáo cũng bị bắt bán cho người chơi chim cảnh nên số lượng đàn và cá thể bị giảm nhiều so với trước.

Nhận thấy điều này, những năm gần đây huyện Quan Sơn đã có nhiều biện pháp hạn chế việc săn bắt chim thú như thu hồi súng săn, cấm không được dùng lưới bắt chim, cấm làm bẫy chim, bẫy thú. Đây cũng là việc làm bảo vệ môi trường sinh thái mà Đảng bộ và nhân dân Quan Sơn đang rất quan tâm, để vừa nâng cao độ che phủ rừng, làm giàu rừng không chỉ riêng thực vật mà cả động vật cũng cần được hồi sinh, phát triển.

1.8. MÔI TRƯỜNG

1.8.1. Môi trường nước

Nước rất cần thiết cho sự sống của con người. Đủ nước thì con người khỏe mạnh, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu. Do đó, trong nhiều nghìn năm lịch sử, dân gian đã trân trọng, linh thiêng hóa nước, thấy rõ sự tối cần thiết của nước, tác dụng tích cực của nước và cũng thấy cả tác hại của nước và tìm các biện pháp hạn chế tác hại ấy; dân gian cũng có những quy định để bảo vệ nguồn nước sinh hoạt và nguồn nước sản xuất.

Với hai con sông chính là sông Lò, sông Luồng và hàng trăm con suối tự nhiên cùng nhiều ao, hồ, hón. Quan Sơn là huyện có diện tích mặt nước phong phú. Nguồn tài nguyên này đủ cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.

Về cơ bản nguồn nước của Quan Sơn vẫn còn sạch và đạt các tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Tuy nhiên, tại một số khu vực và ở một số thời điểm nhất định, nguồn nước cũng đã bị ô nhiễm. Vào mùa mưa, nguồn nước có hàm lượng phù sa quá cao cũng ảnh hưởng đến nguồn nước sử dụng. Ô nhiễm nhiều nhất là tại các bồn chứa nước thải tù trong các khu phố. Tại thị trấn Quan Sơn tuy chưa có những phân tích hàm lượng độc tố trong nước sông Lò và nước ngầm, song nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp và các hoạt động dịch vụ khá lớn cho thấy nguồn nước ở đây cũng bắt đầu bị ô nhiễm trong mùa khô.

Trên diện rộng, từ vài thập kỷ gần đây, do chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt và việc sử dụng các loại phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ đã làm cho nguồn nước mặt bị ô nhiễm ở một số khu vực với mức độ khác nhau. Việc các tổ chức và cá nhân mở nhiều con đường vào rừng lấy lâm sản và phục vụ dân sinh kinh tế đã làm mất nhiều rừng, phá vỡ sinh thái rừng, một số khu rừng bị xâm hại, đất đá vùi lấp sông suối làm ảnh hưởng ô nhiễm môi trường. Nước sông Lò, sông Luồng và nhiều dòng suối khác bị đục. Do đó, nguồn cá tự nhiên ở sông suối bị giảm đi rất nhiều. Trước đây, các loài cá dốc sông Lò, sông Luồng từng đàn bơi lội ở các vũng nước sâu, có con to đến 10 - 12kg thì nay hầu như không còn; cá ké, cá lăng, cá chày còn rất thưa thớt không đáng kể. Các sông suối trước đây xanh trong, nay nước đục quanh năm, cá tôm không còn nhiều.

1.8.2. Môi trường không khí

Môi trường không khí ở Quan Sơn nói chung còn trong lành, trừ một số khu vực có hoạt động công nghiệp. Tình trạng ô nhiễm không khí ở Quan Sơn đến nay vẫn chưa đến mức báo động như ở các đô thị, các khu vực tập trung công nghiệp hay đầu mối giao thông.

Tuy nhiên, tại Quan Sơn cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố gây ô nhiễm không khí như đốt rẫy [nếu có], cháy rừng, giao thông, sử dụng các loại hóa chất trong nông nghiệp và lâm nghiệp, khói của các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các cơ sở chế biến lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng tại các khu vực đông dân như thị trấn Quan Sơn, Cửa khẩu Na Mèo và các tụ điểm kinh tế - xã hội của các xã. Nhất là một số xưởng chế biến luồng, nứa, vầu, hun sấy đũa luồng, tăm mành, nan cật nứa vầu nếu không chú ý đến bảo vệ môi trường sẽ làm ô nhiễm không khí và ô nhiễm cả nguồn nước. Vì thế các hoạt động sản xuất cần có các giải pháp để hạn chế các nguồn gây ra ô nhiễm không khí.

Huyện Quan Sơn đã có quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp, đây là cơ sở tốt để phát triển rừng trên địa bàn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Từng chủ rừng, hộ dân được giao đất lâm nghiệp cần chú ý canh tác thâm canh nâng cao chất lượng rừng, phục hồi rừng, làm giàu đất. Kể cả bón phân cho luồng, nứa, vầu để chống suy thoái nghèo kiệt tài nguyên. Bố trí cây trồng hợp lý, đa dạng, vừa trồng rừng thuần loài vừa trồng rừng hỗn giao cây thân gỗ để tăng độ sinh thủy, làm giàu đất. Giảm trồng luồng thuần loài vì hiện nay diện tích luồng đã nhiều [trên 8.465ha] để trồng vầu, nứa, cây thân gỗ như xoan, lát, keo, dổi, sưa. Rừng luồng làm khô đất, nghèo đất, lá luồng độc cho đất và cây trồng khác. Do vậy cần xem xét cân đối diện tích trồng luồng. Tập trung nhiều biện pháp hữu hiệu để bảo vệ rừng phòng hộ, nhất là phòng hộ đầu nguồn.

*

Từ những nội dung đề cập trên đây cho thấy, Quan Sơn có sự tổng hòa các yếu tố tự nhiên và có vị trí chiến lược quan trọng, là của ngõ phía tây tỉnh Thanh Hóa, của Quân khu 4 và cả nước, là đầu mối giao thương chính giữa hai tỉnh Thanh Hóa [Việt Nam] và Hủa Phăn [Lào].

Điều kiện tự nhiên không những chỉ tạo thế mạnh cho sự phát triển đô thị, công nghiệp, du lịch, mà điều kiện đất đai thổ nhưỡng ở Quan Sơn còn tạo điều kiện cho nơi đây phát triển một nền lâm nghiệp đa dạng cùng với một nền nông nghiệp truyền thống. Bên cạnh các loại đất khá phổ biến ở vùng núi Quan Sơn, nếu được nghiên cứu đầy đủ sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển các loại cây trồng có giá trị của vùng nhiệt đới.

Quan Sơn xứng đáng được chọn là địa bàn quan trọng thu hút đầu tư phát triển kinh tế với các khu chế xuất, khu trung tâm thương mại, cửa khẩu Quốc tế, du lịch. Song song với phát triển, Quan Sơn cần chú ý tới giải pháp bảo vệ môi trường, đặc biệt là môi trường đất và nước để những tiềm năng về điều kiện tự nhiên ngày càng phát huy được giá trị, mang tới cho vùng đất này sự phồn vinh bền vững.

Chương 2. ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH, DÂN CƯ

2.1. ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH HUYỆN QUAN SƠN QUA CÁC THỜI KỲ

2.1.1. Huyện Quan Sơn trước ngày thành lập Huyện Quan Sơn trước năm 1996 là tuyến 217 của huyện Quan Hóa. Đây là vùng núi cao, giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, xa xưa ít được khai phá, việc quản lý hành chính từ thời Lê - Trịnh về trước còn lỏng lẻo, hầu như chưa vươn tới[1]. Thời thuộc Hán là miền đất cực tây huyện Đô Lung; thời Tề, đổi tên Đô Lung thành Cát Lung. Thời Đường: thuộc huyện Trường Lâm. Thời Đinh, Lê, Lý: không thay đổi. Thời Trần, Hồ: có thể thuộc huyện Nga Lạc, châu Thanh Hóa. Thời Lê - Nguyễn: huyện Quan Hóa thực tế hình thành từ thời Lê - Nguyễn. Quá trình hình thành như sau: Thời Lê, có tên châu Quan Da [do hợp nhất mường Chu Sàn và mường Chu Da], thuộc phủ Thanh Đô [bên cạnh các châu khác là châu Lang Chánh, châu Tàm, châu Sầm]. Năm Minh Mệnh thứ 16 [1835] cho hợp châu Tàm với châu Quan Da để lập ra châu Quan Hóa thuộc phủ Thọ Xuân. Châu Quan Hóa có từ đây. Theo Đồng Khánh địa dư chí: châu Quan Hóa từ thời Lý, Trần đến Lê sơ là sách Quan Da; năm Quang Thuận thứ 10 [1469] đời Lê Thánh Tông đổi là châu Quan Da, phủ Thanh Đô thuộc Thanh Hoa thừa tuyên. Các triều sau đều theo như vậy. Năm Tự Đức thứ 3 [1850], đổi châu Quan Hóa thuộc phủ Quảng Hóa. [nay là huyện Quan Hóa và huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa]. Châu hạt phía đông giáp huyện Cẩm Thủy, phía tây giáp huyện Trình Cố, phía nam giáp châu Lang Chánh, phía bắc giáp Mai Châu, tỉnh Hưng Hóa [tỉnh Hòa Bình ngày nay]. Đông - tây cách nhau 154 dặm. Nam - bắc cách nhau 131 dặm. Toàn châu có 6 tổng: - Tổng Phú Lệ có 6 xã: Phú Lệ; Phú Nghiêm; Phú Nam; Phú Lễ; Phú Tán; Hồi Xuân. - Tổng Lực Canh có 4 xã: Lực Canh; Lực Na; Vân Cung; Vân Lung. - Tổng Cổ Nam có 5 xã: Cổ Nam; Cổ Động; Ái Thượng; Ái Trung; Ái Hạ. - Tổng Đặc Kiệt có 4 xã: Đặc Kiệt; Đặc Hiền; Bất Căng; Bất Phạt. - Tổng Hữu Thủy có 5 xã: Hữu Thủy; Sơn Trà; Hữu Xuyên; Trịnh Điện; Trịnh Xá. - Tổng Quang Chiêm có 4 xã: Quang Chiêm; Khiêm Xung; Sơn Chinh; Sơn Hiên. Theo Đồng Khánh địa dư chí, thời nhà Nguyễn, tổng Tam Lô [Lư] thuộc châu Lang Chánh gồm 5 xã: Hàm Lô; Thượng Lô; Trung Lô; Hậu Lô; Tuyết Lô nay thuộc vùng đất huyện Quan Sơn, bao gồm các xã: Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Hà, Sơn Lư, thị trấn Quan Sơn và một phần xã Trung Thượng. Tổng Hữu Thủy bao gồm 5 xã: Hữu Thủy; Sơn Trà; Hữu Xuyên; Trịnh Điện và Trịnh Xá, nay gồm các xã: Na Mèo, Sơn Thủy, Mường Mìn và Sơn Điện. Tổng Cổ Nam bao gồm 5 xã: Cổ Nam; Cổ Động; Ái Thượng; Ái Trung; Ái Hạ thuộc châu Quan Hóa, nay thuộc huyện Quan Sơn, gồm các xã: Trung Thượng, Trung Hạ, Trung Xuân và Trung Tiến. Xã Cổ Động [nay là xã Nam Động] huyện Quan Hóa Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Châu Quan Hóa đổi thành huyện Quan Hóa với 32 xã và 01 thị trấn. Huyện Quan Hóa ổn định địa giới cho đến ngày 18 tháng 11 năm 1996. Sau đây là bản đồ các châu, phủ thời Đồng Khánh có vùng đất thuộc huyện Quan Sơn ngày nay.

Hình 1: Bản đồ vùng đất Quan Sơn thời Đồng Khánh[ ]

Bản đồ phủ Quảng Hóa

CHÚ THÍCH BẢN ĐỒ PHỦ QUẢNG HÓA Thời Đồng Khánh, huyện Quan Sơn nằm trong châu Quan Hóa, phủ Quảng Hóa gồm 6 tổng [theo số đã chú thích trên bản đồ]: 25. Tổng Quang Chiếu 26. Tổng Lực Canh 27. Tổng Đặc Kiệt 28. Tổng Cổ Nam 29. Tổng Phú Lệ 30. Tổng Hữu Thủy *Địa giới 1. Phía đông giáp với huyện Tống Sơn và huyện Nga Sơn, 2. Phía tây giáp với huyện Trình Cố, 3. Phía nam giáp với huyện Yên Định và phủ Thiệu Hóa, 4. Phía bắc giáp với huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. * Đường đi 5. Một đường nhỏ từ phủ lị đi về phía tây đến địa giới huyện Cẩm Thủy và châu Quan Hóa, lộ trình 5 ngày đường. Một đường nhỏ từ phủ lị đi về phía đông nam đến Ngã Ba Bông qua địa giới 2 huyện Mỹ Hóa và Đông Sơn đến thành tỉnh, lộ trình 1 ngày đường. Một đường nhỏ từ phủ lị đi về phía bắc qua huyện Thạch Thành đến giáp phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, lộ trình 1 ngày đường. 6. Một đường Quan báo từ xã Ngọ Xá đến xã Ngọc Âu, dài 2 dặm, rộng 1 trượng. Một đường nhỏ từ phủ lị đi về phía đông đến xã Ngọ Xá, lộ trình khoảng 1 ngày đường. * Huyện - Tổng

  1. Huyện Vĩnh Lộc 7. Tổng Cao Mật 8. Tổng Bỉnh Bút 9. Tổng Nam Cai 10. Tổng Thanh Xá 11. Tổng Biện Thượng 12. Tổng Ngọ Xá 13. Sóc Sơn
  2. Huyện Thạch Thành 14. Tổng Bỉnh Bút 15. Tổng Ngọc Động 16. Tổng Vân Lung 17. Tổng Trạc Nhật 18. Tổng Hòa Luật 19. Tổng Tự Cường [Cương]
  3. Huyện Quảng Tế 20. Tổng Phú Ổ 21. Tổng Quảng Tế 22. Tổng Án Đổ 23. Tổng Cổ Biện 24. Tổng Trường Cát
  4. Châu Quan Hóa 25. Tổng Quang Chiếu 26. Tổng Lực Canh 27. Tổng Đặc Kiệt 28. Tổng Cổ Nam 29. Tổng Phú Lệ 30. Tổng Hữu Thủy
  5. Huyện Cẩm Thủy 31. Tổng Quan Hoàng 32. Tổng Vân Trai 33.Tổng Điền Lư 34. Tổng Gia Dụ 35. Tổng Thiết Ống 36. Tổng Sa Lung 37. Tổng Cổ Lũng 38. Tổng Mông Sơn 39. Tổng Cự Lữ * Khác 40. Núi An Lão - tổng Hòa Luật 41. Miếu Văn từ phủ huyện. 42. Núi Hí Mã - tổng Cao Mật 43. Núi Hùng Lĩnh 44. Thành Nhà Hồ 45. Núi Đốn Sơn 46. Núi An Tôn 47. Núi Mông Cù 48. Núi Diệu Sơn - tổng Quan Hoàng 49. Đông Lư Sơn - tổng Quang Chiếu 50. Một đoạn sông Mã từ thượng nguồn qua phủ hạt chảy đến Ngã Ba Bông chia làm 2 nhánh: một nhánh chảy ra cửa biển Bạch Câu, một nhánh đổ ra cửa biển Y Bích. 51, 52, 53. Từ ngã ba Bông chia 2 nhánh; một nhánh chảy ra cửa biển Bạch Câu, một nhánh chảy ra cửa biển Y Bích. 54. Núi Cốc Sơn - tổng Quảng Tế Hình 2: Bản đồ châu Quan Hóa CHÚ THÍCH BẢN ĐỒ CHÂU QUAN HÓA * Địa giới: 1. Phía đông giáp với huyện Cẩm Thủy 2. Phía tây giáp với huyện Trình Cố 3. Phía nam giáp với huyện Lương Chính [Lang Chánh] 4. Phía bắc giáp với huyện Mai Châu, tỉnh Hưng Hóa. * Đường đi: 5. Một đường nhỏ từ châu hạt đến phủ lị, lộ trình đi khoảng 5 ngày đường. Lại từ phủ lị đến Ngã Ba Bông đi qua địa giới hai huyện Mỹ Hóa và Đông Sơn đến tỉnh thành, lộ trình đi 1 ngày đường. Một đường nhỏ, phía đông từ xã Phú Nam đi sang phía tây đến đồn Quang Chiêm, lộ trình dài 7 ngày đường. 6. Một đường nhỏ, phía đông từ xã Phú Nghiêm đi sang tây đến xã Vân Lung, lộ trình 7 ngày đường. Một đường nhỏ, phía đông nam từ xã Phú Nam đi sang tây nam đến xã Sơn Trà, lộ trình 5 ngày đường. * Tổng - xã:
  6. Tổng Phú Lệ: 7. Xã Phú Nghiêm 8. Xã Hồi Xuân 9. Xã Phú Lệ 10. Xã Phú Lễ 11. Xã Phú Tán 12. Xã Phú Nam
  7. Tổng Lực Canh: 13. Xã Lực Canh 14. Xã Vân Cung 15. Xã Vân Lung 16. Xã Lực Na
  8. Tổng Cổ Nam: 17. Xã Cổ Nam 18. Xã Cổ Động 19. Xã Ái Thượng 20. Xã Ái Trung 21. Xã Ái Hạ
  9. Tổng Đặc Kiệt: 22. Xã Đặc Kiệt 23. Xã Đặc Hiền 24. Xã Bất Phạt 25. Xã Bất Căng
  10. Tổng Hữu Thủy: 26. Xã Hữu Thủy 27. Xã Hữu Xuyên 28. Xã Trịnh Ki 29. Xã Trịnh Xá 30. Xã Sơn Trà
  11. Tổng Quang Chiêm: 31. Xã Quang Chiêm 32. Xã Sơn Chinh 33. Xã Sơn Hiên 34. Động Lư Sơn 35. Xã Khiêm Xung 36. * Khác: 37. Đồn Hồi Xuân - xã Hồi Xuân 38. Đồn Vụng Bể - xã Sơn Trà 39. Đồn Sơn Trà - xã Sơn Trà 40. Đồn Quang Chiêm - xã Quang Chiêm 41. Một đoạn sông Mã, phía tây từ xã Vân Lung chảy sang phía đông đến xã Phú Nghiêm dài 160 dặm, rộng 2 trượng, sâu khoảng 5,6 thước, nước thủy triều không lên đến. 42. Đồn Đá Phản - xã Lực Canh Hình 3: Bản đồ Phủ Thọ Xuân

CHÚ THÍCH BẢN ĐỒ PHỦ THỌ XUÂN

* Địa giới: 1. Phía đông giáp với huyện Thụy Nguyên và huyện Đông Sơn 2. Phía tây giáp với huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An 3. Phía nam giáp với huyện Nông Cống 4. Phía bắc giáp với huyện Thụy Nguyên * Đường đi: 5. Một đường nhỏ từ phủ lị đi về phía đông, qua huyện Đông Sơn đến thành tỉnh, lộ trình 1 ngày đường. 6. Một đường nhỏ từ phủ lị đi về phía tây đến 2 châu, Lang Chánh và Thường Xuân, lộ trình dài khoảng 3 ngày đường. Một đường nhỏ từ phủ lị đi về phía nam đến địa giới huyện Nông Cống, lộ trình dài 1 ngày đường. * Huyện - tổng:

  1. Huyện Lôi Dương: 7. Tổng Lôi Dương 8. Tổng Nam Cai 9. Tổng Kiên Thạch 10. Tổng Bất Náo 11. Tổng Diên Hào 12. Tổng Mục Sơn 13. Tổng Bái Đô 14. Tổng Tam Lộng 15. Núi Nghiêu Sơn 16. Núi Mục 17. Tổng Lôi Dương
  2. Châu Thường Xuân: 18. Tổng Quân Nhân 19. Tổng Trịnh Vạn 20. Tổng Luận Khê 21. Tổng Như Lăng 22. Núi Cửa Đạt
  3. Châu Lang Chánh 23. Tổng Hoài Chính 24. Tổng Thiện Thổ 25. Tổng Nhân Sơn 26. Tổng Tòng Chính 27. Tổng An Thọ 28. Tổng Tam Lư [Lô] 29. Tổng Thuận Chính 30. Tổng Quy Chính * Khác: 31. Núi Thiêm Sơn 32. Núi Bầu Gió [Bù Gió] 33. Một đoạn sông Lương [Lương Giang] chảy từ 2 châu Lang Chánh và Thường Xuân xuống đến xã Lỗ Hiền, huyện Lôi Dương. 34. Sông Cao [Cao Giang ] chảy vào sông Lương [Lương Giang ] 35. Núi Bầu Doanh [Bù Dinh]

Hình 4: Bản đồ châu Lang Chánh [có tổng Tam Lô - Tam Lư, nay thuộc huyện Quan Sơn]

CHÚ THÍCH BẢN ĐỒ CHÂU LƯƠNG CHÍNH [LANG CHÁNH] * Địa giới: 1. Phía đông giáp với huyện Thụy Nguyên 2. Phía tây giáp với huyện Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. 3. Phía nam giáp với huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. 4. Phía bắc giáp với huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. * Đường đi: 5. Một đường nhỏ từ tổng Thuận Chính đến đồn Hàm Lư, tổng Tam Lư giáp với huyện Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, lộ trình dài 5 ngày đường. 6. Một đường nhỏ từ xã Trí Nang, tổng Thiện Thổ đến đồn An Khương, tổng Tòng Chánh, lộ trình dài 5 ngày đường. Một đường nhỏ từ xã Nhân Trầm, tổng Nhân Sơn lên phía bắc đến xã Tuy Tĩnh, tổng Quy Chính, lộ trình dài 2 ngày đường. * Tổng - xã:

  1. Tổng Hoài Chính: 7. Xã Hoài Chính 8. Xã Bàn Phỏng 9. Xã Đức Cái 10. Xã Chiếu Xung
  2. Tổng Thuận Chính 11. Xã Đồng Lạc 12. Xã Tự Lạc 13. Xã Tâm Chính 14. Xã Trung Lương
  3. Tổng Quy Chính: 15. Xã Tuy Tĩnh 16. Xã Chu Sơn 17. Xã Cần Ước 18. Xã Chính Mô 19. Xã Cảm Mộ 20. Xã Chính Mông
  4. Tổng An Thọ: 21. Xã Lâm Luận 22. Xã Tuyết Lô 23. Xã Sơn Lô 24. Xã Thọ Nghĩa 25. Xã An Khương
  5. Tổng Tòng Chính 26. Xã Xuân Lung 27. Xã Trang Vịnh 28. Xã Nhượng Bạn 29. Xã Đới Đức 30. Xã Đới Ân 31. Xã Văn Cú 32. Xã An Thạch 33. Xã Kim Luật 34. Xã Ban Chính
  6. Tổng Nhân Sơn: 35. Xã Sơn Cao 36. Xã An Nhân 37. Xã Nhân Chẩm 38. Xã Lương Sơn 39. Xã Bất Một
  7. Tổng Thiện Thổ: 40. Xã Thiện Giao 41. Xã Thịnh Nang 42. Xã Trí Nang 43. Xã An Thổ 44. Xã Trị Thổ
  8. Tổng Tam Lư [Lô]: 45. Xã Hàm Lô 46. Xã Thượng Lô 47. Xã Trung Lô 48. Xã Hậu Lô 49. Xã Tuyết Lô * Khác: 50. Đồn Ninh Lương - xã Ban Chính 51. Đồn Tự Lạc - xã Tự Lạc 52. Đồn Ban Chính - xã Ban Chính 53. Đồn Trung Lô - xã Trung Lô 54. Đồn Hàm Lô - xã Hàm Lô 55. Đồn An Khương - xã An Khương 56. Đồn Bát Mọt - xã Bát Mọt 57. Núi Bầu Doanh [Bù Dinh] 58. Sông Âm, trên từ phía tây chảy xuống phía đông châu hạt nhập vào sông Lương [Lương Giang], dài 150 trượng, rộng 5 trượng, nước thường sâu khoảng 6,7 thước. Không có thủy triều lên xuống. 59. Thượng nguồn sông Lương [Lương Giang]; 60. Núi Bầu Gió [Bù Gió]. 2.1.2. Huyện Quan Sơn thời điểm thành lập [năm 1996] Ngày 18 tháng 11 năm 1996, thực hiện Nghị định 72/NĐ-CP của Chính phủ, chia tách huyện Quan Hóa thành 3 huyện: Quan Hóa, Quan Sơn và Mường Lát. Địa giới hành chính huyện Quan Sơn chính thức được xác lập tại thời điểm này. Huyện Quan Sơn thành lập trên cơ sở gồm 9 xã: Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Thượng, Sơn Lư, Sơn Hà, Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Điện, Sơn Thủy thuộc huyện Quan Hóa cũ; Diện tích tự nhiên là 93.017,03ha và 29.952 nhân khẩu. Địa điểm huyện lỵ đóng tại xã Sơn Lư [Km 35 đường 217]. Tên Quan Sơn là từ ghép chữ “Quan” [từ tổ gốc của Quan Hóa] và chữ “Sơn” là núi để đặt tên cho huyện Quan Sơn. Như vậy, kể từ ngày 18 tháng 11 năm 1996, huyện Quan Sơn chính thức là một đơn vị hành chính của tỉnh Thanh Hóa. 2.2. CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CỦA HUYỆN QUAN SƠN THỜI ĐIỂM THÀNH LẬP HUYỆN 2.2.1. Xã Trung Xuân Trung Xuân là xã duy nhất của huyện Quan Sơn có đất 2 mường. Bao gồm vùng đất của mường Chự, huyện Quan Sơn và mường Ca Da thuộc huyện Quan Hóa. Thời điểm năm 1996, địa giới hành chính của xã Trung Xuân: Phía đông giáp thị trấn xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa và xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước. Phía tây giáp xã Trung Hạ, huyện Quan Sơn. Phía nam giáp xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước. Phía bắc giáp xã Nam Xuân, huyện Quan Hóa. Năm 1996, xã Trung Xuân có 297 hộ, 1.284 nhân khẩu, dân cư phân bố gồm 6 bản: Bản La hay còn có tên khác là La Ký thuộc đất mường Chự; bản Cạn thuộc đất mường Chự; bản Mòn thuộc đất mường Chự; bản Piềng Phố thuộc đất Ca Da; bản Muống thuộc đất Ca Da; bản Phú Nam thuộc đất Ca Da [bao gồm các bản: bản Cong Lanh, bản Đum, Quát]; bản Phụn thuộc đất Ca Da. 2.2.2. Xã Trung Hạ Thời điểm năm 1996, địa giới hành chính của xã Trung Hạ: Phía đông giáp xã Trung Xuân, huyện Quan Sơn; xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước. Phía tây giáp xã Trung Thượng [nay là xã Trung Tiến]. Phía nam giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh. Phía bắc giáp xã Nam Động, xã Nam Tiến, huyện Quan Hóa. Xã Trung Hạ năm 1996 có 705 hộ, 2.971 nhân khẩu, dân cư phân bố gồm 06 bản: bản Lợi; bản Din; bản Chiềng Xày; bản Bá; bản Lang hay còn gọi là bản Cha Lang; bản Xanh. 2.2.3. Xã Trung Thượng Năm 1996, khi thành lập huyện Quan Sơn, xã Trung Thượng có 405 hộ, 1.839 nhân khẩu, dân cư phân bố gồm có các bản: bản Bàng; bản Mảy; bản Khạn; bản Bôn; bản Ngàm; bản Bách; bản Cum; bản Pa Chè; bản Lầm; bản Lốc; bản Tong; bản Pọng; bản Đe; tiểu khu Km 22 [tại Km 22, đường 217: Piềng Xi Li]. 2.2.4. Xã Sơn Lư Thời điểm năm 1996, địa giới hành chính của xã Sơn Lư: Phía đông giáp xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn tại cầu sông Lò. Phía tây giáp xã Sơn Điện tại Km 49 Phía nam giáp xã Sơn Hà, xã Tam Lư. Phía bắc giáp xã Sơn Điện, huyện Quan Sơn; xã Nam Động, huyện Quan Hóa. Xã Sơn Lư năm 1996 có 473 hộ, 1.945 nhân khẩu, dân cư phân bố gồm 7 bản: bản Sỏi; bản Bìn; bản Hẹ; bản Hao; bản Bon; bản Păng [bao gồm bản Hiềng và bản Păng gộp lại]; bản Lấm. 2.2.5. Xã Sơn Hà Thời điểm năm 1996, địa giới hành chính của xã Sơn Hà: Phía đông giáp xã Trung Thượng. Phía tây giáp xã Tam Lư, xã Sơn Lư. Phía nam giáp xã Yên Khương, huyện Lang Chánh và Mường Pao, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía bắc giáp xã Sơn Lư, thị trấn Quan Sơn. Xã Sơn Hà năm 1996 có 346 hộ, 1.366 nhân khẩu, dân cư phân bố gồm 06 bản: bản Xum; bản Làu; bản Nà Sắng; bản Hạ; bản Nà Ơi; bản Piềng Làng. 2.2.6. Xã Tam Lư Thời điểm năm 1996, địa giới hành chính của xã Tam Lư: Phía đông giáp xã Sơn Lư, xã Sơn Hà. Phía tây giáp xã Tam Thanh, xã Sơn Điện. Phía nam giáp huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và xã Tam Thanh. Phía bắc giáp xã Sơn Lư. Xã Tam Lư năm 1996 có 486 hộ, 2.072 nhân khẩu, dân cư phân bố ở 5 bản: bản Sại [Trung tâm Mường Sại]; bản Hậu; bản Tình; bản Muống; bản Hát. 2.2.7. Xã Tam Thanh Thời điểm năm 1996, địa giới hành chính của xã Tam Thanh: Phía đông giáp xã Tam Lư. Phía tây giáp xã Sơn Điện. Phía nam giáp huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía bắc giáp xã Tam Lư. Xã Tam Thanh năm 1996 có 602 hộ, 2.946 nhân khẩu, dân cư phân bố ở 09 bản: Bản Pa; bản Cha Lung [bao gồm Cha Lung và bản Cha Lan]; bản Phe; Bản Sộp Pa [Piềng Pa]; bản Kham; bản Bôn [ngày xưa có tên gọi khác là bản Pom Phèn]; bản Ngàm [bao gồm các bản nhỏ: Pù Đồn, Pù Vai, Có Hướng hợp lại]; bản Mò [còn có tên khác là bản Cháo]; bản Nà Ấu. 2.2.8. Xã Sơn Điện Thời điểm năm 1996, địa giới hành chính của xã Sơn Điện: Phía đông giáp xã Sơn Lư. Phía tây giáp xã Sơn Thủy. Phía nam giáp huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía bắc giáp xã Hiền Kiệt, xã Thiên Phủ, huyện Quan Hóa Năm 1996, xã Sơn Điện có 1.254 hộ, 5.978 nhân khẩu và 13 bản: Bản Yên [Pọng Yên]; bản Chiềng Mìn [bao gồm bản Mìn, Luốc Làu, Chiềng]; bản Bơn [Pọng Bơn bao gồm bản Bơn và bản Ngàm]; bản Tân Sơn; bản Nhài; bản Na Nghịu; bản Na Lộc [bao gồm bản Nà Lộc và bản Nà Phang Phá]; bản Ngàm; bản Xa Mang; bản Ban [Bản Nà Hó]; bản Bun; bản Na Hồ; Bản Sủa [Súa]. 2.2.9. Xã Sơn Thủy Thời điểm năm 1996, địa giới hành chính của xã Sơn Thủy: Phía đông giáp xã Sơn Điện, huyện Quan Sơn. Phía tây giáp huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía bắc giáp xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa. Phía nam giáp xã Sơn Điện [nay là mường Mìn]. Năm 1996, xã Sơn Thủy có 1.134 hộ, 5.476 nhân khẩu và có 19 bản: Bản Na Mèo; bản Km 83 + 87; bản Ché Làu; bản Cha Khót; bản Sộp Huối; bản Na Pọng; bản Hiềng; bản Bo; bản Son; bản Sa Ná; bản Xuân Thành [còn gọi là bản Xia Nưa hoặc bản Hát Tó]; bản Thủy Thành [bản Pom Vực + Ka Lóc]; bản Chung Sơn [Xia Cang + Xia Tớ hoặc gọi bản Máy]; bản Thủy Chung [bản Na Cò]; bản Chanh; bản Hiết; bản Cóc; bản Muống; bản Thủy Sơn [bản Na Tuồng].

Bảng 4: Thống kê các xã, bản ở Quan Sơn thời điểm năm 1996 TT Tên xã Các bản thuộc xã 1 Trung Xuân [7 bản] Bản La, bản Cạn, bản Mòn, bản Piềng Phố, bản Muống, bản Phú Nam [bao gồm các bản Cong Lanh, Đum, Quát]; bản Phụn. 2 Trung Hạ [6 bản] Bản Lợi; bản Din; bản Chiềng Xày; bản Bá; bản Lang [Cha Lang]; bản Xanh. 3 Trung Thượng [14 bản] Bản Bàng; bản Mảy; bản Khạn; bản Bôn; bản Ngàm; bản Bách; bản Cum; bản Pa Chè; bản Lầm; bản Lốc; bản Tong; bản Pọng; bản Đe; tiểu khu Km 22. 4 Sơn Lư [7 bản] Bản Sỏi, bản Bìn, bản Hẹ; bản Hao, bản Bon, bản Păng [bao gồm bản Hiềng và bản Păng gộp lại]; bản Lấm. 5 Sơn Hà [6 bản] Bản Xum; bản Làu; bản Nà Sắng; bản Hạ; bản Nà Ơi; bản Piềng Làng 6 Tam Lư [6 bản] Bản Sại, bản Hậu; bản Tình; bản Muống; bản Hát; Piềng Khóe. 7 Tam Thanh [9 bản] Bản Pa; bản Cha Lung; bản Phe; bản Sộp Pa [Piềng Pa]; bản Kham; bản Bôn [tên gọi khác là bản Pom Phèn]; bản Ngàm [gồm các bản nhỏ: Pù Đồn, Pù Vai, Có Hướng hợp lại]; bản Mò [còn có tên khác là bản Cháo]; bản Nà Ấu. 8 Sơn Điện [13 bản] Bản Yên [Pọng Yên]; bản Chiềng Mìn [bao gồm bản Mìn, Luốc Làu, Chiềng]; bản Bơn [Pọng Bơn bao gồm bản Bơn và bản Ngàm]; bản Tân Sơn, bản Nhài; bản Na Nghịu; bản Na Lộc [bao gồm bản Nà Lộc và bản Nà Phang Phá]; bản Ngàm; bản Xa Mang; bản Ban [Bản Nà Hó]; bản Bun; bản Na Hồ; bản Sủa [Súa]. 9 Sơn Thủy [19 bản] Bản Na Mèo; bản Km 83 + 87; bản Ché Làu; bản Cha Khót; bản Sộp Huối; bản Na Pọng; bản Hiềng; bản Bo; bản Son; bản Sa Ná; bản Xuân Thành [bản Xia Nưa hoặc bản Hát Tó]; bản Thủy Thành [bản Pom Vực + Ka Lóc]; bản Chung Sơn [Xia Cang + Xia Tớ hoặc gọi bản Máy]; bản Thủy Chung [bản Na Cò]; bản Chanh; bản Hiết; bản Cóc; bản Muống; bản Thủy Sơn [bản Na Tuồng].

2.3. CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH HUYỆN QUAN SƠN HIỆN NAY Sau khi thành lập huyện, hệ thống tổ chức hành chính cơ sở của huyện Quan Sơn tiếp tục được điều chỉnh liên tục đến năm 2008 mới định hình và ổn định cho đến nay. Từ ngày thành lập huyện [năm 1996] đến nay có thêm 04 đơn vị hành chính cơ sở mới của huyện Quan Sơn được thành lập gồm: - Xã Na Mèo chia tách từ xã Sơn Thủy theo Nghị định số 65/NĐ-CP ngày 25 tháng 8 năm 1999 của Chính phủ. - Xã Mường Mìn chia tách từ xã Sơn Điện theo Nghị định số 65/NĐ-CP ngày 25 tháng 8 năm 1999 của Chính phủ. - Thành lập thị trấn Quan Sơn trên cơ sở chia tách từ xã Sơn Lư theo Nghị định số 131/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ. - Xã Trung Tiến chia tách từ xã Trung Thượng theo Nghị định số 11/CP ngày 28 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ. Dưới cấp đơn vị hành chính cơ sở, có các bản, khu sau đây: - Bản Luốc Làu thuộc xã Mường Mìn chia tách từ bản Chiềng vào năm 2008. - Bản Lấm đổi tên, chia thành các khu 1; 2; 3; 4; 5; 6 của thị trấn Quan Sơn vào năm 2003. - Bản Na Phường thuộc xã Sơn Điện chia tách từ bản Sủa vào năm 2008. - Bản Piềng Khóe thuộc xã Tam Lư chia tách từ bản Sại vào năm 2008. Như vậy, lúc mới thành lập chỉ có 9 xã, với 89 bản, đến năm 2008, số đơn vị hành chính của huyện Quan Sơn đã tăng lên 13 xã, thị trấn, với 99 khu. Năm 2008 số lượng, tên gọi và địa giới của các đơn vị hành chính cơ sở của huyện Quan Sơn được duy trì ổn định cho đến nay. Dưới đây là bảng thống kê các xã, bản, khu hiện nay của huyện Quan Sơn. Thứ tự các đơn vị hành chính sắp xếp theo khu vực địa hình từ vùng thấp lên vùng cao của huyện Quan Sơn. Bảng 5: Thống kê các xã, bản, khu ở Quan Sơn hiện nay TT Xã, thị trấn Các bản thuộc xã, thị trấn Ghi chú [Thuộc các mường] 1 Xã Trung Xuân [7 bản] Bản Cạn, bản La, bản Mòn, bản Piềng Phố, bản Muống, bản Phú Nam, bản Phụn. Các bản: Cạn, La thuộc mường Chự; Mòn[1] Các bản: Phụn, Phú Nam, Muống, Piềng Phố thuộc mường Ca Da 2 Xã Trung Hạ [7 bản] Bản Lang, bản Xanh, bản Bá, bản Chiềng, bản Xày, bản Din, bản Lợi. mường Chự 3 Xã Trung Tiến [8 bản] Bản Tong, bản Pọng, bản Đe, bản Lốc, bản Lầm, bản Chè [Pa Chè], bản Cum, tiểu khu Km 22 mường Chự 4 Xã Trung Thượng [6 bản] Bản Bách, bản Ngàm, bản Bôn, bản Khạn, bản Máy, bản Bàng. mường Chự 5 Thị trấn Quan Sơn Khu 6, Khu 5, Khu 4, Khu 3, Khu 2, Khu 1. mường Hạ 6 Xã Sơn Lư [6 bản] Bản Păng, bản Bon, bản Hao, bản Hẹ, bản Sỏi, bản Bìn. mường Hạ 7 Xã Sơn Hà [6 bản] Bản Xum, bản Làu, bản Nà Sắng, bản Nà Ơi, bản Hạ, bản Piềng Làng. mường Hạ 8 Xã Tam Lư [6 bản] Bản Hát, bản Hậu[1], bản Tình, bản Muống, bản Sại, bản Piềng Khóe. mường Sại 9 Xã Tam Thanh [9 bản] Bản Nà Ấu, bản Mò, bản Piềng Pa, bản Bôn, bản Ngàm, bản Kham, bản Phe, bản Cha Lung, bản Pa. mường Mò 10 Xã Sơn Điện [11 bản] Bản Sủa, bản Na Phường, bản Na Hồ, bản Bun, bản Ban, bản Xa Mang, bản Ngàm, bản Na Lộc, bản Na Nghịu, bản Nhài, bản Tân Sơn. mường Mìn 11 Xã Mường Mìn [5 bản] Bản Chiềng, bản Luốc Làu, bản Bơn, bản Mìn, bản Yên. mường Mìn 12 Xã Sơn Thủy [12 bản] Bản Thủy Sơn, bản Chung Sơn, bản Thủy Chung, bản Muống, bản Cóc, bản Hiết, bản Chanh, bản Khà, bản Xia Nọi, bản Mùa Xuân, bản Xuân Thành, bản Thủy Thành. mường Xia 13 Xã Na Mèo [10 bản] Bản Bo, bản Hiềng, bản Sa Ná, bản Son, bản Sộp Huối, bản Na Pọng, bản Cha Khót, bản Km 83 [Sộp Cài], bản Na Mèo, bản Ché Làu mường Xia 2.3.1. Xã Trung Xuân 2.3.1.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Trung Xuân có vị trí địa lý: phía đông giáp thị trấn Quan Hóa, xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa và xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước; phía tây giáp xã Trung Hạ; phía nam giáp xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước; phía bắc giáp xã Nam Xuân, huyện Quan Hóa. Tổng diện tích tự nhiên của xã Trung Xuân theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 4.908,39ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 4.349,04ha. Đất phi nông nghiệp: 157,07ha. Đất chưa sử dụng: 402,28ha. Tổng dân số xã Trung Xuân theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 1.738 người. Trong đó: nam giới 868 người, nữ giới 870 người; mật độ dân số 35 người/km2. Người Thái là dân tộc sinh sống lâu đời trong xã, chiếm 98% tổng dân số toàn xã. Các dân tộc khác phần lớn là dân cư nơi khác đến sinh sống và làm dâu, rể trong các gia đình người Thái. Các dòng họ trong xã có: họ Hà, Phạm, Lữ, Vi, Lò, Ngân, Lương, Đinh, Cao, Lê, Đỗ. Xã Trung Xuân được tách ra từ xã Hồi Xuân thuộc huyện Quan Hóa và một phần của xã Trung Hạ, huyện Quan Hóa nên gọi là xã Trung Xuân. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, các bản Muống, bản Phụn, bản Đum đã thành lập một xã riêng gọi là xã Phú Nam, có đủ tư cách pháp nhân hoạt động dưới chế độ thực dân phong kiến. Tuy nhiên, do quản lý điều hành của bộ máy chính quyền không tốt nên chỉ tồn tại được 5 năm thì bị giải tán, xã được sát nhập vào xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa. Năm 1996, xã Trung Xuân [huyện Quan Hóa] được chia tách từ xã Trung Hạ và xã Trung Thượng theo Quyết định số 98/QĐ ngày 21/6/1966 của Bộ Nội vụ. Khi chia tách thành lập, xã Trung Xuân bao gồm đất của 2 mường là mường Chự và mường Ca Da thuộc châu Quan Hóa [huyện Quan Hóa]. Đây là xã duy nhất của huyện Quan Sơn có đất 2 mường. Hiện nay, xã Trung Xuân gồm các bản: bản La [còn có tên khác là La Ký]; bản Cạn; bản Mòn thuộc mường Chự; bản Piềng Phố; bản Muống; bản Phú Nam [bao gồm các bản Cong Lanh, Đum, Quát]; và bản Phụn thuộc mường Ca Da. Trung Xuân có địa hình phức tạp, có nhiều đồi núi, chủ yếu là núi đá nên điều kiện kinh tế khó phát triển, ruộng nước ít, các piềng bãi bên sông Lò không rộng, được bà con trồng ngô, trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi trâu bò. Những núi đất thấp, đồng bào trồng luồng nhưng diện tích ít. Tài nguyên rừng như gỗ, vầu, nứa so với các xã khác không đáng kể. Trên địa bàn xã Trung Xuân có nhiều phong cảnh đẹp có thể khai thác du lịch sinh thái: - Pù Cọ có hang núi đá khá đẹp và rộng rãi, có thể chứa hàng trăm người. Năm 1962, Mỹ thả biệt kích xuống vùng này và bọn phỉ đã trú ẩn ở hang Pù Cọ nên đồng bào còn gọi hang này là “Hang phỉ”. Hang Bóng, hang Nặm Kháu Hu, hang Ma No, Cánh Tạng [sông Lò] thuộc đất bản Phụn, Pha Lý, Pha Sói, Pha Dờn [có quan tài cổ]. - Hang Pẹo Piềng Chang thuộc đất bản Phú Nam, là địa danh kỳ vĩ, thiên nhiên ban tặng cho xã Trung Xuân. 2.3.1.2. Các bản thuộc xã Trung Xuân Bản Phụn Bản Phụn trước đây gồm có hai bản là bản Phụn và bản Ong, về sau gọi chung là bản Phụn. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bản Phụn thuộc mường Ca Da, tổng Phú Nam, châu Quan Hóa. Bản Phụn có vị trí địa lý: phía đông nam giáp bản Phú Nam; phía đông giáp bản Piềng Chang; phía tây giáp bản Mòn; phía tây bắc giáp bản Muống; phía nam giáp với bản Piềng Phố, bản La. Trên địa bàn bản có con sông Lò, suối Phụn, suối Ong, mó Phụn và mó Hó. Người dân bản Phụn làm ăn, canh tác trên các xứ đồng: Nà Bó, Nà Pung Phục, Nà Pung Ong, Nà Tậu, Nà Trý Mớ, Nà Phụn, Nà Tén, Nà Chá, Nà Oi Nu, Nà Sai, Nà Héo Muống,... Bản Phụn gồm 2 dân tộc Thái và Mường; trong đó, chủ yếu là người Thái [143 người]. Dân cư sống tập trung hai bên bờ sông Lò. Bản Phụn có các dòng họ là Đinh Công, Hà Văn, Lữ Văn, Phạm Bá,... Bản Phú Nam Bản Phú Nam trước đây có tên là bản Đum, nay là bản Phú Nam. Bản có vị trí địa lý: phía đông và phía nam giáp xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước; phía tây giáp bản La; phía bắc giáp xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa. Bản Phú Nam có suối Đum, mương Đum, mương Có Cại, có núi Pù Tền, hang Pèo. Trong bản có các dòng họ là: Hà, Lương, Vi, Phạm, Đinh, và họ Ngân. Các dòng họ này đều có nguồn gốc từ mường Ca Da [Quan Hóa] và mường Đanh [Lang Chánh]. Bản Muống Bản Muống có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Piềng Chang, xã Trung Xuân; phía tây giáp bản Ong [thuộc bản Phụn], xã Trung Xuân; phía nam giáp bản Phụn, xã Trung Xuân; phía bắc giáp bản Bút, xã Nam Xuân, xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa. Bản Muống có địa hình đồi, núi cao, có hang động và thung lũng, có con sông Lò dưới chân bản, có những con suối ngang qua hai bên làng. Đặc biệt ở bản Muống có hang Rờn là nơi cất giữ quan tài của người Thái cổ. Dân cư bản Muống làm ăn sinh sống bằng nghề nông nghiệp. Tuy nhiên, do địa hình núi cao, diện tích chủ yếu là đồi núi nên bà con sinh sống phụ thuộc vào trồng và khai thác lâm thổ sản. Cây luồng, cây vầu, cây nứa... đem lại nguồn thu nhập chính cho bà con. Bản Muống có các dòng họ là họ Hà, Vi. Bản Piềng Phố Bản Piềng Phố có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Phú Nam; Phía tây giáp sông Lò, bản Mòn; Phía nam giáp bản La; Phía bắc giáp bản Phụn. Năm 1990, nhân dân trong xã tập trung vào sinh sống ở một vùng đất bằng phẳng và lập thành bản Piềng Phố. Bản Piềng Phố có địa hình bằng phẳng [Piềng tức là bằng phẳng], ở phía đông nam có dãy núi Pom Đồn, Pha Phố che chắn. Ở phía tây bắc có con sông Lò chảy qua địa phận của bản, dài khoảng 500m. Ở phía tây nam có Bó Cúng, tiếng phổ thông gọi là Mó Tôm. Người dân Piềng Phố sống chủ yếu bằng nghề buôn bán, dịch vụ. Người Thái ở bản Piềng Phố có các dòng họ là Phạm, Hà, Cao, Lữ, Lò, Ngân, Vi. Người Kinh gồm các dòng họ: Đặng, Đinh, Nguyễn. Bản Mòn Bản Mòn có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Piềng Phố; phía tây giáp bản Cạn; phía nam giáp bản La; phía bắc giáp bản Bút, xã Nam Xuân, huyện Quan Hóa. Theo người xưa kể lại, xưa kia nơi đây là một Piềng [bãi] ở ven sông Lò để hoang thuộc mường Ca Da, tạo mường Ca Da mới cho người đến khai phá để trồng dâu nuôi tằm. Cây dâu, tiếng Thái gọi là “co mòn”. Sau đó đưa một số người họ Lò ở mường Khoòng đến làm các chòi [lán] để trông coi. Các chàng trai, cô gái lấy nhau và sinh sống ở đó luôn. Khi thành bản thì gọi là Piềng Mòn, có người gọi là bản Xuôn Mòn. Về sau gọi là bản Mòn cho đến bây giờ. Từ thế kỷ XVI tạo Ca Da cho con rể là tạo Chự, từ đó bản Mòn chuyển về mường Chự. Bản Mòn có địa hình đồi núi, với hệ thống sông, suối, hang động dày đặc. Có núi Pù Ngua Nai, núi Pu Thùng, núi Xa Là, núi Pu Na Nọi, có hang Thùng, hang Bong. Có con sông Lò, suối Pù.... Rừng ở bản có nhiều gỗ quý, bản Mòn có ruộng đồng, đất đai phì nhiêu, màu mỡ, nhiều sông suối dày đặc nên rất thuận lợi cho bà con canh tác lúa nước, đảm bảo cuộc sống. Người dân bản Mòn vừa sản xuất nông nghiệp vừa phát triển nghề rừng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh bắt cá dưới sông, suối, đào ao thả cá nên đời sống bà con tương đối ổn định và ngày càng phát triển. Cư dân trong bản đều là dân tộc Thái, gồm có các dòng họ là: họ Lò, Hà, Lữ. Bản La Bản La còn có tên gọi khác là bản “La Ký” do ngày xưa bản thuộc mường Ký [xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước] quản lý. Tương truyền trong dân gian rằng, có cô gái coi ruộng được chàng trai mường Ký đến tặng cho chiếc xa quay. Xa quay tơ, quay vải tiếng Thái gọi là “La”. Từ đó, người dân của bản biết quay tơ dệt vải. Do vậy mới có tên là bản “La Ký”. Sau này bản La chuyển về mường Chự quản lý nên từ Ký bỏ đi chỉ gọi tên bản La. Bản La có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Phú Nam; phía tây giáp bản Cạn; phía nam giáp bản Lang, xã Trung Hạ; phía bắc giáp bản Mòn. Bản La có núi Pù Hô, Pù Cú, Pù Xá La, có con sông Lò đi qua và có hồ Pù Cú. Người dân bản La sinh sống chủ yếu là làm nông nghiệp. Hiện nay, bản La chủ yếu là người Thái. Người Thái bản La có các dòng họ là Lò, Phạm, Ngân, Lữ. Bản Cạn Bản Cạn có vị trí địa lý: phía đông giáp bản La; phía tây giáp xã Nam Xuân, huyện Quan Hóa; phía nam giáp xã Trung Hạ; phía bắc giáp bản Mòn. Tên gọi bản Cạn do tạo mường Chự đặt từ ngày xưa. Tương truyền, một hôm, cả bản lên làm việc cho tạo mường Chự. Trước khi đi ai cũng đeo túi cơm nắm để ăn trưa. Đến nhà tạo, mọi người cùng mắc túi cơm lên chạc sừng nai của nhà tạo đóng vào cột nhà. Chẳng may chạc sừng nai bị loác, từ loác trong tiếng Thái gọi là “Cạn”. Do vậy tạo đặt tên cho dân bản là Tày Cạn [bản Cạn có từ đấy] Bản Cạn có địa hình đồi, núi cao, có rất nhiều khe, suối, nhiều hang như hang Mạ Đón, hang Pá Háng, hang Pù Cọ, hang Tạo, hang Phỉ. Có con sông Lò, suối Cạn, suối Cắn, suối Pá Ó, suối Mươi Hốc, suối Pù Cọ, mương Khoáng, mương Suối Cắn, mương Bó Dứn, mương Có Phay. Có các động núi: Pù Ngùa, Pù Cọ, bản Cạn đến nay đã đổi tên 3 lần, lúc đầu có 5 nhóm dân cư là: Piềng Túy, Con Lốc, Nà Cắn, Nà Lánh, Đống Hao. Sau khi nhập 5 nhóm dân cư lại gọi là Na Huy, sau sự kiện làm loác sừng nai tạo mường Chự gọi là bản Cạn. Bản Cạn có thắm Pù Cọ, năm 1962, phỉ nhảy dù xuống ở đó, đồng bào đặt thêm tên gọi là Thắm Phỉ [Hang Phỉ]. Địa hình bản Cạn chủ yếu là núi đồi, rừng cây, sông, suối nên đất canh tác nông nghiệp trồng lúa nước rất ít, bà con sinh sống chủ yếu dựa vào nguồn lợi từ núi rừng. Lâm nghiệp chiếm 60% thu nhập, nông nghiệp chiếm 20% và dịch vụ thương mại chiếm 20%. Đồng bào làm nương rẫy, trồng và khai thác lâm thổ sản như luồng, nứa, vầu, trồng keo, xoan, lát... chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, vịt. Hiện nay, người dân còn trồng ngô, mía, sắn. Môi trường tự nhiên ở bản Cạn rất thuận lợi cho chăn nuôi trâu, bò, phát triển vườn rừng, trồng cây ăn quả. Bản Cạn có các dòng họ là họ Hà, Lữ. Cả hai dòng họ này đều từ phía bắc di cư đến đây. 2.3.2. Xã Trung Hạ 2.3.2.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Trung Hạ có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Trung Xuân, huyện Quan Sơn; xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước. Phía tây giáp xã Trung Tiến. Phía nam giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh. Phía bắc giáp xã Nam Động, Nam Tiến, huyện Quan Hóa. Tổng diện tích tự nhiên của xã Trung Hạ theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 3.473,02ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 3.236,87ha. Đất phi nông nghiệp: 216,45ha. Đất chưa sử dụng: 19,70ha. Tổng dân số xã Trung Hạ theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 3.502 người. Trong đó: nam giới 1.752 người, nữ giới 1.750 người; mật độ dân số 101 người/km2. Tương truyền, vào khoảng thế kỷ XVIII, ông tạo mường Chự thấy đất đai ông cai quản quá ít so với với đất của ông tạo mường Mò nên ông nói: “Thượng chi thì cánh Bé [thác con Dê], hạ chi thì Bo Cúng” [nghĩa là đất của ông bắt đầu từ thác Dê xuống tận Bo Cúng thuộc xã Trung Xuân ngày nay]. Ông tạo mường Mò thấy thế cũng tuyên bố: “Núi ki vi Dạ, đá người của Tam Lư” [nghĩa là đất đai của ông cai quản bắt đầu từ núi Dạ [Pù Dạ] bản Chè, xã Trung Hạ [cũ] - xã Trung Tiến ngày nay, đến địa phận xã Tam Lư]. Chính vì hai câu nói đó mà hai ông tạo quyết định thi đấu với nhau. Chuyện dân gian kể lại rằng: “Ngày xưa mường Mò rất rộng nhưng tạo mường Mò nghiện hút thuốc phiện, ít quan tâm đến dân chúng nên dân mường Mò đói, khổ hơn mường khác lân cận. Nhân dân một số bản kề với mường Chự muốn về với mường Chự sinh sống làm ăn. Nhưng tạo mường Chự nói nếu về thì lấy cả đất cùng về mới cho, nếu chỉ có dân di cư về mường Chự thì không đồng ý. Từ nguyện vọng đó của nhân dân nên tạo mường Mò và mường Chự tổ chức các cuộc thi, ai thắng sẽ được đất, được dân. - Cuộc thi thứ nhất: thi xuôi bè, kéo bè theo sông Lò hai bên gặp nhau ở đâu thì chia ranh giới ở đó. Theo đó tạo mường Chự phải đóng bè kéo bè từ Chiềng Xày [Cửa suối Xày ở Km 19, đường 217 ngày nay] để kéo ngược lên. Tạo mường Chự tinh khôn đã cho đóng ba trạm bè ở những chỗ khuất cách xa nhau về phía thượng nguồn. Trạm trên cùng ở gần suối Mảy Vàng [Km 32, đường 217 ngày nay]. Đồng thời giao kèo với người giám sát của mường Mò là do mường Chự phải kéo bè ngược nên người giám sát không được lên bè mà đi theo đường bộ để giám sát. Do vậy khi đi vào chỗ khuất thì bè cũ bỏ lại cho bè trạm trên xuất hành theo kiểu chạy tiếp sức. Nên cùng thời gian như nhau mà bè của mường Chự được nhiều quãng đường hơn bè mường Mò xuôi từ bản Mò, Tam Thanh xuống. Mường Mò thấy lạ không nhất trí cho kiểm tra lại thì quả nhiên mường Chự có 3 bè ở 3 trạm cách xa nhau để tiếp ứng. - Hai bên tổ chức cuộc thi thứ hai: mổ một con trâu đực to giã làm chẻo ngay chỗ hai bè của hai Mường gặp nhau rồi chia đều cho hai bên của hai mường với số người bằng nhau, sau đó lấy số cơm nếp đồ và chẻo bằng nhau ăn. Đội nào ăn xong trước thì đội đó thắng. Đội của mường Chự khôn ngoan hơn, vừa lấy cơm chấm vừa dùng 3 đầu ngón tay bốc chẻo trâu kèm vào một ít cơm mỗi lần chấm nên chẻo mau hết, đội mường Chự lại thắng. Đội mường Mò chưa nhất trí đòi kiểm tra lại thì thấy cơm ở mường Chự còn nhiều mà chẻo thịt trâu mường Chự thì hết, thấy không hợp lý, cuộc thi đó không thành. Hiện nay, ở Cánh Lý phía trên cửa suối Mảy có một tràn đá có chỗ lõm xuống như cối, đây chính là chỗ hai mường giã thịt trâu làm chẻo ăn thi năm xưa. - Hai bên tổ chức cuộc thi thứ ba là thi cưỡi ngựa: mỗi đoàn chuẩn bị một con ngựa khỏe, một người giỏi cưỡi ngựa cùng xuất phát tại trung tâm mường của mình, có sự giám sát chéo lẫn nhau, hai ngựa xuất phát cùng một giờ khi chúng gặp nhau ở đâu thì chia ranh giới hai mường ở đó. Ngựa mường Mò chạy đến cửa suối Lý [Cánh Bé] dưới cầu sông Lò bây giờ do dự không chịu qua sông Lò. Ngựa của mường Chự lên gặp ở đó nên hai mường thống nhất lấy điểm này làm ranh giới. Từ đó mường Mò không còn bản Ngàm, bản Bôn do phải giao lại cho mường Chự cùng các bản Bách, Khạn, Mảy, Bàng. Do đó, mường Mò đặt bản Pù Vai thành bản Ngàm, bản Pa Phèn thành bản Bôn mới cho mình, đến bây giờ hai mường đều có bản Ngàm, bản Bôn là vậy. Sự kiện này theo dân gian kể lại xảy ra cách đây khoảng 5 đời người, tương ứng 300 năm, ta có thể suy diễn vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII [Người Thái xưa tính 60 năm một đời người]. Mường Chự trước kia chia làm 3 xã: Ái Thượng, Ái Hạ và Ái Xuân. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Ái Thượng, Ái Hạ, Ái Xuân sát nhập thành xã Trung Hạ. Năm 1966, theo Quyết định số 98/NV ngày 21/6/1966 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ chia xã Trung Hạ thành 3 xã: Trung Thượng, Trung Hạ, Trung Xuân. Xã Trung Hạ có vị trí giáp ranh với 3 huyện: Quan Hóa, Bá Thước và Lang Chánh. Trung Hạ là trung tâm kinh tế chính trị của mường Chự thời phong kiến. Các bản thuộc xã Trung Hạ thời điểm đó gồm: - Bản Lợi [ở bên phía bắc sông Lò, tại Km 21, đường 217]. - Bản Din [ở Km 20 - 21, đường 217. Bản Din có bãi rộng trước mặt bản. Năm 1933, Pháp xây dựng một nhà thờ đạo tại Piềng Din, nay là Trường THCS Trung Hạ]. - Bản Chiềng Xày - ở Km 9, bản Chiềng Xày là trung tâm mường Chự nên còn có tên gọi khác là Chiềng Chự. Đến năm 2008, Chiềng Xày, tách thành 2 bản lấy tên là bản Xày và bản Chiềng. - Bản Bá - ở Km 17 - 18 đi vào theo suối Bá. Hiện nay, nhiều hộ dân ra ở theo dọc đường 217, đoạn Km 17 - 18. - Bản Lang hay còn gọi là bản Cha Lang là bản đầu tiên ta gặp khi lên huyện Quan Sơn theo đường 217 từ đỉnh Pù Đen mường Km 13, đường 217 lên đến Km 16. Trung tâm bản ở Km 14 - 15. - Bản Xanh - ở thượng nguồn suối Bá, đoạn chảy qua bản gọi là suối Xanh. Bản Xanh nổi tiếng có chè ngon và đá mài tốt. Khi thành lập, xã Trung Hạ có 705 hộ gồm 2.971 khẩu với 3 dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường, Kinh. Trong đó dân tộc Thái chiếm trên 80%. Đến năm 2010 có 807 hộ với 3.472 nhân khẩu. Xã Trung Hạ [mường Chự] có ông Nghè Chự, cùng thời với Thượng tướng quân Lò Khằm Ban ở Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, là 2 vị nổi danh nhất thời bấy giờ của Chu Gia và Chu Sàn. Theo người dân địa phương kể lại, ông Nghè Chự là người có học, tên thật của ông là Hà Quý Công tự là Phúc. Hiện bia mộ của ông an táng tại bản Din, xã Trung Hạ. Bản Chiềng Xày là nơi đặt trụ sở làm việc của mường Chự, còn bản Din bây giờ là vùng đất chưa có người ở. Về sau, người dân ra phát rừng làm nương rẫy và làm chòi lán nghỉ, ở cả ngày, đêm, về tối rất mát mẻ, do đó người dân gọi nơi này là Piềng Din [bãi Mát]. Thời gian sau, tạo mường Chự thấy vùng đất này vừa rộng, vừa mát, vừa thoáng, có tầm nhìn xa nên tạo đã cho rời nơi làm việc của mường lên Piềng Din [bãi Mát]. Hiện nay, nhiều người cao niên vẫn gọi là bản Chiềng Din; một số cụ lại gọi là bản Piềng Din. Nhưng Chiềng Chự là bản Chiềng Xày tạo mường ở cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trung Hạ là xã vùng thấp của huyện Quan Sơn. Xã Trung Hạ có nhiều đồi núi, khe suối. Núi ở đây có pha nhiều đá, tầng đất mỏng nên thực vật rừng không phát triển, tài nguyên rừng của xã Trung Hạ nghèo hơn các xã khác trong huyện Quan Sơn. Trên địa bàn xã cũng có nhiều phong cảnh đẹp như: Cánh Tiên của suối Tiên từ xã Lâm Phú chảy sang Trung Hạ. Nơi giáp ranh 2 xã có một thác nước đẹp gọi là Cánh Tiên [thác tiên]. Thác bản Xày tại Km 18 do dòng suối Bá đổ xuống sông Lò trên độ cao trên 100m nước tỏa trắng xóa. Mùa nhiều nước nhìn thác này rất đẹp. 2.3.2.2. Các bản thuộc xã Trung Hạ Bản Lang Bản Lang trước đây gọi là bản Cha Lang thuộc mường Chự. Bản Lang có vị trí địa lý: phía đông giáp xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước; phía tây giáp bản Bá; phía nam giáp bản Xanh, xã Trung Hạ; phía bắc giáp bản La, xã Trung Xuân. Bản Lang có từ xa xưa. Theo các người già trong bản kể lại, trước đây có tên gọi là bản Cha Lang thuộc mường Chự, châu Quan Hóa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, gọi là bản Cha Lang. Bản Lang không có tạo mường, chỉ có quan Pọng do tạo mường cử đến cai quản. Vào khoảng thế kỷ XV - XVI, có 3 hộ dân dòng họ Lữ chuyển từ mường Khoòng, huyện Bá Thước, lên khai hoang vỡ ruộng và sinh sống. Thời gian tiếp theo một nhóm họ Lữ chuyển đến cùng làm ăn chung sống. Sau này một số dòng họ khác như họ Hà từ tỉnh Hòa Bình, họ Vi từ huyện Như Xuân; họ Lữ từ bản Cạn xã Trung Xuân chuyển đến. Ban đầu thành lập, bản chỉ có 10 hộ, gồm 30 nhân khẩu. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bản Lang là một bản hẻo lánh của mường Chự. Trâu bò, hoa màu luôn bị thú dữ ăn thịt, phá hoại. Thậm chí cả người cũng bị thú bắt. Có những lúc do hạn hán, mất mùa, bà con bỏ bản đi nơi khác, làng bản hoang phế, đời sống kinh tế của bà con vô cùng gian khó. Đến khi có điều kiện, bà con lại trở về tái lập lại bản làng. Đến năm 1956, bản tiếp tục mở mang thêm một số diện tích đất canh tác. Lúc này bản đã có 38 hộ với khoảng 130 nhân khẩu. Dân bản Lang cùng nhau mở mang diện tích lúa nước, khai hoang phục hóa. Các dòng họ đào mương, đắp ao hồ, chủ yếu lấy từ nước mó, khe suối tưới tiêu cho ruộng đồng và trong sinh hoạt hàng ngày. Mặc dù đất rộng, rừng núi cao, có nhiều khe suối, cây rừng phong phú, đa dạng nhiều chủng loại nhưng đời sống kinh tế của bà con còn gặp rất nhiều khó khăn do đường đi, lối lại hiểm trở, lương thực không đủ ăn, bệnh tật thường xuyên xảy ra. Phần lớn là cuộc sống khép kín, tự cấp, tự túc. Từ năm 1956 đến nay, bản Lang có trục đường 217 chạy qua với chiều dài 5km nên dân bản sống tập trung chủ yếu dọc theo Quốc lộ 217, giao thông đi lại thuận tiện hơn. Từ 1986 đến nay, thực hiện chủ trương đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, diện tích đất rừng, đất thổ cư giao cho các hộ gia đình quản lý, khai thác chăn nuôi và bảo vệ, cuộc sống của người dân bản Lang đã từng bước được cải thiện, cuộc sống vật chất ngày càng ấm no, đời sống tinh thần ngày càng phong phú, phát triển. Bản Lang có hai dân tộc Thái và Kinh cùng chung sống đoàn kết, người Thái chiếm 93% dân số. Bản Xanh [Sanh] Bản Xanh tương truyền là do tạo Ca Da đặt cho từ trước năm 1930. Xanh ở đây cũng là làng bản xanh, bản đẹp, bản no đủ, có của để dành lâu đời. Bản Xanh có vị trí địa lý: phía đông giáp xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước; phía tây giáp bản Bá; phía nam giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh; phía bắc giáp bản Lang. Bản Xanh có các dòng họ: Hà, Ngân, Vi. Họ Hà Văn có nguồn gốc từ làng Bàn Đào, huyện Bá Thước chuyển cư lên vào đầu thế kỷ XVIII. Họ Ngân từ Tống Uống, tỉnh Hòa Bình di cư vào đầu thế kỷ XIX. Họ Vi từ huyện Thường Xuân chuyển lên từ cuối thế kỷ XIX. Bản Xanh có Pù Ngà [xưa kia nhân dân đi làm nhặt được ngà voi, tiếng Thái gọi là Ngà]; Hin Đóng; Hóng Ton; Lanh Non và suối Xanh. Bản Bá Bản có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Xanh và bản Lang; phía tây giáp bản Chiềng Xay; phía nam giáp bản Tiên, xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh; phía bắc giáp bản Cạn xã Trung Xuân. Hiện nay, bản có các dòng họ: Hà, Vi, Ngân, Lữ, Đinh, Phạm. Họ Hà từ phía Bắc vào Hòa Bình, chuyển về huyện Bá Thước, đến cuối thế kỷ XVIII chuyển đến đây khai khẩn đất đai. Họ Vi chuyển từ mường Din, huyện Thường Xuân lên. Họ Ngân có nguồn gốc từ Tống Uống, nay là Mai Châu, tỉnh Hòa Bình di cư đến. Họ Đinh di cư từ Hòa Bình sang đầu thế kỷ XIX. Bản Bá có các núi, có hang: Pù Húp [tên theo tiếng Thái Húp tức là núi bóng]; Pu Ná Dao [tức núi có mặt dài]; Thắm Chạng [tức hang Voi]. Thời khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi cho quân lên trú và cho voi vào ở trong hang nên còn gọi theo tiếng Thái là “Thắm Chạng”; Pù Quan Bùn. Suối Bá là con suối chảy dài suốt bản Bá, Xanh, Lang. Bó Lắn là mó nước ấm về mùa đông, lạnh mát về mùa hè. Bản Chiềng Xày Trước năm 1990, bản Xày và Chiềng Xày gọi chung là Chiềng Xày, nay tách ra làm hai bản gọi là Chiềng Xày và bản Xày, nơi đây là trung tâm của mường Chự, sau này mới chuyển mường lên Chiềng Din, cái tên Chiềng Xày vẫn tồn tại đến ngày nay. Người già kể lại rằng, vào cuối thế kỷ XV, có ông Chà Nghè đến mường Chự làm tạo mường và mở lớp dạy học, tiếng Thái người dạy học gọi là xày, nên nhân dân gọi địa danh này để nhớ thầy giáo của mình. Tên gọi bản là Chiềng Xày có từ đó. Bản Chiềng Xày có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Bá; phía tây giáp bản Xày; phía nam giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh; phía bắc giáp huyện Quan Hóa. Bản Chiềng Xày chủ yếu là người dân tộc Thái. Người Thái ở bản Chiềng Xày có các dòng họ là: Hà, Vi, Lữ. Họ Hà có hai nhóm: Hà Tạo và Hà Văn; họ Hà chuyển từ Bá Thước lên, một nhánh từ Hòa Bình sang. Họ Vi chuyển từ mường Mót, mường Din, huyện Thường Xuân đến cuối thế kỷ XVIII. Họ Lữ chuyển từ Hòa Bình đến đầu thế kỷ XIX. Bản Chiềng Xày có suối Xày bắt nguồn từ Pù Pán Mường đổ ra sông Lò. Suối Xày là nguồn nước tưới tiêu chính cho hai bản Chiềng Xày và bản Xày; suối Húp bắt nguồn từ núi Toi Lài [Toi Lài là loại lá trầu khoang mọc ở rừng ăn thay trầu được, nhưng không thơm]; huối Đưới [Đưới tiếng Thái gọi ngô là đưới]. Từ đó có tên huối Đưới [suối Ngô]. Bo Tóng Chính ở sau bản Chiềng Xày tức là mó nước mát tuôn ra ở bãi lá dong, tiếng Thái lá dong gọi là Tong Chính. Bản Chiềng Xày là bản có truyền thống văn hóa lâu đời. Trong công cuộc xây dựng đất nước, phát triển văn hóa xã hội, bản Chiềng Xày luôn đi đầu trong các phong trào, truyền thống hiếu học cũng là một nét đặc sắc của người dân bản Chiềng Xày. Bản Xày Bản Xày trước kia thuộc Chiềng Xày, đến năm 1998 chia tách bản Xày làm hai bản đặt tên là bản Xày và Chiềng Xày từ đó đến nay. Bản Xày có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Chiềng Xày; phía tây giáp bản Din; phía nam giáp bản Tiên, xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh; phía bắc giáp xã Nam Xuân, huyện Quan Hóa. Bản có các dòng họ Hà, Văn, họ Hà đến từ Bá Thước và từ Hòa Bình vào cuối thế kỷ XVII. Họ Vi cũng có hai nhánh: Vi Khăm và Vi Nọi [Vi Nọi tức Vi nhỏ làm dân], họ Vi đến từ mường Mót, mường Din, huyện Thường Xuân ngày nay, một số từ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào di cư xuống. Bản Xày có Pù Huống là khu rừng cấm ngày xưa, suối Xày có nhiều nhánh nhỏ hợp thành, ngày xưa các lang đạo cấm khai thác và phát rẫy, khu đầu nguồn con suối này, “Huống” theo tiếng Thái gọi là Cấm. Pha Cháo [có ngọn núi cao nhọn hoắt lên như mũi giáo, tiếng Thái gọi là cháo]; Pù Có Bá [tiếng Thái cây đa gọi là “Co bá” thuộc cây cổ thụ thiêng của người Thái]. Cánh Xúng là thác đổ trên cao xuống [tiếng Thái “Xúng” có nghĩa là cao]. Huối Húp [do ở xa lại có nhiều mây mù bao bọc, ta nhìn thấy chỉ có bóng nên tiếng Thái gọi là Húp, [có nơi gọi húp là hớp “hình bóng”]. Bo Tá Khao [mó nước có mùi tanh của đồng, tiếng Thái gọi tanh là “khao”]. Bản Din [Dên] Bản Din là một bản cổ, thuộc mường Chự ngày xưa. Bản Din tọa lạc ở một nơi đất đai màu mỡ, bằng phẳng, thoáng mát nên gọi là Din. Din theo tiếng Thái là mát. Bản Din có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Xày; phía tây giáp xã Trung Tiến; phía bắc giáp bản Ken, xã Nam Tiến, huyện Quan Hóa; phía nam giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh. Dân trong bản chủ yếu là dân tộc Thái. Ngoài ra có một số người Mường, người Kinh cùng chung sống đoàn kết, hòa thuận trong bản mường. Thời kỳ đầu mới chỉ có 7 hộ, khoảng 40 nhân khẩu. Đứng đầu bản lúc này là ông Hà Quý Công tự là Phúc. Do lúc đầu số hộ còn ít, chưa nên làng, bản nên mỗi khi có công việc gì lớn phải sát nhập với các bản lân cận là bản Xày, bản Lợi. Thời gian sau, bản có 12 hộ, khoảng 80 khẩu. Đứng đầu bản là cháu của ông Hà Quý Công, có tên là Hà Văn Tự hay còn gọi là ông Chánh Chự. Bản Din là vùng đất trung tâm của Tạo Cai ngày xưa. Ông Hà Quý Công là người đứng đầu bản, sau này là tạo mường Chự, được dân bản tin yêu. Khi giặc Hán sang xâm lược nước ta, đến vùng này, chúng đã đóng đồn ở điểm cao sau bản để quan sát. Nơi giặc đóng quân người dân gọi là Póm Đồn nghĩa là Núi Đồn. Ông Công đã chỉ huy dân bản đánh đuổi lũ giặc xâm lược ở Póm Đồn. Khi ông mất, bọn giặc đã tìm đến đào mộ để lấy hài cốt ông đốt thành than cho vào nòng súng bắn xuống sông cho trôi tất cả. Chính vì vậy, dân bản gọi là Ung Nghiêm [theo tiếng Thái nghĩa là Bác Diêm Sinh]. Dấu tích ngôi mộ và đá bia mộ của ông vẫn còn. Còn Pha Cốt là một hang sâu trong dãy núi đá của bản. Ngày xưa mỗi khi có giặc xâm lược, người dân thường đến đây trú ẩn - coi nơi đây như là một lô cốt trong lòng núi. Bản Din là nơi gần trung tâm của mường Chự nên khi sang xâm lược nước ta, thực dân Pháp lấy nơi đây làm nơi đồn trú, xây một nhà thờ ngay trong bản, đến nay dấu tích nhà thờ vẫn còn bậc cầu thang xây và giếng nước. Hươn Pó Đạo nghĩa là nhà thờ Đạo hoặc nhà cha Đạo. Bản Din hiện nay có địa hình bằng phẳng, nằm dọc theo sông Lò, con đường Quốc lộ 217 chạy qua giữa bản nên rất thuận tiện cho giao lưu trao đổi hàng hóa, kể cả đường thủy và đường bộ. Bản Lợi Bản Lợi có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Din; phía tây giáp bản Tong, xã Trung Tiến; phía nam giáp Khu 22 rừng phòng hộ sông Lò; phía bắc giáp bản Bất, huyện Quan Hóa. Dân cư trong bản 100% là họ Hà Văn có nguồn gốc từ huyện Bá Thước lên và từ Hòa Bình di cư vào cùng làm ăn sinh sống, xây dựng nên bản Lợi. Bản Lợi có: suối Bo Mạ, Na Bo ruộng lấy nước bằng mó nước, tiếng Thái mó gọi là Bo; Núi Co Phày là dãy núi có nhiều cây dâu da [tiếng Thái gọi là Co Phày], Pù Pục là trên đỉnh đồi rất nhiều cây bưởi, tiếng Thái bưởi gọi là Mác Pục [Co Pục], Pù Bái là dãy núi có nhiều dây mây, tiếng Thái gọi là Bái. 2.3.3. Xã Trung Tiến 2.3.3.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Trung Tiến có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Trung Hạ tại bản Din. Phía tây giáp xã Trung Thượng tại khe cạn Trường Tiểu học bản Bách, xã Trung Thượng. Phía nam giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh. Phía bắc giáp xã Nam Động, huyện Quan Hóa. Tổng diện tích tự nhiên của xã Trung Tiến theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 4.005,38ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 3.739,65ha. Đất phi nông nghiệp: 160,09ha. Đất chưa sử dụng: 105,64ha. Tổng dân số xã Trung Tiến theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 2.968 người. Trong đó: nam giới 1.494 người, nữ giới 1.474 người; mật độ dân số 74 người/km2. Trung Tiến được tách ra từ xã Trung Thượng. Theo Nghị định số 11/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2008: Thành lập xã Trung Tiến thuộc huyện Quan Sơn trên cơ sở điều chỉnh 4.005,38ha diện tích tự nhiên và 2.935 nhân khẩu của xã Trung Thượng. Sau khi thành lập, xã Trung Tiến có 4.005,38ha diện tích tự nhiên và 2.935 nhân khẩu. Xã Trung Tiến gồm các bản sau: bản Cum [còn gọi là bản Cum trong], bản Pa Chè [còn gọi là bản Cum ngoài], bản Lầm [ở phía bắc sông Lò], bản Lốc [ở Km 23, đường 217], bản Tong [ở phía bắc sông Lò và một số hộ ở dọc đường 217], bản Pọng [tên gọi khác là Pọng Đe ở theo đường từ Km 22 đi Nam Động, cách đường 217 khoảng 5km về phía bắc], bản Đe [tên gọi khác là bản Đe Nọi, ở hai bên đường của tuyến đường từ Km 22, đường 217 đi Nam Động. Cách đường 217 khoảng 6km về phía bắc [trong bản Pọng 1km] giáp với bản Bật, xã Nam Động], tiểu khu Km 22 [Khu dân cư của Cán bộ công nhân viên Lâm trường sông Lò, nay là Ban Quản lý rừng phòng hộ sông Lò]. Về điều kiện địa hình, kinh tế, xã hội của xã Trung Tiến tương đồng với xã Trung Thượng trước khi chia tách thành hai xã là Trung Thượng và Trung Tiến. 2.3.3.2. Các bản và tiểu khu thuộc xã Trung Tiến Tiểu khu Km 22 Tiểu khu Km 22 là đơn vị hành chính ở cuối xã Trung Tiến, giáp xã Trung Hạ, huyện Quan Sơn, có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Din [Dên], xã Trung Hạ, phía tây, phía nam và phía bắc giáp bản Tong. Tiểu khu Km 22 ngày xưa có tên là Piềng Xy Ly, từ ngày chia tách xã đến nay lấy tên là tiểu khu Km 22, tiểu khu có 3 dân tộc anh em sinh sống là Thái, Mường, Kinh. Tiểu khu chủ yếu là công nhân Ban Quản lý rừng phòng hộ sông Lò đã về hưu và một số cán bộ, công nhân viên chức sinh sống. Tiểu khu Km 22 không có đất sản xuất, chủ yếu sống bằng lương hưu, phụ cấp và buôn bán nhỏ lẻ. Bản Tong Bản Tong có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Lợi, xã Trung Hạ; phía tây giáp bản Lầm, bản Pọng, xã Trung Tiến; phía nam giáp bản Lộc, tiểu khu Km 22, xã Trung Tiến; Phía bắc giáp xã Nam Động, huyện Quan Hóa. Tong trong tiếng Thái là chuối rừng hoặc lá dong. Trước khi thành lập bản ở đây là một bãi rộng có nhiều cây chuối rừng và lá dong với mó nước từ Pha Ngua [núi bò] chảy vào bãi. Ông cha xưa thấy được lợi thế đó đã đến đây lập bản, khai phá làm ruộng nước 2 vụ. Vì thế đồng bào đặt tên bản là bản Tong [bản chuối rừng, lá dong]. Bản Tong trước đây gồm cả Piềng Xy Ly [nay là tiểu khu dân cư Km 22 - tương đương bản] trực thuộc xã Trung Tiến. Piềng Sến đối diện Piềng Xy Ly về phía bắc sông Lò cũng là một bãi rộng thuộc đất bản Tong. Cư dân đều là người dân tộc Thái. Đồng bào cư trú dọc hai bên sông Lò và tuyến đường 217 nhưng phần lớn ở phía bắc sông Lò. Phía trong khu dân cư bản Tong có núi đá tên là Pha Ngua [núi bò]. Tuy núi không cao lắm nhưng chất lượng đá khá tốt, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật phục vụ xây dựng các công trình cầu đường. Đây là núi đá có chất lượng tốt ở địa bàn huyện Quan Sơn. Du khách có dịp lên Quan Sơn khi qua đoạn Km 22 + 200 đường 217 [từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên] sẽ gặp hàng dãy guồng nước [láng lộc nặm] lớn nhỏ xếp hàng dọc, ngày đêm cần mẫn đưa nước sông Lò lên tưới cho cánh đồng bản Tong. Nơi đây có mó nước Pha Ngua chảy ra cánh đồng nhưng không đủ, đồng bào phải lấy nước sông Lò lên tưới ruộng để cày cấy 2 vụ. Guồng nước tiếng Thái gọi là “Lộc nặm” “Láng Lộc nặm”. Do vậy đối diện với bản Tong về phía nam sông Lò tại Km 23 có một bản tên là bản Lộc. Bản Lộc trước đây cũng làm guồng lấy nước sông Lò lên tưới ruộng như bản Tong nhưng đến năm 1962, bản Lộc đào được tuyến mương dài trên 5km lấy nước suối Cum về tưới ruộng nên bản Lộc không còn sử dụng láng lộc nặm [guồng nước] nữa. Thời kỳ thành lập hợp tác xã [HTX] nông nghiệp, bản Lộc, bản Tong chung một hợp tác xã gọi là HTX nông nghiệp Lộc - Tong. HTX Lộc - Tong là lá cờ đầu đạt 5 tấn/ha/năm, thời kỳ 1964 - 1968. Nhiều nơi trong huyện Quan Hóa cũ đã về đây tập huấn học tập kinh nghiệm. Bản Pọng Bản Pọng có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Lốc; phía tây giáp bản Đe; phía nam giáp với bản Khạn, xã Trung Thượng; phía bắc giáp bản Tong. Là bản thuộc vùng núi cao nên bản Pọng có rất nhiều núi đồi, hang động, thung lũng, khe suối. Tiêu biểu là các ngọn núi: Pù Ky, Pù Bau, Pha Ka, Pha Chưng; hang Pha Ka; hang Pù Bau; thung lũng Suối Cuôn, suối Hóm; suối Đe; mó suối Hóm. Người Thái ở bản Pọng có các dòng họ: Vi, Lương, Hà, Ngân. Đồng bào sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp. Bản Đe Bản Đe có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Lợi, xã Trung Hạ, phía tây giáp bản Khạn, xã Trung Thượng, phía nam giáp bản Pọng, phía bắc giáp bản Bất, xã Nam Động, huyện Quan Hóa. Bản có con suối Đe chảy qua, ngày xưa có tên gọi là Đe Nọi, có con đường Lốc, Tong - Nam Động đi qua. Bản Đe được thiên nhiên ưu đãi nhiều tài nguyên rừng, có nhiều con suối nhỏ như suối Bá, suối Hán... Bản Lốc Bản Lốc nằm ở vị trí trung tâm xã Trung Tiến, trước đây gọi là bản Lộc [Lộc - Tong], có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Tiên, xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh; phía tây giáp bản Lầm; phía nam giáp bản Chè; phía bắc giáp bản Tong, xã Trung Tiến, huyện Quan Sơn. Bản Lốc có đường Quốc lộ 217 chạy qua về phía đông nam, phía tây bắc có sông Lò chạy bao quanh bản. Phía tây bắc có cánh đồng lúa 13ha bao bọc bản. Phía nam có con mương Cum bắt nguồn từ suối Cum với chiều dài 5km tưới tiêu cho cánh đồng 13ha. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chính cánh đồng bản Lốc lúc đó gọi là HTX Lộc - Tong [vì 2 bản cùng một HTX] là cánh đồng đạt 5 tấn/ha thuộc loại năng suất cao nhất huyện Quan Hóa lúc bấy giờ. Dân cư trong bản 100% là dân tộc Thái, thuộc các dòng họ: Vi, Mạc, Hà, Lữ. Bản Lầm Bản Lầm nằm ở phía bắc sông Lò. Ngày xưa bản Lầm có tên là bản Lùm [tiếng Thái “Lùm” nghĩa là gió, bản hứng nhiều gió nên đồng bào đặt tên là bản Lùm - bản Gió]. Theo năm tháng gọi thành bản Lầm như ngày nay Bản Lầm có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Tong, bản Lốc, xã Trung Tiến; phía tây giáp bản Bách, xã Trung Thượng; phía nam giáp bản Lốc, phía bắc giáp bản Pọng, xã Trung Tiến. Bản Lầm đối diện với bản Lốc từ đỉnh Km 23, đường 217 [tính từ Đồng Tâm, huyện Bá Thước lên] đi vào bên tay phải. Qua bản Lốc, qua sông Lò là đến bản Lầm. Đất đai bản Lầm không rộng lắm, tài nguyên thiên nhiên cũng dần cạn kiệt. Rừng gỗ, nứa, vầu rất ít. Nhân dân thu nhập chủ yếu nhờ trồng lúa nước và rừng luồng trồng ở các dông núi, ven suối Đe và sông Lò. Bản Lầm có sông Lò chảy từ bản Bách xuống đoạn qua bản Lầm dài gần 1km. Suối Đe từ bản Đe chảy qua bản Pọng qua bản Lầm và đổ ra sông Lò. Trước những năm 70 của thế kỷ XX, suối Đe, sông Lò lưu lượng nước còn lớn, cá, tôm, cua, ốc ở đoạn sông suối này rất nhiều, là nguồn lợi thủy sản lớn. Nay nước sông, suối đều cạn dần, tôm cá ít dần, nên người dân tự đào ao thả cá để có thêm nguồn thực phẩm cải thiện bữa ăn hàng ngày, tách dần lệ thuộc vào thiên nhiên. Bản Chè [Pa Chè] Bản Chè [Pa Chè] có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Bách, xã Trung Thượng; phía tây giáp bản Tiên, xã Lâm Phú; phía nam giáp với bản Cum, phía bắc giáp bản Lầm, xã Trung Tiến. Bản Chè có sông Lò chảy qua, có suối Cum, có mương Na Sân, mó Hín Heo, Có Phó, có hang Thẳm Lum, Keo To, Có Phó... Người Thái bản Chè có các dòng họ: Hà, Lương, Lữ, và họ Đỗ là họ của người Kinh. Người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp. Bản Cum Bản Cum có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Tiên, xã Lâm Phú, phía tây giáp bản Ngàm, xã Trung Thượng, phía nam giáp rừng phòng hộ Sông Lò, phía bắc giáp bản Chè, xã Trung Tiến. Bản Cum có con suối Cum chảy qua bản, bắt nguồn từ rừng phòng hộ sông Lò, núi Pù Mằn, có đường từ Km 25 vào bản. Ngày xưa bản Cum cùng chung với bản Pa Chè gọi là bản Cum trong, còn bản Pa Chè ngày nay gọi là bản Cum ngoài. 2.3.4. Xã Trung Thượng 2.3.4.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Trung Thượng có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Trung Tiến. Phía tây giáp thị trấn Quan Sơn. Phía bắc giáp xã Nam Động, huyện Quan Hóa [Chiềng, Bất]. Phía nam giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh. Tổng diện tích tự nhiên của xã Trung Thượng theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 5.617,85ha. Trong đó: - Đất sản xuất nông nghiệp: 5.109,52ha. - Đất phi nông nghiệp: 163,38ha. - Đất chưa sử dụng: 344,95ha. Tổng dân số xã Trung Thượng theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 2.267 người. Trong đó: nam giới 1.146 người, nữ giới 1.121 người; mật độ dân số 40 người/km2. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ba xã Ái Thượng, Ái Hạ, Ái Xuân sát nhập thành xã Trung Hạ. Đến năm 1966, theo Quyết định số 98/NV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã chia xã Trung Hạ thành 2 xã: - Xã Trung Thượng gồm 12 bản: Bàng, Máy, Bôn, Ngàm, Khạn, Bách, Lầm, Cum, Lốc, Tong, Đe Pọng, Đe Nọi. - Xã Trung Hạ gồm 6 bản: Lợi, Din, Xày, Bá, Xanh, Lang. Theo Nghị định số 11/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc huyện Mường Lát, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa, ngày 23 tháng 12 năm 2008: Thành lập xã Trung Tiến thuộc huyện Quan Sơn trên cơ sở điều chỉnh 4.405,5ha diện tích tự nhiên và 2.935 nhân khẩu của xã Trung Thượng. Sau khi thành lập, xã Trung Tiến có 4.405,5ha diện tích tự nhiên và 2.935 nhân khẩu. Địa giới hành chính xã Trung Tiến: phía đông giáp xã Trung Hạ, huyện Quan Sơn; phía tây giáp xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn; phía nam giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh; phía bắc giáp xã Nam Động, huyện Quan Hóa. Xã Trung Thượng còn lại 5.217,41ha diện tích tự nhiên và 2.894 nhân khẩu. Hiện nay, xã Trung Thượng gồm các bản: Bách, Ngàm, Bôn, Máy, Khạn và bản Bàng. Địa bàn Trung Thượng có nhiều núi đồi, sông suối. Các núi Phá Bang, Phá Phanh ở bản Bàng. Phá Phanh có nghĩa chỉ sự trùng điệp của các ngọn núi. Núi Phá Tót [Tót Nọi, Tót Luống], núi Pù Mằn, Phá Cán đều ở bản Ngàm. Ngoài ra còn có Phá Cốc ở bản Bách. Các ngọn đồi: đồi Pù Ki ở bản Bách. Pù nghĩa là đồi; còn Ki nghĩa là thiêng, độc. Tương truyền rằng đồi Pù Ki trước đây là ngọn đồi thiêng và độc. Pù Na Pháng, Pù Có Hướng, Pù Na Pọng, Pù Pống [ở bản Ngàm], Pù Có Hướng có nghĩa là đồi cây thị, vì ngọn đồi này ngày xưa có hai cây thị to tự mọc lên giữa rừng rậm, nhưng sau này thì người dân đốn cây để lấy đất làm nương rẫy. Pù Pống nghĩa là đồi cá chuối vì trên ngọn đồi này, ở bất cứ chỗ nào có nước chảy qua đều có rất nhiều cá chuối sinh sống. Pù Pa Nghịu [ở bản Khạn] có nghĩa là đồi cây gạo; Póm Pa Hốc, Pù Pa Mác [ở bản Bàng]. Núi đồi ở Trung Thượng cung cấp nguồn gỗ, sinh vật cảnh, giữ nguồn nước và là nơi sinh sống của rất nhiều loại động, thực vật. Là nơi sinh sống của đại đa số các cây gỗ quí như: sa mu, sến, táu, đinh hương, lát hoa, chò chỉ, dổi, vàng tâm, trầm hương và nhiều loại gỗ tạp khác nên đồi vừa là nguồn tài nguyên, vừa có tác dụng giữ nguồn nước cho các sông suối trên địa bàn. Địa bàn Trung Thượng có sông Lò chảy qua và các suối như: Suối Pọng, suối Piêng, suối Pa Páo [bản Ngàm]. Trong đó, suối Piêng và suối Pa Páo hợp lại thành suối Ngàm, suối Ly, suối Nộc Kệch [bản Bôn]. Xã Trung Thượng tập trung phần lớn là người Thái nên phong tục tập quán, nếp sống văn hóa của cư dân trong xã mang đậm nét văn hóa Thái. 2.3.4. 2. Các bản thuộc xã Trung Thượng Bản Bách Bản Bách có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Chè, xã Trung Tiến; phía nam giáp bản Cum; phía tây giáp bản Ngàm; phía bắc giáp bản Pọng, xã Trung Tiến. Bản Bách có núi hang Phá Cán; hang Phá Bách; đồi Pu Cúc, đồi Cụ Động... Người dân bản Bách canh tác trên xứ đồng gọi là Nà Piềng Phai Nờ. Đồng bào sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp. Bản Ngàm Bản Ngàm có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Bách; phía nam giáp núi Pù Mằn; phía tây giáp bản Bôn; phía bắc giáp bản Khạn. Bản Ngàm có núi Phá Tót và núi Pù Mằn giáp bản Xum. Trong bản có con suối Ngàm chảy qua và một số suối khác như suối Pọng. Dân tộc Thái chiếm 99,3%. Còn lại là dân tộc Kinh và dân tộc Mường: Người Thái bản Ngàm có 2 dòng họ chính là họ Hà và họ Lữ. Ngoài ra còn có các họ khác như họ Vi, họ Lương... Ngoài làm ruộng nước, dân bản còn làm nương rẫy, khai thác lâm sản như vầu, nứa, luồng, gỗ. Bà con thường chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm phổ biến như: trâu, bò, lợn, gà theo lối chăn thả. Bản Ngàm có ông Lữ Văn Vượng sinh năm 1947, là người làm khèn bè nổi tiếng của huyện Quan Sơn. Bản Bôn Bản Bôn có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Ngàm; phía nam giáp xã Sơn Hà; phía tây giáp bản Máy; phía bắc giáp bản Khạn. Bản Bôn có địa hình đồi núi, cao phức tạp. Núi Háng Quén, núi Hín Dón, núi Phá Tót. Đồi Pu Pống, Luốc Ly, Pu Pa Hịa, Phá Me, Buốc Chạng; Hang Phá Quén, Ché Phái, Kanh Kê; Thung lũng Kanh Kè, Nà Bó. Dòng suối chảy từ trên núi Pù Khạn xuống đến bản gọi là suối Bôn; mương dẫn nước ra đồng gọi là mương Bôn. Mó nước ở đồng Bó gọi là mó Nà Bó. Bản Bôn có các xứ đồng: Na Quán, Na Pạng, Na Héo, Na Co Cai, Na Bó, Na Mỵ. Bản Bôn có 3 dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường, Kinh. Bản Bôn có hai dòng họ chính là họ Lương và họ Hà và các họ khác như họ Lữ, họ Vi... Bản Khạn Bản Phạn có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Bách; phía nam giáp bản Máy; phía tây giáp bản Bàng; phía bắc giáp bản Đe, xã Trung Tiến, bản Bất, xã Nam Động, huyện Quan Hóa. Là một bản thuộc vùng núi cao nên bản Phạn có địa hình chủ yếu là đồi núi, có nhiều hang động, khe suối, mương mó. Tiêu biểu là phá Thắm Đúm, phá Pó Căng Lăng Lươn, phá Giá, phá Phụn. Hang động Bo Biêng; thung lũng Thắm Đúm, Piêng Pa Hán. Suối Khạn, suối Na San; mương Pa Bán, mương Bó Ngoạng, mương Bo Khằm, mó Bo Bản Khạn, mó Bo Khằm, mó Ngoạng. Các xứ đồng: Na Bán, Na Hụa Khoai, Na Húa Tá, Na Héo, Na Sang. Dân cư bản Khạn 100% là người dân tộc Thái. Bản Khạn có hai dòng họ là họ Hà và họ Vi. Ngoài ra còn có nhiều họ khác cùng sinh sống. Người dân bản Khạn ngoài việc đồng áng, chăm sóc cấy trồng lúa nước, hoa màu, còn lên vùng rừng phá Thắm Đúm, pha Pa Căng Lăng Lươn, phá Giá, phá Phụn, dọc theo Suối Khạn, suối Na San để hái lượm lâm sản. Bản Máy Bản Máy có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Bôn; phía tây giáp bản Bàng; phía nam giáp khu 6, thị trấn Quan Sơn; phía bắc giáp bản Khạn. Diện tích tự nhiên của bản là 616,5ha. Bản Máy có con suối Máy chảy ở giữa bản, dài 4km. Bản Máy có hai dân tộc cùng chung sống là Thái và Kinh. Người Thái bản Máy có các dòng họ là Lương, Ngân, Hà. Người dân sinh sống bằng nghề nông, lâm nghiệp. Bản Bàng Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bản Bàng thuộc mường Chự. Bản Bàng có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Máy; phía tây và phía bắc giáp xã Nam Động, huyện Quan Hóa; phía nam giáp bản Lấm, xã Sơn Lư. Bản Bàng có địa hình phức tạp, có nhiều núi như núi Phá Bàng, núi Pha Phứng, Phá Buốc Mú, Phá Hín Heo, Phá Huối Nhụng, Phá Cảnh Lơ, Phá Phánh, có các đồi như đồi: Tén Chướng, Tén Chóng, Khóc Mú, Hín Heo, Nhót Lén, Nhóc Lướng... có các hang Phá Bang, hang Po Páng, có suối Bàng, suối Ngách, suối Nguôi, suối Thắm Háng. Có mương Luông, mương Pa Mác. Bản có mó Bo Cúng, mó Bo Khuôn, mó Co Phường và các xứ đồng: Na Bang, Na Chá, Na Héo, Na Bo Cúng, Na Khoanh, Na Héo Pang, Na Piêng Có Mị, Na Pa Mác. Dân cư trong bản 100% đều là người dân tộc Thái. Người Thái bản Bàng có các dòng họ chính là họ Hà, Ngân, Lương, Vi. 2.3.5. Thị trấn Quan Sơn 2.3.5.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Thị trấn Quan Sơn có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Trung Thượng. Phía tây giáp xã Sơn Lư. Phía nam giáp xã Sơn Hà. Phía bắc giáp xã Trung Thượng. Tổng diện tích tự nhiên của thị trấn Quan Sơn theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 8.44,31ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 685,02ha. Đất phi nông nghiệp: 145,38ha. Đất chưa sử dụng: 13,91ha. Tổng dân số thị trấn Quan Sơn, theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa, tính đến ngày 31/12/2015 là 2.830 người. Trong đó: nam giới 1.434 người, nữ giới 1.396 người; mật độ dân số 335 người/km2. Thị trấn Quan Sơn được thành lập theo Nghị định số 131/2003/NĐ-CP ngày 6/11/2003 của Chính phủ, được tách ra từ xã Sơn Lư: thành lập thị trấn Quan Sơn - thị trấn huyện Quan Sơn trên cơ sở 579,40ha diện tích tự nhiên và 2.820 nhân khẩu của xã Sơn Lư. Thị trấn Quan Sơn trước đây là huyện lỵ Quan Sơn đặt trên phần đất của bản Lấm, xã Sơn Lư, thời xưa thường gọi là Piềng Hin Lài [bãi đá hoa]. Thị trấn Quan Sơn nằm ở trung tâm huyện Quan Sơn. Từ Km 37, Quốc lộ 217 xuống đến Km 32 dọc theo Quốc lộ 217. Dân cư thị trấn gồm 3 dân tộc chủ yếu cùng sinh sống là Thái, Mường, Kinh và một số ít người dân tộc khác như Hoa, Dao, Tày... Thị trấn có 37 dòng họ phân bố ở 6 khu. Các dòng họ có số khẩu đông nhất là họ Hà, Nguyễn, Lê, Vi, Phạm, Lò và họ Ngân. Thị trấn khi mới thành lập còn khá nhiều hộ nghèo, chủ yếu là các hộ dân bản Lấm. Đến nay, đời sống kinh tế xã hội của dân cư thị trấn đã phát triển, an ninh - quốc phòng được giữ vững. Thế mạnh phát triển kinh tế truyền thống của thị trấn là lâm nghiệp và dịch vụ thương mại. Hiện nay, diện mạo thị trấn Quan Sơn đang mỗi ngày thêm khởi sắc. Nhiều nhà cao tầng mọc lên bên cạnh những nếp nhà sàn kiểu mới, nhiều doanh nghiệp, doanh nhân là người Kinh sinh sống ở thị trấn. Thị trấn Quan Sơn khi mới thành lập mọi hoạt động chủ yếu theo dọc đường 217, phía bắc sông Lò. Nay đã có cầu ở Km 34 nên sinh hoạt giao lưu kinh tế, văn hóa được mở rộng sang cả phía nam sông Lò, góp phần tạo nên vẻ đẹp cảnh quan của thị trấn miền núi cao. Hiện nay, thị trấn Quan Sơn được mở rộng đến Km 37 đường vành đai biên giới đi Sơn Hà. 2.3.5.2. Các khu phố thuộc thị trấn Quan Sơn Khu 6 Khu 6 có vị trí địa lý: phía đông giáp xã Trung Thượng; phía tây giáp xã Sơn Lư; phía nam giáp khu 5 thị trấn; phía bắc giáp xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn. Khu 6, thị trấn Quan Sơn có nguồn gốc từ bản Lúm [Lấm], theo tiếng Thái nghĩa là thung lũng thấp. Xưa kia, nơi đây là một thung lũng thuộc mường Hạ, mường Mò. Khu 6 có các sông, suối, piềng, bãi: sông Lò, suối Ngoi Ngố, suối Cài, suối Ban; piềng Héo Bé, piềng Xong Cóng, piềng Khà, suối Quán Pót, đồi Pom Đồn, đồi Phòng Không. Khu 6 phần lớn là dân tộc Kinh từ các vùng quê lên công tác rồi ở lại định cư xây dựng quê hương mới ở thị trấn. Các dòng họ có số hộ và nhân khẩu đông nhất là họ Nguyễn, họ Đỗ, họ Hoàng, họ Bùi, họ Lữ, họ Trịnh, họ Ngô. Ngoài các họ kể trên là các dòng họ: Lộc, Quách, Lưu, Chung, Tào, Tuyết, Mạc, Cao, Đinh, Dương, Phùng, Tống, Ninh, Lương, Trương, Lò, Ngân. Khu 5 Khu 5 có nguồn gốc ban đầu là tiểu khu Km 35 chia tách thành khu 5 vào năm 2003. Khu 5 có vị trí địa lý: phía đông giáp sông Lò; phía tây giáp UBND huyện Quan Sơn; phía nam giáp Khu 4; phía bắc giáp Khu 6 thị trấn. Trên địa bàn Khu 5 có suối Hin Lài. Hiện nay, Khu 5 có nhiều dòng họ cùng công tác, làm ăn chung sống gắn bó bên nhau. Phần lớn là người Kinh lên công tác, ở lại xây dựng quê hương mới. Tiêu biểu có các dòng họ: Lê, Nguyễn, Hoàng, Trần, Đoàn. Ngoài các họ trên là các dòng họ: Đinh, Đỗ, Bùi, Phạm, Vũ, Hà, Trịnh, Lữ, Ngân, Lương, Kiều, Hồ, Quách, Tào. Khu 4 Khu 4 thị trấn Quan Sơn hình thành từ khi thành lập thị trấn Quan Sơn [năm 2003]. Có vị trí địa lý: phía đông giáp chợ thị trấn; phía tây giáp Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện; phía nam giáp Khu 3; phía bắc giáp Khu 5. Hiện nay, Khu 4 có nhiều dòng họ, chủ yếu là dân tộc Kinh từ miền xuôi chuyển đến. Các dòng họ có số hộ và số khẩu đông nhất là họ Phạm; họ Nguyễn; họ Lương; họ Lê; họ Đỗ. Ngoài ra còn có các dòng họ: Đinh, Võ, Đào, Trịnh, Trần, Dương, Lưu, Bùi, Hà, Hắc, Ngô, Chu, Lữ, Mai, Bàn, Đàm. Tuy có nhiều dòng họ từ các vùng quê khác nhau nhưng dân cư trong khu phố luôn đoàn kết yêu thương đùm bọc, đồng cam cộng khổ chung sức xây dựng quê hương mới ngày càng ấm no hạnh phúc. Khu 3 Khu 3 mới được thành lập do chia tách khu phố theo Nghị định số: 131/2003/NĐ-CP thành lập thị trấn Quan Sơn. Khu 3 có vị trí: phía đông giáp Khu 4, thị trấn Quan Sơn; phía tây giáp Khu 1, thị trấn Quan Sơn; phía nam giáp sông Lò; phía bắc giáp Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện. Khu 3 hiện nay có 21 dòng họ từ khắp các vùng miền của tỉnh Thanh Hóa và các tỉnh khác cùng chung sống đoàn kết bên nhau. Các dòng họ là người Thái có số hộ và số khẩu đông nhất là: họ Lò, họ Hà; các họ của người Kinh đông nhất là họ Lê, họ Ngô, họ Hoàng, họ Vũ... Khu 3 còn có các dòng họ: Vi, Trần, Trịnh, Quách, Đỗ, Phạm, Trương, Đinh, Mai, Tào, Lương, Đặng, Hồ. Tuy có nhiều dòng họ từ các vùng quê khác nhau nhưng dân cư trong khu phố luôn đoàn kết yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống. Vì vậy, đời sống của khu phố ngày càng phát triển. Khu 2 Khu 2 có vị trí địa lý: phía đông giáp xã Trung Thượng; phía tây và phía bắc giáp sông Lò; phía nam giáp suối Hạ, xã Sơn Hà. Khu 2, thị trấn Quan Sơn trước đây gọi là bản Búng Lúm và bản Piêng Hiến. Sở dĩ bản có tên gọi như vậy bởi vì trước đây, bản có mó nước và rừng xoan nên dân bản đã lấy đặc điểm của vùng đất để gọi tên bản. Trên địa bàn có con sông Lò, suối Lốc Cống, mó Lốc Cống; mó Búng Lúm; núi San Pom; piềng Hiến, piềng Sộp Hạ; Hiện nay, Khu 2 có các dòng họ là Lò, Ngân, Hà, Vi, Lương, Lữ, Lộc, Lê, Bùi, Hoàng. Trong đó, các dòng họ Lò, Hà, Vi có số hộ và khẩu đông nhất. Về nguồn gốc của các dòng họ: các cụ cao niên trong các dòng họ truyền lại: họ Ngân có nguồn gốc từ mường Túng Muống, tỉnh Sơn La, Lai Châu chuyển đến; họ Hà từ mường Khoòng, huyện Bá Thước chuyển lên; họ Lò từ bản Muống, xã Trung Xuân, họ Lữ từ xã Trung Xuân chuyển đến. Họ Vi từ mường Pi, tỉnh Hòa Bình di cư đến. Họ Hoàng từ miền xuôi lên. Khu 2 có đền Póm Thiếng Sân là nơi thờ cúng của bản Lúm ngày xưa và nay do dòng họ Hà Văn đang thờ cúng. Khu 1 Khu 1 trước đây gọi là bản Lấm. Gọi là Lấm bởi vì bản ở một thung lũng thấp hơn thuộc phía dưới mường Mò, mường Hạ nên tên cũ gọi là bản Lúm, sau này gọi là bản Lấm. Bản Lấm có vị trí địa lý: phía đông nam giáp Khu 3, thị trấn Quan Sơn; phía tây nam giáp xã Sơn Lư, huyện Quan Sơn; Phía nam giáp sông Lò; Phía bắc giáp Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện. Khu 1 có các con suối Búng Bán, suối Hiến, suối Hượn, suối Huông, piềng Huông chảy qua địa bàn. Hiện nay, Khu 1 có 19 dòng họ cùng chung sống bên nhau. Mỗi dòng họ có nguồn gốc xuất xứ từ những vùng quê khác nhau: Họ Lò từ Lạng Sơn chuyển đến; họ Ngân từ Sơn La, Lai Châu đến; họ Lương có 2 hộ với 10 khẩu từ Yên Khương, Lang Chánh chuyển đến; Họ Vi có nguồn gốc từ mường Pi, tỉnh Hòa Bình; Họ Hà có nguồn gốc từ mường Khoòng, huyện Bá Thước chuyển đến Các dòng họ: Lê, Phạm, Trần, Dương, Trương, Nguyễn, Đỗ, Đặng, Ngô, Mai, Trịnh, Đinh đều từ dưới xuôi lên công tác, làm ăn rồi ở lại sinh sống ở Khu 1. 2.3.6. Xã Sơn Lư 2.3.6.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Sơn Lư có vị trí địa lý: phía đông giáp thị trấn Quan Sơn; phía tây giáp xã Sơn Điện; phía nam giáp xã Tam Lư và xã Sơn Hà; phía bắc giáp xã Trung Thượng. Tổng diện tích tự nhiên của xã Sơn Lư theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 4.557,24ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 4.059,87ha. Đất phi nông nghiệp: 167,08ha. Đất chưa sử dụng: 330,29ha. Tổng dân số xã Sơn Lư theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 2.410 người. Trong đó: nam giới 1.268 người, nữ giới 1.142 người; mật độ dân số 53 người/km2. Xã Sơn Lư thời phong kiến thuộc tổng Tam Lư, gồm có mường Hạ, mường Sại, mường Mò, nay là các xã Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Lư, Sơn Hà và thị trấn Quan Sơn. Từ giai đoạn 1930 - 1938, tổng Tam Lư gồm có 7 xã là xã Tam Lư, xã Hậu Lư, xã Sơn Lư, xã Thượng Lư, xã Hàm Lư, xã Trung Lư và xã Định Lư. - Xã Tam Lư gồm có các bản: Hạ, Xum, Làu, Nà Sài. - Xã Hậu Lư gồm có các bản: Bon, Hậu, Sỏi, Bìn, Hẹ. - Xã Sơn Lư có các bản: Lấm, Păng, Na Sai. - Xã Thượng Lư có các bản: Mò, Phe, Cha Lung, Pa. - Xã Hàm Lư có các bản: Ngàm, Bôn, Kham, Khà, Có Hướng. - Xã Trung Lư có các bản: Hát, Muống, Sại, Cha Lóc, Hao. - Xã Định Lư gồm có các bản: Tình, La, Sát. Năm 1939, Thực dân Pháp và chính quyền phong kiến đã sát nhập 7 xã trên thành 3 xã và đặt tên là: xã Thượng Lư, xã Trung Lư và xã Sơn Lư. - Xã Thượng Lư bao gồm các bản: Mò, Ngàm, Phe, Cha Lung, Cha Lan, Pa, Hậu. Hát, Bon, Hao, Hẹ, Sỏi và bản Bìn. - Xã Trung Lư gồm các bản: Muống, Sại, Cha Lóc, Tình, La và bản Sát. - Xã Sơn Lư gồm các bản: Hạ, Xum, Làu, Lấm, Păng, Hiềng và bản Na Sài. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đến năm 1946, Chính quyền Cách mạng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sát nhập 3 xã Thượng Lư, xã Trung Lư và xã Sơn Lư thành một xã và thống nhất lấy tên gọi là xã Tam Lư. Như vậy, xã Sơn Lư trước năm 1966 thuộc xã Tam Lư. Thực hiện Quyết định số 98/NV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ngày 13/4/1966 chia tách xã Tam Lư thành 2 xã: xã Sơn Lư và xã Tam Lư. Xã Sơn Lư lúc này gồm có 9 bản: Lấm, Păng, Bon, Hẹ, Bìn, Sỏi, Làu, Xum và Hạ. Theo Quyết định số 19 - HĐBT, ngày 29 tháng 2 năm 1988: Xã Sơn Lư chia tách thành 2 xã lấy tên là xã Sơn Lư và xã Sơn Hà. - Xã Sơn Lư gồm các chòm bản Bon, bản Hao, bản Hẹ, bản Păng, bản Sỏi, bản Lấm và bản Bìn với 7.862ha diện tích tự nhiên và 2.735 nhân khẩu. - Xã Sơn Hà gồm các chòm bản Hạ, Làng, Làu, Xum với 7.000ha diện tích tự nhiên và 2.725 nhân khẩu. Đến năm 1996, thành lập huyện Quan Sơn, xã Sơn Lư có 473 hộ, 1.945 nhân khẩu và các bản sau: Bản Sỏi, bản Bìn, bản Hẹ, bản Hao, bản Bon, bản Păng, bản Lấm. Năm 2003, theo Nghị định số 131/2003/NĐ-CP ngày 06/11/2003 về việc thành lập thị trấn Quan Sơn trên cơ sở 579,40ha diện tích tự nhiên và 2.820 nhân khẩu của xã Sơn Lư. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính thành lập thị trấn Quan Sơn, xã Sơn Lư còn lại 5.916,87ha diện tích tự nhiên và 2.057 nhân khẩu. Địa danh và địa giới xã Sơn Lư có từ đấy và ổn định cho tới nay. Hiện nay xã Sơn Lư gồm các bản: Păng, Bon, Hao, Hẹ, Sỏi, Bìn. Xã Sơn Lư nằm dọc theo tuyến Quốc lộ 217, từ Km 36 + 500 [giáp đất thị trấn Quan Sơn] đến Km 49 [giáp xã Sơn Điện] có nhiều đồi núi, khe suối nhỏ ngăn cách. Xã Sơn Lư có sông Lò chảy từ xã Tam Lư ra gặp đường 217 tại Km 40 phía dưới bản Bon. Có nhiều suối trong đó có suối Tuốp là suối lớn nhất do 2 suối Bìn và suối Sỏi hợp lại tại Km 46 + 300 tạo thành. Suối Tuốp kéo dài từ Km 46 + 300 xuống đến Km 40 thì gặp sông Lò từ xã Tam Lư ra. Xã Sơn Lư có nhiều núi đá khai thác làm vật liệu xây dựng, làm đường đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Như Pha Mạ tại Km 44 [bản Hẹ]. Trên địa bàn xã có các đồi, núi, sông, suối như sau: núi pha Phanh, pha Mạ, pha Bó Lồm [thuộc bản Hẹ]; pha Lếc [thuộc bản Sỏi], pha Đứa thuộc bản Bon, pha Lang, pha Xú Lú thuộc bản Păng, pha Su Lú [động Nang Non] thuộc bản Păng. Đồi Pù Đen Mường ở bản Bìn, Pù Un ở bản Sỏi, Pù Na Ngại bản Bon, Pù Liệt Sỹ thuộc bản Păng. Suối Kẹm ở bản Sỏi, suối Bát ở bản Bìn, suối Phanh ở bản Hẹ, suối Tuốp chảy qua các bản Sỏi, Bìn, Hẹ, Hao Bon. Ruộng nước của xã Sơn Lư ít hơn so với các xã Tam Thanh, Tam Lư, Sơn Điện, Sơn Thủy. Tài nguyên rừng xã Sơn Lư có nhiều gỗ, nứa, vầu. Nứa, vầu là nguồn lợi thu nhập hàng ngày của đồng bào. Xã Sơn Lư trước đây có nhiều động thực vật quý hiếm nhưng do người dân săn bắt, khai thác nên đã dần cạn kiệt. Hiện nay, xã vẫn có nhiều giống lúa, giống cây con đặc sản như các giống lúa khau cáy nọi [nếp cái hoa vàng], kháu cắm pạnh [nếp cẩm], kháu lạnh [lúa chịu hạn]; mị niêu [mít dai], cam sành, cây măng bương [mạy mươi] cây măng sặt [mạy chá]... Giống gà ri [cáy pắn], vịt bầu [pệt côn], lợn cỏ [mú tay], nhím... Xã Sơn Lư có diện tích đất lâm nghiệp chiếm trên 80% tổng diện tích của xã. Trong đó diện tích rừng tự nhiên còn 63%, trên rừng có các loại động thực vật đa dạng, phong phú, còn có các piềng bãi và thung lũng thuận lợi cho phát triển gia súc, gia cầm. Hầu hết các bản trong xã đều nằm dọc Quốc lộ 217 nên thuận tiện cho bà con đi lại, giao lưu trao đổi hàng hóa với các vùng miền trong ngoài huyện. Dòng sông Lò chảy qua địa bàn xã rất thuận lợi cho nhân dân đánh bắt theo mùa. Xã có 3 dân tộc anh em cùng chung sống là: dân tộc Thái, Mường, Kinh. Mỗi dân tộc có truyền thống văn hóa riêng làm phong phú cho văn hóa của xã. Toàn xã có 2.466 nhân khẩu, trong đó: người Thái có 1.834 khẩu; người Mường có 495 khẩu; người Kinh có 137 khẩu. Có các dòng họ: Hà, Lữ, Lương, Vi, Lò, Hoàng, Lộc. Họ Hà là dòng họ chiếm tỉ lệ đông nhất trong xã. 2.3.6.2. Các bản thuộc xã Sơn Lư Bản Păng: Bản Păng có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Làng, xã Sơn Hà; phía tây giáp bản Bon; phía nam giáp bản Hạ, xã Sơn Hà; phía bắc giáp với Khu 1, thị trấn Quan Sơn. Bản Păng nằm ở trung tâm xã Sơn Lư, cách trung tâm huyện Quan Sơn 4km về phía tây. Từ trên đỉnh núi Pha Lang nhìn xuống, địa hình bản Păng như một chiếc bát. Ngày nay, bản được chia cắt thành 2 bản là bản Păng 1 và Păng 2 [bản Hiềng] ở Km 39. Bản Păng có núi Pha Lang, có Pha Su Lú [tức động Nang Non], có dòng sông Lò chảy qua hết địa phận của bản, có suối Sún, suối Kha, suối Hiêng, suối Sâu, suối Khạng, suối Pu, suối Đứa, suối Hố với địa hình chủ yếu là đồi và núi cao. Bản Păng có dân tộc Thái, chiếm 86,4%; dân tộc Kinh chiếm 13,6%. Là bản ở trung tâm xã nên có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ, thông tin một cách thuận lợi. Hiện nay, có đến 1/3 số hộ trong bản sinh sống rải rác theo dọc đường Quốc lộ 217 và đường biên đi xã Sơn Hà, 2/3 số hộ còn lại sinh sống ở trong bản. Bản Păng có đường vành đai biên giới đi qua tại địa điểm cầu qua sông Lò nối với đường Quốc lộ 217 tại Km 37. Dân bản sống chủ yếu dựa vào kinh tế nông, lâm nghiệp. Nông, lâm nghiệp chiếm tới 95% thu nhập của nhân dân. Từ buổi ban đầu khai đất lập bản chỉ có 2 dòng họ với 12 nhân khẩu, đến nay bản Păng đã có các dòng họ lớn nhỏ: Lò, Hà, Mạc, Lữ, Vi, Ngân, Lương, Lộc, Cao, Bùi, Nguyễn, Tô, Trần, Phạm, Đinh, Đỗ. Bản có 3 dân tộc Thái, Mường, Kinh đến từ các vùng miền khác nhau: xã Trung Xuân, xã Trung Hạ, xã Trung Thượng, huyện Lang Chánh, huyện Bá Thước và từ miền xuôi lên cùng nhau sinh sống, đoàn kết một lòng xây dựng quê hương ngày càng phồn thịnh. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bản Păng thuộc mường Hạ, dòng họ trong làng có nhiều họ nhưng chiếm nhiều nhất là họ Vi và họ Lữ. Bản Bon Bản Bon thuộc diện khó khăn ở xã Sơn Lư, người dân sống chủ yếu dọc theo Quốc lộ 217 nhưng địa thế chủ yếu là vực và đồi núi nên rất khó trong việc làm nhà ở. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bản Bon thuộc mường Hạ. Bản Bon có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Păng; phía tây giáp bản Hao; phía nam giáp bản Hát, xã Tam Lư; phía bắc giáp đất bản Hẹ và bản Bàng, bản Máy, xã Trung Thượng. Địa hình chủ yếu là đồi, núi cao. Bản Bon có núi Pha Lông, có hang Pha Đứa, có dòng suối Tuốp chảy dọc qua đến hết địa phận của bản. Ngoài ra, còn có suối Lông, suối Ngại, suối Bon. Bản Bon chiếm phần lớn là người dân tộc Thái, còn lại là người dân tộc Kinh. Người Thái ở bản Bon có các dòng họ: Hà, Lữ, nhưng nhiều nhất là họ Hà Văn. Người dân sinh sống chủ yếu vào nghề nông, lâm nghiệp; trong đó, nông nghiệp chiếm 45%, lâm nghiệp chiếm 55% thu nhập của người dân. Bản Hao Bản Hao có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Bon; phía tây giáp bản Hẹ; phía nam giáp bản Hát, xã Tam Lư; phía bắc giáp với đất bản Hẹ và bản Bàng, bản Máy của xã Trung Thượng. Đặc điểm địa hình là đồi, núi cao, bản Hao có núi Pha Lông, Pha Phanh, có suối Tuốp chảy dọc qua hết địa phận bản. Có đến 90% là rừng, cây phân tán chủ yếu là cây luồng, vầu, nứa và các loại cây phát tán khác. Nhân dân sống chủ yếu dọc theo Quốc lộ 217 và cạnh suối Tuốp. Cư dân bản Hao chủ yếu là người Mường nên mọi nét văn hóa phong tục tập quán đều theo văn hóa của người Mường. Bản Hẹ Bản Hẹ có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Hao; phía tây giáp bản Sỏi, bản Bìn; phía Nam giáp bản Hát, xã Tam Lư; phía Bắc giáp với đất bản Máy, bản Bàng xã Trung Thượng. Bản Hẹ có địa hình toàn đồi, núi cao: Phá Mạ, Phá Bó Lôm, Phá Phanh, có suối Tuốp, suối Phanh chảy dọc theo hết địa phận của bản. Rừng chiếm 95% diện tích của bản. Bản Hẹ có 3 dân tộc cùng chung sống là dân tộc Thái, Mường và Kinh Các nét văn hóa và phong tục tập quán của dân cư trong bản Hẹ cơ bản mang đậm nét văn hóa của người Mường. Bản Sỏi Bản Sỏi: phía đông giáp với đất bản Hẹ, bản Hao; phía tây giáp bản Bun, xã Sơn Điện và bản Tình, xã Tam Lư; phía nam giáp bản Tình, xã Tam Lư; phía bắc giáp với bản Bìn. Bản Sỏi có đồi, núi cao như núi: Pha Lết, Pha Có. Có dòng suối Sỏi chảy dọc qua hết địa phận của bản. Tài nguyên thiên nhiên có đến 95% là rừng, chủ yếu là cây luồng, cây vầu, nứa và các loại cây phân tán khác. Nhân dân chủ yếu sống dọc theo con suối Sỏi. Bản Sỏi có 3 dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. Bản Bìn Bản Bìn mới được thành lập. Năm 1967, chỉ có 3 hộ gia đình họ Lương làm ăn, sinh sống và lập thành bản gọi là bản Bìn. Bản Bìn có vị trí địa lý: phía đông giáp với đất bản Hẹ; phía tây giáp bản Bun, xã Sơn Điện; phía nam giáp bản Sỏi; phía bắc giáp với bản Na Hồ thuộc xã Sơn Điện. Bản Bìn có địa hình đồi, núi cao giống như bản Sỏi, trên địa bàn bản có con suối Bìn, suối Vát chảy qua. Đồng bào sinh sống chủ yếu dựa vào nông, lâm nghiệp. Các nét văn hóa và phong tục tập quán của dân cư trong bản Bìn tương đồng các bản khác trong xã Sơn Lư. Bản Sỏi có 3 dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. 2.3.7. Xã Sơn Hà 2.3.7.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Sơn Hà có vị trí địa lý: Phía bắc giáp xã Sơn Lư và thị trấn Quan Sơn. Phía tây giáp xã Tam Lư. Phía đông giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh. Phía nam giáp xã Yên Khương, huyện Lang Chánh và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Tổng diện tích tự nhiên của xã Sơn Hà theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 8.924,74ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 8.056,59ha. Đất phi nông nghiệp: 147,68ha. Đất chưa sử dụng: 720,47ha. Tổng dân số xã Sơn Hà theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 2.050 người. Trong đó: nam giới 1.021 người, nữ giới 1.029 người; mật độ dân số 43 người/km2. Xã Sơn Hà thuộc mường Hạ ngày trước. Mường Hạ gồm hai xã Sơn Lư và Sơn Hà. Theo Quyết định số 19 - HĐBT, ngày 29 tháng 2 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng: Chia xã Sơn Lư thành 2 xã lấy tên là xã Sơn Lư và xã Sơn Hà. - Xã Sơn Lư gồm các chòm bản Bon, Hao, Hẹ, Păng, Sỏi, Lấm và Bìn với 7.862ha diện tích tự nhiên và 2.735 nhân khẩu. Địa giới xã Sơn Lư ở phía đông giáp xã Sơn Hà; phía tây giáp xã Sơn Điện; phía nam giáp xã Tam Lư; phía bắc giáp xã Trung Thượng. - Xã Sơn Hà gồm các bản: Hạ, Làng, Làu, Xum với 7.000ha diện tích tự nhiên và 2.725 nhân khẩu. Địa giới xã Sơn Hà ở phía đông giáp huyện Lang Chánh; phía tây giáp giáp xã Sơn Lư; phía nam giáp xã Tam Lư; phía bắc giáp xã Trung Thượng. Xã Sơn Hà hiện nay gồm các bản: bản Làng, bản Làu, bản Xum, bản Nà Sắng, bản Nà Ơi, bản Hạ. Sơn Hà là xã thuộc vùng sâu, vùng xa nằm ở phía đông nam của huyện Quan Sơn. Địa hình của xã hiểm trở, phức tạp có nhiều đồi núi dốc chạy dài từ Bắc tới Nam. Địa bàn xã trước đây có nhiều loại động vật như hươu, nai, hoẵng, sơn dương, lợn lòi, khỉ, trăn và các loại chim quý như chim công, khướu, chim nộc thua, chim yểng,... Ngoài ra còn có nhiều thực vật quý như dổi, sến, phong lan. Các núi đồi, hang động trên địa bàn của xã tạo nên địa thế cảnh quan phong phú, đa dạng như núi Pù Mằn, Pom Ché ở bản Làng; núi đá Pha Lang, Phá Khám, Phá Gia, Pha Han, Pha Lọm ở bản Hạ; Phá Phứng, Phá Mó, Pha Pem ở bản Làu, Hang Mường, Hang Kia,... Dân cư trong xã bao gồm dân tộc Thái chiếm 96%; dân tộc Mường chiếm 0,074%; dân tộc Kinh 0,3% dân số toàn xã. Do đó văn hóa truyền thống xã Sơn Hà đậm sắc thái văn hóa Thái. Xã Sơn Hà có các dòng họ sinh sống là Hà, Ngân, Lộc, Lò, Lương, Vi, Lê, Phạm; trong đó, họ Hà có số hộ, số khẩu đông nhất trong toàn xã. 2.3.7.2. Các bản thuộc xã Sơn Hà Bản Làng Bản Làng trước đây gọi là Piềng Làng, bản nằm ở phía bắc, cách trung tâm xã 1km, bản Làng có núi Pù Mằn ở phía đông, có con suối Hạ chảy qua bản. Bản Làng có vị trí địa lý: phía bắc giáp bản Păng, xã Sơn Lư; phía đông giáp bản Nà Đang, xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh; phía tây giáp bản Piềng Hiến, Khu 2, thị trấn Quan Sơn; phía nam giáp bản Hạ. Dân cư bản Làng sống thành hai nhóm, có dòng suối Hạ ngăn cách. Về mùa mưa lũ, việc đi lại giữa hai nhóm của bà con trong bản rất khó khăn. Bản Làng thành lập từ năm 1965, theo chủ trương di dân xây dựng vùng kinh tế mới của Đảng và Nhà nước. Lúc đó đã có 11 gia đình với 5 dòng họ: Hà, Lộc, Lương, Ngân, Vi ở nhiều nơi khác nhau cùng với 100 hộ người Kinh đến đây khai hoang, vỡ ruộng xây dựng cuộc sống mới. Đó là các thửa ruộng như Na Khăm, Na Mằn, Băng Khăm; dấu tích của các bia mộ như Pom Héo Xá, Héo Mằn bắt nguồn từ núi Pù Mằn kéo dài đến bản Làng, sinh ra các suối nhỏ như suối Khéo, suối Kèng Pa Tốt, suối Luông, suối Na. Bản Làng hiện nay có 3 dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. Dân cư sinh sống chủ yếu dọc theo suối Hạ với nguồn kinh tế chính là sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Trong bản có các dòng họ đó là: Vi, Lương, Hà, Ngân, Trịnh, Đặng. Dòng họ Vi là họ có công khai phá, hình thành nên bản Làng; những người trong dòng họ khác đã di cư từ các bản khác về đây sinh sống. Bản Hạ Bản Hạ có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Nà Sắng; phía tây giáp bản Păng, Sơn Lư; phía nam giáp bản Nà Ơi; phía bắc giáp bản Làng. Bản Hạ trước đây thuộc Pọng Tái. Nghe các cụ cao niên trong bản kể lại: cách đây khoảng 300 năm về trước nơi đây gọi là Pọng Tái, đất rộng người thưa, có nhiều dòng họ đã tụ tập về đây dựng nhà, khai đất lập nên bản mường. Bản có Phá Mống Mường, có con suối Hạ chảy qua. Bản Hạ xưa có miếu thờ thần đất và các bậc có công xây dựng bản mường nhưng nay không còn. Hiện còn tên gọi các ngọn núi quanh bản như Pha Phứng, Pha Muôp, Pha Hao. Có hang động như hang Mương, hang Thắm... Bản Hạ có ba dân tộc cùng chung sống đoàn kết bên nhau là dân tộc Thái, Mường và dân tộc Kinh, trong đó dân tộc Thái chiếm 98%. Bản Hạ có rất nhiều dòng họ, trong đó một số dòng họ lớn như họ Vi, họ Hà, họ Lò, họ Lương, họ Ngân, họ Lộc. Bà con dân bản chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, lâm nghiệp: làm ruộng nước và canh tác nương rẫy, bảo vệ chăm sóc, khai thác sản phẩm từ rừng. Bản Nà Ơi Bản Nà Ơi có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Nà Sắng; phía tây giáp bản Muống; phía nam giáp bản Làu; phía bắc giáp bản Hạ. Bản Nà Ơi có các ngọn núi Pha Muôp, Pha Hào. Có suối Tai Đia, suối Bâu và một số mương, mó nước khác. Người dân bản Nà Ơi sinh sống bằng nghề nông nghiệp và khai thác lâm sản. Bản Nà Ơi có các dòng họ như: Lò, Lương, Hà, Ngân, Vi. Các họ có một số điều kiêng kị: Họ Ngân kiêng ăn rắn; Họ Hà và Lò kiêng con Cuốc Cuốc; Họ Lương kiêng Hổ; Họ Vi kiêng lấy quạt giấy quạt cơm. Bản Nà Sắng Bản Nà Sắng có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Làu; phía nam giáp bản Hạ; phía bắc giáp bản Làng; phía tây giáp bản Nà Ơi. Nà Sắng có núi Pha Da, có suối Chăng chảy qua bản, có đập bản Hạ, mương Nà Lưa. Người dân sinh sống bằng nghề nông nghiệp và khai thác lâm sản. Dân cư của bản sinh sống chủ yếu dọc theo suối Hạ, có đường Tây Thanh Hóa đi qua, phân bố thành ba nhóm dân cư. Trong bản có các dòng họ: Lò, Lương, Hà, Lộc, Vi. Bản Làu Bản Làu thuộc vùng sâu của xã Sơn Hà, huyện Quan Sơn. Bản nằm dọc theo suối Hạ, cách trung tâm huyện lỵ 10km. Bản Làu có vị trí địa lý: phía đông giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh; phía tây giáp bản Nà Ơi, xã Sơn Hà; phía nam giáp bản Xum, xã Sơn Hà; phía bắc giáp bản Nà Sắng, xã Sơn Hà. Bản Làu có con suối Hạ chảy qua bản với chiều dài khoảng 4km, là nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu đồng ruộng của bản. Bản Làu có nhiều đồi, núi như: Pha Mó, Pha Hào, Pha Pém, Pha Phứng, Pha Thắm Tám. Có suối Hạ, suối Ban, suối Muống. Người dân sinh sống bằng nghề nông nghiệp và khai thác lâm sản. Bản Làu có tên gọi từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ năm 1921, có họ Lò di cư đến sinh sống trên mảnh đất này. Sau đó các dòng họ khác đã lần lượt di cư đến cùng khai phá đất đai làm ăn, sinh sống. Hiện nay, trong bản có tới 10 dòng họ khác nhau, có một số dòng họ lớn như: họ Hà, họ Lò, họ Vi, họ Lộc, họ Đỗ, họ Ngân, họ Lương.... Bản Làu có 3 dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. Trong đó, dân tộc Thái chiếm 90% số dân cư trong bản. Bản Xum Bản Xum có vị trí địa lý: phía nam giáp xã Yên Khương, huyện Lang Chánh; phía bắc giáp bản Làng, xã Sơn Hà; phía đông giáp xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh; phía tây giáp xã Tam Thanh, huyện Quan Sơn. Bản Xum có núi Pù Tền, hang Pèo, có suối Hạ, mương Hạ. Dân cư trong bản 100% là người dân tộc Thái. Trong bản có các dòng họ: Hà, họ Vi, họ Lò, họ Lữ, Phạm. Người dân bản Xum sinh sống chủ yếu bằng nghề canh tác nông nghiệp và khai thác lâm thổ sản, hiện nay có một số hộ làm dịch vụ, buôn bán nhỏ lẻ. 2.3.8. Xã Tam Lư 2.3.8.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Tam Lư có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Sơn Lư, xã Sơn Hà. Phía tây giáp xã Tam Thanh, xã Sơn Điện. Phía nam giáp huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và xã Tam Thanh. Phía bắc giáp xã Sơn Lư. Tổng diện tích tự nhiên của xã Tam Lư theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 6.175,69ha. Trong đó: - Đất sản xuất nông nghiệp: 4.333,09ha. - Đất phi nông nghiệp: 180,01ha. - Đất chưa sử dụng: 1.662,59ha. Tổng dân số xã Tam Lư theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 2.808 người. Trong đó: nam giới 1.398 người, nữ giới 1.410 người; mật độ dân số 45 người/km2. Xã Tam Lư thời phong kiến thuộc tổng Tam Lư, gồm có mường Hạ, mường Sại, mường Mò, nay là các xã Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Lư, Sơn Hà và thị trấn Quan Sơn. Từ giai đoạn 1930 - 1938, tổng Tam Lư gồm có 7 xã: xã Tam Lư, xã Hậu Lư, xã Sơn Lư, xã Thượng Lư, xã Hàm Lư, xã Trung Lư và xã Định Lư. - Xã Tam Lư gồm có các bản: Hạ, Xum, Làu, Nà Ơi. - Xã Hậu Lư gồm có các bản: Bon, Hậu, Sỏi, Bìn, Hẹ. - Xã Sơn Lư có các bản: Lấm, Păng, Nà Sài [nơi huyện lỵ Quan Sơn ngày nay]. - Xã Thượng Lư có các bản: Mò, Phe, Cha Lung, Pa. - Xã Hàm Lư có các bản: Ngàm, Bôn, Kham, Khà, Co Hương. - Xã Trung Lư có các bản: Hát, Muống, Sại, Cha Lóc, Hao. - Xã Định Lư gồm có các bản: Tình, La, Sát. Đến năm 1939, Thực dân Pháp và chính quyền phong kiến đã sát nhập 7 xã trên thành 3 xã và đặt tên là: xã Thượng Lư, xã Trung Lư và xã Sơn Lư. - Xã Thượng Lư bao gồm các bản: Mò, Ngàm, Phe, Cha Lung, Cha Lan, Pa, Hậu. Hát, Bon, Hao, Hẹ, Sỏi và bản Bìn. - Xã Trung Lư gồm các bản: Muống, Sại, Cha Lóc, Tình, La và bản Sát; - Xã Sơn Lư gồm các bản: Hạ, Xum, Làu, Lấm, Păng, Hiềng và bản Na Sài. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đến năm 1946, Chính quyền Cách mạng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sát nhập 3 xã Thượng Lư, xã Trung Lư và xã Sơn Lư thành một xã và thống nhất lấy tên gọi là xã Tam Lư, lúc này xã Tam Lư gồm có 29 chòm: Chòm Lấm, Hạ, Păng, Bon, Hẹ, Sỏi, Tình, Hậu, Muống, Sại, Hát, Mò, Ngàm, Bôn, Kham, Phe, Cha Lung, Cha Lan, Pa, Hạ, Xum, Làu, Hao, Sài, Hiềng, Sát, Na Sài, Cha Lóc và chòm Có Hướng. Năm 1960, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước xây dựng mô hình HTX cấp thấp, chòm Sại là chòm đầu tiên của xã Tam Lư thành lập HTX. Đến năm 1961, 28 chòm còn lại của xã lên HTX cấp thấp và lấy tên chòm gọi tên HTX. Năm 1963, bản Piềng Làng thành lập HTX cấp cao gọi là HTX Đại Thắng. Đến năm 1966, cả xã Tam Lư lên HTX cấp cao, thực hiện công hữu hóa về ruộng đất, tư liệu sản xuất, dồn các HTX bản Mò, bản Ngàm, bản Kham, bản Bôn, bản Có Hướng, Bản Nà Ấu thành HTX Trung Tiến. Thực hiện Quyết định số 98/NV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ngày 13/4/1966 “Mục 5: Chia xã Tam Lư thành 2 xã: Sơn Lư và Tam Lư. - Xã Sơn Lư gồm có 9 chòm [bản]: Lấm, Păng, Bon, Hẹ, Bìn, Sỏi, Làu, Xum và Hạ. - Xã Tam Lư gồm có 9 chòm [bản]: Sại, Muống, La, Pa, Hậu, Tình, Hát, Trung Tiến và Trung Lập”. Thực hiện Quyết định số 19/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 20 tháng 5 năm 1988: mục 6: “Chia xã Tam Lư thành 2 xã lấy tên là xã Tam Lư và Tam Thanh. - Xã Tam Lư gồm các chòm [bản] Hát, Hậu, Muống, Sại và Tình với 6.209,2ha diện tích tự nhiên và 2.800 nhân khẩu. Địa giới xã Tam Lư ở phía đông giáp xã Sơn Hà, phía tây và phía bắc giáp xã Sơn Lư; phía nam giáp xã Tam Thanh”. Sau nhiều lần chia tách, đến năm 1996, Tam Lư còn toàn bộ đất mường Sại và một phần đất mường Mò [bản Hậu]. Xã Tam Lư hiện nay gồm các bản: Sại, Hậu, Tình, Muống, Hát, Piềng Khóe. Xã Tam Lư có nhiều đồi núi, sông suối, suối lớn nhất là suối Tình. Suối Tình bắt nguồn từ hướng bắc giáp với địa phận bản Sỏi, xã Sơn Lư chảy theo hướng đông - nam để về sông Lò tại bản Hát. Sông Lò đoạn qua xã Tam Lư dài khoảng 7km. Đi từ ngã ba Km 42 đường 217 đi vào theo đường lên Cửa khẩu mường Pao sẽ gặp bản đầu tiên của xã Tam Lư là bản Hát, cách đường 217 khoảng 5km. Qua bản Hát lên phía thượng nguồn sông Lò sẽ gặp bản Hậu, từ bản Hậu rẽ phải vào 5km gặp bản Tình. Qua bản Hậu lên gặp Đồn Biên phòng Tam Thanh và bản Nà Ấu xã Tam Thanh. Rẽ trái qua cầu theo sông Lò tại bản Hậu đi xuống thì về bản Muống cách cầu treo khoảng 2km, qua sông Lò từ đầu cầu treo bản Hậu ngược lên thượng nguồn là bản Sại, tiếp đến là bản Piềng Khóe cách cầu treo bản Hậu lên khoảng 2km. Xã Tam Lư có nhiều phong cảnh đẹp và tài nguyên quý như Pù Lông Lênh [đồi Xa Mu] ở bản Piềng Khóe giáp với biên giới Việt - Lào và Xóm Có Hướng của bản Ngàm xã Tam Thanh. Cam, quýt trồng ở xóm Khà thuộc bản Có Hướng, xã Tam Thanh [Tam Lư cũ] là món đặc sản trước đây đồng bào thường cúng tiến quan trên. Gỗ có nhiều loài cây quý như pơ mu, sa mu, chò, dổi, vàng tâm... cây lâm nghiệp khác có nhiều như nứa, vầu, song, mây, rừng trồng có nhiều luồng, lát, quế, keo, muồng. Vụng Hậu với nhiều câu chuyện dân gian ly kỳ về mô típ thuồng luồng, có dịp đến thăm bản Tình ta sẽ được chứng kiến mó nước mặn, nơi này trước đây nai, hoẵng, bò rừng từng đàn tập trung về uống nước theo chu kỳ trăng mọc hàng tháng. Tiếng Thái địa phương gọi là “Pung Quáng”, “Pung Ngùa”. Mó nước quý này thuộc xóm La địa phận bản Tình, bản Tình trước đây bao gồm hai xóm nhỏ là xóm La và xóm Tình hợp lại lấy tên là bản Tình. Xóm La ở phía thượng nguồn suối Tình cách xóm Tình khoảng 2km. Xã Tam Lư cùng với xã Tam Thanh là 2 xã có nhiều lúa nước sản xuất 2 vụ bội thu hơn các xã khác dọc sông Lò. Xã Tam Thanh có cánh đồng Nà Ấu [cánh đồng bà nội]. Xã Tam Lư có hai cánh đồng rất rộng, đất đai màu mỡ, đó là cánh đồng bản Sại và bản Piềng Khóe [Khé]. Tam Lư có 3 dân tộc anh em là: Thái, Mường, Kinh cùng chung sống; trong đó: Dân tộc Thái chiếm 99,2%; Dân tộc Mường 0,5%; Dân tộc Kinh 0,3%. 2.3.8.1. Các bản thuộc xã Tam Lư Bản Hát Bản Hát nằm bên dòng suối Hát chảy từ chân núi Pha Lang. Bản Hát có từ lâu đời. Tương truyền, người dân nơi đây rất thích hát khặp, nhất là nam nữ thanh niên. Trong những đêm trăng, bản làng luôn rộn rã, tiếng khèn bè, tiếng sáo ôi dìu dặt, âm thanh khua loóng vang vọng. Mặc dù cuộc sống của bà con còn gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn, nhưng trong bản dưới mường, trên sàn hạn khuống, nam thanh nữ tú sau những giờ lao động mệt nhọc, tối đến lại say mê trao cho nhau những lời khặp, bày tỏ tình cảm tha thiết và mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp. Chính vì vậy, mọi người đã đặt tên cho bản của mình là bản Khặp sau đó đổi tên là bản Hát. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bản Hát dân cư còn thưa thớt, sau năm 1945 bản đã dần phát triển. Lúc bấy giờ đã có 8 hộ gia đình mang 4 dòng họ khác nhau; đó là họ Lộc, họ Hà, họ Lữ và họ Vi cùng chung sống đoàn kết, thương yêu giúp nhau làm ăn sinh sống. Họ đã chung nhau tìm nơi đắp đập ngăn dòng suối Hát lấy nước vào ruộng, khai hoang piềng, bãi được 5000m2, gọi là Na Hát. Dân cư trong bản chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái và một số hộ người Kinh. Chính vì vậy, mọi nét văn hóa, phong tục tập quán bản Hát đều đậm đà bản sắc văn hóa của người Thái ở Quan Sơn. Bản Hậu Bản Hậu nằm giữa trung tâm xã Tam Lư, được hình thành lâu đời. Phía bắc giáp suối Tình, bản Hát; phía đông giáp với sông Lò, bản Muống; phía tây nam giáp sông Lò, bản Sại; phía tây giáp với xã Tam Thanh; phía tây bắc giáp với suối Nghịu, bản Tình. Bản Hậu có 4 con đường nối liền với các bản trong xã. Dân cư bản Hậu, phân bố thành các khu: Khu 1 ở đầu bản là bản Na Chá; Khu 2 ở giữa đường chính; Khu 3 ở cuối bản tính từ dưới lên gọi là bản Hát; Khu 4 ở gần ven sông là bản Tá Cang. Bản Hậu hiện có các dòng họ là họ Lò, Vi, Hà, Phạm, Lữ, Ngân, Lương và họ Lê. Bản Hậu có nhiều nét độc đáo về văn hóa, lưu truyền câu chuyện liên quan đến lập làng, dựng bản. Ngay từ thế kỷ XV, đời sống của nhân dân bản Hậu đã rất phát triển. Bản đã hình thành tổ chức quan bản độc lập do hai dòng họ Lò và họ Vi thay nhau cai quản. Bản Hậu đã xây dựng đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2015. Bản Tình Bản Tình có vị trí địa lý: phía đông giáp với bản Hát; phía tây giáp với bản Sỏi, xã Sơn Lư; phía nam giáp bản Hậu; phía bắc giáp bản Hẹ, xã Sơn Lư. Bản Tình có hang Thắm Luông, Thắm Nọi. Có núi Pha Lanh giáp với Tam Thanh và Đồn Biên phòng 501; có thung lũng Bản La. Có suối Tình chảy qua giữa bản và có các xứ đồng mang tên: na Quan, na Cha. Trước đây bản có nguồn gốc từ mường Sại, sau này chuyển vào có tên là bản Tình. Bản Tình có hai dân tộc cùng chung sống là dân tộc Thái và Kinh. Người Thái ở bản Tình có các dòng họ là họ Hà, Vi, Lương, Ngân, Lò, Lộc và Đinh. Bản Muống Bản Muống có vị trí địa lý: phía đông giáp xã Sơn Hà; phía tây giáp với bản Hậu; phía nam giáp bản Sại; phía bắc giáp bản Hát. Ngày xưa, bản Muống có tên gọi là Muống Say Kháng vì địa hình trong bản giống như hình tượng một cái chảo gang [tiếng Thái là Say Kháng], và có cây kéo to ở đầu bản [tiếng Thái là Muống]. Từ năm 1955, bản đã bỏ bớt từ Say Kháng, chỉ gọi là bản Muống. Trong bản chia thành 3 khu dân cư: Muống trong, Muống ngoài và Lương Sơn, có ngọn núi tên là Pha Lang, ngọn núi này hướng về bản có hình con Sóc bay giáp với bản Hát và xã Sơn Lư. Bản Muống còn có các ngọn núi póm Pu Nhéo, póm Có Vá, ngọn núi này có 3 cây đa rất to và linh thiêng trên đỉnh, và ngọn núi Póm Lắng Hươn. Bản Muống có hai hang động nhỏ, tiếng Thái gọi là Thắm Pha Hán với ý nghĩa của ngọn núi Pha Hán có hình tượng giống con ngan nên được người dân trong bản đặt tên là Pha Hán, hai hang động này ở gần nhau nên người dân thường gọi là thắm Tớ, thắm Tềnh. Bản Muống có con sông Lò chảy dọc theo bản. Trong bản có các xứ đồng mang tên: na Kéo, na Nơ, na Muống, na Cận, na Túng, na Hóm, na Piêng. Người dân trong bản sinh sống bằng nghề nông nghiệp trồng lúa nước và lâm nghiệp. Tất cả đều là người dân tộc Thái. Bản có 4 dòng họ là họ Lữ, họ Hà, họ Lò, họ Lương. Bản Sại Bản Sại là một bản biên giới giáp ranh với nước bạn Lào, có 4km đường biên. Bản nằm ở phía tây xã Tam Lư, cách trung tâm xã 2km. Bản Sại có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Muống; phía bắc giáp bản Hậu; phía tây giáp bản Piềng Khóe, xã Tam Lư; phía nam giáp nước bạn Lào với 4km đường biên. Bản Sại là trung tâm của mường Sại xưa. Chiều dài của bản khoảng 1,5km, có con đường giao thông đi dọc sông Lò, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Tương truyền dân gian kể lại rằng: Vào một năm [cuối thế kỷ XVII] trời mưa to gió lớn, con suối Cha Lóc nước dâng lên cao, đổ ào ào từ trên cao xuống. Người dân bản Sại bất ngờ trông thấy một cái máng lợn [hang Mú] xuôi theo dòng nước trôi xuống. Ông Tạo thấy thế liền cho dân bản lần theo dòng suối tìm đến tận đầu nguồn thì thấy một dòng họ với 5 hộ gia đình và 38 nhân khẩu. Khi hỏi thì không người nào biết là họ gì, nguồn gốc ở đâu đến, chỉ biết những người này là dân tộc Khơ Mú. Tạo mường đã cho các gia đình nhập cư vào mường của mình và được phép mang họ Tạo [họ Phạm]. Hiện nay, con cháu các gia đình này vẫn cư trú ở bản. Nhân dân bản Sại vui mừng vì có những người mới đến nhập cư nên ông tạo mường đã cho khai phá một đám ruộng mới, đặt tên là na Xá và đặt tên cho một quả đồi mang tên các hộ đó là Pom Xá Khô. Hiện nay quả đồi ấy vẫn còn. Mường Sại dưới sự cai quản của ông Tạo mường, nhân dân đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, kinh tế phát triển, đời sống tinh thần phong phú. Tiếng tốt đồn xa, các dòng họ từ những nơi khác tìm đến xin được chung sống với mường ngày càng đông. Tính đến thời điểm đó đã có 5 dòng họ cùng chung sống là họ Kha [tức họ Phạm, họ Hà ngày nay]; họ Lữ, họ Vi, họ Lò và họ Lương. Hiện nay, bản Sại có 2 dân tộc anh em cùng chung sống là Thái và Kinh. Trong đó dân tộc tộc Thái chiếm 98%. Bản Piềng Khóe [Khé] Piềng Khóe là bản thành lập mới nhất của xã Tam Lư. Piềng Khóe có trí địa lý: phía đông và phía nam giáp bản Sại; phía tây giáp với bản Mò, xã Tam Thanh; phía bắc giáp xã Tam Thanh. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thuộc vào bản Sại, xã Tam Lư. Năm 2008, được tách ra từ bản Sại gọi là bản Piềng Khóe. Bản Piềng Khóe có nhiều dòng họ lớn nhỏ như: họ Phạm, họ Hà, họ Lò, họ Vi, họ Lương, họ Bùi, họ Ngân, họ Lữ, họ Đỗ, họ Lê, họ Phan. Họ Hà có nguồn gốc từ Sơn La và từ bản Bon, xã Sơn Lư. Họ Lò: có nguồn gốc từ bản Ngàm, xã Tam Thanh và bản Sại, xã Tam Lư. Họ Vi: có nguồn gốc xuất xứ từ xã Yên Khương, huyện Lang Chánh và từ 2 xã Mường Mìn, Sơn Điện; có một số hộ từ bản Hậu, xã Tam Lư chuyển vào. Họ Lương: có nguồn gốc từ xã Phú Nghiêm, huyện Quan Hóa và từ bản Sủa, xã Sơn Điện. Họ Ngân có nguồn gốc từ bản Máy, xã Trung Thượng. Họ Lữ có nguồn gốc từ xã Trung Hạ, Trung Thượng. Họ Đỗ, Lê, Phan đều có nguồn gốc của từ huyện Thiệu Hóa lên làm ăn sinh sống. Bản Piềng Khóe có ba dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. Người dân trong bản sinh sống bằng nghề nông nghiệp trồng lúa nước và khai thác lâm sản, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên: luồng, nứa, vầu... 2.3.9. Xã Tam Thanh 2.3.9.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Tam Thanh có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Tam Lư. Phía tây giáp huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía nam giáp xã Yên Khương, huyện Lang Chánh. Phía bắc giáp xã Sơn Điện, xã Mường Mìn, huyện Quan Sơn. Tổng diện tích tự nhiên của xã Tam Thanh theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 9.924,36ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 9.367,49ha. Đất phi nông nghiệp: 220,72ha. Đất chưa sử dụng: 356,15ha. Tổng dân số xã Tam Thanh theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 3.534 người. Trong đó: nam giới 1.793 người, nữ giới 1.741 người; mật độ dân số 36 người/km2. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Tam Thanh thuộc mường Mò, tổng Tam Lư, châu Quan Hóa. Tam Lư thời ấy gồm có mường Hạ, mường Sại, mường Mò, nay là các xã Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Lư, Sơn Hà và thị trấn Quan Sơn. Từ giai đoạn 1930 - 1938, Tam Lư gồm có 7 xã: xã Tam Lư, xã Hậu Lư, xã Sơn Lư, xã Thượng Lư, xã Hàm Lư, xã Trung Lư và xã Định Lư. Các làng bản xã Tam Thanh hiện nay, thời kỳ đó thuộc xã Thượng Lư. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đến năm 1946, Chính quyền Cách mạng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sát nhập 3 xã Thượng Lư, xã Trung Lư và xã Sơn Lư thành một xã và thống nhất lấy tên gọi là xã Tam Lư. Thực hiện Quyết định số 19-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 20 tháng 5 năm 1988: mục 6: “Chia xã Tam Lư thành 2 xã, lấy tên là xã Tam Lư và xã Tam Thanh. Xã Tam Thanh gồm hầu hết địa phận mường Mò. Trừ bản Hậu thuộc về xã Tam Lư. Toàn xã có 698 hộ gia đình 3.435 nhân khẩu. Trong đó: Dân tộc Thái có 3.382 người chiếm 98%; dân tộc Kinh chiếm 0,2%; dân tộc Mường chiếm 0,1% dân số toàn xã. Trong 3 dân tộc sinh sống trên địa bàn, người Thái là dân tộc có mặt từ thuở khai mường lập bản, người Kinh, người Mường mới đến sinh sống tại xã từ năm 1988. Xã Tam Thanh hiện nay có các dòng họ cùng chung sống đoàn kết gắn bó bên nhau. Đó là các dòng họ: Hà, Phạm, Lò, Lữ, Ngân, Lương, Lộc, Khoang, Vi, Dương, Trương, Bùi, Lê, Trịnh. Trong đó, dòng họ chiếm số hộ, số khẩu đông nhất là họ Hà. Hiện nay, xã Tam Thanh gồm có 9 bản: Bản Bôn; bản Cha Lung, bản Phe, bản Nà Ấu, bản Mò, bản Ngàm, bản Kham, bản Pa, bản Piềng Pa. Xã Tam Thanh nằm về phía tây của huyện Quan Sơn, cách trung tâm huyện lị gần 20km từ Km 42 Quốc lộ 217 vào 12km. Tam Thanh là một xã miền núi thuộc vùng sâu, vùng xa, có đường biên giới quốc gia tiếp giáp với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Xã Tam Thanh có địa hình núi non hiểm trở, cao nhất là các ngọn núi Pù Xà Lày, Pù Phà Mứt ở bản Pa; Pù Lông Lênh ở bản Ngàm. Có con sông Lò và nhiều khe, suối ngăn cách các làng bản. Thác 20 sải ở bản Khà vừa cung cấp nước sinh hoạt tưới tiêu cho đồng ruộng vừa là một thắng cảnh đẹp của xã Tam Thanh. Người dân sinh sống dọc hai bên dòng sông Lò và các suối Khà, suối Pa. Đường sá đi lại giữa các bản còn nhiều khó khăn, đặc biệt vào mùa mưa lũ. Địa hình xã chia cắt bởi nhiều sông suối, đồi núi. Trong đó có con suối lớn nhất là suối Pa. Con sông Lò chảy từ Mường Pao, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào sang, đoạn thượng nguồn bên nước bạn Lào gọi là Nặm Pao. Sông Lò chảy qua các bản Kham, Bôn, Ngàm, Piềng Pa, Nà Ấu, Mò của xã Tam Thanh rồi xuống địa phận xã Tam Lư. Suối Pa bắt nguồn từ biên giới Việt - Lào chảy theo hướng tây - đông qua bản Pa, Cha Lung, Phe đổ ra sông Lò tại bản Piềng Pa. Do vậy bản Piềng Pa còn có tên gọi khác là bản Sộp Pa có nghĩa là bản miệng suối [cửa suối] Pa. Người Thái gọi nơi suối, sông tiếp giáp nhau là miệng suối, miệng sông còn cửa sông là nói theo người Kinh. Xã Tam Thanh nhiều phong cảnh đẹp do thiên nhiên ban tặng như Thác 20 sải ở suối Khà, xóm Có Hướng của bản Ngàm. Cánh Ngước sông Lò thuộc địa phận bản Kham, thung lũng Xam Họi [động 300] của bản Ngàm về phía thượng nguồn sông Lò, Pù Phạ Mứt bản Pa giáp với bản Yên, xã Mường Mìn. Trên địa bàn xã trước đây có nhiều động vật và thực vật quý hiếm như: hổ, báo, hươu, nai, lợn lòi, gấu, bò tót, khỉ, vượn, tê tê, nhím, đại bàng, yểng, chim trĩ, chim công và nhiều động vật khác. Thực vật thì có nhiều loài gỗ quý như: sến, táu, sưa, dổi, lát hoa và rất nhiều loài cây thuốc chữa bệnh. Hiện nay, các loài động vật và thực vật đã dần cạn kiệt, số lượng và chủng loại không còn nhiều như trước đây. Rừng ở Tam Thanh có nhiều gỗ, nứa, vầu, song mây, cây dược liệu là cây mọc tự nhiên. Đặc biệt cây phèn [cây chủ thả cánh kiến] vừa mọc tự nhiên vừa do nhân dân trồng thả cánh kiến. Ngày trước đồng bào Thái đã có câu ca nói về 4 vùng, trong đó có vùng đất Quan Sơn: “Khí chắng lánh mường Mò Che khô Mường Ly Pa pính chi Mường Xím Kháu hóm niếu Mường Mìn Cay nọi”. Dịch: Cánh kiến đỏ Mường Mò Chè khô Mường Lý Cá nướng ngon Mường Xím Gạo nếp dẻo thơm ở Mường Mìn là Cay nọi 2.3.9.2. Các bản thuộc xã Tam Thanh Bản Nà Ấu Bản Nà Ấu [theo tiếng Thái gọi là bản ruộng bà nội]. Bản Nà Ấu, trước đây gọi là Chiềng Tén, Chiềng Mò. Bản Nà Ấu ở cửa ngõ xã Tam Thanh, cách trung tâm UBND xã 1km về phía đông. Bản Nà Âu có vị trí: phía đông giáp với bản Sại, bản Hậu xã Tam Lư; phía tây giáp với bản Phe, bản Bôn xã Tam Thanh; phía nam giáp với bản Mò xã Tam Thanh; phía bắc giáp với bản Tình, xã Tam Lư. Nà Ấu là bản có từ lâu đời. Tương truyền trong dân gian rằng: vào khoảng thế kỷ XVI có hai ông bà từ đồng bằng Bắc bộ vào xứ Thanh tìm nơi làm ăn sinh sống. Đến Mục Sơn được một thời gian, hai ông bà để gia đình người con trai ở lại, còn hai ông bà lại đi tiếp lên vùng đất Quan Sơn, thấy vùng đất này có thể khai hoang làm ruộng nước nên hai ông bà ở lại, tập hợp các dòng họ cùng chung sức khai phá đất đai, xây dựng bản làng. Người con trai ở Mục Sơn biết ông bà đã chọn được nơi ở phù hợp nên đã cùng vợ con lên chung sức làm ăn với bố mẹ. Bản mường ngày càng phát triển, mọi người biết ơn công lao của ông đã tôn ông làm tạo mường. Sau khi ông bà mất, con cháu và bà con đã lập đền thờ cúng ông bà. Bản Nà Ấu lúc đó có tên là Chiềng Tén. [Nà Ấu theo tiếng Thái là ruộng bà nội]. Tưởng nhớ đến công lao của ông bà nên khi ông bà mất, dân bản đã gọi bản Nà Ấu của mình là Chiềng Mò. Giai đoạn từ 1900 đến 1945, bản Chiềng Mò có 5 dòng họ cùng làm ăn chung sống. Nhưng do bị thực dân Pháp và giai cấp phong kiến áp bức bóc lột nên dân bản phải trốn vào rừng sâu cư trú. Đến những năm 1950 - 1951, giặc Pháp cấu kết với một số phần tử phản động trong nước dồn dân sang nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Lực lượng dân quân du kích cùng một số dân tản cư không theo giặc sang nước bạn Lào đã xuống xã Trung Thượng và huyện Lang Chánh kết hợp với bộ đội địa phương đứng lên đánh Pháp. Cuối năm 1953, đánh đồn Bốt - huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, giải phóng Thượng Lào. Từ đó, dân bản lại trở về quê cũ, tiếp tục làm ăn sinh sống. Lúc đó bản Chiềng Mò chỉ còn 14 hộ, 82 nhân khẩu. Giai đoạn năm 1954 đến năm 1960, nhân dân bản Chiềng Mò được tuyên truyền giáo dục, giác ngộ cách mạng, một lòng đoàn kết làm ăn sinh sống xây dựng bản làng, cùng nhau chuẩn bị mọi điều kiện vật chất và tinh thần để vào HTX. Ruộng đất được nhập vào HTX quản lý. Đến năm 1961 - 1963, nghe theo tiếng gọi của Đảng và Nhà nước, nhân dân bản Chiềng Mò đã xây dựng HTX bậc thấp liên hợp giữa các bản: Nà Ấu, Mò, Kham, bản Bôn, Bản Ngàm và bản Có Hướng. Gọi là Tổ đổi công, rồi tiến lên xây dựng HTX bậc cao. Bản lúc này có 18 hộ 101 nhân khẩu. Với tài nguyên thiên nhiên phong phú, ruộng đất nương rẫy phát triển nên đời sống nhân dân bản Chiềng Mò ngày càng ổn định, sung túc. Địa phận bản Nà Ấu bắt đầu từ Póm Kín Xê [Núi ăn thề] xuống Bằng Khóe, ngược dòng sông Lò đến Bằng Tình vào theo suối Pa. Đến suối Long Hé tắt qua suối Nà Oi lên thẳng đỉnh Pha Lanh, từ Pha Lanh xuống Póm Kín Xê. Bản Nà Ấu nằm dọc theo sông Lò, phía trước mặt có cánh đồng rộng và con sông Lò; phía sau có đồi Pù Sần và Póm Lăng, có khe suối Tá Bành. Nà Ấu có cánh đồng Nà Mo được phân từng khu vực có các tên gọi là Nà Mương, Nà Mén, Nà Păn, Nà Quyền, Nà Hái, Nà Hái Lăng, Nà Lúm, Nà Hó Luống, Nà Lọng Nặm, Nà Nặm Bò, Nà He Tiếm, Nà Phén, Nà Dia, Nà Ấu và có một tuyến mương chính từ bản Phe đến cánh đồng có chiều dài 2.760 m. Bản Nà Ấu 100% đều là dân tộc Thái. Người Thái bản Nà Ấu có 6 dòng họ: họ Phạm, Hà, Lương, Lò, Vi, Lữ chung sống đoàn kết bên nhau. Họ Hà là dòng họ cư trú lâu đời, có số hộ, số khẩu đông nhất bản. Bản Mò Bản Mò có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Piềng Khóe; phía tây giáp bản Ngàm; phía nam giáp bản Bôn; phía bắc giáp bản Nà Ấu. Người dân bản Mò sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp. Trong bản đều là người Thái. Có 7 dòng họ: Lò, Lương, Hà, Lộc, Phạm, Vi, Lữ làm ăn, chung sống, đoàn kết, gắn bó bên nhau. Bản Piềng Pa Bản Piềng Pa thành lập năm 1988. Bản có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Ngàm; phía tây giáp bản Phe; phía nam giáp bản Nà Ấu; phía bắc giáp bản Bôn. Bản Piềng Pa có ba dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. Người dân trong bản Piềng Pa chủ yếu làm nghề kinh doanh, buôn bán. Bản Bôn [Pa Phèn] Bản Bôn có từ sau khi tạo mường Mò chia đất cho tạo mường Chự. Khi mất bản Bôn về cho mường Chự thì lấy bản Pa Phèn đặt tên mới là bản Bôn. Bản Bôn có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Ngàm; phía tây giáp bản Phe; phía nam giáp bản Kham; phía bắc giáp bản Piềng Pa. Bản Bôn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thuộc mường Mò. Bản Bôn có hai dòng họ cùng chung sống là Thái và Mường. Bản có các dòng họ: Lương, Vi, Lữ, Lộc, Lò, Ngân, Hà, Phạm cùng sinh sống đoàn kết với nhau. Bản Ngàm [Bản Pa Vai] Bản Ngàm giáp biên giới Việt - Lào, là cửa ngõ biên giới với cột mốc H5 về phía đông nam sông Lò. Đây là một bản vùng sâu, vùng xa giáp với Phôn Xay, huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, cách trung tâm xã Tam Thanh 15km. Bản Ngàm có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Mò; phía bắc giáp bản Bôn có sông Lò ngăn cách; phía tây giáp bản Kham, có sông Lò ngăn cách; phía nam giáp với nước bạn Lào. Bản Ngàm có chiều dài khoảng 1.500m uốn cong hình chữ S. Dân cư tập trung ở giữa hai bản còn rải rác ở đầu bản và cuối bản với địa phận hẹp thường được gọi là bản trong và bản ngoài. Ở phía trước bản có con mương tưới nước chảy sát theo bản bắt nguồn từ suối Khà đến cánh đồng với chiều dài 2.000m, dưới mương chính có cánh đồng chạy dọc sang bản. Cánh đồng được ngăn cách làm ba nhóm thường gọi là na Nóc, na Cuống và na Có Hướng. Cánh đồng na Chá, na Lo, na Tén, na Lúm, na Tang Táy, na Có Muống, na Sài, na Luống, na Ta Cá, na Có Hướng. Những tên ruộng này có từ xa xưa để lại. Phía sau bản về phía nam có 3 quả đồi gọi là Póm Sân, Póm Lắng Hườn [đồi sau nhà] và Póm Phái. Bản Ngàm. Có 6 dòng họ lớn: họ Lò, Lương, Hà, Ngân, Vi và Lường thuộc hai dân tộc Thái và Kinh cùng chung sống, đoàn kết gắn bó bên nhau. Người Thái chiếm 95% dân số của bản. Bản Kham Bản Kham là bản vùng biên giới của xã Tam Thanh. Bản Kham có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Ngàm [ngăn cách bởi con sông Lò]; phía bắc giáp bản Bôn [ngăn cách bởi dòng suối Kham]; phía tây giáp bản Phe; phía nam giáp biên giới Việt - Lào, có cột mốc H5. Hiện nay, địa phận bản Kham được tính từ suối Kham vào theo suối Co Vin [cửa suối cây Bi] lên đến đỉnh núi Póm Chồn Ngôn đến mốc biên giới đất biên phòng, thẳng xuống đỉnh Pù Cân xuôi xuống Pù Mỵ, núi Pha Lay xuống đến sông Lò là Vằng Tá Cọ. Từ Vằng Tá Cọ theo sông Lò xuống đến cửa suối Kham. Bản Kham trải dọc ngang chân đồi theo hướng tây - nam, dài 800m uốn lượn hình chữ S theo địa thế của sông Lò chảy qua địa bàn của bản. Dân cư sinh sống tập trung nhiều nhất ở đầu và cuối bản. Vì địa hình chật hẹp nên bản Kham thường gọi là bản trong và bản ngoài. Bản ngoài giáp sông Lò về phía nam. Bản trong giáp suối Kham về phía tây, bản có hai hang đất xuyên thẳng vào chân đồi, sâu 50m, rộng 1,4m, cao 2,5m, có màu đất vàng sét và màu tro lẫn đá mồ côi. Hang trên cách hang dưới 40m. Hang dưới có mó nước chảy liên tục. Từ xa xưa các cụ truyền lại bằng cái tên: Hu Vó [hang Mó Nước]. Khu vực hang này gọi là Lúng Nghe. Phía trước bản Kham có con mương tưới tiêu dài 1.200m chạy sát theo bản. Bắt nguồn từ suối Kham đến cánh đồng chạy dọc theo bản, ngăn cách thành hai nhóm, bà con nơi đây thường gọi là na Chá và na Cuống. Các cánh đồng có tên gọi từ xa xưa truyền lại là na Quán, na Chá, na Hín, na Khuống. Con sông Lò chạy vòng từ đầu bản đến cuối bản. Về phía sau bản là các ngọn đồi dọc theo hướng đông - tây, gọi là Póm Sần, Póm Mó, Póm Lắng Hươn, Póm Có Vá. Bản Kham có 9 dòng họ: Lương, Vi, Lò, Ngân, Phạm, Khoang, Lữ, Hà, Bùi với hai dân tộc anh em cùng chung sống là dân tộc Thái và dân tộc Mường. Bản Phe Bản Phe là bản biên giới Việt - Lào của xã Tam Thanh. Bản Phe có vị trí địa lý tiếp giáp như sau: phía đông giáp bản Nà Ấu, Piềng Pa; phía tây giáp bản Cha Lung; phía nam giáp bản Kham; phía bắc giáp bản Tình xã Tam Lư. Phía Nam của bản có rừng đồi Pom Buốc Chạng, Cằng Long Vương; phía bắc có dãy núi Pù Sung Rông đồi kéo dài tận tới Pha Lanh; phía tây có đồi Tén Bặt Còn, 4 chân đồi tỏa xuống thành thung lũng, có dòng suối Pa bắt nguồn từ biên giới Việt - Lào, chảy sang hai bên bờ suối có cánh đồng xanh tươi và có rừng luồng cao xanh bát ngát. Dọc suối Pa có vũng nước mà hằng năm các cụ thường tế Cằng Long Vương. Theo các người già trong bản, trước đây, năm nào mưa thuận gió hòa, ăn nên làm ra, dưới suối Pa lại nổi lên đôi cá sấu. Năm nào làm ăn không thuận lợi thì nổi lên đôi rắn ráo cổ vàng, có cánh tay [thác Con Gà], cánh sắng [thác Sắng], ở dưới chân thác có hang Long vương. Mùa xuân năm nào bản Phe có sự biến động trong làng thì nước trong hang chảy ra đục ngầu. Có Cánh Sao Va, tương truyền là nơi tạo Bôn xin Tạo Phe điều chỉnh lại ranh giới, ít nhất cho xin 20 xại. Tạo Phe không chấp nhận, vẫn theo ranh giới cũ, tại Cánh Phá Lạn. Từ đó, được mang tên là Cánh Sao Va - Phá Lạn ngăn ranh giới bản Phe và bản Bôn. Cuối bản có dãy đá to và dài, trên dãy đá xương rồng cạnh suối Lọng Pháng xưa kia các cụ truyền lại là rồng đất nổi lên, bị sét đánh nổ đầu chết biến thành đá. Đồi Tén Bặt Còn là nơi làm rẫy tập trung, có Piềng bãi rộng lớn, trên đồi cao gió mát, hằng năm vào mùa thu trai gái tập trung vui chơi, hát khặp, ném còn, đánh khăng, đánh mảng. “Buốc khoài om pù sung” là nơi có con trâu đực húc chết một con hổ tại đó nên mang tên Lũng trâu om. Na Úm, Na Oi là nơi đàn hổ hay đến sinh con, bắt thú. Còn có câu ví: “Ngước băng hừa, xứa na Úm, chú hốm mạy, chú mi xác mú”. Nghĩa là: Thần vương ở vụng Hưa, hổ gầm ở Na Úm, mỗi bóng cây đều có xác lợn. Bản Phe có các bến suối: tá Tóc, tá Luống, tá Tớ, tá Phé và tá Na Pháng. Tá Mỏ có Tá Bó Cúng [mó tôm], tá Lọng Nghịu và tá Lọng Lin. Có các suối chảy trong bản: suối Lọng He, suối Lọng Na Oi, suối Mòn, suối Lo Hen, suối Tá Bó, suối Lọng Nghịu, Lọng Lin, Lọng Pháng, Khoài Đón, và suối Tíu, có hang Trăn bên ngọn suối Phe, có hai vụng nước suối ngọt, được gọi là Púng Xộp Púng và Púng Xộp Úm nơi thú vật hay đến uống nước. Phía nam của bản có suối Lọng Văn, suối Púng, suối Tói, suối Na Chá, suối Sao Ba, suối Dá Ngâu, suối Na Oi. Có một dãy đá to cao trên mặt bằng khoảng 30m2. Tương truyền, người xưa nếu bị voi đuổi hay chạy lên trên nóc hòn đá để trốn tránh nên gọi là Cón Hín Pái Chạng. Các dòng họ sinh sống lâu đời ở bản Phe là họ Lữ, Hà, Lò, Vi. Trong đó, dòng họ Lữ là dòng họ khai sơn mở đất của bản. Bản Cha Lung Bản Cha Lung được hình thành 2 xóm [Cha Lung, Cha Lan] nằm dọc theo suối Pa. Cha Lung là bản có đường biên giới giáp với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào 3km và có đường ranh giới giáp với các xã Sơn Điện và xã Tam Lư của huyện Quan Sơn. Bản Cha Lung có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Phe; phía nam giáp với đường biên giới nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; phía tây giáp với bản Pa; phía bắc giáp với bản Tình, xã Tam Lư. Năm 1961, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhân dân bản Cha Lung xây dựng Hợp tác xã bậc thấp, liên hợp với bản Phe là HTX Trung Lập. Lúc này, bản có 18 hộ với 103 nhân khẩu. Sau khi giải tán HTX, bản trở lại tên gọi ban đầu là bản Cha Lung. Bản có dòng suối Pa chạy dọc từ đầu đến cuối bản. Phía trước bản có cánh đồng ruộng, sang bên kia suối Pa có Pom Tén Bặt Còn [nghĩa là núi đỉnh đồi ném còn]. Bản Cha Lung đầu ngoài giáp bản Phe, từ suối Khoài Lón đến Hắng Vằng Văn [Đuôi Vụng Văn]. Phía trong từ suối Khén bên kia suối Pa từ Hát Sộp Khua. Phía sau bản có 2 con suối nhỏ, đầu làng là suối Nong Ó, cuối bản là Huối Cần và có 3 đồi núi. Đầu bản là Pom Sưa Nắng [đồi hổ ngồi]; giữa bản là Póm Hín Chạng [đồi Đá Voi], cuối bản là Póm Che [đồi Chè]. Bản Cha Lung có 7 cánh đồng, tên gọi bằng tiếng Thái là: na Piềng Héo, na Tưng Cha Lung, na Póm, na Bán, na Cha Lán, na Muống và na Tá, có 4 tuyến mương với chiều dài là 2.462m. Trong đó có một tuyến dài 2.000m được xây đắp bê tông kiên cố, lấy nước tưới tiêu cho đồng ruộng. Nguồn nước tưới tiêu và sinh hoạt của bản Cha Lung chủ yếu lấy từ 2 dòng suối Pa và suối Lóng. Bà con trong bản đã chung sức xây dựng quê hương, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống kinh tế. Cuộc sống vật chất ngày càng ấm no, đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Bản Cha Lung hiện nay có diện tích là 966,6ha, với 6 dòng họ và 2 dân tộc Thái, Kinh chung sống đoàn kết bên nhau. Bản Pa Bản Pa có vị trí địa lý: phía đông giáp với bản Cha Lung; phía tây giáp bản Yên, xã Mường Mìn; phía nam giáp với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; phía bắc giáp bản Xa Mang, xã Sơn Điện. Bản Pa có hai dân tộc Thái và Mường cùng chung sống. Trong bản có các dòng họ lớn nhỏ, gồm: họ Lương, họ Lò, họ Ngân, họ Khoang, họ Phạm, họ Vi, họ Lữ, họ Hà, họ Lê. Người dân bản Pa làm ăn sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi và khai thác lâm sản. 2.3.10. Xã Sơn Điện 2.3.10.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Sơn Điện có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Sơn Lư. Phía tây giáp xã Mường Mìn. Phía nam giáp xã: Tam Thanh, Tam Lư [huyện Quan Sơn] và huyện Sầm Tớ, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía bắc giáp xã Thiên Phú, huyện Quan Hóa. Tổng diện tích tự nhiên của xã Sơn Điện theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 9.437,35ha. Trong đó: - Đất sản xuất nông nghiệp: 8.549,06ha. - Đất phi nông nghiệp: 297,45ha. - Đất chưa sử dụng: 590,84ha. Tổng dân số xã Sơn Điện theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 4.117 người. Trong đó: nam giới 2.164 người, nữ giới 1.953 người; mật độ dân số 44 người/km2. Xã Sơn Điện trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, gồm 2 xã Trịnh Sơn và xã Trịnh Điện hợp thành xã Sơn Điện. Ngày 28/2/1950, Sơn Điện hợp nhất với xã Sơn Thủy lấy tên chung là xã Sơn Thủy. Đến năm 1963 lại chia tách xã Sơn Thủy ra thành 2 xã là xã Sơn Thủy [Mường Xia] và xã Sơn Điện [Mường Mìn]. Xã Sơn Điện gồm có các chòm: Bun, Ban, Sủa, Ngàm, Nhài, Yên, Bơn, Chiềng Mìn và Tân Sơn. Theo Nghị định số 65/1999/NĐ-CP, ngày 25 tháng 08 năm 1999, xã Sơn Điện lại tách thành hai xã mới, xã Sơn Điện và xã Mường Mìn. Dân cư trong xã gồm dân tộc Thái chiếm 49,33%; dân tộc Mường chiếm 43,81%; dân tộc Kinh chiếm 6,86%. Trong các dân tộc trên địa bàn xã, dân tộc Thái có mặt sớm nhất, dân tộc Mường đến Sơn Điện đầu thế kỷ XV, dân tộc Kinh đến từ năm 1977. Xã Sơn Điện có các dòng họ chính, gồm: họ Lương, Lò, Phạm, Hà, Lộc, Ngân, Vi, Lữ. Hiện nay, xã Sơn Điện có 11 bản và hai khu dân cư: Bản Ban; bản Bun; bản Na Nghịu; bản Na Lộc; bản Ngàm; bản Nhài; bản Na Hồ; bản Tân Sơn; bản Sủa; bản Na Phường; bản Xa Mang; hai khu dân cư Km 54 và Km 61. Xã Sơn Điện có dòng sông Luồng và tuyến đường 217 đi qua. Đoạn sông Luồng chảy qua Sơn Điện từ cửa suối Yên [Bản Tân Sơn] xuống đến hết địa phận bản Sủa dài khoảng 15km. Đường 217 chạy qua Sơn Điện từ đỉnh Pù Đen Mường Km 49 giáp với xã Sơn Lư [tính từ Đồng Tâm] lên đến Km 74 + 500 cầu suối Yên giáp với xã Mường Mìn dài 15,5km. Sơn Điện có nhiều núi nhưng chủ yếu là núi đất có tầng đất dày, thiên nhiên ban cho Sơn Điện [Mường Mìn] nhiều gỗ, vầu và nứa nên đồng bào có nguồn thu nhập ổn định từ sản phẩm rừng. Núi đá ở Sơn Điện có núi Pha Đón ranh giới với xã Sơn Thủy, Pha Đón thuộc địa phận bản Na Nghịu, Pha Phanh địa phận bản Sủa, Na Hồ kéo dài xuống xã Nam Động, huyện Quan Hóa và một số núi đá ở bản Sủa giáp với xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn và xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa. Địa phận xã Sơn Điện [Mường Mìn] cũng có nhiều khe suối. Trong đó có suối Bun là lớn nhất. Suối Yên bắt nguồn từ bản Yên giáp biên giới Việt - Lào chảy theo hướng tây - nam về đông - bắc đổ ra sông Luồng tại địa phận bản Chiềng - Tân Sơn Km 65. Cầu suối Yên nơi ranh giới của Sơn Điện và Mường Mìn [đập tràn] đường 217 thời kỳ kháng chiến chống Mỹ là điểm oanh tạc ác liệt thường xuyên của máy bay Mỹ. Hàng vạn tấn bom đạn Mỹ đã ném xuống nơi đây trong những năm 1965 - 1968 nhằm phá đập suối Yên ngăn đường tiếp tế của ta sang chiến trường C [Lào]. 2.3.10.2. Các bản thuộc xã Sơn Điện Bản Sủa [Súa] Bản Sủa trước đây gồm ba bản là bản Sủa, bản Na Hồ và bản Na Phường. Bản Sủa nằm dưới chân núi dọc theo sông Luồng và suối Sủa, cách trung tâm xã Sơn Điện 15km về phía đông bắc. Địa hình nhiều đồi núi dốc, núi đá, khe suối. Chiều dài từ đầu bản đến cuối bản là 1,8km. Chiều rộng là 500m. Bản có diện tích tự nhiên là 952,1ha. Bản Sủa trước đây địa bàn rộng, phức tạp, dân cư đông, giao thông đi lại khó khăn, bị ngăn cách bởi con sông Luồng không thuận lợi cho việc đi lại cũng như sự phát triển chung của bà con trong bản. Vì vậy, năm 1987, bản Sủa được chia thành hai bản là bản Sủa và bản Na Hồ. Năm 2008, theo nguyện vọng của cán bộ và nhân dân bản Sủa, lại tách bản Sủa thành hai bản là bản Sủa và bản Na Phường. Bản Na Phường được tính từ đập cống suối Xa Lá đi dọc suối Sủa; bản Sủa được tính từ đập cống suối Xa Lá đi dọc theo bờ sông Luồng, hai bản đều giáp ranh với xã Nam Động, huyện Quan Hóa. Hiện nay, bản Sủa có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Bâu, xã Nam Động, huyện Quan Hóa; phía bắc giáp bản Na Phường; phía nam giáp bản Na Hồ; phía tây giáp bản Ngàm. Bản Sủa gồm hai dân tộc anh em cùng chung sống là dân tộc Thái và người dân tộc Mường. Dân cư bản Sủa sinh sống chủ yếu từ hai nguồn lâm nghiệp và nông nghiệp trồng lúa nước. Bản Na Phường Bản Na Phường thành lập năm 2008 tách ra từ bản Sủa [Súa] Phía đông giáp bản Sủa, phía tây giáp bản Bơn xã Mường Mìn và bản Cóc, xã Sơn Thủy. Phía bắc giáp xã Nam Động huyện Quan Hóa, phía nam giáp bản Na Hồ. Bản Na Phường có hai dân tộc Thái, Mường với các dòng họ chiếm đa số là Lương, Lộc, Lò. Người dân sống chủ yếu làm nghề nông, lâm nghiệp. Bản Na Hồ Bản Na Hồ được tách ra từ bản Sủa từ năm 1987. Địa giới của bản được tính từ bên phải bờ sông Luồng đi xuống hạ lưu. Bản Na Hồ có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Sủa; phía tây giáp bản Bun; phía nam giáp bản Bìn, xã Sơn Lư, huyện Quan Sơn; phía bắc giáp bản Sủa. Bản Na Hồ có diện tích tự nhiên là 715,8ha. Bản có hai dân tộc cùng chung sống là Thái và Mường. Người dân bản Na Hồ sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp. Bản Bun Bản Bun có vị trí: phía đông giáp bản Bìn, xã Sơn Lư, Na Hồ xã Sơn Điện; phía tây giáp bản Ban; phía nam giáp bản Sỏi, xã Sơn Lư; phía bắc giáp bản Ngàm xã Sơn Điện. Bản có ba dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. Bản Ban Bản Ban có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Bun; phía tây giáp bản Xa Mang, Na Lộc; phía nam giáp xã Tam Thanh; phía bắc giáp bản Na Hồ, bản Ngàm. Bản có hai dân tộc cùng chung sống là Thái và Mường. Bản Ban có diện tích tự nhiên là 880,6ha; trong đó, diện tích sản xuất đất nông nghiệp: 20 ha. Đất lâm nghiệp: 650ha; còn lại là đất khác. Bản Xa Mang Bản Xa Mang có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Ban; phía tây giáp bản Yên, xã Mường Mìn và giáp nước bạn Lào; phía Nam giáp bản Pa và Cha Lung, xã Tam Thanh; phía bắc giáp bản Na Lộc và Na Nghịu. Bản Xa Mang nằm dọc theo suối Xa Mang, là bản có 1,8km đường biên giới với nước bạn Lào. Bản cách trung tâm xã 11km về phía đông nam, cách trung tâm huyện Quan Sơn 27km. Diện tích tự nhiên của bản là 626ha. Bản Xa Mang được hình thành từ lâu nhưng hợp rồi lại tách, bản ổn định khi các hộ dân từ các nơi về xây dựng làng bản theo dự án 327, lâm trường Na Mèo năm 1994 và dự án trồng rừng 661. Lúc thành lập bản định canh định cư theo dự án 327 lâm trường Na Mèo đưa vào 19 hộ, đến nay quá trình nhập cư tăng lên 29 hộ. Bản Xa Mang có địa hình đồi, núi, nhiều khe suối nên giao thông đi lại khó khăn, thông tin liên lạc chưa được phủ sóng tuyệt đối. Chiều dài của bản là 1,2km, chiều rộng là 600m. Trong bản có nhiều suối như: suối Bôn, suối Chính, suối Côi, suối Lào, suối Lech, suối Xa Mang. Bản Xa Mang có hai dân tộc cùng chung sống là Thái và Mường. Bản Ngàm Bản Ngàm hình thành từ lâu đời. Có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Sủa; phía tây giáp bản Na Lộc; phía nam giáp bản Ban; phía bắc giáp bản Na Phường. Ở phía bắc của sông Luồng có núi đá Pha Đón và Pha Lanh, thung lũng Khu Lống Pha Pứng. Bản có con sông Luồng chảy qua, có các suối như suối Bơn, suối Chóc Lách, suối Tá, suối Căm, Ta Lau, suối Huối Hơn, huối Mường, huối Hón Tấp, huối Mường Tấp, huối Héo, huối Tín Pệt, huối Ta Láp, huối Sau Tạng, huối Vứng, huối Tàng Luống và các xứ đồng như: Nà Xa Láo, Nà Nưa, Nà Tống, Nà Pa Cọ, Nà Piềng Pù. Bản Ngàm được phân bố thành 2 khu dân cư gồm khu Piềng Vứng và khu Co Nào. Có hai dân tộc cùng chung sống là Thái và Mường. Có 5 dòng họ: Lò, Lương, Vi, Ngân, Phạm [Lò Khăm]. Người dân trong bản sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp. Bản Na Lộc Bản Na Lộc lúc đầu có tên là Kòn Dộc thuộc bản Nhài. Đến năm 1963, đổi tên bản là Na Lộc, tách Na Lộc thành bản riêng thuộc xã Sơn Điện cho đến nay. Bản Na Lộc nằm dọc theo Quốc lộ 217, giao thông thuận lợi, có sông Luồng chảy qua địa bàn của bản, địa hình nhiều đồi núi và thung lũng, đất đai canh tác nông nghiệp và lâm nghiệp, đặc biệt là núi Pha Ta Mướng và Tạng Keo Mứt. Bản Na Lộc có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Ngàm, bản Ban; phía tây giáp cơ quan Ban Quản lý rừng phòng hộ Na Mèo; phía nam giáp bản Ban và bản Xa Mang; phía bắc giáp đất bản Ngàm. Người dân sinh sống dựa chủ yếu vào lâm nghiệp chiếm 60%, nông nghiệp chiếm 25% và dịch vụ chiếm 15%. Mật độ dân cư trong bản thưa thớt ở ba khu, phân bổ không đồng đều. Có 3 dân tộc anh em cùng sinh sống là: Thái, Mường và Kinh. Bản Na Nghịu [Bản Cây Gạo] Bản có tên gọi khác là bản Nhài tớ, có nghĩa là Nhài dưới. Bản Na Nghịu có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Na Lộc, bản Ngàm; phía tây giáp bản Nhài; phía nam giáp bản Xa Mang; phía bắc giáp bản Na Lộc và khu trung tâm xã Sơn Điện và cơ quan Ban Quản lý rừng phòng hộ Na Mèo. Bản Na Nghịu trước đây thuộc bản Nhài, lịch sử hình thành của bản gắn với quá trình hình thành bản Nhài. Năm 1987, tách Na Nghịu thành một bản mới thuộc xã Sơn Điện. Tên gọi của bản có từ đấy cho đến nay. Bản có địa hình đồi, núi cao, có con sông Luồng chảy qua. Bản Na Nghịu có ba dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh Có các dòng họ là họ Hà, họ Lương, họ Vi, họ Phạm, họ Lò. Người dân sinh sống bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp. Bản Nhài [Dài] Bản Nhài trước đây gồm các bản Na Lộc, Na Nghịu, bản Nhài và một phần diện tích bản Tân Sơn ngày nay. Diện tích tự nhiên trên 3.000ha. Năm 1959, Nhà nước thành lập bản Tân Sơn gồm một phần đất bản Chiềng và bản Nhài. Năm 1974, chia tách Na Lộc thành bản riêng. Năm 1987, lại tách Na Nghịu thành một bản mới. Bản Nhài có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Na Nghịu, phía tây giáp bản Tân Sơn, phía nam giáp bản Xa Mang, phía Bắc giáp bản Bơn, bản Ngàm. Địa hình bản Nhài có nhiều núi rừng, khe, suối. Con suối lớn nhất là suối Nhài, có sông Luồng chảy qua bản gần 1km, có Pha Đón cao ngất, thác suối Nhài 3 tầng đẹp kỳ vĩ, thác cao gần 100m. Nhân dân bản Nhài giàu lòng yêu nước chống ngoại xâm từ xưa đến nay. Ngay từ thế kỷ thứ XV đã có người tham gia đội quân đi đánh giặc Minh ở đồn Quán pế, phía tây sông Mã, thuộc đất Quan Hóa giáp Mai Châu Hòa Bình, trong đó có ông Tiều Quế, Pú Ông tức Lương Văn Ông. Sang thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng lãnh đạo, suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân bản Nhài đã nhiệt tình cùng với nhân dân cả nước góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Ngay từ thời kỳ đầu, bản đã có người tham gia vào Ủy ban lâm thời xã, hăng hái tham gia dân quân du kích đánh đồn Mường Xia, Sơn Thủy từ năm 1948 đến 1950 và đồn Mường Sôi - Lào từ năm 1950 đến 1953 và hăng hái tham gia dân công phục vụ chiến dịch thượng Lào, chiến dịch Điện Biên Phủ. Những năm 1953 -1954, bản còn là căn cứ kho tàng trung chuyển phục vụ chiến dịch thượng Lào suốt từ Km 60 đến Km 63. Dân quân du kích bản Nhài đã cùng với bộ đội tuần tra bảo vệ kho tàng an toàn. Bản Tân Sơn Vùng đất bản Tân Sơn trước đây có tên gọi là Piềng Cần. Bản Tân Sơn có vị trí địa lý: phía đông và phía nam giáp bản Nhài; phía tây giáp bản Chiềng, xã Mường Mìn; phía bắc giáp bản Bơn, xã Mường Mìn; Từ ngày 31/08/1999 về trước, bản nằm ở trung tâm xã Sơn Điện cũ. Năm 1960, Nhà nước thành lập bản Tân Sơn gồm một phần đất bản Chiềng và bản Nhài. Sau khi chia thành hai xã Sơn Điện và Mường Mìn, Tân Sơn trở thành bản cuối xã Sơn Điện, giáp với xã Mường Mìn, có đường Quốc lộ 217 xuyên qua bản từ Việt Nam sang nước bạn Lào. Tên gọi của bản có từ đó cho đến ngày nay. Diện tích tự nhiên 325,8ha; trong đó, diện tích ruộng lúa nước 20ha; diện tích trồng màu 19,1ha; diện tích rừng luồng 175ha; diện tích rừng gỗ lim 1,7ha, còn lại là đất khác. Bản Tân Sơn có sông Luồng [Nặm Tuông] chảy qua, có nhiều suối nhỏ là suối Na Mòn, suối Nam Túm, suối Léch Nưa, suối Léch Tớ, suối Vóc Pát, suối Noong Tàu. Sông suối chảy trên địa bàn là nguồn nước thuận lợi cho đồng bào sản xuất và sinh hoạt. Hiện tại, người dân lấy nước tưới tiêu cho hoa màu từ suối Yên chảy qua bản Na Pạng vào bản Tân Sơn và dùng nước sinh hoạt ở suối Na Mòn. Bản Tân Sơn có núi Pha Đón, săn Pù Có Vá, săn Dào, săn Tắm Tàn, săn Phòng Không, đồi Pha Toóc, đồi Pa Vai. Đồng bào canh tác trên các piềng, bãi: Piềng Co Mí, Piềng Léch; Các cánh đồng: na Hát Pénh, na Su Lục, na Lin Lenh, na Co Há, na Có Hiềng, na Pốt, na Ang, na Ma Lai, na Pi Niêng, na Cần, na En Mạ. Theo cụ Phạm Bá Quyết, 91 tuổi [năm 2001], cán bộ hưu trí bản Chiềng, xã Mường Mìn, bản Tân Sơn ngày nay từ 1959 về trước gọi tên piềng Cần. Vào giữa thế kỷ XV, ông Hai, tạo Pọng Nhài và ông Ba, ông Tư ở bản Chiềng, ba anh em đã thống nhất huy động nhân dân toàn mường đào mương Cần, đắp phai lấy nước từ na Pạng về piềng Cần khai hoang các cánh đồng na Hát Pénh, na Co Há, na Lín Lánh trồng lúa; piềng Cần làm hoa màu cạn; piềng Su Lục làm thao trường tập luyện phi ngựa [en mạ]. Đó là các cánh đồng của bản Tân Sơn ngày nay. Tạo Tư làm rẫy ở đầu piềng Cần liền trồng 3 bụi cây cần vào đám rẫy đó, thấy bụi cây cần xanh tốt nên đặt tên cho bãi đất này là piềng Cần. Tên gọi có từ đó. Bản Tân Sơn có 3 dân tộc: Thái, Mường và Kinh cùng sinh sống. Người dân bản Tân Sơn sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và khai thác lâm sản [nứa, vầu, trồng và chăm sóc luồng]. 2.3.11. Xã Mường Mìn 2.3.11.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Vị trí địa lý của xã Mường Mìn. Phía đông giáp bản Tân Sơn và bản Xa Mang, xã Sơn Điện. Phía tây giáp xã Na Mèo, giáp bản Chía, Mường Xôi, huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía nam giáp bản Kiên, Na Muồn, huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía bắc giáp xã Sơn Thủy. Tổng diện tích tự nhiên của xã Mường Mìn theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 8.920,51ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 7.823,86ha. Đất phi nông nghiệp: 181,35ha. Đất chưa sử dụng: 915,30ha. Tổng dân số xã Mường Mìn theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 2.324 người. Trong đó: nam giới 1.171 người, nữ giới 1.153 người; mật độ dân số 26 người/km2. Từ năm 1945 trở về trước, Mường Mìn đặt trung tâm của bộ máy cai trị ở bản Chiềng Mìn. Mường Mìn [2 xã Sơn Điện và Mường Mìn] được tính từ Km 49 Pù Đen Mường là ranh giới giữa xã Sơn Lư đến Mường Cha Km 78 thuộc địa phận xã Na Mèo ngày nay. Trước năm 1931, Thực dân Pháp đã chia Mường Mìn thành 2 xã để dễ bề quản lý, cai trị gọi là xã Trịnh Điện và xã Trịnh Sơn [nay là Sơn Điện, Mường Mìn]. Năm 1963, theo Quyết định số 30 - CP của Hội đồng Chính phủ, ngày 6 - 3 - 1963: Chia ba xã Tam Chung, Sơn Thủy và Trung Thành thuộc huyện Quan Hóa thành 7 xã mới, thì xã Sơn Thủy thành hai xã mới là xã Sơn Thủy và xã Sơn Điện. Xã Sơn Thủy gồm có các chòm: Muống, Tân Lập, Thanh Sơn, Cha Khót, Hiềng, Thủy Thành, Bo, Thủy Chung, Thủy Sơn, Trung Tiến và Xuân Tiến; Xã Sơn Điện gồm có các bản: Bun, Ban, Sủa, Ngàm, Nhài, Yên, Bơn, Chiềng Mìn và Tân Sơn. Mường Mìn lúc bấy giờ thuộc xã Sơn Điện. Theo Nghị định số 65/1999/NĐ-CP, ngày 25 tháng 08 năm 1999: “Mục 2. Thành lập xã Mường Mìn thuộc huyện Quan Sơn trên cơ sở 8.190ha diện tích tự nhiên và 2.115 nhân khẩu của xã Sơn Điện. Địa giới hành chính xã Mường Mìn: phía đông giáp xã Sơn Điện, phía tây giáp xã Sơn Thủy, phía nam giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía bắc giáp xã Sơn Thủy. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính xã Sơn Điện có 10.355ha diện tích tự nhiên và 4.287 nhân khẩu”. Tên gọi xã Mường Mìn có từ đó cho đến ngày nay. Xã Mường Mìn là một xã vùng cao miền biên giới của huyện Quan Sơn có 10,8km đường biên giới giáp với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, cách trung tâm huyện lỵ Quan Sơn hơn 30km về phía tây. Mường Mìn nằm theo Quốc lộ 217 chạy lên Cửa khẩu quốc tế Na Mèo. Mường Mìn có địa hình hiểm trở của kiểu rừng nhiệt đới. Xã Mường Mìn là vùng đất có phong cảnh sơn thủy hữu tình, có câu chuyện tình Pha Dua nổi tiếng trong cộng đồng người Thái ở Quan Sơn. Có các núi đá như: Pha Đon [núi đá trắng]; Pha Hen [núi ngửa cổ]; Pha Dùa [núi nhô ra sông], Pha Cay [núi cúng gà], Pha Phứng [núi ong làm tổ], Pha Đen [núi trên trán]; bên cạnh các núi đá là núi đất: Pù Xà Lày [thuộc quần thể dãy Trường Sơn chảy từ huyện Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào sang huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An], Pù Cút, Sắn Lắng Bán [núi sau bản, chảy từ Pù Cút qua eo Pa Lết tại Km 71, đường 217 chảy về hết hạ nguồn suối Yên tại Km 65 - 300m], Pom Cằng Pạng - Póm Pù Kì nối lên Pù Cút. Nơi đây trước kia là khu vực người Khơ Mú sinh sống. Từ năm 1935, người Khơ Mú đã di chuyển lên bản Lách, xã Mường Chanh, huyện Mường Lát sinh sống, Pù Cánh Khóe [rừng thác quế], Sài Khao là thung lũng trên núi [có tên cát bạc, cát trắng]. Đây cũng là địa danh người Khơ Mú đã từng sinh sống. Xã Mường Mìn là vùng núi rừng trùng điệp, có những dãy núi cao như Pù Xa Lày cao 1.416m so với mặt nước biển, có dãy núi Pha Dùa cao nhất khu vực huyện Quan Sơn [hơn 1.640m]. Xã Mường Mìn có Pha Đón, xưa kia là nơi trực chiến của dân quân xã Sơn Điện [khi xã Mường Mìn còn chung với xã Sơn Điện] bắn máy bay Mỹ. Pha Đón nằm trong quần thể núi đá vôi theo chiều chếch Đông - Bắc tạo vòng cung ôm lấy dòng sông Luồng uốn lượn tăng thêm sự kỳ vĩ của non nước Mường Mìn. Có đồi Pom Dưới theo truyền thuyết là mồ chôn quân Minh, là trận địa đanh thép làm cho máy bay Mỹ kinh hoàng mỗi khi chúng đến bắn phá cầu suối Yên. Chính nơi đây vào một đêm tháng 2 năm 1966, dân quân đã bắn cháy một máy bay Mỹ rơi về phía nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Cầu suối Yên cách Km 65 về phía Đồng Tâm 200m, là chiếc cầu trên tuyến đường 217 nối liền nước ta với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đế quốc Mỹ đã trút nhiều bom đạn xuống đây nhằm cắt đứt con đường huyết mạch giao thông tiếp viện cho chiến trường C giữa nước ta với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Xã Mường Mìn có mạng lưới sông suối chằng chịt, độ dốc cao, dòng chảy lớn. Sông Luồng là con sông chính chảy qua địa bàn xã. Sông bắt nguồn từ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, do hai con suối lớn của Mường Xôi và Mường Pùn hợp lại. Dòng bên tả gọi là dòng Nặm Xôi; bên hữu gọi là Nặm Pùn chạy về hợp lại vào Việt Nam gọi là nặm Tuông [sông Luồng] chảy vào xã Na Mèo đi qua xã Sơn Thủy, chảy qua dãy Pha Dùa vào xã Mường Mìn, gặp suối Yên tại bản Tân Sơn bắt đầu chảy về xã Sơn Điện, và các xã của huyện Quan Hóa: xã Nam Động, xã Nam Tiến và xã Nam Xuân gặp sông Mã tại phía ngoài Hang Ma khoảng 2km, xã Hồi Xuân huyện Quan Hóa. Đây là con sông làm huyết mạch giao thông nối liền các xã ở huyện Quan Sơn và huyện Quan Hóa. Ngày xưa khi đường bộ chưa phát triển, sông Luồng, sông Lò, sông Mã là con đường thủy vận chuyển lâm thổ sản chính từ miền ngược xuống miền xuôi ở Thanh Hóa. Suối Yên là con suối chính của Mường Mìn dùng để tưới nước ruộng của các bản Yên, Na Pạng, Luốc Làu, bản Chiềng và Tân Sơn xã Sơn Điện. Suối Bóng là nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu cho các ruộng na Co Phày, na Có Tén, na Piềng Bán, na Pa Mác, na Có Phường, na Có Lướng, na Chà Khé. Suối Én là nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu cho các cánh đồng: na Én, na Cháo, na Keo, na Héo, na Có Phúng, Nà Lạ. Bên cạnh dòng sông Luồng, suối Yên, suối Én, suối Bóng là các khe, hón dày đặc. Mỗi khe, hón đều gắn với địa danh làng bản Mường Mìn, gắn với quá trình khai mường lập bản. Sau đây là một số khe, hón ở Mường Mìn: Dọc theo sông Luồng có các khe suối: suối Cướm [hón cây trám], suối Héo [suối bãi tha ma chiềng Lào], Nặm Bóng [suối Bóng lòng suối cát mịn, chảy từ Pù Cút xuống], suối Hưa [nơi người xưa kéo đi tìm đất kéo thuyền dấu trong hón], suối Còn Sét [hón cá mương, nơi đây đã đào được trống đồng], suối Chộc [hón có nhiều gỗ bi người Thái hay dùng làm cối giã gạo, gọi là Chộc], suối Hát Quáng [hón Thác rộng], suối Lế [suối tế lễ khu rừng thiêng Mường Mìn xưa]... Dọc tả hữu suối Yên có các hón: hón Na Nốm [hón ruộng cây trúc], Na Mon [hón ruộng cây dâu], hón Xá [trước kia là bản của người Khơ Mú], hón Pung [Pung là mỏ nước ngọt trâu thích uống], hón Ché Phai [góc đập], hón Ngóm, cha Lan, Cộng, Sứng, Na Yến, Na Ón, Chạng Náu [hón voi thối], hón Én, Cay, Chá, Pung, Ai [hón làm ranh giới hai bản Yên và bản Mìn], Muống, Tá Ban, Đống Khống [hón Thiêng], Páo, Pha, Pha Phứng [suối núi đá ong mật], Pung. Dọc theo suối Én có các hón: Ho Láng [tên nhân vật thần thoại Ho Láng], Có Mị [hón cây mít], Nặm Dín [suối nước mát], suối Héo [suối bãi tha ma], Có Cần [hón có nhiều cây song cần], suối Tóc, Có Nào [hón cây tranh], Có Hày [hón cây sanh], Na Héo [hón ruộng tha ma], Tống Thánh, Có Hín Hại [hón đá xấu], Tanh Hướng [hón nhà ông Hướng], suối Sần [nơi thờ cúng lưu vực suối Én], Có Toi [hón họ lá trầu không], Ngoi Cắng [hón cây khỉ độc ngủ], Na Cháo, Mác Càng [trái Cóc], Na Ti, Na Mạ, Súm Luồng, Sái Khò, Khúa Lậc, Có Phày, Bo Khoắn [hón Lạc vía], Chừa Lẹ [hón dây mác lẹ], Có Kè [cây da báo]. Dọc tả hữu suối Bóng có các khe hón: huối Có Mị [hón cây mít], Na Bo [hón chảy ra ruộng Bo], Tha Lánh [hón thiêng], huối Khuông [xưa suối có hũ bạc thiêng], Có Ten [hón cây mác ten], Có Phường [hón cây khế], Khí E [hón vãi phân], Na Lai [ruộng vân hoa], Pa Khà [hón Cỏ tranh], huối Dum [hón cây lát], Sộp Mú [hón mõm lợn], Pa Mác [hón cây cau], Có Ngóa [hón cây vả], Có Phày [hón cây dâu da ba múi], Cha Khụ [hón co rụt], suối Pán [hón Hé], suối Lìn Nặm [hón máng nước], Pùng Bón Nóc [hón bãi môn ngoài], Pùng Bon Cuống [hón bãi môn trong], Heo Kéo [hón Mồ chôn của người Kinh], Có Mòn [hón cây dâu], Tín Cánh [hón chân thác], Keo Đén [hón ranh giới], Lưu vực suối Lế có các hón: suối Pa Mác [ruộng bãi cau], suối Đưa [ruộng cây sung], Luốc Ưng, Che Khe, Héo Phó, Huối Xá, Na Có Lướng, Đín Cánh [suối đất đỏ], Có Hộc [hón cây bương], Sa Ăn, Thắm Toi [hón dây trầu], Na Ang, Nóng Xơ, Hín Đắm [hón đá đen], suối Hượn [hón chữa bệnh cùi - hủi], Huối Sần [hón thờ thần], Phá Dồng, suối Cút [hón cây dương xỉ], suối Chưa Dượng [hón Hoằng Đằng]. Ruộng nước ở Mường Mìn chiếm tỷ lệ khá cao trong toàn huyện. Từ xa xưa người Mường Mìn đã đào mương dẫn nước vào ruộng để chủ động tưới tiêu. Những con mương dài 3 - 4km như mương Suối Lế, mương Cang [mương Cần], mương Luông, mương Lè. Ở Mường Mìn lượng mưa trung bình hàng năm rất lớn, khí hậu nhiệt đới, ẩm. Nhiệt độ trung bình từ 12 - 340, mùa đông nhiệt độ trung bình khoảng 180C; mùa hè trung bình 290C. Chính vì nhiệt độ trung bình của hai mùa không chênh lệch nhau quá lớn nên rất thuận lợi cho sản xuất nông - lâm nghiệp. Sau đây là một số piềng bãi, ruộng đồng người dân Mường Mìn khai phá canh tác từ bao đời nay: Ven sông Luồng có các piềng: piềng Phạ [bãi Trời], piềng Bơn [bản Bơn], piềng Sa Hay, piềng Bóng [bãi đối diện suối Bóng], piềng Chiềng Lào [bản Luốc Làu], piềng Héo [bãi tha ma các nhà quí tộc], piềng Khật [nơi quân sỹ đi đánh giặc Minh chiến thắng trở về gặp nhau giữa hai đường thủy bộ rồi định cư ở Mường Mìn - thuộc bản Chiềng, Na Piềng Phạ, na Piềng Băng Dao, na Bơn. Ruộng lưu vực suối Yên có: na Le [ruộng đẹp nên người qua đường phải ngước nhìn], na Nốm [ruộng cây trúc], na Nốm Nưa [ruộng cây trúc trên], na Sộp Lin [ruộng đầu máng], na Mác Cại [ruộng cây vải], na Kháu Cháo [ruộng cơm nấu nồi], na Pông Diên [ruộng ông Diên khai phá], na On Bua [ruộng rừng cây trúc làm cần rượu], na Khà [ruộng rừng tranh], na Ách Chạng [ruộng ách voi], na Pông Đống Khuống [ruộng sâu thiêng], na Duỗi Bá [ruộng bóng đa], na Ten Luông [ruộng lạch nước lớn], na Hách Tén [ruộng mường hay cấy lấy ngày ở trên], na Hách Lọng [ruộng mường hay cấy lấy ngày ở mương], na Lọng Ang [ruộng rốn nước], na Hòn Hín [ruộng nhiều đá], na Lọng Diên [ruộng trũng lắm lươn], na Hới Lau [ruộng bãi cây lau], na Dụng Cáng [ruộng giữa bản Pom Dụng], na Hòn Có Báy [ruộng nơi giặc Mỹ ném bom xuống đoàn người đang cấy ruộng năm 1968], na Tá, na Cha Khang [ruộng cây thuộc thận], na Có Phày, na Hói mạng, na Kem Cha, na Kẹm Lọng, na Sum Luồng [bụi luồng], na Có Phèn, na Có Há, na Có Hiến, na Kiên Lọng, na Hó Láng, na Păn, na Khoài, na Ngân, na Pun Xôi, na Pạng Háng, na Pạng Húa, na Ché Phái, na Pạng Muôn, na Lọng Sài, Na Ngóm Hang, na Ngóm Húa, na Nghịu, na Pồng Nọi, na Sộp Cộng, na Muống, na Ta Ban, na Pồng, Luống, na Hiềng, ma Mưới [ruộng vật được gấu], na Lăn, na Hín, na Có Hum, na Viêng, na Yến, na Bón, na Đín, na Đín Mò, na Húa Cánh, na Ón. Lưu vực suối Én có các cánh đồng: na Tín Cánh, na Có Muống; na Có Sán, na Có Ha, na Bán Sần, na Lài, na Có Nôi, na Có Muống, na Héo, na Hày, na Chưa Lẹ, na Có Phày [ruộng cây dâu da], na Có Cần, na Lu, na Lạ, na Keo, na Láp, na Có Cần, na Hát, na Hi, na Cháo, na Cao, na Én, na Háng Kẻ, na Che Khé [ruộng cây gội đầu]. Lưu vực suối Lế có các thửa ruộng: na Sộp Huối, na Pa Mác, na Đưa, na Ưng, na Có Hộc, na Pồng, na Hiềng, na Ti, na Phó Nọi, na Nám Huối, na Có Lướng... Mường Mìn có một số thác vừa và nhỏ như thác Cánh Khóe, thác Sào Ba [20 sải], Suối Páo, thác Cánh Lum, suối Hặc - gần đồn biên phòng Mường Mìn, bản Yên [ba nơi này trước kia là nơi người Khơ Mú cư trú], thác Cánh Ngóm [dối diện bản Na Pạng], thác Cánh Lế, Cánh Bóng Pa Tuận [Thác Cánh Bóng cá cùng đường]. Hang động ở mường Mìn gồm có: hang Dùa, hang Hiến, hang Khúa Pồng, hang Thẳm Toi, Hòn Lạn Tắng. Đất đai xã Mường Mìn rất màu mỡ, thuận lợi cho nhân dân canh tác trồng trọt và khai thác nguồn lợi từ rừng. Các loại cây vầu, nứa, luồng là thế mạnh chính của xã Mường Mìn trong phát triển lâm nghiệp, đem lại cho bà con thu nhập khá ổn định, cuộc sống từng ngày đổi thay. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, người dân xã Mường Mìn không tiếc sức người sức của, khai thác rừng phục vụ cho kháng chiến: làm nhà ở, nhà kho, nhà xưởng cho trạm tiểu tu Na Lạ tại Km 68 khai khác gỗ để đóng thùng xe. Rừng còn là nơi ngụy trang cho kho và nhà xưởng cũng như che chở nhân dân và bộ đội dưới những tán lá xanh của đại ngàn. Rừng núi Mường Mìn có rất nhiều gỗ quý như sến, táu, chò chỉ, pơ mu [lông lênh], có rừng cọ bạt ngàn ở các đồi, piềng bãi để lợp nhà. Người dân xã Mường Mìn sống chủ yếu ở 5 bản: bản Mìn, bản Chiềng, bản Luốc Làu, bản Bơn, và bản Yên. Các bản chạy dọc theo đường biên giới nước bạn Lào, xã Na Mèo, xã Sơn Thủy, xã Tam Thanh. Bản Mìn, bản Chiềng, bản Luốc Làu có thế mạnh là rừng gỗ, vầu, nứa, samu, le, luồng,... Bản Bơn có rừng luồng và khai thác đá; gỗ chò chỉ ở suối Lế, pha Hen. Bản Yên có nhiều thế mạnh như: gỗ xamu, dổi, sến, táu, cọ... Bản còn có thác Cánh Khé dài gần 100m - một thắng cảnh thơ mộng và hùng vĩ của núi rừng Mường Mìn. Mường Mìn còn nổi tiếng một thời với nhiều loại động vật quý hiếm như voi, tê giác, gấu ngựa, bò tót, hươu, nai, hoẵng, hổ, báo, lợn lòi, chim công và muôn loài muông thú quý. Tạo hóa đã ban tặng cho người Mường Mìn nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú và giàu đẹp. Các loài gen quý hiếm hiện đang còn và phát triển. “Lá phổi xanh” núi rừng Mường Mìn đang được dân bản bảo tồn và gìn giữ.Vì thế, tên gọi Mường Mìn xưa là “Mường Mì” [Mường Có]. Dưới sông lắm cá, trên rừng lắm cây nhiều thú. Sau gọi chệch đi là Mường Mìn. Xã Mường Mìn hiện nay, gồm có các bản sau: bản Luốc Làu; bản Chiềng gồm 2 bản Pom Hin, Có Kè hợp lại; bản Mìn gồm các bản nhỏ là: Na Pạng - Na Keo - Na Cháo nay gọi các bản Luốc Làu [gồm Pom Dụng, Luốc Làu], bản Mìn, Chiềng trước đây gọi là bản Chiềng Mìn. Trung tâm bản là Pom Hin [bản Chiềng] ngày nay; bản Bơn; bản Yên [gồm 4 chòm: Tá Ban, Sần, Na Ón, Huối Hặc]. Xã Mường Mìn có 3 dân tộc cùng chung sống bên nhau. Người Thái chiếm 89%; người Mường chiếm 6,5%; người Kinh chiếm 3,6% dân số toàn xã. Trung tâm xã đóng ở Km 65 + 400, về phía Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo; ở khu vực bản Cò Kè thuộc bản Chiềng. Mường Mìn cũng có nhiều phong cảnh đẹp như Pha Dùa ở bản Bơn, Pù Xà Lày, Pù Xà Mứt ở bản Yên. Trước năm 1935, trên địa bàn Sơn Điện cũ [nay là Mường Mìn] có đồng bào Khơ Mú cư trú ở Pù Kì, suối Khà, suối Dồm, Piềng Luông. Sau năm 1935, đồng bào di cư trở lại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, một số về bản Lách, huyện Mường Lát cư trú. 2.3.11.2. Các bản thuộc xã Mường Mìn Bản Chiềng Bản Chiềng là trung tâm Mường Mìn. Bản nằm giữa sông Luồng và suối Yên, nơi tiếp giáp giữa suối Yên và sông Luồng thành hình chữ V, sau bản là đồi Pom Giới. Bản chiềng có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Tân Sơn, xã Sơn Điện; phía tây giáp bản Luốc Làu; phía nam giáp với đất của bản Tân Sơn, xã Sơn Điện và bản Mìn; phía bắc giáp bản Bơn. Bản Chiềng Mìn trước đây gồm có 10 bản [chòm]: Bản Pom Hin, Bản Có Kè, Na Mác Cại, Luốc Làu, Pom Dụng, Na Pạng, Na Keo, Ché Phái Lè, Luốc Cang, Na Chá, Huối Bóng. Bản Chiềng ngày nay gồm: Pom Hin, Có Kè, Huối Bóng, Mác Cạn. Người dân sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, lâm nghiệp trồng rừng và khai thác nguồn lợi từ rừng. Trải qua nhiều thế hệ, nhiều người đã có công xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước như cụ Phạm Bá Tam, Phạm Bá Tứ, Phạm Bá Lượng, từng làm Tạo Mường Mìn hay Phạm Bá Ba, Phạm Bá Lương, Phạm Bá Phúc... làm Chủ tịch xã, Phó Chủ tịch UBHC huyện Quan Hóa, Phạm Văn Thư - nguyên Chủ tịch UBND huyện Quan Sơn là người con bản Chiềng. Bản Luốc Làu Bản Luốc Làu có vị trí địa lý: phía đông giáp với sông Luồng và bản Chiềng; phía tây và phía nam giáp bản Mìn; phía bắc giáp bản Bơn. Bản Luốc Làu thuộc Chiềng Mìn trước đây, còn có tên là bản Nưa, nay lấy tên là bản Luốc Làu [bản có các chòm: Keo Cong, Luốc Làu, Che Phai Lè, Luốc Cang, Pom Dụng hợp lại]. Bản Luốc Làu dân cư chủ yếu là dân tộc Thái. Người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp. Bản Bơn Bản Bơn có vị trí địa lý: phía đông giáp với bản Sủa, xã Sơn Điện; phía tây giáp bản Chiềng; phía nam giáp bản Tây Sơn, xã Sơn Điện; phía bắc giáp bản Thủy Sơn, xã Sơn Thủy. Bản Bơn nằm cách trung tâm xã khoảng 4km về phía tây bắc, có địa hình tương đối bằng phẳng, đồng ruộng bậc thang ở phía trước bản, phía sau bản là vườn đồi trầm hương, lát, quế... Xung quanh bản là một hệ thống núi, đồi bao quanh và đặc biệt có hai ngọn núi Pha Dùa và Pha Hen là một danh lam thắng cảnh hùng vĩ. Dòng sông Luồng chảy qua bản với chiều dài 4km, suối Lế dài 7km cung cấp nước tưới tiêu cho toàn bộ đồng ruộng trong bản. Người dân bản Bơn sinh sống bằng nông, lâm nghiệp nhưng chủ yếu là lâm nghiệp. Phụ nữ bản Bơn nổi tiếng khéo tay dệt vải, ươm tơ và duyên dáng. Bản Bơn có hai dòng họ là: họ Vi, họ Phạm, đông nhất là họ Vi. Bản Mìn Bản Mìn xưa thuộc Chiềng Mìn, xã Sơn Điện, huyện Quan Hóa cũ. Đến năm 1987, thì tách làm hai bản là bản Mìn và bản Chiềng. Bản Mìn gồm có 4 bản nhỏ: Na Keo, Na Cháo, Na Pạng, Na Chá. Trong đó, Na Keo và Luốc Cháo dọc vào theo con suối Én, trục đường 217. Bản Na Pạng, Na Cha ở dọc theo con suối Yên. Trong bản có các dòng họ chính là: họ Phạm, họ Lương, họ Vi, họ Hà, họ Ngân. Bản Mìn là trung tâm của xã, là cái nôi của văn hóa xã Mường Mìn. Địa hình bản Mìn có nhiều suối, đồi, thác và núi như: núi Pom Pạng, Pù Ngóm, Pha Đen, có suối Yên, suối Én, suối Chá... có thác Cánh Ngóm và thác Cánh Én. Người dân trong bản sinh sống bằng nghề nông lâm nghiệp. Bản Yên Bản Yên trước năm 1945, lấy tên là Pọng Yên. Từ năm 1945 đến năm 1948 lấy tên là Nông Hội Yên. Bản Yên có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Xa Mang, xã Sơn Điện; phía tây giáp bản Cha Khót, xã Na Mèo; phía nam giáp huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; phía bắc giáp bản Mìn. Bản Yên là bản vùng cao biên giới Việt - Lào. Bản nằm ở thượng nguồn suối Yên, một suối lớn bắt nguồn từ phía tây nam giáp biên giới chạy ra đường 217 A gặp sông Luồng tại bản Chiềng, xã Mường Mìn. Bản Yên cách trung tâm xã Mường Mìn 6km về hướng tây - nam, bản có 11,8km đường biên giới với huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Cách trung tâm xã 6km, cách trung tâm huyện 42km. Bản Yên nằm dưới chân núi Pù Xà Lày, cao 1.416m so với mặt biển. Cánh Khóe xưa vốn là bản cư trú của người Khơ Mú, nơi đây trồng nhiều cây quế [tiếng Thái gọi là khóe hoặc khé], dãy núi này thuộc quần thể dãy Trường Sơn chảy từ Thượng Lào xuống là nơi hội tụ của các con suối lớn nhỏ bắt nguồn ở độ cao đổ dồn về thung lũng bản Yên, lưu vực suối Yên. Đến thế kỉ XVI - XVII một bộ phận khá lớn dân bản Yên [Pọng Yên] cũ đã di chuyển sang nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, đi mường Quạ, mường Mùn huyện Quỳ Châu, Con Cuông, Nghệ An nên các bản suối Hặc, suối Xứng, Na Ón có lúc không còn người ở. Đến đầu thế kỷ XX, bản có gần 60 hộ chủ yếu là họ Vi, Lương, Phạm. Họ đã lập Sần [Thần] bản tại bản Yên Nưa [Yên trên hay Yên trong]. Sần của dòng họ Vi. Vì vậy, sau này bản được gọi là bản Sần. Đến cuối năm 1964 đầu năm 1965, có các dòng họ Len, Hà, Lộc, Lữ, Lương của người Mường đến cư trú, làm ăn sinh sống. Do đường sá đi lại khó khăn, cuộc sống vất vả nên bà con đã chuyển cư vào sống ở khu vực Tây Nguyên. Một bộ phận dòng họ Phạm, họ Hà chuyển ra bản Chiềng Mìn sinh sống. Hiện nay, bản Yên, có 7 dòng họ với 3 dân tộc anh em cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. Người dân sinh sống ở 2 cụm dân cư chính là bản Piềng Sần [Yên trong], bản Ta Bán [Yên ngoài]. Từ trung tâm xã vào bản Yên có đường đi giữa bản Ta Bán lên Yên trong và Na Ón. Đồn biên phòng 499 đóng ở Na Đín Mó [ruộng đất dẻo có thể nặn làm nồi đất] thuộc Yên trong. Bản Ta Bán [Yên ngoài] có số hộ và nhân khẩu đông hơn bản Yên trong. Bản tọa lạc trên mỏm đồi tương đối bằng phẳng, rộng khoảng 6km. Trước bản là ruộng nước dọc hai bên bờ suối Yên cấy hai vụ. Từ dưới cánh đồng nhìn lên là rừng trồng, rừng tự nhiên xanh tươi ngút ngàn. Bản Piềng Sần [Yên trong] tọa lạc trên bãi đất tương đối bằng phẳng, rộng khoảng 3,1ha có độ dốc dưới 5%. Thế bản tựa vào núi nhìn ra suối theo hướng tây - bắc. Hai bên suối trước bản là ruộng nước cấy hai vụ. Nhìn chung phong cảnh 2 bản Yên [trong, ngoài] đều đẹp. Mặc dù là vùng sâu, vùng xa nhưng từ lâu đời vẫn là một bản trù phú. Người dân bản Yên cần cù, siêng năng, hiếu khách. Ruộng nước bản Yên nhiều, đất tốt, năng suất cao. Rừng bản Yên rộng, giàu tài nguyên. Nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm như gỗ pơ mu, xa mu, dổi, de, chò chỉ, thú rừng rất nhiều. Đặc biệt rừng bản Yên nhiều cây cọ mọc tự nhiên nên gấu, khỉ, đến trú ngụ, các loài chim lớn ăn quả cọ như nộc cộc, nộc ngách [phượng hoàng, chim mỏ sừng...] trước đây bay từng đàn hàng ngàn con, chim yểng cổ vàng cũng rất nhiều. Bản Yên có nhiều khe suối nên lắm cá, nhiều tôm, cua, là nguồn thủy sản phong phú từ lâu đời cho dân khai thác.. Ngày xưa, vào bản Yên đồng bào thường có câu “Kháu bán Yên phá tín xúm lướt”. Có nghĩa là vào bản Yên phải đi bộ, đường sá đi lại khó khăn, đá núi, sỏi cào trơn trượt 39 chỗ qua khe, 42 chỗ lội vụng sâu, lội suối trèo non cả buổi, vào đến bản Yên bàn chân tụ máu! Bây giờ bản Yên đã có đường cấp phối chạy qua vào đồn biên phòng Mường Mìn. Hàng ngày có xe tải vào mua lâm sản là gỗ, luồng, vầu, nứa của đồng bào khai thác. Bản Yên đã có điện lưới, có sóng điện thoại, sóng truyền hình đến với từng hộ dân. Đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân Bản Yên đã thực sự đổi thay. 2.3.12. Xã Sơn Thủy 2.3.12.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Vị trí địa lý xã Sơn Thủy: Phía đông và phía nam giáp giáp xã Mường Mìn, huyện Quan Sơn; Phía tây giáp xã Na Mèo, huyện Quan Sơn và huyện Viêng Xay, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Phía bắc tiếp giáp các xã Hiền Kiệt, xã Thiên Phú, xã Hiền Chung của huyện Quan Hóa. Tổng diện tích tự nhiên của xã Sơn Thủy theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 13.376,97ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 11.508,03ha. Đất phi nông nghiệp: 271,63ha. Đất chưa sử dụng: 1.378,13ha. Tổng dân số xã Sơn Thủy theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 3.352 người. Trong đó: nam giới 1.683 người, nữ giới 1.669 người; mật độ dân số 25 người/km2. Xã Sơn Thủy trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc Mường Xia - Mường Chu Sàn tổng Hữu Thủy. Mường Chu Sàn là một trong những mường lớn của dân tộc Thái nằm ở khu vực biên giới phía tây của tỉnh Thanh Hóa [phía nam sông Mã từ Mường Chanh, huyện Mường Lát kéo dài đến mường Chự, huyện Quan Sơn và một phần mường Ca Da, huyện Quan Hóa]. Thực hiện Quyết định số 30-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 06 tháng 3 năm 1963, chia xã Sơn Thủy thành 2 xã là xã Sơn Thủy và xã Sơn Điện. Xã Sơn Thủy gồm có các bản: bản Muống; Tân Lập, Thanh Sơn, Cha Khót, Hiềng, Thủy Thành, Bo, Thủy Chung, Thủy Sơn, HTX Trung Tiến và Xuân Tiến. Năm 1999, thực hiện Nghị định số 65/1999/NĐ-CP, ngày 25 tháng 08 năm 1999, xã Sơn Thủy lại tách thành hai xã Sơn Thủy và Na Mèo: “Xã Na Mèo thành lập trên cơ sở 12.195ha diện tích tự nhiên và 2.605 nhân khẩu của xã Sơn Thủy”. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Sơn Thủy còn 13.175ha diện tích tự nhiên và 2.981 nhân khẩu. Sơn Thủy hiện nay gồm 12 bản: Thủy Sơn, Chung Sơn, Xuân Thành, Thủy Thành, Thủy Chung, Khà, Mùa Xuân, Xia Nọi, Muống, Cóc, Hiết và bản Chanh. Bản Xia Nọi và Mùa Xuân là 2 bản của người Mông. Các bản còn lại chủ yếu là người Thái có xen kẽ một số người Kinh và người Mường Sơn Thủy là một xã vùng cao giáp biên giới nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Vùng đất Sơn Thủy là nơi giao hòa giữa dòng suối Xia bắt nguồn từ nước bạn Lào, chảy róc rách theo các chân núi đá thơ mộng, trong đó có núi Lá Hoa, hang Bo Cúng nhập vào con sông Luồng ngay tại trung tâm mường Xia tạo nên vùng ngã ba Sơn Thủy hữu tình. Nơi ngã ba sông suối này là trung tâm của đất mường Chu Sàn. Từ đây, có con đường giao thông dọc theo biên giới từ Tén Tằn [huyện Mường Lát] sang sông Lò, ngược lại từ suối Yên sang Khằng, Khiết, Thiên Phủ, Hiền Kiệt, Hiền Chung [huyện Quan Hóa]. Đây chính là tuyến đường nối các huyện phía tây của tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Do vậy, vùng đất Sơn Thủy từ xa xưa đã được chọn là thủ phủ của mường Chu Sàn. Địa hình của xã có nhiều đồi núi, khe, suối: Có dòng sông Luồng bắt nguồn từ Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo chảy theo hướng tây - đông, đoạn qua địa bàn xã Sơn Thủy cũ dài khoảng 18km. Sông Luồng có nhiều ghềnh thác hiểm trở, lưu lượng nước đoạn này ít hơn các đoạn hạ lưu. Các sông suối: sông Luồng, suối Muống, suối Xiết, suối Lác, suối Luốc Chạng thuộc địa phận bản Xuân Thành. Núi Pha Dùa, sông Luồng, suối Phay, suối Ho, suối Lý, suối Nong Vua, hang Pha Cáng, thuộc địa phận bản Chung Sơn. Núi Pha Lài, Pha Ú, Pha Día, đồi Pom Có, Pom Tá Phát, Pom Día, hang Pha Ú, Pha Lài, suối Xia, suối Día thuộc địa phận bản Thủy Chung. Pha Dùa, Pha Hen, Pha Phứng, Pha Chừn, đồi Pom Sối, sông Luồng, Huối Hen, hang Pha Hén, hang Dùa thuộc địa phận bản Thủy Sơn. Núi Pha Muống, Pha Hang Cáp, Pha Ói, Pha Xứ Phướng, Pom Lăng Hườn, huối Xia, huối Lin thuộc địa phận bản Muống. Núi Pha Xúi, Pha Lánh, pha Xa Lịch, Huối Cóc, Huối Luốc Tua, Hang Máy, thuộc địa phận bản Cóc. Núi Pha Sát, Pha Vái, Pha Lài, Pha Khí Linh, Pha Cày, đồi Pom Ối, Pom Khoài, hang Bo Cúng, Ta Mong, Co Láy, suối Xia, suối Tong, suối Vái thuộc địa phận bản Chanh. Núi Pha Đón, Pha Púng, Pha Xúi, Pha Hang Cáp, hang Pha Pung, Pha Ác, đồi Pom Mét, suối Xia thuộc địa phận bản Hiết. Núi Pha Hang Póng, Pha Khà, Pha Lúng Thúng, hang Lươm Lang, huối Xỉa, Vơ Hong, Khà, Cha Loi, Ta Cuội thuộc địa phận bản Khà. Núi Pha Khúa, Pha Lín Chí, Pha Vóc Mạy, hang Co Dùm, Huối Xia, Huối Khua, thuộc địa phận bản Xia Nọi. Núi Pha Xa Láng, Pha Héo, Pha Khéo Mú, Pha Puốc, Pha Vắn, đồi Pom Vực, hang Hin Lệch, suối Ca Lóc, suối Na, suối Choi, suối Xa Còng thuộc địa phận bản Thủy Thành. Sông Luồng, suối Xia là hai con sông, suối chính trên địa bàn Sơn Thủy. Ngoài ra còn có rất nhiều suối. Suối Xia Lấp bắt nguồn từ Cụm Nặm Ngà, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào chảy vào Việt Nam, gặp Xia Nọi tại phía trên Xia Nọi khoảng 1km hợp thành suối Xia. Suối Xia chảy qua các bản Khà, Chanh, Hiết, Muống, Thủy Chung đổ ra sông Luồng. Đoạn chảy qua bản Chanh nó đi qua động Bo Cúng huyền diệu. Nước suối Xia trong veo, lưu lượng nước khá lớn. Do vậy mà suối có cá dốc, loại cá ưa sinh sống ở nước sâu. Xã Sơn Thủy có nhiều phong cảnh đẹp như núi Pha Dùa, Pha Hen, Pha Úi, Pha Bó, Pha Bóc Ngoạng, động Bo Cúng, hang Dơi, hang Gấu, hang Càng Cói, hang Hổ... Pha Bóc Mạy; có các thác đẹp như thác 20 sải ở suối Sàng bản Na Mèo, Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo... Vùng đất Sơn Thủy là thủ phủ của mường Chu Sàn trước đây, có đền thờ tướng quân Tư Mã Hai Đào. Hằng năm cứ đến 15/3 âm lịch, đồng bào thường tổ chức thắp hương cúng ngài và 5 năm một lần, huyện Quan Sơn tổ chức Lễ hội Mường Xia, lễ hội diễn ra từ ngày 13 đến 15 tháng 3 âm lịch. Thiên nhiên ban tặng cho Sơn Thủy nhiều đồi núi hang động, sông suối với nhiều loài động vật thực vật phong phú. Các hang động ở Sơn Thủy rất đa dạng phong phú, nhiều cảnh đẹp, nếu được đầu tư đúng mức tương lai sẽ trở thành điểm du lịch sinh thái cộng đồng hấp dẫn cho du khách và tăng thêm thu nhập cho đồng bào địa phương. Dân cư xã Sơn Thủy gồm 4 dân tộc Thái, Mường, Kinh, Mông: dân tộc Thái, chiếm 79,7%; dân tộc Mông chiếm 19,8%; dân tộc Mường chiếm 0,24%; dân tộc Kinh, chiếm 0,16%. Sơn Thủy là nơi cộng cư của nhiều dòng họ. Đó là các họ: Hà, Lữ, Len, Hoàng, Lương, Cao, Ngân, Lò, Phạm, Sung, Thao, Hơ, Chá, Gia, Lê, Vi... 2.3.11.2. Các bản thuộc xã Sơn Thủy Bản Thủy Sơn [Na Tuồng] Thủy Sơn trước đây gọi là bản Na Tuồng, là bản cửa ngõ của xã Sơn Thủy. Địa thế của bản có núi đồi, sông suối bao quanh, dân cư phân bổ thành hai nhóm, ngăn cách bởi con sông Luồng, nơi chân núi Pha Dùa. Ngoài ra còn có một nhóm sống tập trung bên xóm Na Tuồng, còn phần lớn ở Piềng Dùa nơi cửa ngõ của xã Sơn Thủy. Bản Thủy Sơn có vị trí địa lý: phía đông và phía nam giáp xã Mường Mìn; phía tây giáp bản Chung Sơn và Thủy Chung; phía bắc giáp bản Cóc. Sau thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chính quyền xã đã tổ chức đầu tư thủy lợi, đắp đập làm mương lấy nước tưới tiêu cho ruộng Na Tuồng. Đầu năm 1959, chính quyền xã đã kêu gọi nhân dân trong toàn xã khai hoang mở rộng diện tích lúa nước. Vận động nhân dân đến khôi phục bản Na Tuồng. 7 hộ gia đình đã tình nguyện rời bản của mình đến Na Tuồng chung sức canh tác, cùng làm ăn sinh sống [bản Máy 3 hộ, 14 nhân khẩu, bản Muống 2 hộ, 9 nhân khẩu, bản Hiết 1 hộ, 7 nhân khẩu, bản Xuân Thành 1 hộ, 7 nhân khẩu]. Năm 1965, bản Na Tuồng sát nhập bản Hen thành HTX Thủy Sơn, có tổng cộng là 17 hộ, 99 nhân khẩu. Từ đó nhân dân HTX Thủy Sơn từng bước ổn định, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng phát triển. Năm 1969, thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về việc xây dựng HTX bậc cao, HTX Thủy Sơn được sát nhập với HTX Chung Sơn thành HTX Đội 3, bản Na Tuồng thuộc HTX nông nghiệp Chung Sơn. Năm 1990, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, HTX Chung Sơn lại chia tách thành 3 HTX: Chung Sơn, Thủy Chung và Thủy Sơn. Bản Na Tuồng nằm trong HTX Thủy Sơn. Năm 1994, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, giải thể chế độ HTX cho phù hợp với cơ chế chính sách mới. Từ đó, HTX Thủy Sơn lấy tên là bản Thủy Sơn cho đến nay. Bản Thủy Sơn trước kia chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp, nhưng từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương giao đất giao rừng cho hộ gia đình, người dân bản Thủy Sơn đã kết hợp làm nông với phát triển trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ và khai thác nứa, vầu, duy trì và phát triển các nghề truyền thống như: dệt thổ cẩm, chăn nuôi gia súc, gia cầm, những lúc nông nhàn thì chài lưới trên sông Luồng, suối Xia nên đời sống của bà con từng bước được cải thiện. Các dòng họ sinh sống lâu đời ở bản là họ Lò, Hà, Vi, Ngân, Lữ, Phạm của dân tộc Thái. Những năm gần đây bản đã có một số hộ người dân tộc Kinh, Mường đến nhập cư cùng làm ăn chung sống làm cho hoạt động giao lưu văn hóa của bản có thêm nhiều sắc thái phong phú, đời sống kinh tế cũng ngày càng được nâng cao. Bản Chung Sơn [Máy hoặc Xia Tớ] Bản Chung Sơn bao gồm Xia Tớ, Xia Cang hợp lại còn có tên là bản Máy [bản Cháy]. Bản Chung Sơn tọa lạc dựa lưng vào núi Pha Dùa, trước mặt là sông Luồng: phía đông giáp bản Thủy Sơn; phía tây giáp bản Xuân Thành; phía bắc giáp bản Thủy Chung; phía nam giáp xã Mường Mìn, theo ranh giới tự nhiên là núi Pha Dùa. Từ 1962 đến 1990 là HTX Chung Sơn. Năm 1990, HTX Chung Sơn được chia tách thành 3 bản đó là bản Chung Sơn, Thủy Sơn và Thủy Chung. Chung Sơn có 2 dân tộc Thái và Kinh cùng chung sống. Bản có các dòng họ Ngân, Vi, Hà, Lữ, Hoàng, Phạm và họ Nguyễn. Bà con sinh sống chủ yếu bằng nghề nông lâm nghiệp. Bản Thủy Chung [Na Cò] Bản Thủy Chung có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Chung Sơn; phía tây giáp bản Muống; phía nam giáp bản Thủy Sơn; phía bắc giáp bản Muống [Khu đất ranh giới]. Trước đây, vùng đất này có tên là Na Cò - Pom Cò. Đến năm 1989 được chia thành 3 bản: Thủy Sơn, Chung Sơn và Thủy Chung. Bản Thủy Chung có tên gọi từ đấy cho đến bây giờ. Địa hình bản Thủy Chung có các núi, đồi: Pha Lài, Pha Ría, Pha U; Có suối Sẻ, suối Gồm và một số mương, mó nước. Hiện nay, bản Thủy Chung có ba dân tộc cùng chung sống là Thái Mường và Kinh. Trong bản có 12 dòng họ chung sống bên nhau, một số dòng họ lớn như: họ Ngân, họ Phạm, họ Vi, họ Hà, họ Lữ. Người dân Thủy Chung sinh sống chủ yếu là trồng cây lúa nước, đồng thời trồng và khai thác lâm sản như luồng, vầu, nứa. Bản Muống Bản Muống có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Hiết; phía tây giáp bản Thủy Chung; phía nam giáp bản Cóc; phía bắc giáp Pha Ác. Bản Muống xưa kia gọi là pọng Muống thuộc xã Hữu Xuyên, tổng Hữu Thủy. Pọng gồm có 3 bản: bản Muống, bản Hiết và bản Cóc. Năm 1962, gọi là HTX bản Muống. Theo người già trong bản kể lại, xưa kia do trong làng, đầu làng, cuối làng, bờ khe, bờ suối đều có rất nhiều cây xoài, tiếng Thái gọi là Có Muống nên đặt tên bản là bản Muống. Người Thái bản Muống có các dòng họ chính: Ngân, Phạm, Lương, Lò, Lữ. Bản Muống là một bản của người Thái có truyền thống văn hóa lâu đời. Hiện nay, dân cư sinh sống chủ yếu dọc theo suối Xia. Đời sống của nhân dân chủ yếu dựa vào bằng nghề nông nghiệp lúa nước, làm nương rẫy, khai thác lâm sản. Nguồn cá, tôm, rong rêu dưới suối Xia trước đây rất dồi dào, nay đã khan hiếm đi nhiều. Hiện nay, đồng bào kết hợp sản xuất nông, lâm nghiệp với chăn nuôi gia súc gia cầm. Đời sống dân bản chưa giàu nhưng cuộc sống đã tương đối ổn định và khá hơn trước. Nhiều gia đình đã vươn lên làm giàu từ chính mảnh đất quê hương do tổ tiên gây dựng. Bản Cóc Trước năm 1945, bản Cóc thuộc mường Xia, xã Hữu Thủy, tổng Hữu Thủy. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, bản Cóc thuộc xã Sơn Thủy. Bản Cóc nằm ở phía đông xã Sơn Thủy, có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Sủa, xã Sơn Điện; phía tây giáp bản Muống, xã Sơn Thủy; phía nam giáp bản Thủy Sơn, xã Sơn Thủy; phía bắc giáp bản Chanh, xã Sơn Thủy. Thời kỳ miền Bắc đi lên xây dựng CNXH, bản Cóc gia nhập HTX và nằm trong HTX bản Muống, bao gồm 4 bản: Muống, Cóc, Hiết, Chanh. Bản Cóc là một bản đặc biệt khó khăn của xã Sơn Thủy, giao thông đi lại rất hạn chế. Bản cách trung tâm xã Sơn Thủy 4 - 5km. Hệ thống đường đất và phải đi qua suối khe hiểm trở. Địa hình đồi, núi cao và rừng sâu. Bản còn có một số hang động như: hang Lòng Dằm, hang Kia Nặm, hang Cáy Phớ. Bản Cóc có hai con suối là suối Cóc và suối Ma Nàng. Suối Cóc có chiều dài khoảng 5 - 6km và suối Ma Nàng có chiều dài khoảng 2 - 3km. Suối Cóc bắt nguồn từ đất bản Sủa xã Sơn Điện đổ về bản và chảy ra suối Xia tại bản Muống. Dòng suối Cóc là nơi cung cấp nguồn nước chủ yếu tưới tiêu ruộng lúa cho bà con dân bản. Bản Cóc đều là người dân tộc Thái. Người dân nơi đây sinh sống bằng nghề nông lâm nghiệp, trồng cây lúa nước và hoa màu như: ngô, khoai, sắn. Khai thác lâm sản: luồng, nứa, vầu và chăn nuôi nhỏ lẻ. Trong bản có một số dòng họ lớn như: Họ Vi, họ Lương, họ Lữ, họ Hà, họ Lò, họ Phạm, họ Ngân. Họ Phạm ngày trước ở trung tâm Mường Xia và một số họ di cư ở khắp nơi về sinh sống. Bản Hiết Bản Hiết có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Cóc; phía tây giáp bản Muống; phía nam giáp bản Muống và bản Cóc; phía bắc giáp bản Muống và bản Chanh. Bản Hiết cách trung tâm xã 4 km về phía đông bắc, giao thông đi lại khá thuận tiện. Trên địa bàn của bản có rất nhiều núi, đồi, sông suối, mương, mó. Theo người già trong bản kể lại: ngày trước dân bản làm ra của cải nhưng không có sự cai quản chỉ đạo của Tạo bản nên cứ mỗi lần nghe tin các quan lại về thu thuế là cả làng lại kéo nhau đi trốn vào khu Pung San và Nặm Bo vì ở đây ít người biết đến. Lánh một thời gian họ lại về bản làm ăn sinh sống. Lúc này bản đang có tên là bản Kiết. Sau này, họ quyết định sống định cư tại bản và chịu mức đóng thuế và đi phu rất cao cho quan, tạo. Ngoài ra, dân bản còn bị ép đi phu và cống nộp sản phẩm làm ra, do sự áp bức oan ức đó dân bản đã đặt lại tên thành bản Xiết [có nghĩa tủi thân], một thời gian sau đổi tên là bản Na Sài, tiếp đến là Nà Dón rồi sau cùng đổi tên bản Hiết. Hiện nay, đồng bào cư trú chủ yếu ở dọc hai bên đường cái, hình thành ba nhóm: nhóm 1 ở khu bản cũ, nhóm 2 ở khu vực Pom Mét và nhóm 3 ở khu vực Nà Dón. Bản Hiết có ba dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. Bản Hiết có nhiều dòng họ: Họ Lữ, họ Lương; họ Vi, họ Hà, họ Lò, họ Phạm, họ Lê, họ Nguyễn, họ Ngân. Nhân dân sinh sống chủ yếu là nông nghiệp và lâm nghiệp. Bản Chanh Bản Chanh có vị trí địa lý: phía đông giáp xã Thiên Phủ, xã Nam Động, Quan Hóa; phía tây giáp bản Khà; phía nam giáp bản Hiết; phía bắc giáp xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa. Trước đây bản Chanh nằm trong bản Muống. Năm 1981, bản được tách thành một bản riêng. Bản Chanh có nhiều đồi, núi, suối, khe rất phức tạp. Hệ thống núi ở bản Chanh có Phá Sát cao 2.000m; Phá Háng Cáp cao 2.220m; Phá Lá cao hơn 1.000m; Phá Lài cao 1.000m; Phá Vai cao 2.000m so với mực nước biển. Các đồi như: Pù Ôi, Pù Khằng, có thung lũng: Lọng Mu Min, Lọng Nóng Xay, hang: Bo Cúng, Có Láy, Tà Mong. Các suối như: suối Xia, suối Vai, suối Tong. Bản Chanh có hai dân tộc cùng chung sống là Thái và Mường. Người Thái bản Chanh có các dòng họ: Vi, Hà, Lữ, Ngân, Lò, Lương, Len, Lộc. Các dòng họ chủ yếu là từ Quan Hóa di cư về đây sinh sống, riêng họ Lữ di cư từ Hòa Bình đến. Người dân sinh sống chủ yếu là nghề trồng lúa nước, trồng rừng và khai thác rừng, chăn nuôi gia súc. Bản Khà Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bản Khà thuộc mường Xia, xã Hữu Thủy. Bản Khà có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Chanh; phía tây giáp bản Xia Nọi và bản Mùa Xuân; phía nam giáp bản Thủy Thành; phía bắc giáp bản Ho, xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa. Bản Khà nằm ở một thung lũng dọc theo suối Xia, xung quanh là đồi núi cao, trong đó có núi Phá Kha, Pom Cò, Pom Sà Luống, Pha Lông. Có suối Xia, suối Chá Lọi, suối Khà..., vị trí địa lý tách rời với các bản làng lân cận. Bản Khà có ba dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường và Kinh. Bản có các dòng họ chính: Họ Hà, họ Lữ, họ Lò, họ Ngân. Là một bản dân cư chủ yếu là người dân tộc Thái nên mọi nét phong tục tập quán của bản đều đậm đà bản sắc văn hóa của người Thái. Bản Xia Nọi Bản Xia Nọi có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Mùa Xuân; phía tây giáp các bản Ho, Cháo, xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa; phía nam giáp bản Khà, xã Sơn Thủy; phía bắc giáp biên giới Việt - Lào. Bản Xia Nọi chỉ có người Mông cư trú, tên Xia Nọi là do người Thái đặt tên từ xa xưa cho 2 nhánh của dòng suối Xia trong mát. Suối Xia có 2 nhánh. Nhánh lớn bắt nguồn từ Lào về Việt Nam, đồng bào Thái địa phương gọi là “Huối Xia tớp” [suối Xia lớn]; nhánh nhỏ chảy theo hướng đông bắc - tây nam đổ về suối Xia lớn, ngọn suối Xia nhỏ vẫn thuộc đất Việt Nam. Đồng bào Mông từ Pù Nhi di cư đến năm 1989 có 10 hộ ở suối Xia nhỏ lập bản, đồng bào Thái gọi bản đó là bản Xia Nọi, đồng bào Mông cũng theo đó gọi tên cho bản mình. Bản có 9,2km đường biên với cột Mốc từ 320 - 323. Địa hình của bản có rất nhiều đồi núi cao và hiểm trở bao bọc. Trong bản có suối Xia, suối Khua, hang Khua. Bản Xia Nọi phân thành hai nhóm hộ nằm dọc theo suối Khua và phía nam lối ra bản Khà. Các dòng họ trong bản là: Sung, Chá, Hà, Thao, Hơ. Bản Mùa Xuân Bản Mùa Xuân có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Thủy Thành, bản Khà; phía tây giáp bản Ché Làu, xã Na Mèo và bản Hin Đăm [nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào]; phía nam giáp bản Thủy Thành; phía bắc giáp bản Xia Nọi. Bản Mùa Xuân chủ yếu là người Mông sinh sống[ ]. Đồng bào từ Pù Nhi chuyển đến từ năm 1989 cùng với hai bản Ché Làu, Xia Nọi. Bản Mùa Xuân trước khi có người Mông đến ở, người Thái đặt tên là bản “Sa Lước”, nhưng bản hợp lại tan, chỉ từ khi đồng bào Mông đến ở thì mới ổn định đến hiện nay. Ở bản Mùa Xuân có một núi đá với nhiều loại cây nở hoa quanh năm, người Thái gọi núi đá có cây đó là “Pha Bóc Mạy” [núi lá hoa]. Khi đồng bào Mông đến ở nhìn núi hoa đẹp như mùa xuân quanh năm nên đã đặt tên bản của mình là bản Mùa Xuân. Tên Mùa Xuân tươi trẻ, có sức sống, có địa danh núi đá “cây hoa” rực rỡ quanh năm với huyền thoại giữa Công chúa Việt Nam và Hoàng tử nước Lào. Từ bản Mùa Xuân đến trung tâm xã Sơn Thủy 22km theo đường liên thôn, hoặc có thể đi ra Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo theo đường liên thôn Na Mèo - Mùa Xuân. Bản Mùa Xuân có địa hình chủ yếu là đồi, núi cao, dốc đứng: đồi Pó Chinh cao 1.000m. Bản có suối Xia, suối Sa Lước, suối Tiên Chạy, suối Xia và suối Há Đai chảy dài 4km từ vành đai biên giới, mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, nước rất trong và nhiều cá. Bản Mùa Xuân có các dòng họ cùng chung sống đoàn kết là họ: Thao, Sung và họ Hơ. Bản Xuân Thành [Xia Nưa] Bản Xuân Thành có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Chung Sơn, xã Sơn Thủy; phía tây giáp bản Bo xã Na Mèo; phía nam giáp bản Chiềng xã Mường Mìn; phía bắc giáp bản Thủy Thành. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bản Xuân Thành thuộc Mường Xia, xã Hữu Thủy, sau Cách mạng thuộc xã Sơn Thủy. Năm 1948, Pháp đem quân về đóng đồn ở bản, đến ngày 03 - 02 - 1950, bộ đội và du kích của ta tấn công giải phóng đồn. Bản Xuân Thành nằm về phía tây của xã Sơn Thủy, cách trung tâm xã 2 km. Bản có nhiều đồi, núi cao hiểm trở, vách đá dốc đứng, thung lũng nhỏ hẹp. Con sông Luồng chảy qua bản tạo nên một hệ thống suối dày đặc: suối Xiết, suối Chạng Nặm, suối Muống, suối Chu Khụ, suối Khua Lậc, suối Luốc Hay, suối Luốc Bâu, suối Ho, suối Ca Loóc. Có hai hệ thống hồ là: hồ Khua Lậc và hồ Luốc Hay. Bản Xuân Thành được phân thành 4 xóm, nằm dọc theo sông Luồng với chiều dài 2km. Có 3 dân tộc cùng chung sống là Thái Mường và Kinh Trong bản có nhiều dòng họ như họ: Phạm, Hà, Lương, Vi, Lữ, Hoàng, Cao, Ngân, Nguyễn, Mạc, Võ. Dòng họ Phạm chiếm phần lớn số hộ, số khẩu trong bản, ngoài ra các dòng họ khác là do lấy vợ, lấy chồng và một số họ di cư tụ tập về đây làm ăn sinh sống lập thành bản Xuân Thành. Bản Thủy Thành [Pom Vực + Ca Loóc] Bản Thủy Thành nằm ở phía tây xã Sơn Thủy. Có vị trí địa lý như sau: phía đông giáp bản Xuân Thành; phía tây giáp bản Sa Ná, xã Na Mèo và bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy; phía nam giáp bản Xuân Thành; phía bắc giáp bản Chung Sơn, bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy. Bản Thủy Thành ngày nay, trước kia gọi là bản Ca Loóc, vì nhân dân cư trú không ổn định, lúc đi vào, lúc đi ra, tiếng Thái gọi là Ca Loóc Kháu, Ca Loóc Óc nên được gọi là bản Ca Loóc. Vào năm 1960, có ba xóm là: Xóm Ca Loóc, xóm Pom Vực và xóm Hát Tó được lấy tên là HTX Thủy Thành. Đến năm 1963, sát nhập Xuân Tiến và Thủy Thành gọi là HTX Xuân Thành. Đến năm 1989, HTX Xuân Thành tách thành 2 HTX. Trong đó, xóm Ca Loóc và xóm Pon Vực lấy tên là HTX Thủy Thành. Từ năm 1991, giải thể HTX đến nay gọi là bản Thủy Thành. Bản Thủy Thành với hai dân tộc cùng chung sống là Thái và Mường. Người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, lâm nghiệp. Bản Thủy Thành là một bản đặc biệt khó khăn của xã Sơn Thủy. Nằm cách trung tâm xã khoảng 4 km, giao thông đi lại hạn chế, nhiều đồi núi hiểm trở. Hệ thống giao thông toàn đường đất và phải đi qua sông Luồng. Địa hình có nhiều đồi, núi cao và hang động. Bản có 5 hang động lớn nhỏ, cách bản từ 1 - 4 km đó là Thắm Sa lốc, Thắm Ka Dếnh, Thắm Nghịu, Thắm Càng Coi, Thắm Kía, Thắm Sa Láng, Thắm Lum, Thắm Hang. Hiện nay, ở bản Thủy Thành đồng bào cư trú thành hai xóm: xóm Ca Loóc và xóm Pom Vực; dân cư trong bản gồm 9 dòng họ chung sống cùng nhau, gồm các họ: họ Phạm, họ Hà, họ Vi, họ Ngân, họ Lữ, họ Lò, họ Hoàng, họ Lương, họ Mạc. 2.3.13. Xã Na Mèo 2.3.13.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Xã Na Mèo có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Sơn Thủy. Phía tây giáp huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía nam giáp xã Mường Mìn và huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía bắc giáp xã SơnThủy. Tổng diện tích tự nhiên của xã Na Mèo theo số liệu đến ngày 31/12/2015 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa là 12.744,16ha. Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 11.158,40ha. Đất phi nông nghiệp: 360,98ha. Đất chưa sử dụng: 1.224,78ha. Tổng dân số xã Na Mèo theo số liệu Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa tính đến ngày 31/12/2015 là 3.458 người, trong đó nam giới 1.797, nữ giới 1,661; mật độ dân số 27 người/km2. Dân cư bao gồm dân tộc Thái chiếm 79,38%; dân tộc Kinh chiếm 11,1%; dân tộc Mông chiếm 7,3%; dân tộc Mường chiếm 2%. Trong số các dân tộc cư trú ở Na Mèo, dân tộc Thái có lịch sử lâu đời. Người Kinh lên định cư từ năm 1979, người Mường định cư từ năm 1986, người Mông chuyển từ Mường Lát đến từ năm 1989. Các dòng họ trong xã gồm có: Họ Vi, họ Phạm, họ Ngân, họ Hà, họ Lữ, họ Lương, họ Lò, họ Hoàng, họ Thao, họ Hơ, họ Đỗ, họ Nguyễn, họ Mai, họ Lê, họ Gia. Xã Na Mèo ngày xưa là đất thuộc xã Hữu Xuyên, tổng Hữu Thủy thuộc mường Xia. Thời Pháp thuộc, Na Mèo nằm trong xã Sơn Thủy. Sau thời kỳ chống Pháp đến thời kỳ chống Mỹ, Na Mèo vẫn là một bản thuộc xã Sơn Thủy. Thực hiện Nghị định số 65/1999/NĐ - CP ngày 25 tháng 8 năm 1999 “Thành lập xã Na Mèo thuộc huyện Quan Sơn trên cơ sở 12.195ha diện tích tự nhiên và 2.605 nhân khẩu của xã Sơn Thủy”. Xã Na Mèo chính thức có từ đây. Na Mèo thuộc mường Xia. Tên xã Na Mèo lấy tên gọi từ tên của một bản lớn nhất của xã - bản Na Mèo. Xã Na Mèo hiện nay được tổ chức thành 10 bản: Bản Na Mèo; bản Km83 [bao gồm xóm 87]; bản Sộp Huối; bản Na Pọng; bản Cha Khót; bản Hiềng; bản Bo; bản Sa Ná; bản Son; bản Ché Làu. Địa hình xã Na Mèo chủ yếu là đồi núi, rừng cây, sông suối, nguồn tài nguyên rừng rất phong phú, đa dạng. Trước đây, vùng đất này là địa bàn cư trú của nhiều loài động vật quý hiếm như hổ, báo, hươu nai, hoẵng, gấu, khỉ, sơn dương, nhím, các loài bò sát và các loài chim quí như công, trĩ, vẹt, tê tê... Trên rừng có rất nhiều loài thực vật như lát, dổi, vàng tâm, chò chỉ, táu, nghiến... cùng rất nhiều loài thực vật khác. Núi, đồi, hang, sông suối trên địa bàn xã Na Mèo: núi Pha Bo kéo dài từ đầu bản Xuân Thành xã Sơn Thủy đến suối Bo ở bản Bo. Vì vậy, dân bản gọi là núi Pha Bo. Núi Pha Đanh ở bản Sộp Huối. Pha Đanh nghĩa là núi đỏ. Khi mặt trời chuẩn bị lặn, ánh nắng chỉ còn chiếu trên các đỉnh núi cao, ánh nắng mặt trời chiếu vào mặt phía tây của ngọn núi tạo thành màu đỏ rực, nên người dân gọi là Pha Đanh. Pha Hang Trùng, hang Trác ở bản Hiềng. Hang Trùng nghĩa là trong núi có hang động. Tương truyền rằng, ngày xưa, có nàng Công chúa tên Nàng Trành không may qua đời, họ tộc quá thương tiếc nên nhà vua đã ra chiếu chỉ cho người làm quan tài đặt vào hang Trùng, hang Trác mong muốn một ngày nào đó công chúa sẽ đầu thai trở lại. Hiện nay, trong hang Trùng, cỗ quan tài một bên vẫn còn nguyên vẹn. Hang Trác rất rộng, ngày xưa các hộ dân trong bản thường tản cư vào mỗi khi tránh giặc. Hang Bó ở bản Sa Ná là nơi tản cư của các bản Sa Ná, bản Son trong thời kỳ chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ. Ngoài ra, Na Mèo còn có một số hang động khác như hang Pha Kiu Cánh, Pha Lọm, Pha Máy... Các ngọn đồi: đồi Pù Cút ở bản Sộp Huối. Pù nghĩa là dốc, Cút là loài cây dương xỉ. Pù Cút là đồi có nhiều loài cây dương xỉ mọc; đồi Ca Chặp ở bản Na Mèo. Sông suối: xã Na Mèo là nơi bắt nguồn của con sông Luồng. Hai dòng suối Xôi và suối Pùn bắt nguồn từ nước bạn Lào chảy vào địa phận Na Mèo hợp lại tại đó. Tiếng Thái “Chào” là “Tuộng”, qua năm tháng nói chệch đi là “Tuồng” người Kinh gọi là “sông Luồng”. Sông Luồng chảy dọc theo địa bàn xã. Từ Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo đến hết đất bản Bo sang địa phận xã Sơn Thủy... Bên cạnh sông Luồng, Na Mèo có rất nhiều khe suối: suối Sàng, suối Tà Ngơn, suối Mèo, suối Khâm, suối Ca Men, suối Nà May [bản Na Mèo]; suối Hó, suối Pu, suối Ha, suối Cài, suối Ông [bản Km 83]; suối Cha Khót, suối Buôm, suối Pa [ở các bản Sộp Huối, Cha Khót]; suối Đen, suối Khinh [bản Hiềng]; suối Bo, suối Piêu, suối Xiết [bản Bo]; suối Son, suối Xôm [các bản Sa Ná, bản Son]. Các dãy núi tập trung nhiều loại gỗ quý, là nơi sinh sống của các loài động thực vật có tác dụng giữ gìn nguồn nước phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và tưới tiêu cho đồng ruộng trên địa bàn xã. Sông, suối, núi rừng còn là nguồn cung cấp thực phẩm, nguyên liệu phục vụ cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Na Mèo là vùng đất có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú dồi dào, có thể phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm thành các trang trại lớn. Người dân Na Mèo có nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi. Đây là thế mạnh của xã trong phát triển kinh tế, làm giàu ngay trên quê hương của mình. Na Mèo là một xã biên giới, có Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, là đường giao thương giữa Việt Nam với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, nên rất thuận lợi cho giao lưu văn hóa và phát triển kinh tế, dịch vụ thương mại. Tỉ lệ rừng của xã còn khá cao, trữ lượng rừng tự nhiên còn từ 60 đến 70%, trong rừng còn nhiều gỗ quý, nhiều loại thảo dược quý hiếm, rất thuận lợi cho xã phát triển về lâm nghiệp, chế biến lâm sản; phát triển cây dược liệu, cung cấp nguồn nguyên liệu chữa bệnh cho nhân dân. Chợ phiên Na Mèo họp vào sáng thứ 7 hàng tuần rất tấp nập đông vui. Các cơ quan như: Đồn Biên phòng, Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, Hải quan Na Mèo, trường tiểu học và trung học cơ sở được xây dựng khang trang cùng với cửa hàng thương nghiệp, bưu điện, khách sạn, nhà xưởng mọc lên làm tăng thêm cảnh sầm uất của phố núi vùng biên cương Tổ quốc. 2.3.13.2. Các bản thuộc xã Na Mèo Bản Bo Bản Bo nằm ở phía đông của xã Na Mèo. Bản có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Xuân Thành, xã Sơn Thủy; phía tây giáp bản Hiềng; phía nam giáp với Ban quản lý rừng phòng hộ Na Mèo; phía bắc giáp bản xa Ná. Sông Luồng chảy từ bản Hiềng qua bản Bo rồi dọc xuống bản Xuân Thành của xã Sơn Thủy. Bản còn có núi Pha Bo, Pha Hang Chùng, đồi Pom Khắm, Pom Suối Xiết, Pom Có vá, Pom Na Nọi, Pom Ốc, Pom Suối Khinh, Pom Na Tạo. Suối thì có suối Bó, suối Xiết, suối Piêu và suối Khinh. Người dân sinh sống chủ yếu dựa vào trồng trọt và chăn nuôi. Người dân bản Bo chủ yếu là người Thái [nguồn gốc trước kia thuộc dân mường Chu San, sau gọi là mường Xia]. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc mường Xia, xã Sơn Thủy. Sau khi tách xã, là Bản Bo thuộc xã Na Mèo. Bản Hiềng Bản Hiềng có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Bo; phía tây giáp bản Sộp Huối; phía nam giáp đội 2, Ban Quản lý rừng phòng hộ Na Mèo; phía bắc giáp bản Sa Ná. Bản Hiềng được lập vào khoảng cuối thế kỷ thứ XIX. Theo người già kể lại, có một ông Tạo từ mường Quạ, Nghệ An đến khai phá lập làng ở Piềng Nà. Sau đó ông Tạo Quạ chuyển đi đâu không ai rõ. Đến khoảng năm 1926 - 1927, có gia đình nhà ông Hương Vạ [tức họ Lò ngày nay] từ mường Chánh [huyện Lang Chánh] di cư đến. Tiếp sau đó, có thêm nhà Hiến Vún họ Vi cũng chuyển đến. Được một thời gian họ lại chuyển đi. Sau này có 5 hộ họ Lương đi từ Mường Xôi [Lào] xuống đây làm ăn sinh sống và đặt tên bản là bản Hiềng và ở trên khu ruộng của bản Hiềng ngày nay. Cho tới năm 1973, thực hiện theo kế hoạch định canh, định cư của Nhà nước, nhân dân trong bản đã chuyển xuống nơi ở hiện nay và để lại chỗ cũ làm ruộng. Ở phía bắc bản Hiềng là một dải núi gồm 7 ngọn núi lớn nhỏ từ tây sang đông. Ngoài ra còn có rất nhiều đồi núi và piềng bãi. Bản Hiềng có con sông Luồng chảy qua dài khoảng 2 km và có tới 8 khe suối lớn nhỏ như: suối Len, suối Miệng, suối Ma, suối Khinh... Nông nghiệp chiếm 65%, lâm nghiệp chiếm 35% thu nhập của nhân dân trong bản. Bản Hiềng có hai dân tộc Thái, Kinh cùng chung sống. Hiện nay, bản Hiềng có các dòng họ: Họ Lương, họ Lò, họ Hà, họ Ngân, họ Phạm, họ Vi, họ Đỗ. Bản Sa Ná Bản Sa Ná được hình thành trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và thuộc mường Xia của xã Hữu Xuyên, tổng Hữu Thủy. Bản Sa Ná có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Xuân Thành, bản Ca Loóc của xã Sơn Thủy; phía tây giáp bản Km 83, xã Na Mèo; phía nam giáp bản Hiềng, bản Bo; phía bắc giáp bản Mùa Xuân. Bản Sa Ná ở phía tây nam có hang Pha Bo, hang Thắm Tạo Sài, giữa bản có con suối Son chảy dọc theo con đường cấp phối chảy về phía nam và tiếp giáp với sông Luồng ở bản Hiềng. Bản có diện tích tự nhiên là 766,8 ha. Người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, lâm nghiệp. Hiện nay, bản có 3 dân tộc Kinh, Mường và Thái, trong đó chủ yếu là người dân tộc Thái, có các dòng họ là họ Phạm, Lò, Vi, Lương, Hà, Ngân, Nguyễn. Các dòng họ này có nguồn gốc khác nhau di cư đến, từ nước bạn Lào sang và các huyện Cẩm Thủy, Thọ Xuân lên, cùng các bản khác như bản Son, bản Hiềng trong xã chuyển đến. Bản Son Bản Son có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Sa Ná; phía tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; phía nam giáp bản Ché Làu, xã Na Mèo và bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy; phía bắc giáp bản Km 83, bản Na Mèo và bản Sộp Huối. Dân cư trong bản đều là người dân tộc Thái. Người Thái bản Son có các dòng họ: Vi, Lữ, Lương, Hà, Lò, Ngân. Người dân bản Son sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp và lâm nghiệp. Nhìn chung đời sống còn nhiều khó khăn. Bản Sộp Huối Bản Sộp Huối nằm ở trung tâm xã Na Mèo. Phía đông giáp bản Hiềng và Km 76 Ban quản lý rừng phòng hộ Na Mèo; phía tây giáp bản Km 83 và bản Na Pọng; phía nam giáp bản Mìn, xã Mường Mìn; phía bắc giáp bản Sa Ná, bản Son. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất này dân bản sinh sống không ổn định, nay đây mai đó. Sau năm 1955, người dân khắp nơi đã tụ họp lại để cùng nhau xây dựng làng, bản. Lúc mới thành lập, bản Sộp Huối mới chỉ có 10 hộ, 68 khẩu. Hiện nay, trong bản có các dòng họ: Phạm, Ngân, Lò, Vi, Lương, Bùi, Nguyễn, Lữ, Hà. Bản có con sông Luồng và có suối Cha Khót chảy qua. Dân bản canh tác trên các xứ đồng Chè Lum, Nà Sán, Suối Buôn. Dân cư trong bản chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái. Người dân bản Sộp Huối sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi và khai thác lâm nghiệp. Bản Na Pọng Bản Na Pọng có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Sộp Huối; phía tây giáp bản Cha Khót; phía nam giáp Tiểu khu 211 của Ban quản lý rừng phòng hộ Na Mèo; phía bắc giáp bản Km 83. Dân cư trong bản chủ yếu là dân tộc Thái. Bản có các dòng họ: Vi, Phạm, Hà, Lữ, Lò, Bùi, Lương. Người dân làm ăn sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp và khai thác lâm thổ sản. Bản Cha Khót Bản Cha Khót có vị trí địa lý: phía đông giáp bản Na Pọng, xã Na Mèo; phía tây giáp bản Láu Thông, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; phía nam giáp bản Yên; phía bắc giáp bản Km 83 [Sộp Cài]. Bản Cha Khót có núi Pom Bấu, Pha Móng; có các hang động như: hang Thắm, hang Dé, hang Thắm Quác và có con suối Cha Khót chảy qua bản. Cha Khót là một bản còn nhiều khó khăn, người dân sinh sống chủ yếu với nền kinh tế nông, lâm nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp rất ít chỉ có 4,3 ha. Bản hiện có 6 dòng họ cùng chung sống, làm ăn gắn bó bên nhau là các họ: Vi, Lò, Lữ, Hà, Lương. Phần lớn dân cư bản Cha Khót di cư từ xã Trung Hạ lên sinh sống. Bản Km 83 [Sộp Cài] Bản Km 83: phía đông giáp bản Sộp Huối; phía tây giáp bản Na Mèo; phía bắc giáp bản Sa Ná, bản Son; phía nam giáp bản Na Pọng và bản Cha Khót. Bản Km 83 được hình thành vào ngày 17 tháng 11 năm 1994, do Lâm trường Na Mèo [nay là Ban Quản lý rừng phòng hộ Na Mèo, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa] thành lập theo dự án 327 của Chính phủ. Bản Km 83 có con sông Luồng nằm phía trước bản chảy dọc theo ven đường Quốc lộ 217, từ phía tây chạy về phía đông tiếp giáp với bản Sộp Huối. Tại suối Cài thuộc bản 83 khoảng năm 1957 có cơ sở làm việc của Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Xu Pha Nu Vông đến ở và làm việc. Nay một số di tích như đường, hầm, hào vẫn còn. Dân cư, bản Km 83 có 3 dân tộc Mường, Kinh và Thái, trong đó chủ yếu là người Thái. Bản có các dòng họ Phạm, họ Hà, họ Ngân, họ Vi, họ Nguyễn, họ Lữ, họ Hoàng, họ Lương, họ Lò. Người dân trong bản sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và lâm nghiệp. Bản Na Mèo Na Mèo là bản vùng cao biên giới tại Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, có từ lâu đời, tên bản cũng như truyền thuyết lập bản gắn với tên xã. Na Mèo là vùng đất heo hút, hẻo lánh, giáp biên giới Việt - Lào, nhưng có nhiều bãi bằng ở ven các con suối nên bà con đã đến khai hoang thành ruộng để trồng lúa nước. Vì là vùng heo hút xa xôi, vắng vẻ, rừng núi âm u, rậm rịt nên đây cũng là nơi trú ngụ của nhiều loài thú dữ như hổ, beo, gấu, lợn lòi. Đồng bào đã ghép hai từ chỉ đặc điểm tên gọi của bản. Na là ruộng, mèo có ý gọi hổ [cọp, hùm, beo], một cách nói lái, nói tránh động vật hung dữ của Chúa sơn lâm. Đây là vùng đất nhiều ruộng rẫy nhưng cũng lắm cọp beo. Na Mèo còn được đồng bào giải thích theo một nghĩa khác: Na là ruộng, ruộng lấy nước suối Mèo về tưới nên gọi Na Mèo. Bản Na Mèo có vị trí địa lý: phía tây giáp với bản Lán, bản Lơi, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; phía bắc giáp với bản Ché Làu, bản Son; phía nam giáp với bản Cha Khót. Bản Na Mèo có diện tích tự nhiên là 174,7ha; bao gồm 5 dân tộc anh em và 26 dòng họ. Bản Ché Làu Ché Làu là một bản vùng cao biên giới, phía tây giáp với bản Hin Pén Na Mặn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía bắc giáp với bản Hin Đăm, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Phía đông giáp với bản Mùa Xuân xã Sơn Thủy. Phía nam giáp với bản Son và bản Na Mèo. Bản Ché Làu nằm trên đỉnh của dãy núi Xy Ny [núi Vượn], cao chừng 2.600m. Ché Làu cùng với Mùa Xuân và Xia Nọi xã Sơn Thủy là 3 bản người Mông của huyện Quan Sơn. Bản có đường biên giới dài 5 km kéo dài từ mốc giới G11 đến G12 tiếp giáp với 2 bản của huyện Viêng Xay, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Bản Ché Làu cách Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo [bản Na Mèo] về phía đông bắc khoảng 14km đi theo đường liên thôn Na Mèo - Mùa Xuân. Bản Ché Làu ở trong thung lũng tương đối rộng, là đầu nguồn của các khe nước dồn về suối Son, Sa Ná. Trên địa bàn của bản gồm nhiều ngọn núi thấp mấp mô tạo thành cảnh quan rất đẹp. Trước khi người Mông đến ở [năm 1989] thì chưa có người đến lập bản ở đó. Tên gọi Ché Làu theo tiếng Mông “Hàu xua dế” có nghĩa là chè uống. Theo tiếng Thái là “Che lau” [chè uống], nhưng đồng bào Mông nói chệch từ “Che lau” thành “Ché làu”. Sở dĩ nói bản “Che Lau” [chè uống] vì đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết địa hình của bản rất phù hợp với cây chè. Chè trồng ở đó có hương vị thơm ngon, uống ngọt đậm đà. Ngày xưa người Thái các bản Sa Ná, bản Son, xã Sơn Thủy [nay là Na Mèo] đã từng lên đó làm rẫy lúa, ngô và trồng chè nên đồng bào gọi vùng đó là “Che Lau”, tên “Che Lau” là do người Thái đặt cho địa danh đó từ xa xưa. Hiểu một cách khác “Che lau” tiếng Thái có nghĩa là chè trồng ở trong rừng. Từ năm 1989, đồng bào Mông đến đây tìm đất và đến năm 1990 chính thức thành lập bản và đặt tên bản là Ché Làu... 2.4. DANH MỤC TÊN BẢN, XÃ, MƯỜNG Ở HUYỆN QUAN SƠN HIỆN NAY VÀ THỜI KỲ CHÂU QUAN HÓA TT Tên bản, xã hiện nay Tên bản, xã, mường thời kỳ châu Quan Hóa Tên bản Thuộc xã Tên bản Thuộc mường Thuộc xã Thuộc tổng I Trung Xuân Trung Hạ Cổ Nam 1 Cạn Trung Xuân Cạn mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 2 La Trung Xuân La mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 3 Mòn Trung Xuân Mòn mường Chự Hồi Xuân Phú Lệ 4 Piềng Phố Trung Xuân mường Ca Da Hồi Xuân Phú Lệ 5 Muống Trung Xuân Muống mường Ca Da Hồi Xuân Phú Lệ 6 Phú Nam Trung Xuân Phụn mường Ca Da Hồi Xuân Phú Lệ 7 Phụn Trung Xuân Lum mường Ca Da Hồi Xuân Phú Lệ II Trung Hạ mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 8 Lợi Trung Hạ Lợi mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 9 Din Trung Hạ Din mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 10 Xày Trung Hạ Chiềng Xày mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 11 Chiềng Trung Hạ Chiềng Xày mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 12 Bá Trung Hạ Bá mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 13 Lang Trung Hạ Cha Lang mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 14 Xanh Trung Hạ Xanh mường Chự Trung Hạ Cổ Nam III Trung Tiến mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 15 Cum Trung Tiến Cum mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 16 Chè [Pa Chè] Trung Tiến Cum Hóc mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 17 Lầm Trung Tiến Lầm mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 18 Lốc Trung Tiến Lốc mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 19 Đe Trung Tiến Đe mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 20 Pọng Trung Tiến Pọng mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 21 Tong Trung Tiến Tong mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 22 Tiểu khu Km 22 Trung Tiến mường Chự Trung Hạ Cổ Nam IV Trung Thượng mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 23 Bàng Trung Thượng Bàng mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 24 Máy Trung Thượng Máy mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 25 Bôn Trung Thượng Bôn mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 26 Khạn Trung Thượng Pù Khạn mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 27 Ngàm Trung Thượng Ngàm mường Chự Trung Hạ Cổ Nam 28 Bách Trung Thượng Bách mường Chự Trung Hạ Cổ Nam V Thị trấn Quan Sơn mường Hạ Tam Lư Tam Lư 29 Khu 1 Thị trấn Quan Sơn Lấm mường Hạ Tam Lư Tam Lư 30 Khu 2 Thị trấn Quan Sơn Lấm mường Hạ Tam Lư Tam Lư 31 Khu 3 Thị trấn Quan Sơn Lấm mường Hạ Tam Lư Tam Lư 32 Khu 4 Thị trấn Quan Sơn Lấm mường Hạ Tam Lư Tam Lư 33 Khu 5 Thị trấn Quan Sơn Lấm mường Hạ Tam Lư Tam Lư 34 Khu 6 Thị trấn Quan Sơn Lấm mường Hạ Tam Lư Tam Lư VI Sơn Lư mường Hạ Tam Lư Tam Lư 35 Sỏi Sơn Lư Soi mường Hạ Tam Lư Tam Lư 36 Bìn Sơn Lư Bìn mường Hạ Tam Lư Tam Lư 37 Hẹ Sơn Lư Hẹ mường Hạ Tam Lư Tam Lư 38 Hao Sơn Lư Hao mường Hạ Tam Lư Tam Lư 39 Bon Sơn Lư Bon mường Hạ Tam Lư Tam Lư 40 Păng Sơn Lư Păng mường Hạ Tam Lư Tam Lư VII Sơn Hà mường Hạ Tam Lư Tam Lư 41 Xum Sơn Hà Xum mường Hạ Tam Lư Tam Lư 42 Làu Sơn Hà Làu mường Hạ Tam Lư Tam Lư 43 Nà Sắng Sơn Hà Hạ mường Hạ Tam Lư Tam Lư 44 Nà Ơi Sơn Hà Hạ mường Hạ Tam Lư Tam Lư 45 Hạ Sơn Hà Hạ mường Hạ Tam Lư Tam Lư 46 Piềng Làng Sơn Hà Piềng Làng mường Hạ Tam Lư Tam Lư VIII Tam Lư mường Sại Tam Lư Tam Lư 47 Piềng Khóe Tam Lư Sại mường Sại Tam Lư Tam Lư 48 Sại Tam Lư Sại mường Sại Tam Lư Tam Lư 49 Hậu Tam Lư Hậu mường Mò Tam Lư Tam Lư 50 Muống Tam Lư Muống mường Sại Tam Lư Tam Lư 51 Tình Tam Lư Tình mường Sại Tam Lư Tam Lư 52 Hát Tam Lư Hát mường Sại Tam Lư Tam Lư IX Tam Thanh Mường Mò Tam Lư Tam Lư 53 Pa Tam Thanh Pa mường Mò Tam Lư Tam Lư 54 Cha Lung Tam Thanh Cha Lung mường Mò Tam Lư Tam Lư 55 Phe Tam Thanh Phe mường Mò Tam Lư Tam Lư 56 Kham Tam Thanh Kham mường Mò Tam Lư Tam Lư 57 Bôn Tam Thanh Bôn mường Mò Tam Lư Tam Lư 58 Ngàm Tam Thanh Ngàm mường Mò Tam Lư Tam Lư 59 Piềng Pa Tam Thanh mường Mò Tam Lư Tam Lư 60 Nà Ấu Tam Thanh Nà Ấu mường Mò Tam Lư Tam Lư 61 Mò Tam Thanh Mò mường Mò Tam Lư Tam Lư X Sơn Điện mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 62 Tân Sơn Sơn Điện mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 63 Nhài Sơn Điện Dài Nưa mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 64 Na Nghịu Sơn Điện Dài Tớ mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 65 Na Lộc Sơn Điện Kòn Lộc mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 66 Xa Mang Sơn Điện Xa Mang mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 67 Ngàm Sơn Điện Ca Nhăng mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 68 Ban Sơn Điện Nà Hó mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 69 Bun Sơn Điện Bun mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 70 Na Hồ Sơn Điện Súa mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 71 Na Phường Sơn Điện Súa mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn 72 Sủa Sơn Điện Súa mường Mìn Trịnh Điện Hữu Sơn XI Mường Mìn mường Mìn Trịnh Sơn Hữu Sơn 73 Bơn Mường Mìn Bơn mường Mìn Trịnh Sơn Hữu Sơn 74 Luốc Làu Mường Mìn Chiềng Mìn mường Mìn Trịnh Sơn Hữu Sơn 75 Yên Mường Mìn Yên mường Mìn Trịnh Sơn Hữu Sơn 76 Mìn Mường Mìn Chiềng Mìn mường Mìn Trịnh Sơn Hữu Sơn 77 Chiềng Mường Mìn Chiềng Mìn mường Mìn Trịnh Sơn Hữu Sơn XII Sơn Thủy mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 78 Xuân Thành Sơn Thủy Xia Nứa mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 79 Thủy Thành Sơn Thủy Pom Vực [Ka Lóc] mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 80 Chung Sơn Sơn Thủy Xia Cang [Xia Tớ] mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 81 Thủy Chung Sơn Thủy Na Cò mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 82 Thủy Sơn Sơn Thủy Na Tuồng mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 83 Muống Sơn Thủy Muống mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 84 Hiết Sơn Thủy Hiết mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 85 Xia Nọi Sơn Thủy mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 86 Mùa Xuân Sơn Thủy mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 87 Khà Sơn Thủy mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 88 Cóc Sơn Thủy Cóc mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy 89 Chanh Sơn Thủy Chanh mường Xia Hữu Thủy Hữu Thủy XIII Na Mèo 90 Na Mèo Na Mèo Na Mèo mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 91 Ché Làu Na Mèo mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 92 Bản Km 83 Na Mèo mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 93 Cha Khót Na Mèo Cha Khót mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 94 Na Pọng Na Mèo Na Pọng mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 95 Sộp Huối Na Mèo Sộp Huối mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 96 Hiềng Na Mèo Hiềng mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 97 Sa Ná Na Mèo Sa Ná mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 98 Son Na Mèo Son mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 99 Bo Na Mèo Bo mường Xia Hữu Xuyên Hữu Thủy 2.5. DÂN CƯ 2.5.1. Sự hình thành cộng đồng dân cư Huyện Quan Sơn thời xa xưa là vùng rừng núi đại ngàn, dân cư thưa thớt. Đấy cũng là cảnh quan chung của vùng núi cao phía tây Thanh Hóa. Ghi chép nhận xét về cảnh quan khu vực miền núi cao phía tây Thanh Hóa như R.Rober đã viết: “... Vùng này là một khối hỗn tạp đồi và núi không sao gỡ ra được, chen lấn nhau, chồng chéo lên nhau, xô đẩy nhau. Khi người ta trèo lên một đỉnh núi ngắm nhìn toàn cảnh trước mắt, người ta ngỡ rằng mình đang đứng trước một mặt biển trong cơn giận dữ và bất thần không động đậy, có những ngọn sóng bao phủ đầy cây cỏ dồi dào của miền nhiệt đới. Ở đó, có những cây cổ thụ đâm lên trời cao, có loài vượn bạc má thường hay dậy sớm nhảy nhót, kêu thét hoặc cuồng loạn đáp lại với mọi thứ tiếng vang vọng đến, có những đám dây leo chằng chéo ở đỉnh những cây to, rũ xuống thành hình vòng tròn hoa trang trí để rồi lại leo lên nữa... Những nơi khác là rừng rậm không ai có thể lọt vào nổi, gồm có cây và cỏ gianh chằng chịt, là nơi trú ẩn của loài cọp và lợn lòi. Thỉnh thoảng ta lại thấy cái màu trắng nhạt của một vách núi thẳng đứng nhô ra khỏi biển cây cỏ xanh tươi, có rất nhiều khe chạy dọc ngang khu núi chồng chéo, chảy theo những dòng nước nhỏ, khi thì chúng bẽn lẽn thì thào dưới chòm lá, khi thì chúng róc rách như xay thóc ở nơi có đá ghềnh, khi thì chúng gầm lên ở ngọn thác xé nước trên lòng suối đầy đá tảng. Đôi khi khe núi mở rộng ra, bọc lấy đất bằng rộng khoảng chừng một vài cây số vuông, chính ở đó là đồng ruộng và bên cạnh là làng và xóm”[ ]. Qua những dấu vết cổ xưa, ta có thể thấy, con người đã có mặt ở vùng đất thuộc địa bàn huyện Quan Sơn từ rất sớm[ ]. Đặc biệt “sự có mặt trong lòng đất xã Trung Xuân, huyện Quan Sơn một chiếc trống đồng loại III, vốn xưa nay được quan niệm như một dạng trống của người Miến Điện, thì nay quan niệm đó cũng cần được xem lại. Đây là trường hợp trống loại III được tìm thấy cùng với một số đồ đồng trong lòng đất như: nồi đồng, xanh đồng, chõ đồng,.. là những đồ đồng gia dụng quen thuộc của người Mường, người Thái xứ Thanh. Qua phát hiện này đã giúp cho các nhà khoa học đưa ra giả thiết về chủ nhân của trống loại III, có cả một tộc người nào đó ở vùng Quan Sơn, căn cứ vào những đồ đồng chôn cùng, có thể định niên đại cho trống này vào khoảng vài trăm năm cách đây”[ ]. Cư dân trên địa bàn huyện Quan Sơn định cư trong những bản làng, dựng trên những sườn đồi, những gò cao ven sông suối. Quá trình định cư lập bản làng gắn liền với quá trình khai sơn phá thạch, chống lại thú dữ còn lưu lại dấu ấn trong những tên đồng, tên bãi, tên bản làng, ruộng nương. Nền kinh tế dựa vào nông nghiệp, khai thác lâm thổ sản, kết hợp các nghề thủ công, cư dân các bản làng hình thành một thiết chế bản - mường. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, thực hiện chủ trương của Chính phủ, các tỉnh đều bỏ cấp tổng, các bản làng xã nhỏ hợp nhất thành xã lớn và bỏ tên phủ, gọi chung là huyện. Tuy nhiên, trải qua những biến thiên lịch sử, đến ngày 18 tháng 11 năm 1996, huyện Quan Sơn mới chính thức được thành lập. 2.5.2. Quy mô, mật độ và cơ cấu dân số Là vùng đất được khai phá từ sớm, nhưng đến năm 1996, huyện Quan Sơn mới chính thức là một đơn vị hành chính, Quan Sơn có quá trình phát triển dân cư qua nhiều biến động. Tài liệu ghi chép về số dân của huyện Quan Sơn qua các thời kỳ lịch sử không có nhiều, tuy vậy, căn cứ vào những nghiên cứu về quá trình hình thành cộng đồng dân cư ở Thanh Hóa và khu vực miền núi Thanh Hóa nói chung, vùng đất thuộc huyện Quan Sơn nói riêng cho thấy, con người định cư ở đây từ thời kỳ tiền sử. Những thay đổi về địa giới hành chính qua các thời kỳ cùng với tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng đến tình hình dân số của huyện. Thời điểm thành lập huyện [1996], Quan Sơn có 9 xã. Từ năm 2008, số đơn vị hành chính của Quan Sơn tăng lên thành 13 xã và ổn định cho đến nay. Quan Sơn là huyện có diện tích lớn nhưng dân số có quy mô vào loại thấp ở tỉnh Thanh Hóa. Tính đến ngày 31/12/2015. Dân số của huyện là 37.139 người, trong đó phân theo giới tính là 18.884 nam và 18.255 nữ; phân theo thành thị, nông thôn là: thành thị 2.830 người, nông thôn: 34.309 người. Quy mô dân số của các xã trong huyện có tăng qua các năm, thứ bậc cũng có thay đổi. Theo kết quả của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa, dân số của huyện năm 2009 đạt 35.379 người, đến năm 2015 đạt 37.139 người, mật độ dân số năm 2015 là 40 người/km2. Hiện nay, theo kết quả của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa, xã Sơn Điện là đơn vị có quy mô dân số lớn nhất là 4.117 người, tiếp theo là các xã Sơn Thủy 3.352 người, xã Tam Thanh 3.534 người, xã Trung Hạ 3.502 người, xã Na Mèo 3.458 người, Trung Xuân là xã có quy mô dân số thấp nhất với 1.738 người. Bảng 6: Diện tích dân số, mật độ dân số năm 2015 TT Xã, thị trấn Số bản, Khu tính đến 31/12/2015 Diện tích Dân số trung bình Mật độ dân số [km2] [người] [người/ km2] Toàn huyện 99 926.625 37.139 40 1 Trung Xuân 7 49.084 1.738 35 2 Trung Hạ 7 34.730 3.502 101 3 Trung Tiến 8 40.054 2.968 74 4 Trung Thượng 6 56.179 2.267 40 5 TT Quan Sơn 6 8.443 2.830 335 6 Sơn Lư 6 45.572 2.410 53 7 Sơn Hà 6 88.964 1.831 21 8 Tam Lư 6 61.757 2.808 45 9 Tam Thanh 9 99.244 3.534 36 10 Sơn Điện 11 94.374 4.117 44 11 Mường Mìn 5 89.205 2.324 26 12 Sơn Thủy 12 131.578 3.352 25 13 Na Mèo 10 127.442 3.458 27 Bảng 7: Dân số trung bình phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Người TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Toàn huyện 35.615 35.779 36.093 36.237 36.597 37.139 1 Trung Xuân 1.677 1.685 1.691 1.694 1.707 1.738 2 Trung Hạ 3.460 3.467 3.470 3.471 3.488 3.502 3 Trung Tiến 2.945 2.945 2.956 2.951 2.954 2.968 4 Trung Thượng 2.258 2.264 2.261 2.259 2.264 2.267 5 TT Quan Sơn 2.362 2.423 2.498 2.504 2.584 2.830 6 Sơn Lư 2.340 2.352 2.374 2.383 2.398 2.410 7 Sơn Hà 1.786 1,787 1,791 1,788 1,812 1,831 8 Tam Lư 2.654 2.648 2.662 2.669 2.730 2.808 9 Tam Thanh 3.432 3.443 3.455 3.462 3.504 3.534 10 Sơn Điện 3.975 4.002 4.041 4.086 4.117 4.117 11 Mường Mìn 2.208 2.218 2.264 2.320 2.326 2.324 12 Sơn Thủy 3.169 3.190 3.251 3.285 3.318 3.352 13 Na Mèo 3.349 3.355 3.379 3.365 3.395 3.458 Bảng 8: Dân số trung bình 2009 và 2015 phân theo xã, thị trấn và giới tính Đơn vị tính: Người TT Xã, thị trấn Tổng số năm 2009 Chia ra Tổng số năm 2015 Chia ra Nam Nữ Nam Nữ Toàn huyện 35.379 17.821 17.558 37.139 18.884 18.255 1 Trung Xuân 1.657 816 841 1.738 868 870 2 Trung Hạ 3.554 1.744 1.810 3.502 1.752 1.750 3 Trung Tiến 2.934 1.458 1.476 2.968 1.494 1.474 4 Trung Thượng 2.188 1.129 1.059 2.267 1.146 1.121 5 TT Quan Sơn 2.331 1.192 1.139 2.830 1.434 1.396 6 Sơn Lư 2.341 1.199 1.142 2.410 1.268 1.142 7 Sơn Hà 1.771 896 875 1.831 916 915 8 Tam Lư 2.654 1.294 1.360 2.808 1.398 1.410 9 Tam Thanh 3.375 1.667 1.708 3.534 1.793 1.741 10 Sơn Điện 3.937 1.992 1.945 4.117 2.164 1.953 11 Mường Mìn 2.208 1.115 1.093 2.324 1.171 1.153 12 Sơn Thủy 3.143 1.583 1.560 3.352 1.683 1.669 13 Na Mèo 3.286 1.736 1.550 3.458 1.797 1.661

Bảng 9: Dân số trung bình phân theo giới tính, thành thị, nông thôn Đơn vị tính: Người 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 35.615 35.779 36.094 36.237 36.597 37.139 Phân theo giới tính Nam 17.914 17.990 18.129 18.176 18.553 18.884 Nữ 17.701 17.789 17.965 18.061 18.044 18.255 Phân theo thành thị nông thôn 35.615 35.779 36.093 36.237 36.597 37.139 Thành thị 2.362 2.423 2.498 2.504 2.584 2.830 Nông thôn 33.253 33.356 33.595 33.733 34.013 34.309

Quy mô dân số của huyện gần như rất ít biến động qua các năm, nhất là trong 5 năm gần đây, có xu hướng ổn định, tăng chậm, tỷ lệ gia tăng tự nhiên giảm mạnh, hiện nay chỉ còn 1,1%. Mặc dù tỷ lệ gia tăng tự nhiên không quá thấp nhưng quy mô dân số của huyện không tăng. Trong tổng dân số, có tới 92,6% dân số tập trung ở nông thôn với quy mô 34.309 người, dân số đô thị của huyện chỉ có 2.830 người tập trung chủ yếu ở thị trấn Quan Sơn - nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển hơn, tỷ lệ đô thị hóa của huyện vào loại thấp nhất toàn tỉnh [7,4% so với 14,7%] năm 2014. Đặc điểm này hiện tại phù hợp với cơ cấu kinh tế của huyện với ngành chủ đạo là nông - lâm nghiệp. Quan Sơn là huyện miền núi có mật độ dân số thấp nhất tỉnh Thanh Hóa với 40 người/km2 năm 2015, mật độ của huyện chỉ bằng 1/8 mật độ trung bình của tỉnh. Đây là cũng đặc thù chung của các huyện miền núi, nơi có đất rộng nhưng dân cư thưa thớt. Dân cư phân bố không đồng đều, tập trung đông ở các xã trung tâm [thị trấn Quan Sơn, xã Sơn Lư] và Đông Bắc [xã Trung Hạ, xã Trung Tiến], thưa thớt ở các xã phía tây 20 - 25 người/km2 [xã Mường Mìn, xã Na Mèo, xã Sơn Thủy]. Tuy nhiên, sự chênh lệch phân bố dân cư trên địa bàn toàn huyện không lớn. Nguyên nhân huyện có mật độ dân cư thưa thớt chủ yếu do điều kiện địa hình núi cao hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, nhiều nơi không có giao thông đi đến. Dân cư thưa thớt, thiếu lao động là một trong những trở ngại lớn trong khai thác tài nguyên của huyện, trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới. Số người lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế của huyện là 18,9 nghìn người, chiếm 81% dân số trong độ tuổi, tập trung gần như tuyệt đối trong lĩnh vực nông lâm thủy sản với 15,1 nghìn người, chiếm 80%, lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng không đáng kể với gần 700 người, chiếm 4% lực lượng lao động, lĩnh vực dịch vụ có số lượng lao động lớn hơn và có xu hướng tăng nhanh với quy mô hơn 3.000 người, chiếm 16%. Nhìn chung, cơ cấu lao động giữa các ngành kinh tế thể hiện tính chất của nền kinh tế huyện Quan Sơn vẫn thuần nông, thuần lâm. Huyện Quan Sơn có cơ cấu dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào, sức khỏe tốt, dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn 63% với quy mô 23,3 nghìn người. Đây là nguồn cung cấp nhân lực quan trọng cho các ngành kinh tế của huyện, đặc biệt đối với ngành lâm nghiệp. Người lao động của huyện Quan Sơn có truyền thống chăm chỉ, cần cù chịu khó, có kinh nghiệm trong khai thác và trồng rừng, trồng lúa nương, chế biến lâm sản, làm nghề thủ công mỹ nghệ,... Tuy nhiên, trình độ học vấn của dân cư và lao động của huyện còn thấp. Tỷ lệ người lao động nông thôn có khả năng lao động chưa qua đào tạo, không có chứng chỉ chuyên môn của huyện cao hơn mức trung bình toàn tỉnh, đến năm 2011 là 92,8% [trong khi cả tỉnh là 88,3%], tỷ lệ người lao động có trình độ đại học cao đẳng trở lên đạt 7,7%. Đây là một khó khăn lớn đối với huyện trong quá trình hội nhập, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Là huyện có nhiều thành phần dân tộc, trong đó người Thái chiếm tỷ lệ lớn nhất 81,0%, người Kinh 9,1%, người Mường 7,4%, người Mông 2,3%, dân tộc khác 0,2%; tính đa dạng về thành phần dân tộc là lợi thế cho sự phát triển văn hóa, du lịch song cũng là những khó khăn cho sự phát triển không đồng đều giữa các dân tộc về trình độ dân trí và trình độ lao động sản xuất. Các dân tộc ở Quan Sơn có truyền thống đoàn kết, yêu nước, có nhiều nét văn hóa đặc sắc và kinh nghiệm canh tác trên đất dốc. Tuy nhiên, có sự chênh lệch về trình độ khoa học kỹ thuật giữa các dân tộc trong huyện, đặc biệt là tính năng động, nhạy bén và thích nghi cao trong cơ chế thị trường, khả năng tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng như tính năng động trong hoạt động sản xuất. Từ góc nhìn dân tộc học, thông qua nghiên cứu khảo sát, còn có thể nhận thấy một số nhân tố tộc người có ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế trên địa bàn Quan Sơn. Đó là tập quán sản xuất tự cấp tự túc, tâm lý của người quen sống vào rừng núi, từng có một quá trình biến thiên trong lịch sử gắn bó với kinh tế khai thác, săn bắt, hái lượm. Người Thái, người Mường và phần lớn các dân tộc thiểu số từ bao đời đã sống dựa vào rừng. Rừng như là một sự hào phóng của thiên nhiên, cung cấp cho con người gần như đầy đủ của một cuộc sống tự cấp, tự túc. Vì vậy, Quan Sơn cần có giải pháp đột phá để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, thu hút nhân tài làm động lực cho sự chuyển biến mạnh mẽ kinh tế - xã hội của huyện.

Chương 3. LỊCH SỬ

3.1. VÙNG ĐẤT QUAN SƠN TỪ THỜI TIỀN SỬ ĐẾN THẾ KỶ X

Theo cứ liệu lịch sử cùng với việc phát hiện di chỉ núi Đọ[ ], núi Nuông, núi Quan Yên [huyện Yên Định] có niên đại cách ngày nay khoảng 30 - 40 vạn năm qua dấu vết cư trú của người tiền sử đã chứng minh Việt Nam là một trong những quê hương đầu tiên của loài người. Thời kỳ này, cũng như huyện Quan Hóa, huyện Quan Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc thù do ở vùng núi cao, mùa hè mát, mùa đông ấm áp không bị giá buốt, được phân kỳ địa chất thuộc thế Pleistocen, còn gọi là thế Canh Tân. Từ khi người tiền sử bắt đầu sinh sống ở đây thì địa hình miền Tây Thanh Hóa đã gần giống với địa hình ngày nay, chỉ có bờ biển thì có lúc vào, lúc ra tùy theo các đợt biển tiến hay biển lùi. Đến cuối thời đại đồ đá cũ, trên một địa bàn rộng lớn ở Bắc Việt Nam nhất là vùng Tây Bắc từ Lai Châu, Hòa Bình đến Thanh Hóa, các nhà khoa học đã tìm thấy dấu tích của các bộ lạc nguyên thủy cư trú trong các hang động, mái đá gần sông suối cách ngày nay chừng 30.000 đến 11.000 năm. Về mặt phân kỳ khảo cổ, đây thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, nơi tìm thấy dấu tích của các bộ lạc đầu tiên là xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Do đó giai đoạn này còn được gọi là văn hóa Sơn Vi. Trên đất Thanh Hóa, cho đến nay địa bàn phân bố của văn hóa Sơn Vi đã được tìm thấy ở nhiều di chỉ thuộc miền Tây, Tây Bắc thuộc các huyện Cẩm Thủy, Bá Thước, Thạch Thành và cả ở một số huyện đồng bằng như Yên Định, Hà Trung... Trong không gian lịch sử, văn hóa gần với Quan Sơn, dấu vết văn hóa Sơn Vi rõ nét nhất là Mái Đá Điều [xã Hạ Trung, huyện Bá Thước] và hang Con Moong [xã Thành Yên, huyện Thạch Thành] cũng đã được phát hiện và khai quật. Đặc biệt, hang Con Moong, Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 2367/QĐ - TTg ngày 31/12/2015 xếp hạng Di tích Quốc gia Đặc biệt, tiến tới xây dựng hồ sơ di sản văn hóa thế giới. Di chỉ hang Con Moong được phát hiện từ năm 1975 và đã qua 5 lần khai quật. Đáng kể nhất là đợt khai quật năm 2014 do Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp với Viện Hàm lâm Khoa học Liên bang Nga thực hiện. Trong đó lớp sâu nhất thuộc văn hóa Sơn Vi ở độ sâu từ 6,8 - 9,5m có niên đại cách ngày nay khoảng 40 đến 60 ngàn năm. Tuy nhiên, vào giai đoạn này, người tiền sử ở hang Con Moong sống phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, săn bắt và hái lượm là phương thức kiếm sống duy nhất. Căn cứ vào khối lượng các loài nhuyễn thể, cho thấy người nguyên thủy ở thời kỳ này ngoài nguồn thức ăn do săn bắt, hái lượm đưa lại, việc khai thác đánh bắt các loài thủy sản là nguồn sống quan trọng của họ. Người Con Moong khi ấy đã sử dụng khá nhiều hòn cuội bằng đá quắc zít đập thành những công cụ hình múi cam phục vụ cho đời sống thường ngày. Sau văn hóa Sơn Vi trên đất Thanh Hóa, người nguyên thủy bước vào thời kỳ đồ đá mới với các giai đoạn văn hóa Hòa Bình, Đa Bút. Từ văn hóa Sơn Vi đến văn hóa Hòa Bình[ ] diễn ra trên đất Thanh Hóa là một quá trình phát triển liên tục tại chỗ. Đến nay ở Thanh Hóa đã tìm thấy 31 di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình trong đó có 18 di chỉ do nhà khảo cổ học người Pháp M.Colani phát hiện từ những thập niên 20, 30 của thế kỷ XX và chủ yếu tập trung ở khu vực miền Tây của tỉnh, đó là các huyện Bá Thước, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc. Nếu như chủ nhân của văn hóa Sơn Vi cư trú trong các hang động, mái đá, núi đá vôi, các đồi gò hoặc ven theo các thềm sông cổ thì người thuộc văn hóa Hòa Bình cư trú trong các hang động hoặc mái đá. Theo kết quả khai quật năm 2014 tại hang Con Moong, chúng ta biết người thời kỳ này sống cách ngày nay từ 13.000 đến 17.000 năm. Qua những cứ liệu thu được từ các đợt khai quật khảo cổ của các khoa học, chúng ta biết phương thức kinh tế chủ đạo của con người thời kỳ này chủ yếu vẫn là săn bắt và hái lượm. Song, do cư trú trong hang động, mái đá gần kề sông suối, con người thời kỳ này cũng đã khai thác thủy sản như thời kỳ trước đó nhưng mở rộng hơn rất nhiều. Mặt khác, do áp lực dân số ngày càng gia tăng, người ta đã đi khá xa nơi cư trú để kiếm ăn, đồng thời làm nảy sinh nền nông nghiệp sơ khai qua dự trữ cây quả do hái lượm thu được. Đó cũng là nguyên nhân để nghề đan, nghề gốm ra đời mà các nhà khảo cổ đã thu được trong các tầng văn hóa. Từ những phát triển di chỉ cư trú của người thuộc văn hóa Hòa Bình ở các huyện liền kề với Quan Sơn cũng như miền Tây Thanh Hóa, chúng ta hoàn toàn tin rằng sẽ tìm thấy đặc trưng văn hóa này ở vùng đất Quan Sơn trong tương lai không xa. Tiếp theo thời đại đồ đá, nhân loại bước sang thời đại đồ đồng. Tuy chỉ tồn tại vài ngàn năm so với thời gian hàng triệu năm của thời đại đồ đá, nhưng con người đã đạt được những thành tựu rực rỡ trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Trên đất Thanh Hóa, khu vực cơ bản của bộ Cửu Chân trong vương quốc Văn Lang của các Vua Hùng đã tiến vào thời đại đồng thau và sơ kỳ đồ sắt cách ngày nay chừng 4.000 năm lịch sử với sắc thái văn hóa địa phương riêng biệt. Thành tựu nghiên cứu của giới khoa học hàng trăm năm qua cho thấy, diễn trình lịch sử thời kỳ này trải qua 4 giai đoạn phát triển liên tục qua các chặng đường tương ứng với các nền văn hóa: Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng. Quá trình sinh sống của con người thời đó đã để lại những di tích khảo cổ trên cả ba vùng địa lý của Thanh Hóa: vùng núi, đồng bằng và ven biển. Các nhà khảo cổ đã phân kỳ cho thời đại Hùng Vương ở Thanh Hóa theo các giai đoạn: Cồn Chân Tiên - Đông Khối - Quỳ Chử - Đông Sơn. Trong mỗi giai đoạn tuy mức độ biểu hiện đậm nhạt khác nhau nhưng miền núi Thanh Hóa luôn có mặt các nhóm cư dân với những hoạt động không kém phần sôi động. Buổi đầu thời đại đồ đồng, cùng với giai đoạn Cồn Chân Tiên ở đồng bằng, văn hóa Hoa Lộc ở ven biển, miền Tây Thanh Hóa đã là địa bàn tụ cư của người Việt cổ. Trong các hang Thẩm Hai, Thẩm Tiên [thuộc huyện Thường Xuân, Thanh Hóa] giáp với Nghệ An, các nhà khảo cổ đã tìm thấy di chỉ cư trú của con người thời kỳ này qua các di vật họ để lại. Quá trình sinh sống của họ đã để lại một tầng văn hóa dày từ 20 - 30cm chứa đựng công cụ bằng đá và những mảnh gốm vỡ. Kỹ thuật chế tác đồ đá của nhóm cư dân này đã đạt tới trình độ khá cao. Đó là những chiếc rìu, đục bằng đá được mài nhẵn, mặt cắt ngang có hình chữ nhật. Tất cả đều được chế tác từ loại đá kết cấu hạt mịn như những công cụ tìm thấy ở tầng văn hóa các di chỉ cùng thời ở đồng bằng Thanh Hóa. Trong các di vật mà người thời này để lại, các nhà khoa học đặc biệt chú ý tới đồ gốm. Đó là những đồ đựng có miệng loe dày, vai xuôi. Có loại có chân đế, có loại đáy bằng. Loại gốm đáy bằng rất ít gặp trong các di tích cùng thời ở nước ta. Người thời đó đã biết làm đẹp cho đồ đựng của mình bằng cách tạo nên những hình trang trí khắc vạch theo những đồ án không thống nhất. Đó là hoa văn các đường song song chạy thành băng hoặc hoa văn hình chữ S khá sinh động, chứng tỏ tư duy nghệ thuật của họ đã khá cao. Trong các hang động nói trên, người ta còn tìm thấy khá nhiều vỏ ốc suối, đó là dấu vết của hoạt động hái lượm. Tuy nhiên, nông nghiệp trồng lúa đã trở thành một ngành kinh tế chủ đạo. Trong các thung lũng bằng phẳng, màu mỡ quanh nơi cư trú, cư dân thời kỳ này đã sử dụng những chiếc rìu đá, những chiếc gậy nhọn phát cây và trổ lỗ tra hạt. Môi trường sống và điều kiện địa lý tương ứng khiến chúng ta nghĩ rằng, người Việt cổ thời đó rất có thể đã có mặt, tuy nhiên hãy còn thưa thớt. Đến thời kỳ văn hóa Đông Sơn cách ngày nay khoảng trên dưới 3.000 năm, một Nhà nước của người Việt cổ mới thực sự ra đời. Các Vua Hùng đã chia nước thành 15 bộ, Thanh Hóa thuộc bộ Cửu Chân, bao gồm cả Quan Sơn khi ấy. Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam là một nền văn hóa khảo cổ được phân bố trên một địa bàn rộng lớn gần khắp miền Bắc Việt Nam. Vì vậy ở nước ta, không có nền văn hóa khảo cổ thuộc thời đại đá mới và thời đại kim khí nào có thể so sánh được với tính chất quy mô độc đáo của nền văn hóa Đông Sơn. Trên khắp Thanh Hóa đã tìm thấy hàng trăm di tích, 136 trống đồng loại I thuộc văn hóa Đông Sơn và hàng trăm hiện vật phát triển lẻ tẻ trên phạm vi cả tỉnh. Văn hóa Đông Sơn được lấy tên một địa điểm lần đầu tiên phát hiện ra nó thuộc làng Đông Sơn, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa vào năm 1924 do các nhà khảo cổ người Pháp xác định. Sự phân bố đậm đặc của các di tích Đông Sơn ở vùng đồng bằng, trung du đã phần nào phản ánh tính làm chủ của người Việt cổ ở Thanh Hóa với những làng định cư lâu đời hàng ngàn năm như Đông Sơn, Quỳ Chử... Miền núi Thanh Hóa tại các huyện Ngọc Lặc, Thạch Thành, Thường Xuân, Cẩm Thủy... đã phát hiện được di chỉ cư trú, những nhóm đồ đồng và trống đồng thuộc văn hóa Đông Sơn. Chứng tỏ vào thời kỳ Hùng Vương người Việt cổ đã có mặt ở các vùng đất này và kinh tế sản xuất đã chiếm giữ vai trò chủ đạo. Một trong những hiện vật tiêu biểu đã tìm thấy trong lòng đất Quan Sơn đó là trống đồng được phát hiện ở Trung Hạ. Đây là trống đồng loại I[1], đến nay ở miền núi Thanh Hóa chỉ mới tìm thấy ở Quan Sơn, Quan Hóa, Cẩm Thủy... với số lượng không nhiều. Trống đồng được phát hiện ở Trung Hạ vào năm 1986. Đường kính mặt trống: 47,5cm, đường kính chân trống: 45cm, chiều cao 32,2cm, cân nặng 11kg, hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Thanh Hóa. Chính giữa mặt trống là ngôi sao 12 cánh mập được xen kẽ bằng hoa văn hình học. Phía ngoài các cánh sao là vòng tròn có 12 chim hạc bay theo chiều ngược kim đồng hồ. Phía ngoài cùng là 4 khối tượng cóc, bố cục cân đối cũng theo hướng ngược kim đồng hồ. Tang và thân trống là những dải hoa văn hình người hóa trang hình chim cách điệu, xen lẫn những họa tiết hình răng cưa, vạch ngắn song song, hình lông công. Trống đồng được phát hiện tại Trung Hạ được xác định niên đại thuộc giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn vào khoảng thế kỷ I - II Scn. Việc phát hiện trống đồng tại Trung Hạ đã góp phần quan trọng vào việc tìm hiểu về văn hóa Đông Sơn trên đất Thanh Hóa cũng như quá trình sinh tụ của người Việt cổ trên vùng đất này. Đó còn là bằng chứng sinh động chứng minh Quan Sơn là một huyện có lịch sử văn hóa truyền thống lâu đời, đóng góp tích cực cho lịch sử dân tộc trong các giai đoạn tiếp theo. Từ cuối thời kỳ văn hóa Đông Sơn đến thế kỷ thứ X, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Quan Sơn đã trải qua quá trình gian khổ đấu tranh chống lại âm mưu đồng hóa của phong kiến phương Bắc, bảo tồn văn hóa truyền thống dân tộc. Từ những điểm tụ cư có từ các giai đoạn trước, phạm vi cư trú được mở rộng cùng với văn hóa, có những bước phát triển mới trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Điều hết sức độc đáo trong đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của người Quan Sơn thời kỳ này là đã phát hiện được 3 chiếc trống đồng mà theo phân loại của F.Heger thuộc trống loại II. Loại trống này đã có mặt ở một số địa bàn khác nhau của tỉnh Thanh Hóa nhưng tập trung chủ yếu là ở miền núi tại các huyện Ngọc Lặc, Lang Chánh, Quan Hóa, Quan Sơn... Tại Quan Sơn đã tìm thấy trống đồng loại II ở các xã: Mường Mìn, Sơn Thủy, Tam Lư, Trung Xuân. Nhìn chung, trống loại II có mặt trong cộng đồng dân cư người Mường, đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, trống vẫn được đồng bào sử dụng như một nhạc cụ trong lễ tết, hội hè. Trống đồng còn được nhắc đến trong các sử thi, mo Mường. Một số họa tiết hoa văn trống đồng loại II còn gặp lại trong trang trí trang phục của phụ nữ Mường. Do tính phổ biến của loại hiện vật độc đáo này trong đời sống người Mường nên nhiều nhà khoa học gọi là trống Mường. Năm 1999, người ta đã phát hiện được trống đồng tại bản Bơn, xã Mường Mìn. Một chiếc trống còn tương đối nguyên vẹn. Trống có đường kính mặt 43cm. Chính giữa có hình ngôi sao không rõ tia giống như hình hoa sen nhiều cánh. Thân trống được trang trí hoa văn hình cánh sen xen lẫn hoa cúc cách điệu. Mặt trống có 3 khối tượng cóc quay cùng chiều kim đồng hồ được phân bố đều nhau. Đây là chiếc trống có trang trí độc đáo bởi các trống đồng cùng loại đã tìm thấy thường có 4 khối tượng cóc quay ngược kim đồng hồ. Có thể đây là cách quan niệm về vũ trụ của đồng bào dân tộc vùng cao Thanh Hóa. Hiện tượng độc đáo, khác biệt này đang được các nhà khoa học nghiên cứu. Trống đồng được phát hiện trong lòng đất được phát hiện vào năm 2008 tại xã Sơn Thủy. Trống có đường kính mặt 50,1cm, chiều cao 29,5cm, đã bị vỡ một mảnh phần chân do khai quật. Mặt trống hình mặt trời 8 tia mảnh. Xung quanh mặt trống là những băng hoa văn hình trám lồng, những dải mây cuộn sinh động. Mặt trống có 3 khối tượng cóc chạy ngược kim đồng hồ. Tang và lưng trống cũng được trang trí bằng những vòng hoa văn trám lồng, mây cuộn. Trống có 4 đôi quai gắn giữa phần tang và thân trống. Năm 2007 tại bản Piềng Khóe, xã Tam Lư đã phát hiện chiếc trống đồng, có đường kính mặt 40,5m, chiều cao 24,4cm. Mặt trống có hình mặt trời 8 tia mảnh và những hoa văn lá sồi kép; trám lồng, hoa đồng tiền xen lẫn cánh sen. Trống có 3 khối tượng cóc quay ngược chiều kim đồng hồ. Tang và thân trống cũng được trang trí bằng những họa tiết hoa văn trám lồng, hoa đồng tiền và cũng được gắn 4 đôi quai giữa tang và thân trống. Từ những trống đồng phát hiện ở Quan Sơn, cho thấy trống đồng loại II là kết quả phát triển tiếp nối sau trống đồng Đông Sơn mà chủ nhân của nó là những người Việt cổ sống ở miền núi trong quá trình phân hóa Việt - Mường diễn ra suốt ngàn năm Bắc thuộc của dân tộc ta. Điều đặc biệt thú vị là năm 2010, tại hang Hòm, bản Muống thuộc xã Trung Xuân, người dân đã phát hiện được một chiếc trống đồng có hình dáng lạ cùng một số dụng cụ bằng đồng như: nồi đồng, niếng đồng. Trống đồng này có đường kính mặt 47,5cm, cao 38cm, tang và thân bị thủng một phần. Trống có dáng trên to, thuôn dài và hơi loe về phía chân trống, nhìn khá thanh thoát. Chính giữa mặt trống có hình mặt trời 8 tia mảnh. Các vòng hoa văn là những dải băng hình học, hình bông lúa xen kẽ người hóa trang lông chim cách điệu, hình chim xen kẽ bông hoa 5 cánh tròn. Mặt trống có 4 khối tượng cóc chạy ngược chiều kim đồng hồ, khoảng cách đều nhau. Tang và thân trống cũng được trang trí bằng những vòng hoa văn hình học. Theo các nhà khoa học, đây là chiếc trống loại III theo phân loại của F.Héger duy nhất tìm thấy ở Thanh Hóa. Khi nghiên cứu những chiếc trống đồng cùng loại ở Việt Nam và Đông Nam Á, có người cho rằng trống có liên quan đến các tộc người thuộc ngữ hệ Môn Khơ Me là chính và một ý kiến khác cho rằng đây là loại trống liên quan đến các tộc người nói tiếng Tày Thái là chính. Trống có niên đại khoảng thế kỷ VI. Theo F.Héger trống đồng loại III là trống Shan do người Karen ở vùng Shan [Đông bắc Miến Điện] chế tác nên còn gọi là trống Shan. Theo nhà nghiên cứu Trịnh Sinh, sự có mặt trong lòng đất xã Trung Xuân, huyện Quan Sơn một chiếc trống đồng loại III, vốn xưa nay được quan niệm như một dạng trống của người Miến Điện, thì nay quan niệm đó cũng cần xem lại. Qua phát hiện này đã giúp cho các nhà khoa học đưa ra giả thiết về chủ nhân của trống đồng loại III, có cả một tộc người nào đó ở vùng Quan Sơn[1]. Như vậy, từ việc phát hiện các trống đồng cổ trên đất Quan Sơn và qua các di vật của người nguyên thủy như: rìu đá, mai đá [Sơn Điện], mũi giáo hóa thạch, xương động vật [thuộc thời kỳ đá mới] cùng với những công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt hàng ngày làm bằng đồng [thuộc thời đại đồng thau] ta có thể nhận định: cách ngày nay hàng vạn năm các cư dân Việt cổ đã sinh sống dọc triền sông Mã, sông Luồng, sông Lò. 3.2. VÙNG ĐẤT QUAN SƠN TỪ THẾ KỶ X ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX Xứ Thanh trước khi vương triều Lý được xác lập là một trong những vùng đất có vị thế địa - chính trị quan trọng trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Vùng đất đôi bờ sông Mã là nơi có lịch sử phát triển lâu đời và liên tục. Những nền văn hóa cổ hình thành, phát triển và tỏa sáng trên vùng đất này đã góp phần vào quá trình tạo dựng văn hóa, văn minh dân tộc. Thế kỷ X - XIV, lịch sử Thanh Hóa nói chung cũng như lịch sử vùng đất Quan Sơn nói riêng có những biến động quan trọng theo dòng chảy của lịch sử dân tộc. Quan Sơn được ví như là vùng đất “phên dậu” của tỉnh Thanh Hóa bởi vị trí chiến lược quy định. Vì vậy, thời kỳ lịch sử này, người Quan Sơn luôn thể hiện tinh thần đấu tranh kiên cường, dũng cảm, sát cánh cùng các triều đại phong kiến chống lại giặc ngoại xâm và các thổ ty, lang đạo tham lam, độc ác, bảo vệ vững chắc bờ cõi biên giới của quê hương. Thế kỷ X, vùng đất Cửu Chân - xứ Thanh có vai trò quan trọng trong việc hình thành lực lượng cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán và Tống, giành độc lập dân tộc, đưa đến sự ra đời các vương triều Ngô - Đinh - Tiền Lê và nhà Lý. Thời kỳ này, hào trưởng vùng Dương Xá [vùng ngã ba sông Mã - sông Chu] - Dương Đình Nghệ phát triển thế lực. Tại làng Giàng [xã Thiệu Dương, huyện Đông Sơn nay thuộc Tp. Thanh Hóa], ông đã xây dựng thành trung tâm kháng chiến của cả nước. Con gái họ Dương hai đời là Hoàng hậu triều Ngô triều Đinh và Tiền Lê, ông đã chiêu mộ được những vị tướng tài là Ngô Quyền [sau này là con rể ông] và Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Hào trưởng họ Dương đã thu nạp hào kiệt bốn phương, xây dựng lực lượng, từ Châu Ái tiến ra Giao Châu tấn công thành Đại La, đánh đuổi quân xâm lược Nam Hán. Năm 931, cuộc kháng chiến của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Dương Đình Nghệ đã thắng lợi hoàn toàn, bọn đô hộ Nam Hán bị quét sạch ra khỏi bờ cõi nước ta. Nền độc lập dân tộc từ nhà họ Khúc chuyển sang Dương Đình Nghệ. Ông tự xưng là Tiết độ sứ, cử Đinh Công Trứ làm thứ sử Hoan Châu, Ngô Quyền làm thứ sử Châu Ái. Tháng 4 năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, một viên tướng dưới quyền là hào trưởng Phong Châu hãm hại. Ngô Quyền con rể Dương Đình Nghệ đã đem quân từ Châu Ái ra Giao Châu giết chết Kiều Công Tiễn và sau đó đánh tan quân Nam Hán xâm lăng ở trận Bạch Đằng lịch sử [938]. Sau chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng [năm 938], đánh bại quân xâm lược Nam Hán, giành độc lập cho đất nước, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa. Đánh giá về chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng, nhà sử học Lê Văn Hưu viết: “Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoàng Thao, mở nước xưng Vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa, có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy”[ ]. Lịch sử Thanh Hóa cũng khẳng định: “Với chiến thắng Bạch Đằng năm 938, cuộc đấu tranh suốt 33 năm [905 - 938] với hai cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán [năm 931 và năm 938], đã hoàn thành trọn vẹn và triệt để sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong chiến công vĩ đại đó, nhân dân Châu Ái đã đóng góp một phần không nhỏ. Cùng với quân dân cả nước, quân dân Châu Ái đã tập hợp xung quanh Ngô Quyền làm nên trận thủy chiến đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta mà dư âm còn vang vọng đến ngàn thu”[ ]. Đất và người Châu Ái đã góp phần tạo ra bước ngoặt quan trọng, cắm cột mốc lớn trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử dân tộc hồi thế kỷ X: “chấm dứt hoàn toàn ách đô hộ hơn nghìn năm của triều đại phong kiến Trung Quốc, mở ra một kỷ nguyên mới, độc lập lâu dài và phát triển rực rỡ của đất nước”[ ]. Cuối thế kỷ X, sau khi vương triều Ngô sụp đổ, xứ Thanh là địa bàn của sứ quân Ngô Xương Xí - một trong 12 sứ quân lúc bấy giờ. Ngô Xương Xí đã lui về vùng đồi núi Bình Kiều [thuộc huyện Triệu Sơn ngày nay] xây dựng lực lượng với hy vọng lập lại cơ đồ mà người cha [Ngô Quyền] đã tạo dựng. Ông đã chọn vùng đất Bình Kiều để xây dựng căn cứ[ ]. Thành Bình Kiều được đắp bằng đất, hình vuông, mỗi chiều 180m, quanh thành có hào sâu bao bọc. Mặt thành rộng 2m, cao 2m, chân rộng từ 3 đến 4m. Thành có 4 cửa và 4 góc thành đều có cồn đất cao, giữa thành có một ụ đất làm cột cờ, diện tích khoảng 2m2. Tại Bình Kiều, Ngô Xương Xí được các hào trưởng và nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ trong việc xây dựng thành lũy[ ]. Đây là thời kỳ đất nước rơi vào tình trạng loạn “thập nhị sứ quân” của các thế lực cát cứ với các toan tính riêng. Trong thời kì loạn 12 sứ quân, Châu Ái có 3 dòng họ có thế lực mạnh về kinh tế, chính trị, chiếm giữ 3 vùng đất chiến lược là: Họ Dương [Dương Đình Nghệ]: phát triển thế lực, chiếm giữ vùng đất phía nam Ngã Ba Bông [nơi sông Chu gặp sông Mã] mà trung tâm là vùng Dương Xá [xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, ngày nay thuộc Tp. Thanh Hóa]. Họ Lê [Lê Lương]: vùng giáp Bối Lý, hữu ngạn sông Chu [vùng đất phía tây huyện Thiệu Hóa]. Họ Ngô [Ngô Xương Xí]: như đã trình bày lực lượng của Ngô Xương Xí là một trong những sứ quân có thế lực mạnh, địa bàn hoạt động rộng và được sự ủng hộ của nhiều hào trưởng trong vùng. Cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XI cũng là thời kỳ sứ quân “vùng đất cờ lau” Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, thiết lập triều Đinh, lập nên nước Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư [nay thuộc tỉnh Ninh Bình]. Xứ Thanh là nơi cận kề với kinh đô Hoa Lư. Nguồn nhân tài, vật lực từ châu thổ sông Mã đã tác động, ảnh hưởng mạnh đến nhà Đinh, điển hình là một số nhân vật như Lê Hoàn [Thập đạo tướng quân], Ngô Chân Lưu [Khuông Việt đại sư], Lê Lương [hào trưởng xứ Thanh] và đặc biệt là Thái hậu Dương Vân Nga. Nhận thức đúng vị thế của Châu Ái, Đinh Bộ Lĩnh đã chủ động vào xứ Thanh, tìm gặp các thủ lĩnh quân sự và chấp nhận làm con rể họ Dương[ ]. Sự ủng hộ từ các thế lực ở Châu Ái đã tạo điều kiện cho họ Đinh thiết lập vương triều trên đất Hoa Lư. Vương triều Đinh sụp đổ, năm 980 Lê Hoàn vốn là Thập đạo tướng quân dưới triều Đinh đã thiết lập vương triều Tiền Lê. Lê Đại Hành là vị vua tài giỏi nhưng những người kế vị không đủ tài đức nên không giữ nổi vương triều. Sự sụp đổ của nhà Tiền Lê có nhiều nguyên nhân nhưng “loạn cung đình” được xem là điều kiện cốt tử dẫn đến sự ra đời vương triều Lý. Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp - Bắc Ninh, là vị hoàng đế khai sáng vương triều Lý và quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư ra Đại La để “mưu việc lớn”. Thanh Hóa tuy xa kinh đô nhưng triều Lý rất quan tâm đến vùng đất Châu Ái. Từ sau chiến thắng Bạch Đằng [năm 938] đến những thập niên đầu của “kỷ nhà Lý”, tình hình kinh tế - xã hội vùng đất huyện Quan Sơn nói riêng, Châu Ái nói chung là thời kỳ có nhiều biến động. Từ thời Đinh, “man” Cử Long nổi loạn, mặc dù Lê Hoàn đã thân chinh đem quân đánh dẹp. Sử cũ cho biết: năm Tân Sửu [1001], Lê Hoàn đích thân đi dẹp giặc Cử Long. Tướng giặc trông thấy Lê Hoàn giương cung bắn, lần thứ nhất thì tên rơi, lần thứ hai thì cung gãy nên giặc sợ mà rút. Lê Hoàn đưa thuyền đuổi theo, giặc mai phục hai bên sông bắn tên, con Đinh Tiên Hoàng tử trận. Lê Hoàn kêu trời, thúc quân đột chiến, giặc thua. Tài liệu để lại cho biết: thời Lý, nơi này có một số vụ bạo loạn với những mức độ khác nhau. Không ít lần hoàng tử, thậm chí là vua phải thân chinh đánh dẹp mới yên ổn. Các địa phương xảy ra bạo loạn như: Cử Long, giáp Đản Nãi, Ngũ Huyện Giang... đã được tác giả Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại: Cử Long[ ] thuộc tổng Cự Lữ. Sông Mã chảy từ huyện Bá Thước xuống Cẩm Thủy; đoạn chảy qua Cửa Hà, qua tổng Cự Lữ rất hiểm trở: một bên vách núi dựng đứng, một bên là bờ sông cao được gọi là “ngách cùng”. Đây là địa bàn của đồng bào dân tộc thiểu số [ít hiểu biết, dễ bị kích động...]. Một số thủ lĩnh người địa phương ỷ vào địa thế hiểm trở, lợi dụng thổ dân, đã nổi dậy chống lại các vương triều. Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì dân Cử Long chắc là dân Mường thuộc các huyện miền Bắc và Tây Bắc Thanh Hóa. Thời Lý, “man” Cử Long nhiều lần nổi loạn chống lại triều đình khiến vua hoặc hoàng tử nhà Lý phải thân chinh đến nơi rừng thiêng nước độc. Sự kiện này được sử cũ chép như sau: năm Tân Hợi, Thuận Thiên năm thứ 2 [năm 1011], tháng 2, vua thấy giặc Cử Long ở Ái Châu hung hăng dữ tợn, trải hai triều Đinh, Lê [Tiền Lê] không thắng nổi, đến nay càng dữ mới đem quân đi đánh, đốt bộ lạc, bắt kẻ đầu sỏ đem về, giặc ấy bèn tan[ ]. Năm Kỷ Tỵ [năm 1029], dân giáp Đản Nãi[ ] nổi loạn. Tháng tư, vua thân chinh dẹp yên. Năm Ất Hợi [năm 1035], Ái Châu có loạn, tháng 10 Thái Tông thân chinh xử tội mục trưởng Ái Châu... Năm 1043, tháng Giêng, châu Ái có loạn, vua sai Thái tử Khai Hoàng Vương làm Đô thống Đại nguyên soái đi đánh châu Ái[ ]. Năm Canh Dần [năm 1050], dân giáp Long Trì thuộc Giang Ngũ Huyện [vùng đất hợp lưu sông Mã, sông Chu và sông Cầu Chày] làm loạn[ ]. Chính sử không cho biết nhiều về cơ cấu hệ thống quản lý ở trấn Thanh Hóa thời Lý, nhưng qua các nguồn sử liệu có thể nhận thấy: ở châu Ái, hào trưởng, châu mục có vai trò rất quan trọng. Đứng đầu châu Ái là châu mục; trong các vùng, các làng xã, hào trưởng vẫn có vai trò nhất định[ ]. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước từ thế kỷ X - XV, nhân dân Thanh Hóa nói chung trong đó có nhân dân vùng đất Quan Sơn nói riêng đã có những đóng góp đáng kể về nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên và đánh giặc Cử Long ở miền núi xứ Thanh. Đến đầu thế kỷ XV, sự kiện lịch sử tác động lớn tới lịch sử nước nhà nói chung, lịch sử Thanh Hóa và khu vực miền Tây tỉnh Thanh Hóa nói riêng giai đoạn này chính là khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh. Lam Sơn - nơi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa có tên nôm là làng Cham, nằm bên tả ngạn sông Chu [hiện nay thuộc Thọ Xuân, Thanh Hóa]. Về địa thế, đó là nơi giao tiếp giữa đồng bằng và miền núi, thuận lợi khi lực lượng còn non yếu, có thể thủ hiểm chống vây quét. Nhưng một khi lực lượng đã lớn mạnh, có thể từ đó tiến xuống làm chủ những vùng đất rộng, người đông. Về cư dân, ở đây đã tập hợp và đoàn kết nhiều tộc người. Nhiều tướng lĩnh Lam Sơn có nguồn gốc từ những tộc người thiểu số khác nhau như Mường, Thái hoặc Tày. Linh hồn của cuộc khởi nghĩa là Lê Lợi. Năm 1416, Lê Lợi và 18 người bạn thân thiết đã tổ chức Hội thề Lũng Nhai, nêu cao quyết tâm đoàn kết diệt giặc, đặt cơ sở cho sự hình thành lực lượng nòng cốt lãnh đạo khởi nghĩa. Đầu năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, tự xưng là Bình Định Vương, truyền hịch kêu gọi nhân dân đứng lên cứu nước. Tham gia đánh giặc Minh với Lê Lợi, ở vùng mường Mìn, Quan Hóa có ông Lò Khằm Yên [Tạo Lá Dốn] dẫn quân từ Lào sang. Trận đầu tiên ông giải phóng đồn Pom Giới, một đồn lớn của quân Minh ở bản Luốc Làu, bản Chiềng, mường Mìn. Sau mười năm “nếm mật nằm gai”, khởi nghĩa Lam Sơn đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đặt Quốc hiệu là Đại Việt. Trong 6 năm đầu hoạt động ở miền Tây Thanh Hóa, cũng như các huyện Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, vai trò của Quan Sơn trong khởi nghĩa Lam Sơn là không thể phủ nhận. Tác giả Hà Văn Thương sau nhiều năm điền dã, khảo cứu thực địa và sử liệu đã cung cấp những tư liệu vô cùng quý báu về đất và người Quan Sơn trong cuộc khởi nghĩa của Bình Định Vương Lê Lợi: Đối với khu vực miền núi Thanh Hóa, nghĩa quân Lam Sơn không chỉ hoạt động ở khu vực Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh mà cả huyện Quan Hóa [cũ], nhất là khi nghĩa quân gặp nhiều khó khăn. Trước sự bao vây tấn công của quân Minh và sự hy sinh cao cả vì nghĩa lớn của Lê Lai để cứu chủ, Lê Lợi lui quân dọc theo sông Luồng về vùng Sơn Điện, Sơn Thủy [Quan Sơn ngày nay]. Để cho Lê Lợi rút về nơi an toàn, các tướng quân Lê Sát, Lê Hào và Chu Kha Lài[ ] đã tổ chức mai phục quân Minh ở nhiều nơi, trận đánh tiêu biểu là tại hang Đi [tức hang Phi ngày nay]. Trận đánh diễn ra ác liệt, lúc đầu nghĩa quân Lam Sơn thắng, đánh lui quân Minh. Nhưng sau khi nghĩa quân rút về vùng Sơn Thủy để bảo vệ chủ tướng thì quân Minh kéo đến tàn sát nhân dân trong vùng. Sau khi đến Sơn Thủy, Lê Lợi đã cho quân xây dựng khu vực này thành khu vực phòng thủ vững chắc. Lấy núi Pha Hén và núi Pha Dùa làm cổng chính: Phá Hén cặp Phá Dùa cái cầu khúa lạn, Tàng páy kháu xặp lọng lái linh lái tàng, Tàng khoáng kháu xám ba luông quáng [Nghĩa là: Núi Hén và núi Dùa bắc cầu qua lại, lối đi vào lắm ngả, nhiều khe, đường vào bên trong rộng hơn ba sải]. Hay “Lái sợ mộc dứn óm banh hụa, sợ múa dứn óm banh đáo, cắm táo pưới óm liêng quạng quạng” [Nghĩa là: Nhiều thợ mộc [lính cầm gậy] canh gác vòng ngoài, thợ múa [lính giỏi võ] đứng gác vòng trong, cầm gươm giáo đi vòng quanh vung múa]. [“Mộc” trong trường hợp này là người canh gác mà tay cầm gậy, nỏ; Múa là người canh gác tay cầm gươm, giáo].”Mốt mự khá xịp chạng ệt ngai, khá sao khoai ệt pứa, cân páy ma dong lan bí bứa...” [nghĩa là: Một ngày thịt mười voi làm bữa sáng, hai mươi trâu làm bữa trưa, người đi lại như đàn bươm bướm trắng... tức là quân rất đông]. Cũng có khi ở khu vực Pha Dùa diễn ra cảnh thanh bình: ”Phú án sứ liếp le đống quáng, phú tán chụ nơ thắm he phá; Chu Kha Lài ngắm đú viếc ngan chớ quáng” [Người đọc truyện dưới tán cây rừng, trai gái tỏ tình nơi chân núi, Chu Kha Lài suy ngẫm biết bao chuyện lớn, lòng bao dung xem dân chúng diễn ra đời thường][ ]. Trong gia phả họ Hà có ghi: Hà Thị Cai liều mình cứu chủ. Khi quân Minh rượt đuổi, Lê Lợi có nguy cơ bị bắt, Hà Thị Cai đã bày mưu cho Lê Lợi lên sàn nhà nằm giả vờ bị sốt rét, quân lính thì chạy qua suối đi vào phía trong, một số mai phục quanh nhà, còn bản thân Hà Thị Cai thì giả vờ đang giặt váy áo. Khi quân Minh đến hỏi: Có thấy ai chạy qua đây không? Bà Cai thản nhiên trả lời: Có, chúng chạy qua suối kia. Vừa nói, bà vừa chỉ vào suối trước nhà. “Trong nhà có ai không?”. Bà Cai trả lời ngay: “Có thằng con tôi đang bị sốt rét nặng”. Quân Minh kiểm tra thấy người nằm trong chăn run bần bật, nên chúng bỏ đi. Trên cơ sở liên kết các phần trong một số bài mo, bài khặp, Hà Văn Thương đưa ra ý kiến: suối kia có thể là suối Xia. Tại bản Chanh, xã Sơn Thủy, có một hang động tên là Thắm Bo Cúng [hang Mỏ Tôm] có chiều rộng tại cửa hang hơn một mét, càng vào sâu càng rộng, có nơi đến 40m, còn chiều sâu gần 1.000m. Trong dân gian có câu: “Chu Kha Lài [Lò Khằm Ban] phấu púa tý nơ đống quáng, tang páy khấu sặp lạn háng thắm láng lúng” [nghĩa là: Tướng chân lông canh gác bảo vệ vua ở nơi rừng già, đường đi vào hang động đôi khi lạc lối], [Chu Kha Lài là một trong những vị tướng cùng Lê Lợi chống quân Minh]. Tại bản Muống, xã Sơn Thủy, nhân dân còn đào được cả trống đồng, xanh bốn quai mà trong truyền thuyết nói rằng nghĩa quân dùng xanh để nấu nước, luộc thịt, nấu cơm cho quân ăn. Sau khi nghiên cứu kỹ khu vực xã Sơn Thủy, Lê Lợi đã cho một bộ phận xuống canh gác nhất cử nhất động của quân giặc tại khu vực Pha Lò [Sơn Lư] dọc theo sông Lò còn bộ phận chỉ huy thì trú tại hang Su Lú - động Nang Non. “Háng Su Lú tón tang sợc Hán, Háng dú pháng phái nặm Mo án táng páy, khứn háng đáy cái đáy muối chưa ệt me... [Động Su Lú đón đường giặc Hán [giặc nhà Minh]; hang lớn ở bên kia sông Lò, lên hang phải bắc thang lấy dây rừng làm cái]. Trong bài ca Mừng Xuân của dân tộc Thái mường Ca Da khi nói về Lam Kinh có đoạn: Nung hót Sân Lam Kinh tăng hánh Bái Thượng/ Mớ cón nặn cặp mớ dam hứng/ Mé mương nị tướng nhớ hôm quấn/ Miếng đín nị tướng Lê hôm cú/ Tánh sợc Minh xịp pí chắng lá/ Khá sợc Hán xịp mua chắng xá/ Quấn bính púa Lê lái pí, lái bướn dác cha lứa khó/ Cân hán chánh chớ hụ báu lái/ Khấu min hớ quấn kín lái chơ báu khắn/ Sợc tón óm banh hụa, tón túa lái phướng/ Phương khấu lái tón tang lái chặn/ Khúng ná háng ấu bạy tón khá quấn hâu tán ơi!/ Nhơ ớn phạ bán hớ long sướng/ Quấn bính hâu hặc sướng cắn chú mương chớ pọm./ Pí cặp nọng long huốm chớ điếu/ Nọng chai yếu Lê Lai tháy cháu/ Ệt dá bá cháu bá tạo tướng nhớ hôm bính/ Tánh sợc Minh lái văn Lê Lai thức ná/ Chạng cặp mạ lái mú liên tái/ Sợc Minh ngắm Lê Lai mén cân pha nha cháu/ Khấu nắm bá Lê Lợi thức ná lê tái/ Kháu chắng ma bái quấn, bái bính hố hiu túa túng...”[ ]. Nghĩa là: Nơi đây, tướng lớn gọi bạn/ Tướng tài dựng binh/ Đánh giặc Minh mười năm mới thắng/ Đánh giặc Hán mười mùa mới xong/ Nhiều năm đánh giặc long đong/ Gom người, gom giáo không hoài lòng dân/ Giặc bao vây nhiều tầng, nhiều lớp/ Chúng đón đường nhiều hướng, nhiều phương/ Ơn Trời ban giúp lòng thương/ Trên dưới một lòng chung đường đấu tranh/ Em trai yêu Lê Lai ra sức tung hoành/ Phá vây giặc Hán tan tành nhiều phương/ Lê Lai trúng mũi tên thường/ Giặc Minh tưởng đó Lê Lợi chính thân/ Chúng reo hò vang động trời đất/ Tưởng Lam Sơn sập đất từ đây/ Vua Lê chết yểu nơi này/ Quân Nam tan tác từ rày khó thu [thu quân]...[ ] Sự hy sinh của Lê Lai đã tạo ra sự chủ quan, thỏa mãn trong quân Minh, bởi chúng đã nghĩ là Lê Lợi không còn sống. Chính yếu tố này làm cho Lê Lợi có thời gian để lui quân lên vùng núi non, hiểm trở ở vùng mường Mìn, mường Xia và có kế hoạch chiêu mộ quân. Một trong những tướng lĩnh thông thạo địa hình, phong tục tập quán, có ảnh hưởng lớn trong vùng là các tướng: Lê Sát, Lê Hào và nhất là Chu Kha Lài. Họ ra sức tuyển binh, luyện tập và khi nghĩa quân đủ lớn thì cuộc hành quân vào Nghệ An mới bắt đầu. Nghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân che chở. Rồi nghĩa quân lớn dần, đủ sức phản công. Khi đó quân Minh mới biết là mình bị lừa, nhưng đã muộn[ ]. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn phát triển thành cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại, giành lại độc lập dân tộc, thu phục được nhân tâm, được đông đảo quần chúng nhân dân trong và ngoài tỉnh ủng hộ. Ẩn sau lớp huyền thoại xung quanh vùng đất Quan Sơn và khởi nghĩa Lam Sơn, có thể nhận thấy những dấu ấn lịch sử phản ánh về vùng đất này đã có những đóng góp không nhỏ đối với cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của Anh hùng dân tộc Lê Lợi và Quan Sơn là một trong những địa bàn hoạt động quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn. Về tướng quân Khằm Ban, [Chu Kha Lài] ông là nhân vật lịch sử. Dù chưa tìm thêm được những nguồn tư liệu mới về ông nhưng có thể khẳng định: Khằm Ban là một vị tướng giỏi của mường Ca Da [vùng đất thuộc huyện Quan Hóa cũ], giữ vai trò quan trọng và có đóng góp đáng kể trong khởi nghĩa Lam Sơn[ ]. Hiện nay, tại vùng đất mường Ca Da vẫn còn đền thờ tướng quân Khằm Ban. Lễ hội tại đền thờ vị tướng của khởi nghĩa Lam Sơn là một trong những lễ hội lớn của huyện Quan Hóa và các khu vực lân cận. Đến thế kỷ XVI [những năm 1570 - 1575] trong cuộc chiến giữa hai thế lực Trịnh - Mạc, ven đôi bờ sông Mã vùng tả ngạn sông Mã từ châu Quan Da và châu Tàm [nay là các huyện Quan Hóa, Quan Sơn, Bá Thước, Cẩm Thủy] và vùng hữu ngạn sông Mã từ đầu nguồn các huyện Lôi Dương, Nông Cống [nay là các huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn, Nông Cống] đều trở thành chiến trường ác liệt và mất gần hết về tay quân Bắc triều [quân Mạc lúc bấy giờ]. Nhân dân Thanh Hóa nói chung, nhân dân vùng đất Quan Hóa [Quan Sơn hiện nay] sống trong tình cảnh khó khăn phải xiêu tán, chạy loạn, ruộng đất bỏ hoang, nhiều người chết đói.[ ] Vào thế kỷ XVIII, bọn Phỉ từ nước Lào tràn sang miền Tây Thanh Hóa cướp phá, xâm lấn châu Quan Da và châu Tàm. Trước hành động dã man tàn bạo của quân thù, người ở Bàn Đào mường Khô Hai Đào đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân đánh đuổi thổ phỉ giành lại đất đai. Sau đó ông và các con trai cùng nghĩa quân tổ chức phòng thủ vùng biên giới. Ông đã được chúa Trịnh ban tước Hoa Quận công và phong chức Tư Mã trấn ải biên cương[ ]. Ông đóng đại bản doanh ở mường Xia [xã Sơn Thủy] và mất tại đó. Hiện nay ở bản Chung Sơn, xã Sơn Thủy có đền thờ Tư Mã Hai Đào. Trong những năm 30, 40 của thế kỷ XVIII, khi chế độ phong kiến nhà Hậu Lê mục ruỗng và sự phân chia quyền lực cát cứ sâu sắc trong nội bộ triều đình giữa Vua Lê - chúa Trịnh; đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, các cuộc khởi nghĩa nông dân đồng loạt nổi lên. Trong bối cảnh lịch sử rối ren ấy, Lê Duy Mật, Lê Duy Quy con vua Dụ Tông Duy Đường [1706 - 1729] và Lê Duy Chúc con vua Hy Tông Duy Hợp [1676 - 1705] cùng một số triều thần Phạm Công Thế, Vũ Thược, Lại Thế Tế mưu đồ khởi binh cướp kinh thành, lật đổ họ Trịnh khôi phục triều Lê nhưng kế hoạch bị bại lộ, phái Duy Mật và đồng bọn tìm cách trốn thoát và tìm lên miền thượng du và vùng Tây Nam ẩn náu. Tại đây dựa vào lòng oán hận của nhân dân, đặc biệt là những người nông dân nghèo khổ là người Kinh, người Mường, người Thái, Lê Duy Mật đã đưa cuộc chính biến thành một cuộc khởi nghĩa nông dân thực sự. Sau nhiều lần tấn công quân triều đình, từ địa bàn miền núi phía tây, Duy Mật đã mở rộng địa bàn hoạt động ra Hưng Hóa, Sơn Tây nhưng cuối cùng nghĩa quân của Duy Mật bị quân triều đình truy đuổi phải rút quân về động Cổ Nam.[ ] Căn cứ vào các nguồn sử liệu cho biết vùng đất Quan Hóa [cũ], Quan Sơn hiện nay có vị trí chiến lược quan trọng, được thủ lĩnh của các cuộc khởi nghĩa chọn làm nơi ẩn náu, tập hợp nghĩa quân. 3.3. QUAN SƠN TỪ ĐẦU THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1930 Năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, thiết lập nên vương triều Nguyễn - triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, tồn tại trong 143 năm và sụp đổ hoàn toàn với sự kiện vua Bảo Đại thoái vị [năm 1945]. Thời kì nhà Nguyễn trị vì có nhiều biến động. Căn cứ vào diễn trình lịch sử, các nhà sử học đã chia thời kì này thành hai giai đoạn với cột mốc là năm 1858. Từ năm 1858 trở về trước là giai đoạn các vua nhà Nguyễn [Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức] toàn quyền điều hành và xây dựng quốc gia theo kiểu Nho giáo. Từ năm 1858 trở về sau [1945], nhà Nguyễn từng bước rơi vào khủng khoảng, mặt khác, phải đối phó với cuộc xâm lăng của thực dân Pháp. Sự kiện đáng lưu ý trong giai đoạn này là người đứng đầu triều đình Huế đã lần lượt kí với thực dân phương Tây các bản Hiệp ước Hác-măng [1883], Pa-tơ-nốt [1884], chính thức biến Việt Nam thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Tương ứng với mỗi giai đoạn, tỉnh Thanh Hóa nói chung, huyện Quan Sơn nói riêng đều có sự biến động sâu sắc, toàn diện về chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa... Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã có một số điều chỉnh về mặt hành chính. Qua đó, Phú Xuân [Huế] được chọn là kinh đô, vùng đất tương đương với Bắc Bộ ngày nay được gọi là Tổng trấn Bắc Thành. Bộ máy quan lại triều đình được cơ cấu thành 6 bộ: Lại - Hộ - Lễ - Binh - Hình - Công với chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Năm 1804, vua Gia Long ra chỉ dụ dời trấn thành Thanh Hóa từ làng Dương Xá [xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa nay là thành phố Thanh Hóa] về làng Thọ Hạc [huyện Đông Sơn nay thuộc thành phố Thanh Hóa], gọi là Hạc Thành. Thời kỳ này Thanh Hóa gồm có 4 phủ: Hà Trung, Thanh Đô, Tĩnh Gia và Thiệu Thiên, 16 huyện: Tống Sơn, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Nga Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn, Quảng Xương, Thọ Xuân, Đông Sơn, Yên Định, Quảng Bình, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc, Lôi Dương và Thụy Nguyên và 3 châu: Quan Da, Lang Chánh và Tàm. Đứng đầu các phủ, huyện lần lượt là tri phủ và đồng tri phủ, tri huyện và huyện thừa. Vùng đất Quan Sơn lúc này thuộc châu Quan Da, phủ Thanh Đô và châu Lang Chánh, phủ Thọ Xuân. Việc châu Quan Da được đổi thành Quan Hóa gắn liền với cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng. Theo đó, người đứng đầu nhà Nguyễn bỏ đơn vị tổng trấn, đồng thời thành lập đơn vị tỉnh thay cho dinh, trấn cũ. Theo Trương Hữu Quýnh, tác giả Đại cương Lịch sử Việt Nam thì: nhà Nguyễn đã chia đất nước thành 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên [trực thuộc Trung ương]. Đứng đầu tỉnh là tổng đốc [mỗi người phụ trách từ 2 đến 3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh] và Tuần phủ [cấp dưới tổng đốc, phụ trách 1 tỉnh]. Giúp việc có bố chánh sứ ty lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; án sát sứ ty lo về an ninh, luật pháp. Phụ trách về quân sự có chức lãnh binh. Các quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm và thường là võ quan cao cấp, về sau mới bổ dụng thêm các quan văn... Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do người dân tự lựa chọn cử ra quản trị. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng[ ]. Đối với khu vực miền núi, vua Minh Mạng: “thực hiện nhất thể hóa về mặt hành chính cùng với các vùng miền xuôi. Năm 1829, ông bãi bỏ chế độ thế tập của các thổ ty [các tù trưởng của dân tộc thiểu số] mà cho quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa phương làm Thổ tri các châu, huyện. Sau đó [năm 1835], Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ để khống chế các vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế như ở miền xuôi. Tuy nhiên, do phản ứng của người dân địa phương, vua Tự Đức sau đó đã bãi bỏ chế độ lưu quan”[2]. Đối với Quan Sơn, trong cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng, năm 1829, nhà vua đã hợp nhất châu Quan Da với châu Tàm thành châu Quan Hóa. Người đứng đầu bộ máy hành chính cấp “châu” được gọi là tri châu. Lúc này, Quan Sơn thuộc châu Quan Hóa với những đặc trưng về bộ máy cai trị của các châu huyện miền núi cả nước. Năm 1835 [Minh Mệnh thứ 6], triều đình Huế bỏ chế độ thổ quan, thay bằng chế độ lưu quan. Các châu: Quan Hóa, Lang Chánh đặt chế độ châu lưu quan. Các huyện: Thạch Thành, Cẩm Thủy, Quảng An đặt chế độ lưu quan. Đơn vị hành chính dưới cấp “châu” là các bản [đối với người Thái], mường [đối với người Mường]. Đứng đầu các bản, mường lần lượt là Phìa, Tạo. Theo Địa chí Thanh Hóa, “trước năm 1945 ở miền núi Thanh Hóa có khoảng 37 bản, mường của người Thái, người Mường có khoảng 38 mường lớn[3] và nhiều chòm bản các tộc người thiểu số khác như: Khơ mú, Dao, Mông. Nhìn chung, nhà Nguyễn với những sách lược trị quốc an dân lạc hậu, lỗi thời đã khiến tiềm lực đất nước suy yếu rất nhiều. Tổng trấn Lê Văn Duyệt đã cay đắng thốt lên: “Lệ thuế hơi nặng, dân lấy làm khổ”. Thuế khóa, lao dịch nặng nề khiến nửa cuối thế kỷ XIX, khởi nghĩa nông dân nổ ra ở nhiều nơi. Tại miền núi phía tây Thanh Hóa, một số thổ ty, lang đạo ở Quan Hóa [bao gồm cả vùng đất thuộc huyện Quan Sơn hiện nay], Lang Chánh, Cẩm Thủy đã nổi dậy, lãnh đạo nhân dân chống bọn tham quan. Trong đó, đáng chú ý là cuộc nổi dậy của nhân dân lao động châu Quan Hóa. “Quân khởi nghĩa đã giết chết tri châu Quan Hóa, mở rộng cuộc khởi nghĩa ra khắp miền Tây Thanh Hóa”[ ]. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa sớm bị triều đình Huế đàn áp. Nhìn chung, những thập niên đầu của “kỷ nhà Nguyễn”, vùng đất châu Quan Hóa chứng kiến khá nhiều biến động: Năm Minh Mạng thứ 17, tức năm 1836, Quách Tất Công, Quách Tất Đạt nổi lên liên kết với thủ lĩnh người Mường là Phạm Thúc Liêm ở Cẩm Thủy, Lang Chánh tôn Lê Duy Hiển làm minh chủ. Cuối năm này, nghĩa quân đã đánh Hồ Quân [châu lỵ Quan Hóa] giết tri châu Hồ Tố Thiện. Cũng tại châu Quan Hóa, một nhóm khác là Quách Phúc Thanh, Đinh Kim Bảng, Phạm Công Nho, Hồ Công Kim, Phạm Bá Nho đã khởi nghĩa vây Hồi Xuân, bắt giết tri châu Tô Danh Cẩn. Cuộc khởi nghĩa lan rộng đến các vùng Lôi Dương, Thụy Nguyên, Nông Cống. Để đối phó, triều đình đã cử Trương Đăng Quý phối hợp với tổng đốc Thanh Hóa, Sơn Tây đem quân đi đánh dẹp rất vất vả. Phải hai năm sau [năm 1838], khi Lê Duy Hiển bị bắt về kinh, cuộc “nổi loạn” tạm lắng[ ]. Trong khi kinh tế - xã hội Việt Nam đang ngày một khủng hoảng và suy vi trầm trọng, nền “văn hóa bút nghiên phương Đông” lại phải đối mặt với “văn hóa đại bác phương Tây” và “trong cuộc đụng độ lịch sử này... dân tộc Việt Nam phải sống trong cảnh nô lệ đầy tủi nhục đến gần một thế kỷ”[ ]. Cuộc khủng hoảng sâu, rộng về nhiều mặt của nhà Nguyễn đã đưa đất nước đến bên bờ vực thẳm. Trong bối cảnh rối ren đó, xã hội Việt Nam đã xuất hiện hai “dòng cứu nước”: dòng kháng chiến và dòng canh tân. Người đứng đầu chủ trương kháng chiến là Tôn Thất Thuyết. Mặc dù sự chuẩn bị chưa thật sự đầy đủ nhưng ông quyết định chủ động tấn công thực dân Pháp để giành thế chủ động. Tuy nhiên, trước sự phản công mạnh mẽ của đối phương, Tôn Thất Thuyết buộc phải đưa vua Hàm Nghi rời cung điện. Trên đường xuất bôn, Tôn Thất Thuyết đã lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, hai lần hạ chiếu Cần vương vào ngày 13/7/1885, tại Tân Sở - Quảng Trị và ngày 20 tháng 9 cùng năm [tại sơn phòng Ấu Sơn - Hương Khê - Hà Tĩnh. Chiếu Cần vương tập trung vào hai nội dung: tố cáo dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và kêu gọi văn thân, sỹ phu cả nước nổi dậy đánh đuổi thực dân, bảo vệ quê hương, đất nước. Hưởng ứng chiếu Cần vương, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp đã bùng lên mạnh mẽ ở nhiều địa phương. Thanh Hóa là một trong những địa phương có phong trào phát triển mạnh mẽ nhất, đã hình thành các đội nghĩa quân của Tống Duy Tân và Cao Điển, Đinh Công Tráng và Phạm Bành. Trong phong trào Cần Vương chống Pháp, Thanh Hóa trở thành một trong những trung tâm của phong trào với cuộc khởi nghĩa Ba Đình. Cuộc khởi nghĩa với căn cứ Ba Đình đã trở thành mẫu mực trong việc xây dựng chiến tuyến phòng ngự khiến người Pháp hết sức e ngại: “Trong chiến dịch 1886 - 1887, cuộc công hãm Ba Đình là quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân lực nhất và làm cho các cấp chỉ huy lo ngại nhất”[ ]. Nhân vật lịch sử được xem là người đặt nền móng cho phong trào Cần vương ở Thanh Hóa là Trần Xuân Soạn. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa còn không ít các nghĩa sỹ yêu nước hoạt động tại các khu vực khác như: Nguyễn Phương [Nông Cống], Tống Duy Tân [Vĩnh Lộc], Nguyễn Đôn Tiết [Hoằng Hóa], Hoàng Bật Đạt [Hậu Lộc]. Phong trào còn có sự tham gia của các thủ lĩnh người dân tộc thiểu số như Cầm Bá Thước [người Thái], Hà Văn Mao [người Mường], hoạt động tại khu vực miền núi Thanh Hóa. Trong phong trào Cần vương ở Thanh Hóa, không thể không ghi nhận sự đóng góp của đồng bào các dân tộc khu vực miền núi phía tây tỉnh Thanh Hóa [bao gồm cả vùng đất Quan Sơn nói riêng và châu Quan Hóa nói chung]. Đóng góp của người dân nơi đây thể hiện trên nhiều phương diện mà cụ thể là trong cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh. Căn cứ Hùng Lĩnh được xây dựng năm 1886 - khá muộn so với các cuộc khởi nghĩa khác[ ] - trên vùng đất thuộc huyện Vĩnh Lộc, sau khi hai căn cứ: Ba Đình và Mã Cao thất thủ. Thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa là Tống Duy Tân cùng Cao Điển và Cầm Bá Thước. Năm 1886, Đinh Công Tráng giao cho Tống Duy Tân và Cao Điển tìm cứ điểm xây dựng căn cứ nhằm hỗ trợ cho căn cứ Ba Đình. Tống Duy Tân đã lựa chọn cứ điểm Phi Lai[ ] ở huyện Hà Trung, ngoài ra, ông còn lập một cứ điểm khác tại quê nhà là Hùng Lĩnh[ ] - vùng đất thuộc huyện Vĩnh Lộc, nơi thượng nguồn sông Mã. Năm 1887, phong trào Cần vương ở Thanh Hóa bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội, chiến khu Ba Đình, Mã Cao nối tiếp nhau thất thủ, các thủ lĩnh của phong trào hoặc anh dũng hy sinh [các trường hợp Hoàng Bật Đạt, Đinh Công Tráng], hoặc tự sát để bảo toàn khí tiết [Hà Văn Mao, Phạm Bành...]. Riêng Trần Xuân Soạn tìm đường sang Long Châu [Quảng Tây - Trung Quốc][ ]. Tình thế hiểm nghèo lúc bấy giờ đã khiến Tống Duy Tân đi một nước cờ táo bạo: dựa vào địa bàn miền núi tỉnh Thanh Hóa và các nghĩa sĩ yêu nước người dân tộc thiểu số để tiếp tục duy trì cuộc khởi nghĩa. Tống Duy Tân đã đem quân ngược dòng Mã Giang, xây dựng một trung tâm kháng chiến mới: căn cứ Hùng Lĩnh [Vĩnh Lộc - Thanh Hóa]. Dưới sự chỉ huy của Tống Duy Tân cùng hai cộng sự Cầm Bá Thước và Cao Điển, từ căn cứ Hùng Lĩnh, nghĩa quân đã phát triển lực lượng và tạo ảnh hưởng lớn lao đến các địa phương lân cận. Tại châu Quan Hóa [cũ] - bao gồm cả vùng đất Quan Sơn ngày nay, một thủ lĩnh người Mường là Hà Văn Nho cũng đã nổi dậy chống Pháp. Thủ lĩnh Hà Văn Nho đã có sự liên hệ với những thủ lĩnh của khởi nghĩa Hùng Lĩnh. Giữa hai bên đã có sự hợp đồng tác chiến nhất định. Được sự ủng hộ và có sự liên kết với các cuộc khởi nghĩa trong tỉnh [Tôn Thất Hàn - Nông Cống, Hà Văn Nho - châu Quan Hóa] và ngoài tỉnh [Đốc Ngữ - vùng hạ lưu sông Đà, Phan Đình Phùng - vùng Nghệ An, Hà Tĩnh], khởi nghĩa Hùng Lĩnh đã gây cho Pháp những thiệt hại đáng kể về quân sự mà điển hình nghĩa quân đã đập tan âm mưu thăm dò của trưởng đồn ở Nông Cống là Thiếu úy Morfond cùng 4 lính Pháp và 20 lính khố xanh, ngày mùng 8 tháng 10 năm 1889, Morfond và 4 lính Pháp, 4 lính khố xanh tử trận. Sau thắng lợi này, nghĩa quân Hùng Lĩnh còn nhiều lần đụng độ với quân Pháp. Trận đánh nào nghĩa quân Hùng Lĩnh cũng anh dũng kiên cường chiến đấu nhưng do lực lượng quá chênh lệch [thủ lĩnh Tống Duy Tân phải nhiều lần rút lui để bảo toàn lực lượng], khởi nghĩa Hùng Lĩnh suy yếu dần. Tống Duy Tân bị địch bắt ngày 4 tháng 10 năm 1892, khởi nghĩa Hùng Lĩnh xem như chính thức chấm dứt[ ]. Sử sách không chép nhiều về Hà Văn Nho, chỉ biết rằng ông còn được gọi là Cai Nho người tổng Thiết Ống, là người trực tiếp xây dựng cơ sở kháng chiến tại mường Kỷ. Tuy nhiên, từ căn cứ Mường Kỷ, Hà Văn Nho đã phát triển cơ sở ra các địa phương lân cận trong đó vùng đất Quan Hóa [cũ] được Hà Văn Nho lựa chọn làm địa bàn chiến lược. Hoạt động yêu nước của Hà Văn Nho trên vùng đất châu Quan Hóa [gồm ba huyện: Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát hiện tại] không được đề cập nhiều trong chính sử song căn cứ vào diễn biến khởi nghĩa Hùng Lĩnh, có thể khẳng định: Hà Văn Nho đã tập hợp được một lực lượng đáng kể, chủ yếu là quần chúng và nhân dân lao động Quan Hóa đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp, góp một phần không nhỏ vào phong trào Cần vương ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX. Sau khi khởi nghĩa Hùng Lĩnh bị dập tắt, phong trào Cần vương ở Việt Nam tiếp tục được duy trì đến năm 1896 và chấm dứt bằng thất bại của khởi nghĩa Hương Khê. Mặc dù không đi đến thắng lợi cuối cùng nhưng phong trào Cần vương vẫn là một điểm sáng đáng được ca ngợi trong lịch sử chiến đấu vì độc lập dân tộc và bảo vệ tổ quốc của sĩ phu và nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào ghi nhận những tấm gương quả cảm, chiến đấu quên mình, bất chấp những cuộc đàn áp tàn khốc, đẫm máu của kẻ thù. Trong đó, không thể không ghi nhận và đánh giá cao sự phát triển của phong trào ở Thanh Hóa. Phong trào Cần vương ở Thanh Hóa phát triển trên cả diện rộng lẫn chiều sâu với quy mô ngày càng toàn diện, lớn mạnh. Phong trào thu hút đông đảo nhân dân lao động và sĩ phu yêu nước trong tỉnh, cả ở đồng bằng, miền biển cũng như miền núi. Nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn tự hào vì cha anh đã tích cực hưởng ứng phong trào Cần vương, tự nguyện tham gia kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Hà Văn Nho, Hà Văn Mao - những người con ưu tú của vùng rừng núi Thanh Hóa. Nối tiếp truyền thống yêu nước của các thế hệ đi trước những người con ưu tú của vùng đất Quan Sơn lại tiếp tục rèn trí, luyện tài, tập hợp lực lượng quần chúng để chuẩn bị bước vào thời kỳ mới đấu tranh chống lại bọn thực dân phong kiến. Những năm đầu thế kỷ XX, sau khi phong trào Cần vương bị thất bại ở Thanh Hóa, đã xuất hiện những cuộc vận động yêu nước theo xu hướng dân chủ tư sản. Những nhà thơ yêu nước tiến bộ trong tỉnh như: Nguyễn Xứng, Nguyễn Soạn, Nguyễn Lợi Thiệp... đã vận động nhân dân ủng hộ các phong trào yêu nước như: phong trào chống thuế Trung kỳ [1908]; phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục... Tuy nhiên, chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn các phong trào cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đều lần lượt thất bại do chưa có đường lối cách mạng đúng đắn. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, mở ra bước ngoặt quyết định đối với quá trình phát triển của cách mạng dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước ở nước ta đầu thế kỷ XX. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn, là “một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử nước ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và có đủ sức lãnh đạo cách mạng”[ ]. Với đồng bào các dân tộc Quan Sơn nói chung, dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hóa và cả nước nói chung, Đảng khẳng định: lực lượng đấu tranh của các dân tộc thiểu số là một lực lượng rất lớn... Phải nỗ lực tổ chức quần chúng lao động các dân tộc ấy vào Đảng, Công hội, Nông hội, Phản đế liên minh... Cần tổ chức và chỉ đạo công nông và các tầng lớp lao động khác trong các dân tộc thiểu số bênh vực quyền lợi hàng ngày của họ. Kịch liệt chống các sách lược áp bức và bóc lột của đế quốc, vua quan, các bọn lãnh tụ và tù trưởng, các quan lang, lý hào trong các dân tộc thiểu số, liên lạc vận động giải phóng trong các dân tộc thiểu số với những nhiệm vụ cách mạng phản đế và điền địa Đông Dương”[ ]. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã tác động mạnh mẽ tới phong trào yêu nước ở các địa phương trong cả nước, trong đó có Thanh Hóa. Dưới lý tưởng của Đảng, ngày 25 tháng 6 năm 1930, tại làng Hàm Hạ [xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn], chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh Thanh Hóa được thành lập. Tiếp đến là Chi bộ Thiệu Hóa [ngày 10 tháng 7 năm 1930], chi bộ Thọ Xuân [ngày 22 tháng 7 năm 1930][ ]... Ngày 29 tháng 7 năm 1930, tại xã Yên Trường [huyện Thọ Xuân] diễn ra Hội nghị thành lập tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa. Tại Hội nghị, các đại biểu đã thống nhất được nhiều chủ trương quan trọng như: xây dựng các tổ chức Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên cộng sản đoàn, Phụ nữ giải phóng xuất bản báo “Tiến lên” làm cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập có ý nghĩa rất lớn trong diễn trình lịch sử tỉnh Thanh Hóa, từ đây, nhân dân Thanh Hóa đã có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng mà trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa để giành chính quyền về tay nhân dân. Sau khi hoàn thành công cuộc bình định trên đất Thanh Hóa và dập tắt phong trào Cần vương, thực dân Pháp chính thức đặt chân lên đất Quan Hóa [trong đó có cả vùng đất Quan Sơn hiện nay]. Kẻ thù thực dân đã thông qua chính quyền phong kiến phản động, bù nhìn của Việt Nam để điều hành và kiểm soát mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội nhằm thực hiện âm mưu bóc lột, vơ vét tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của nhân dân nơi đây. Để chống lại bọn thực dân và thổ ty, lang đạo độc ác, tham lam, một số cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ đã lẻ tẻ nổ ra. Người dân Quan Sơn đã yêu cầu tầng lớp thống trị bãi bỏ các hình thức đi phiên hầu, phục dịch, đấu tranh đòi tư liệu sản xuất... Tuy các cuộc đấu tranh này chưa trở thành phong trào nhưng những chuyển động này đã khẳng định “bước chuyển” mạnh mẽ trong tư tưởng của đồng bào các dân tộc Quan Sơn. 3.4. QUAN SƠN TỪ NĂM 1930 ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Giai đoạn này, huyện Quan Sơn chưa tách thành đơn vị hành chính [cấp huyện] độc lập, do vậy lịch sử huyện Quan Sơn gắn liền với những chuyển biến kinh tế, chính trị, văn hóa huyện Quan Hóa[ ]. Tổ chức xã hội ở Quan Hóa lúc này lần lượt là mường, pọng, bản [mường Mò, mường Sại, mường Ca Da, mường Lát]. Đứng đầu mường, pọng, bản là quan lang [còn gọi là Tạo mường, Tạo pọng, Tạo bản], rồi đến Tạo cai, sau đó đến Mụ mường, Mụ cai, Hó Luống, Hó Cáng, Chá Hươn, Chá Ngan[ ]... Tạo mường là người chủ độc nhất và tuyệt đối trong mường. Những chức vụ quan trọng nhất đều trong tay họ lang nắm giữ. Trước kia các thổ ty phần lớn đều thuộc một số dòng họ cai quản. Về đơn vị hành chính, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Quan Hóa có 8 tổng, 21 mường, gồm: mường Ca Da, mường Ánh, mường Le, mường Páng [tổng Phú Lệ]; mường Lát, mường Lý, mường Ái, mường Chiềng Công [tổng Lực Canh]; mường Tuồng, mường Chự [tổng Cổ Nam]; mường Pùng, mường Xim, mường Chanh [tổng Quang Chiểu]; mường Sại, mường Mò, mường Hạ [tổng Tam Lư]; mường Xia, mường Cha [tổng Hữu Thủy]; mường Mìn [tổng Hữu Sơn]; mường Khằng, mường Khiết [tổng Đặc Kiệt][ ]. Như vậy, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đơn vị hành chính huyện Quan Sơn hiện nay có 4 tổng, 7 mường gồm: Tổng Cổ Nam [mường Chự] nay gồm các xã Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Thượng, Trung Tiến[ ]; tổng Nam Lư [gồm mường Hạ, mường Sại, mường Mò] nay gồm các xã: Sơn Lư; thị trấn Quan Sơn, Sơn Hà, Tam Lư, Tam Thanh; tổng Hữu Sơn [có Mường Mìn] nay là các xã: Mường Mìn; Sơn Điện; tổng Hữu Thủy [gồm Mường Xia, mường Cha] nay là các xã Sơn Thủy, Na Mèo[ ]. Bộ máy phong kiến độc quyền ở Quan Hóa lúc này gồm: tri châu, chánh tổng, lý trưởng, hương hạ, hương kiểm, hương dịch, tạo pọng, quan bản, xã góp. Năm Minh Mạng thứ 15 [1834], vua xuống dụ, đặt các thổ ty dưới quyền kiểm soát của các chánh tổng, thực chất là sự hợp pháp hóa vai trò của thổ ty tập trung quyền lực vào chính trung ương. Trong khi đó, từ tổng đến các làng, bản, chúng còn thiết lập một hệ thống kiểm soát nghiệt ngã. Đứng đầu hệ thống này là viên đại lý người Pháp thường gọi là Quan Đại dưới đó là các đội lính và đội ngũ cha cố trong nhà thờ. Tòa Đại lý Quan Hóa đóng tại Hồi Xuân trực tiếp cai quản bộ máy phong kiến quan lang và thông qua bọn này để thực hiện các chính sách bóc lột, đàn áp dân lành. Được thực dân Pháp dung túng chính quyền phong kiến và bọn thổ ty lang đạo mặc sức lộng quyền, Chúng tự mệnh danh là “Con trời” thuộc “lớp thượng đẳng” có quyền cai trị “lớp hạ đẳng”[ ]. Thực dân Pháp còn tích cực truyền giáo. Thiên chúa giáo đã xuất hiện trên vùng đất này, nhiều nhà thờ được mọc lên. Cùng với đội ngũ thầy mo, thầy cúng, phù thủy đông đảo, đời sống tinh thần của nhân dân Quan Sơn nói riêng, Quan Hóa nói chung luôn bị che phủ bởi những thế lực siêu nhiên. Từ năm 1876, sau cuộc tấn công Bắc Kỳ lần thứ nhất, thực dân Pháp đã dựng một số nhà thờ tại Quan Hóa như: nhà thờ Chiềng Din [thuộc xã Trung Hạ, huyện Quan Sơn hiện nay]; Hua Tâu [xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa], Xia Cang [xã Sơn Thủy]. Song song với các hoạt động này, thực dân Pháp còn cấu kết với thổ ty, lang đạo và bộ máy phong kiến quan liêu, bóc lột nhân dân lao động đến cùng cực. Dưới ách áp bức bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến, đời sống của nhân dân các dân tộc Quan Hóa vô cùng đói khổ. Đó là chưa kể đến đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc nơi đây còn rất thấp kém, gần như hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, đa số đồng bào dân tộc đều quen và giữ tập quán du canh, du cư; công cụ lao động không được cải tiến. Nhiều nơi nhân dân không biết cày bừa và sử dụng trâu, bò làm sức kéo, không biết dùng phân bón và làm thủy lợi. Tất cả đều làm bằng cơ bắp của con người, mùa màng được hay mất hoàn toàn lệ thuộc và thiên nhiên. Bị đói khổ, bệnh tật, người dân Quan Hóa [bao gồm cả Quan Sơn hiện tại] còn bị những luật lệ cổ hủ hàng bao đời nay trói buộc, như: cờ bạc, ma chay, đình đám, cung phụng, hầu hạ và làm tớ cho lang đạo, càng đẩy người dân địa phương vào cảnh tối tăm tủi nhục[ ]. Từ sau cao trào dân chủ 1936 - 1939, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân các dân tộc, báo hiệu một thời kỳ mới trong lịch sử các dân tộc thiểu số. Từ cuối năm 1940 đến đầu năm 1941, trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình cách mạng thế giới và trong nước, những người Cộng sản Thanh Hóa chủ trương thành lập chiến khu cách mạng từ Tây - Bắc đến Đông - Nam chủ yếu là vùng rừng núi và bán sơn địa Thanh Hóa. Đây là thời cơ tốt để nhân dân các dân tộc miền núi đóng góp sức lực của mình cho cách mạng[ ]. Đến cuối năm 1941, tại 6 châu miền núi [Như Xuân, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước và Quan Hóa] đã bắt đầu hình thành những đốm lửa cách mạng. Những tư tưởng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hóa đã truyền bá rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân lao động ở miền xuôi cũng như miền ngược, thức tỉnh tinh thần dân tộc và ý thức giai cấp của quảng đại quần chúng đang sống nghẹt thở dưới ách thống trị của đế quốc phong kiến. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa nói chung Quan Sơn nói riêng đã vùng dậy mạnh mẽ nhanh chóng hòa vào không khí cách mạng đang hừng hực dâng cao trong cả nước. Trong không khí sôi nổi, hào hùng của Mùa thu tháng Tám, tại tỉnh Thanh Hóa, dưới sự chỉ đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Thanh Hóa đã quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được phát đi trong đêm 18 rạng ngày 19 tháng Tám năm 1945. Chỉ vài ngày sau [21 tháng Tám năm 1945], nhân dân thành phố Thanh Hóa, các huyện miền xuôi và hai huyện Thạch Thành, Cẩm Thủy đã thành lập được chính quyền dân chủ nhân dân. Ngày 23 - 8 - 1945, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Thanh Hóa - Lê Tất Đắc đã đọc bản Tuyên bố, công bố chương trình hành động của Việt Minh. Với các châu, huyện miền núi Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Thanh Hóa chủ trương: “Không thể tiến hành giành chính quyền như các huyện miền xuôi. Cần có sách lược khôn khéo mềm dẻo, đánh lui từng bước, giành thắng lợi từng bộ phận, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Đi đôi với quá trình tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho quần chúng để quần chúng tự đứng lên làm chủ vận mệnh của mình”[ ]. Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Thanh Hóa đã triệu tập đội ngũ tri châu miền núi, tuyên bố xóa bỏ hệ thống chính quyền cũ. Ủy ban đã giải thích cho các tri châu về đường lối của Đảng, của Hồ Chủ tịch về thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và việc thành lập chính quyền cách mạng mới. Ủy ban khẳng định sẵn sàng sử dụng những lang đạo, thổ ty có tinh thần yêu nước. Sau khi hiểu rõ về đường lối, chủ trương của Đảng, ý thức rõ về phong trào cách mạng đang lên, tri châu các châu Thường Xuân, Ngọc Lặc... đã tự nguyện từ bỏ chính quyền cũ. Diễn biến cách mạng ở khu vực miền núi Thanh Hóa lúc này vẫn rất phức tạp. Do bản chất ngoan cố, hiếu thắng, tri châu Bá Thước là Hà Công Thắng đã đưa tay sai xuống huyện Cẩm Thủy, kết bè đảng với tri huyện Cẩm Thủy [Sầm Văn Kim] chống lại cách mạng. Sau khi Sầm Văn Kim bỏ trốn, Hà Công Thắng đã chiếm huyện đường, xưng là “Huyện trưởng”. Tuy nhiên, phong trào cách mạng ở Thanh Hóa lúc này phát triển rất mạnh. Lực lượng cách mạng các huyện Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc sau khi hạ đồn Phong Ý đã tấn công vào huyện lỵ Cẩm Thủy. Tháo chạy khỏi Cẩm Thủy, Hà Công Thắng cùng tay chân đã kéo về Điền Lư [Bá Thước], tiếp tục dụ dỗ thổ ty, lang đạo chiếm châu lỵ Tân Hóa. Nhằm khống chế vùng rừng núi phía Tây, Hà Công Thắng đã tấn công châu Quan Hóa, bắt trói Phạm Bá Ngọc - Tri châu Quan Hóa. Những hoạt động quấy phá của Hà Công Thắng đã gây cho cách mạng không ít tổn thất, việc thành lập chính quyền ở châu Tân Hóa gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng bộ Thanh Hóa đề ra chủ trương: “Trước mắt, cán bộ phải ra sức tuyên truyền giác ngộ cho đồng bào thiểu số nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với chế độ mới, để họ tự đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Đồng thời phải phân hóa, lôi kéo những thổ ty, lang đạo nhỏ, ít phản động đứng về phía nhân dân, đấu tranh vạch mặt bọn tri châu, thổ ty, lang đạo ngoan cố, phản động; buộc chúng phải giao lại chính quyền cho lực lượng cách mạng”[ ]. Sự chỉ đạo khôn khéo song không khoan nhượng của Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Thanh Hóa đã đưa đến thắng lợi cuối cùng. Tháng 10 năm 1945, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời châu Tân Hóa chính thức thành lập. Cuối tháng 9 năm 1945, Đoàn Cán bộ của tỉnh Thanh Hóa do đồng chí Tuần Dũng phụ trách đã có mặt ở Quan Hóa. Cũng trong thời gian này, Tỉnh ủy cử một đơn vị Vệ quốc đoàn lên Quan Hóa phối hợp với nhân dân trấn áp những hoạt động phá hoại của bọn phản động, bảo vệ chính quyền, duy trì an ninh trật tự. Các đồng chí Tuần Dũng, Lê Đình Sự đã tổ chức Hội nghị hiệp thương ở Hồi Xuân [phố huyện Quan Hóa hiện nay]. Tham dự Hội nghị có đại biểu các xã và các mường trong huyện. Tại Hội nghị này, đồng chí Tuần Dũng đã vạch trần thủ đoạn lừa bịp của Hà Công Thắng, đồng thời phổ biến chủ trương cách mạng của Đảng đến nhân dân Quan Hóa. Các đại biểu đã rất phấn khởi và tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào Chính phủ. Mọi người đồng tâm tuyên bố xóa bỏ bộ máy chính quyền của Hà Công Thắng và thành lập Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời huyện Quan Hóa gồm các ông: Phạm Bá Ngọt [Chủ tịch], Lê Đình Sự [Phó Chủ tịch] cùng một số ủy viên. Đồng chí Tuần Dũng được Hội nghị cử làm Cố vấn. Đây là sự kiện có ý nghĩa rất trọng đại: lần đầu tiên chính quyền cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng được thành lập ở Quan Hóa[ ]. Ngày 3/10/1945, Ủy ban Cách mạng lâm thời huyện Quan Hóa đã ra mắt nhân dân. Ủy ban đã cử cán bộ về các xã, mường thành lập chính quyền nhân dân. Ban Việt Minh, Ban Bình dân học vụ, Ban Công an, Ban Quân sự, Ban Tăng gia sản xuất... lần lượt được thành lập. Từ đó Ủy ban xúc tiến việc thành lập các đoàn thể chính trị như: Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ lão cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc... Đến tháng 11 năm 1945, nhìn chung, công việc xây dựng chính quyền cách mạng, lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng ở Quan Hóa về cơ bản đã hoàn thành. 3.5. QUAN SƠN TRONG THỜI KỲ 1945 - 1995 3.5.1. Quan Sơn trong thời kỳ xây dựng hậu phương và trực tiếp chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược [1945 - 1954] Thời kỳ này, ở Quan Hóa [bao gồm cả vùng đất huyện Quan Sơn ngày nay], âm mưu chống lại Đảng, chống lại cách mạng của bọn lang đạo ngày càng trắng trợn và điên cuồng. Mặc dù bên ngoài chúng vẫn lấy tư cách là người đại diện cho nhân dân liên hệ với cán bộ của Đảng, tiếp nhận chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, nhưng thực chất bên trong, bọn lang đạo tìm đủ mọi cách để chống lại. Cụ thể là khi Đảng ta có chủ trương phát động “Tuần lễ vàng” và “Tuần lễ đồng”, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân, khắc phục khó khăn trước mắt, bọn phản động đã trắng trợn xuyên tạc chủ trương đúng đắn của Đảng, xúi bẩy quần chúng, khống chế người đi quyên góp, khi thấy không thể lung lạc được sự nhiệt tình và sự kiên định của đông đảo nhân dân, chúng lại tìm cách biển thủ số vàng và đồng mà nhân dân đã quyên góp. Thái độ thù địch điên cuồng của chúng còn thể hiện trắng trợn trong dịp Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I [ngày mùng 6 tháng 1 năm 1946]. Trước và trong ngày bầu cử, bọn phản động lồng lộn phá rối. Chúng tung tin đồn nhảm reo rắc tâm lý nghi kỵ, nói xấu Đảng và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ở nhiều nơi, chúng dọa nạt cử tri, làm rối loạn trật tự trị an xung quanh bàn bỏ phiếu, khống chế những phần tử tích cực. Rốt cục, những âm mưu phá hoại cuộc Tổng tuyển cử của chúng đã bị thất bại, hơn 80% cử tri trong toàn huyện đã tham gia bỏ phiếu[ ]. Phong trào cách mạng ở Quan Hóa thời kì này gặp muôn vàn khó khăn: Chính quyền non trẻ có lúc bị tê liệt hoàn toàn. Bọn thổ ty, lang đạo đã lợi dụng danh nghĩa chính quyền cách mạng quấy phá ở từng cơ sở xã, mường. Các tổ chức quần chúng thành lập chưa được củng cố đã bị địch thao túng. Lực lượng vũ trang địa phương vừa mới ra đời đã bị chúng lợi dụng, làm suy yếu và biến thành một đội quân phục dịch hầu hạ chúng... Một số không ít những người bị sa ngã trước lời dụ dỗ đường mật và sự đe dọa trắng trợn của kẻ thù. Trong hoàn cảnh hết sức nghiêm trọng và phức tạp ấy, cán bộ, chiến sỹ và những quần chúng đã giác ngộ cách mạng vẫn không hề nao núng và chùn bước, họ đã vượt qua gian khổ, thách thức khắc nghiệt, kiên trì bám dân, giải thích, vận động quần chúng giữ vững đội ngũ trong các tổ chức, thực hiện đầy đủ chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ. Nhân dân các dân tộc Quan Sơn đã hưởng ứng nhiệt tình cuộc vận động của Đảng và Bác Hồ. Ngay sau khi được nghe cán bộ giải thích mục đích, ý nghĩa cuộc vận động “Tuần lễ vàng”, đông đảo nhân dân đã mang đến trao tận tay cán bộ và chiến sỹ ta những vật dụng có giá trị như nồi, xanh, vàng, bạc... Các phong trào, hành động diệt giặc đói, giặc dốt cũng được triển khai trên diện rộng và đạt được những thành tích nhất định. Sau này cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã quyết định thành lập Ủy ban Thượng du và cử cán bộ các huyện miền xuôi lên chỉ đạo xây dựng chính quyền ở 6 châu miền núi. Ngày 4 tháng 4 năm 1947, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 41SL, thành lập Ủy ban Hành chính đặc biệt Thượng du tỉnh Thanh Hóa để giúp Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Thanh Hóa giải quyết các công việc ở 6 châu thượng du, động viên dân chúng tăng gia sản xuất và phát triển bình dân học vụ, tổ chức nhân dân kháng chiến. Tháng 6 năm 1947, bọn địch đưa 100 tên, trong đó có 15 tên Pháp từ nước Lào sang tăng cường cho đồn Hồi Xuân, mở rộng phạm vi chiếm đóng. Nắm được âm mưu của địch, Ban Quân sự huyện Quan Hóa trực tiếp chỉ huy đơn vị dân quân du kích xã Hồi Xuân phục kích địch ở Na Ca Sắm và Kéo Háng Hen [xã Nam Xuân huyện Quan Hóa][ ] với quyết tâm phá tan cuộc hành quân chi viện của chúng. Với chiến thuật phục kích bất ngờ, dân quân xã Hồi Xuân đã tiêu diệt 2 lính Pháp, 31 lính ngụy và làm bị thương một số tên khác, cánh quân địch tiếp viện cho đồn Hồi Xuân bị bẻ gãy hoàn toàn. Thắng lợi này rất có ý nghĩa đối với đồng bào các dân tộc Quan Hóa, Quan Sơn góp phần động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kháng chiến, đồng thời càng tăng cường thêm niềm tin vào khả năng diệt địch, thắng địch bằng vũ khí thô sơ. Tháng 7 - 1947, nắm được thông tin địch tổ chức một cuộc càn quét trên tuyến đường từ đồn mường Xia [xã Sơn Thủy][ ] đến đồn Pọng Nưa [xã Hiền Kiệt, Quan Hóa], lực lượng du kích xã Thiên Phủ [Quan Hóa] đã chủ động chặn đánh địch, diệt 6 lính Pháp. Nhận thấy rõ vị trí chiến lược quan trọng của các huyện thượng du Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ I [tháng 2 năm 1948] đã ra Nghị quyết về công tác Thượng du và nêu quyết tâm “Thượng du thắng là Thanh Hóa thắng”[ ]. Đầu tháng 7 năm 1947, đồng chí Đặng Việt Châu, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Thanh Hóa đã có mặt tại Quan Hóa để kiểm tra tình hình và chỉ đạo chiến đấu. Chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang của tỉnh đã phối hợp với dân quân các xã Hồi Xuân, Nam Xuân, Phú Nghiêm, Nam Động, sử dụng cách đánh nghi binh, bao vây, tiêu diệt đồn Hồi Xuân. Ngày 11/8/1947, địch đã phải rút chạy khỏi Hồi Xuân. Sau sự kiện lịch sử oanh liệt này, Ủy ban kháng chiến tỉnh đã quyết định thành lập Ban dân quân Thượng du do Ủy ban Kháng chiến - Hành chính trực tiếp lãnh đạo. Phong trào xây dựng lực lượng vũ trang địa phương có bước chuyển biến mới: huyện Quan Hóa đã có 1 trung đội chủ lực tập trung, ngoài ra còn có Đại đội Cầm Bá Thước; mỗi xã trong huyện có 1 đơn vị du kích tập trung và mỗi bản đều có thôn đội[ ]. Huyện Quan Sơn [hiện tại] trở thành địa điểm chiến lược thời điểm này: sau khi tháo chạy, địch co cụm về phía Tây, lập thêm đồn trại Vạn Mai [Hòa Bình], mường Xim, Pom Cút, mường Lát, mường Xia và Na Mèo, nuôi dưỡng ý đồ tấn công vào vùng tự do Thanh Hóa, chia cắt quan hệ kháng chiến giữa Việt Nam với nước Lào. Để thực hiện mưu đồ ấy, địch nhanh chóng xây dựng đội ngũ tay sai đắc lực làm chỗ dựa để nắm dân, kiểm soát đất đai, rừng núi, biến các xã, bản phía tây huyện Quan Hóa [bao gồm hầu hết địa phận huyện Quan Sơn ngày nay] thành “thánh địa” bất khả xâm phạm. Phạm Bá Thơ - tên tay sai được thực dân Pháp nuôi dưỡng, dạy dỗ, chỉ bảo, đã hăng hái lập bè đảng, cấu kết với Lò Khâm Thi và một số tên phản động ở Sầm Nưa [Lào] chuẩn bị cho việc thành lập xứ Thái tự trị. Ở những nơi chiếm đóng, địch bắt nhân dân ta xây dựng đồn bốt, trại lính, hầm hào kiên cố. Trong mỗi vị trí chiếm đóng, chúng thường xuyên duy trì lực lượng từ 60 đến 100 tên. Đi đôi với việc xây dựng đồn lũy, chúng ráo riết dồn dân lập ấp, thực hiện chính sách bình định tàn khốc. Ở đồn Pọng Nưa [xã Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa ngày nay], chúng bắt gần 100 gia đình dời làng, bản, đến tập trung quanh đồn. Ở mường Xia, chúng cưỡng ép dân thành lập 3 khu: khu Tân Lập có hơn 30 hộ, khu Pom Vực có hơn 30 hộ và khu làng Muống có 10 hộ. Ở những nơi này, bọn Pháp đã chỉ đạo tay sai ở địa phương lập hộ tịch, hộ khẩu và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của nhân dân; đồng thời từng bước khôi phục bộ máy thống trị cũ từ xã đến làng, bản; đưa những tên tay sai đắc lực nhất lên nắm quyền hành. Khi bộ máy chính quyền phản động được dựng lên, cả “thầy” lẫn “tớ” đều ra sức bóc lột nhân dân. Nhiều làng bản trở nên xơ xác, tiêu điều. Chúng kìm kẹp nhân dân, người dân nào bị tình nghi lập tức bị chúng bắt lên đồn tra tấn hết sức dã man. Không chỉ có vậy, chúng còn dụ dỗ những người nhẹ dạ cả tin, khuyên họ từ bỏ hàng ngũ cách mạng [ ]. Ở những vùng giáp ranh, địch thường xuyên mở những cuộc càn quét quấy rối, thẳng tay chém giết đồng bào vô tội, trong đó có cả người già, đàn bà và trẻ em. Chúng ngang nhiên đốt nhà, cướp của, hãm hiếp phụ nữ. Ngoài ra, địch còn tìm mọi cách mua chuộc cán bộ của ta, nói xấu Đảng, Nhà nước, ca ngợi Pháp, ca ngợi Bảo Đại. Nham hiểm hơn, ở các nơi giáp ranh này, địch dùng bọn thổ phỉ trá hàng, để đưa tay chân vào các tổ chức Đảng, chính quyền nhằm phá hoại tận gốc lực lượng kháng chiến. Trên các tuyến đường thủy, địch tổ chức từng toán phục kích, đánh úp thuyền, mảng, phá hoại kho tàng của kháng chiến. Được sự hậu thuẫn của thực dân, Phạm Bá Thơ và Lò Khâm Thi đã lập ra cái gọi là “Liên bang Thái tự trị” nhằm kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chia rẽ lực lượng kháng chiến. Đáng tiếc là không ít quần chúng thiếu hiểu biết đã tin vào luận điệu xảo quyệt của địch, vì vậy, không lâu sau, “Liên bang Thái tự trị” đã biến thành “Liên bang Thái Bắc - Trung Việt” hoạt động trên phạm vi rất rộng lớn, từ Tây - Bắc Nghệ An đến Thanh Hóa, lên Sơn La, Hòa Bình và suốt dọc biên giới Việt - Lào[ ]. Nhằm chủ động đối phó với âm mưu của địch, đầu năm 1948, Tỉnh ủy Thanh Hóa quyết định thành lập Ban miền Tây, cử 200 cán bộ dày dặn kinh nghiệm thay mặt Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến - Hành chính tỉnh Thanh Hóa trực tiếp lãnh đạo công cuộc kháng chiến ở miền Tây tỉnh Thanh Hóa. Trung đoàn 77 quyết định điều 3 đại đội: Đại đội 138, Đại đội 72 và Đại đội 78 tăng cường lên Quan Hóa, Bá Thước[2]. Ngay sau khi được thành lập, Ban miền Tây đã cử đoàn cán bộ gồm 8 đồng chí [Nguyễn Hoàn, Trần Đảng, Trương Đạc, Phạm Minh Do[3], Bùi Văn Cây, Trương Ngọc Quế, Nguyễn Xuân Hải và Nguyễn Xuân Kỳ] lên Quan Hóa hoạt động. Tình hình huyện Quan Hóa lúc này đang có nhiều phức tạp. Một số người có tư tưởng dao động đã cấu kết và chấp nhận làm tay sai, chỉ điểm cho địch. Để ứng phó với tình hình, ngày 5/3/1948, Đoàn cán bộ đã thành lập Chi bộ 53 Quan Hóa, do đồng chí Nguyễn Hoàn làm Bí thư, đồng chí Trần Đảng làm Phó Bí thư. Ngay sau khi thành lập, Chi bộ 53 đã có kế hoạch “bám dân, “bám bản”, kiên trì giải thích cho nhân dân hiểu rõ chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng, vạch trần những luận điệu xuyên tạc và thủ đoạn bịp bợm, mỵ dân của bọn phản cách mạng, tố cáo và phán xét bọn phản bội. Nhiệm vụ không kém phần quan trọng đối với cán bộ, đảng viên Chi bộ 53 là vạch rõ thực chất của tổ chức “Liên bang Thái” cùng các tổ chức cấp dưới: “Ủy ban bình định”, “Chiến khu con đỉa”, “Quân đội Thái tự do”. Không chỉ có vậy, Chi bộ 53 đã dựa vào những phần tử tích cực, tổ chức cho quần chúng tham gia các phong trào thi đua kháng chiến, khôi phục và củng cố các đơn vị dân quân du kích và các đoàn thể cứu quốc[ ]. Kết quả là Chi bộ 53 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đề ra: tư tưởng quần chúng nhân dân từng bước được ổn định; những cơ sở trước đây bị bọn phản động thao túng, lợi dụng nay được củng cố lại; một số phần tử phản động giấu mặt bị loại khỏi bộ máy lãnh đạo của huyện. Quan Hóa lúc này tạm thời hình thành hai vùng: Vùng tạm chiếm bao gồm các xã ven biên giới Việt - Lào [gồm nhiều xã của huyện Quan Sơn hiện tại], do địch khống chế; Vùng tự do có Đoàn cán bộ công tác Miền Tây của tỉnh Thanh Hóa chỉ đạo hoạt động. Đoàn võ trang tuyên truyền công tác Miền Tây Liên khu III, sau khi làm việc với Ban miền Tây Thanh Hóa, đã để lại một lực lượng nhỏ ở vùng tự do phối hợp với cán bộ Ban miền Tây, còn lại phần lớn đưa về vùng địch tạm chiếm, hoạt động ngay trong lòng địch. Tại vùng địch tạm chiếm, đa số người dân chưa hiểu rõ bản chất của địch, chưa nhận thức đúng về cách mạng. Bởi vậy, nhiệm vụ của các chiến sĩ võ trang là rất nặng nề. Tuy nhiên, họ không nề hà gian khổ, hiểm nguy, lặn lội đến từng gia đình, thân mật trò chuyện với người già, gần gũi với trẻ nhỏ, giúp dân sinh hoạt. Ý chí cách mạng chói ngời của các chiến sĩ vũ trang đã thuyết phục được đa số nhân dân, từ chỗ không muốn tiếp xúc với cán bộ, chiến sỹ ta, nhiều đồng chí đã tạo được niềm tin, được nhân dân quý mến như người thân trong gia đình. Đây là thắng lợi rất quan trọng của cách mạng; từ chỗ thờ ơ, lạnh nhạt với kháng chiến, nhân dân đã chủ động tìm đến cán bộ, chiến sỹ, che chở, đùm bọc và tạo mọi điều kiện cho đơn vị hoạt động. Nhờ đó công tác củng cố cơ sở, xây dựng và phát triển lực lượng đã thu được kết quả nhất định. Sự hiện diện của Đoàn Vũ trang tuyên truyền Liên khu III và Ban miền Tây đã góp phần thúc đẩy phong trào thi đua ái quốc phát triển mạnh trên địa bàn huyện Quan Hóa. Khí thế cách mạng của đồng bào các dân tộc Quan Hóa sôi nổi hẳn lên. Ngay khi Trung ương Đảng có chủ trương mở cuộc vận động mua “công trái kháng chiến”, nhân dân Quan Hóa đã hưởng ứng tích cực. Hàng trăm gia đình cán bộ, chiến sỹ dân quân du kích đã gương mẫu đi đầu. Kết quả là chỉ sau một thời gian ngắn, đồng bào các dân tộc Quan Hóa đã mua được 50.000 đồng và 20 tạ gạo[ ]. Tháng 10 năm 1948, Ban miền Tây Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tại Bá Thước để kiểm điểm kết quả công tác, đúc rút kinh nghiệm. Hội nghị này có sự tham dự của đại biểu đơn vị võ trang tuyên truyền công tác Miền Tây Liên khu III. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết thành lập Hội kháng chiến gọi tắt là “H.K.C” để tập hợp giáo dục và rèn luyện những người kiên trung, ưu tú tạo điều kiện cho công tác kết nạp đảng viên trong huyện. Được sự hướng dẫn, tổ chức của Ban miền Tây và đơn vị võ trang tuyên truyền Liên Khu III, lực lượng dân quân du kích địa phương đã phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Ở huyện Quan Hóa đã có một trung đội gồm 97 người, được trang bị 1 khẩu súng trường, 50 quả lựu đạn, 11 quả mìn và 20 súng hỏa mai, vừa làm nhiệm vụ luyện tập quân sự, vừa tăng gia sản xuất tự túc một phần lương thực. Từng xã đều có đơn vị du kích tập trung 40 - 50 người. Có thể nói rằng, sau một thời gian tích cực hoạt động, Đoàn Cán bộ Ban miền Tây và Đoàn Võ trang tuyên truyền Liên khu III đã xây dựng được một lực lượng võ trang địa phương đông đảo, hình thành hệ thống chặt chẽ từ huyện đến cơ sở. Đến tháng 6 năm 1949, toàn huyện Quan Hóa có 1.509 chiến sỹ dân quân du kích, được trang bị 156 súng hỏa mai, súng kíp, 509 quả mìn và lựu đạn, 30 quả bom. Song song với việc tập luyện, sẵn sàng chiến đấu, lực lượng vũ trang Quan Hóa còn tham gia sản xuất trên diện tích 3 mẫu ruộng, gieo được 200 thúng lúa rẫy. Thực hiện chủ trương của Đảng, các đảng viên trong Chi bộ 53 đã tổ chức tuyên truyền giác ngộ những quần chúng tích cực để kết nạp vào Đảng. Đến cuối năm 1949, toàn huyện có 2 chi bộ [Phú Lệ và Thiên Phủ], 7 tổ đảng với 42 đảng viên. Để thống nhất chỉ đạo phong trào cách mạng Quan Hóa, ngày 28 - 3 - 1950, Tỉnh ủy Thanh Hóa ủy nhiệm cho Ban miền Tây ra quyết định thành lập Đảng bộ huyện Quan Hóa. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lâm thời gồm 5 đồng chí do đồng chí Trần Đảng làm Bí thư kiêm chính trị viên Huyện đội. Tỉnh ủy đã giao cho Ban Chấp hành lâm thời chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất. Sau khi ra đời, Đảng bộ lâm thời huyện Quan Hóa đã bắt tay ngay vào hoạt động, thúc đẩy phong trào cách mạng của địa phương tiến lên một bước mới. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ lâm thời Quan Hóa, bộ đội chủ lực đã phối hợp chặt chẽ với dân quân du kích xã Sơn Thủy, Sơn Điện, Tam Chung, Quang Chiểu tấn công địch ở một số địa điểm như: mường Xia, mường Lát gây cho địch nhiều tổn thất, đẩy chúng vào thế đối phó bị động. Tháng 4 năm 1951, Đại hội đại biểu Đảng bộ Quan Hóa lần thứ nhất khai mạc trọng thể tại chòm Muống [xã Trung Xuân, thuộc huyện Quan Sơn hiện nay]. Về dự Đại hội có 30 đại biểu là những chiến sĩ cách mạng và đại diện nhân dân các dân tộc Quan Hóa. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 7 đồng chí, đồng chí Trần Đảng được bầu làm Bí thư Huyện ủy[ ]. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy, đồng bào các dân tộc Quan Hóa, Quan Sơn đã tích cực hưởng ứng 3 cuộc vận động lớn do Đảng, Bác Hồ phát động: Cuộc vận động bán lúa khao quân của Hồ Chí Minh [tháng 8 năm 1949], toàn huyện đã bán được 150 tạ thóc. Cuộc vận động ủng hộ bộ đội địa phương và góp quỹ đảm phụ quốc phòng - huyện thu được 155 tạ thóc. Nhiều nơi, nhân dân còn ủng hộ cả gia cầm, gia súc; quyên góp cho Quỹ đảm phụ quốc phòng 144.110 đồng. Cuộc vận động mua Công trái Quốc gia [tháng 12 năm 1950], toàn huyện mua được 1.556 phiếu loại A với số tiền là 1.489.000 đồng[ ]. Từ sau chiến thắng Biên giới thu đông năm 1950 đến đầu năm 1951, những cuộc đấu tranh chính trị, tố giác và phát giác bọn Việt gian phản động đã diễn ra quyết liệt ở các xã Trung Thành, Phú Lệ [thuộc huyện Quan Hóa], Trung Hạ [thuộc huyện Quan Sơn hiện nay], Hồi Xuân [thuộc huyện Quan Hóa]. Quần chúng đã phát hiện ra nhiều tổ chức và hang ổ của bọn phản động; những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất cũng bị quần chúng phát giác và bị loại trừ khỏi Đảng. Nhờ đó, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với cách mạng được củng cố, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của nhân dân được tăng cường. Đó cũng là nguyên nhân quan trọng tạo nên sức mạnh, góp phần đập tan những cuộc càn quét của địch[ ]. Song song với những trận đánh địch càn quét, quân dân Quan Hóa còn liên tiếp mở nhiều cuộc tiến công táo bạo vào tận sào huyệt của bọn phản động. Trong cuộc vận động tiễu phỉ đợt một, huyện Quan Hóa được tỉnh xác định là địa bàn trọng điểm gồm các xã: Tam Lư, Sơn Thủy [thuộc huyện Quan Sơn ngày nay], Hiền Kiệt [huyện Quan Hóa ngày nay]. Chỉ trong vòng hơn ba tháng, phần lớn bọn phản động, phỉ, ngụy đã bị phát giác và vây bắt. Tháng 10 năm 1952, dân quân du kích xã Hồi Xuân bao vây và bắt gọn bọn phỉ ở chòm Mướp. Cuối năm 1952, nhiệm vụ tiễu phỉ ở Miền Tây Thanh Hóa nói chung và Quan Hóa nói riêng nhìn chung đã thắng lợi. Địa bàn miền núi được xây dựng vững chắc, chuẩn bị mọi điều kiện phục vụ các chiến dịch. Tình hình trị an vùng biên giới từng bước ổn định, nhân dân các dân tộc trong huyện phấn khởi, yên tâm sản xuất và phục vụ kháng chiến[ ]. Trong chiến dịch Thượng Lào năm 1953, các huyện Bá Thước, Quan Hóa, Lang Chánh là những vị trí chiến lược trên đường mòn chi viện cho chiến trường nước bạn Lào. Với tinh thần “giúp nhân dân nước bạn Lào là tự giúp mình”, tỉnh Thanh Hóa đã huy động 99.897 dân công dài hạn, 41.703 dân công ngắn hạn, 2.000 xe đạp thồ, 180 con ngựa thồ, 8 ô tô, 1.300 thuyền phục vụ chiến dịch; cung cấp cho nhân dân Lào 8.000 tấn gạo, 6.000 tấn muối, 1.000 con dao, 3.100 chiếc rìu, 5.000 chiếc thuổng; cùng nhân dân tỉnh Nghệ An giúp nước bạn 1.000 tấn lương thực, 15.000 xếp giấy. Trong chiến dịch này, Thanh Hóa đã vận chuyển vượt kế hoạch 1.200 tấn hàng hóa, đảm bảo 70% nhu cầu của chiến dịch[ ]. Kết thúc chiến dịch, nhân dân Thanh Hóa đã được Bác Hồ trao tặng cờ “Phục vụ tiền tuyến khá nhất”, trong thành tích chung ấy có đóng góp không nhỏ của đồng bào các dân tộc huyện Quan Hóa [bao gồm cả vùng đất Quan Sơn hiện nay]. Những ngày cuối tháng 4 năm 1954, chiến trường Điện Biên Phủ diễn ra rất ác liệt; kẻ thù trong cơn giãy chết càng điên cuồng hơn. Vì vậy, trong khi chúng ta đang tập trung sức lực phục vụ tiền tuyến, Tỉnh ủy Thanh Hóa vẫn chú trọng đến mặt trận trấn áp bọn phản cách mạng đang chờ thời cơ nổi loạn phá hoại. Tỉnh ủy chủ trương phát động đợt tiễu phỉ trừ gian đợt 2. Các đồng chí Lê Công Oánh và các chiến sỹ của Ty Công an lại tiếp tục lên đường. Tỉnh cũng huy động thêm hai Đại đội bộ đội địa phương 188 và 136 lên Quan Hóa bảo vệ biên giới và phối hợp với chiến sỹ an ninh trấn áp bọn phản cách mạng. Đoàn cán bộ tiễu phỉ trừ gian của huyện Quan Hóa do đồng chí Nguyễn Xuân Lâm, Huyện ủy viên, chính trị viên huyện đội phụ trách[ ]. Ngày 7/5/1954, Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng, đã cổ vũ phong trào quần chúng tiễu phỉ trừ gian tiến lên mạnh mẽ. Tháng 8 năm 1954, là đỉnh cao của những đợt truy quét đó và được đánh dấu bằng các đợt tiễu phỉ trừ gian sau: - Ngày 4/8/1954, đánh vào vị trí bản Kiên, Hua Nua, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và truy kích địch lên mường Chắt, thu nhiều vũ khí và quân dụng. - Ngày 6/8/1954, tấn công bản Ánh, nơi ẩn náu của gần 100 tên phỉ, bắt sống 9 tên, thu 14 súng, tiêu diệt 1 tên. - Ngày 9/8/1954, đánh 2 trận vào gần bản Khắt, diệt và làm bị thương 50 tên, buộc 60 tên ra hàng. - Ngày 12/8/1954, bắt 27 tên, thu 21 súng trường, 3 súng trung liên, 2 tên ra hàng mang theo 1 trung liên, 1 tiểu liên, 1 súng trường. - Ngày 18/8/1954, đánh vào Sốp Phưa, trước sự tấn công của ta, địch đã chủ động rút vào rừng nhưng quân ta tiếp tục bao vây, 20 tên địch đã ra hàng, mang theo 60 súng trường, 2 trung liên. Tiếp đó, quân ta còn đánh vào mường Pao, bắt và quy hàng 300 tên, mang theo 300 súng các loại. Ở Sầm Tớ, quân ta gọi hàng 200 tên. Tên chỉ huy căn cứ mường Pao là Thoong Văn bị bắt sống[ ]. Mặc dù phải thường xuyên đương đầu với bọn phản cách mạng, nhân dân các dân tộc Quan Hóa với truyền thống lao động cần cù và tinh thần yêu nước tha thiết, đã phấn đấu đến mức cao nhất để đóng góp cho các chiến trường như: Tây Bắc, Thượng Lào, chiến dịch Điện Biên Phủ và làm tròn nhiệm vụ quốc tế với nước bạn Lào. 3.5.2. Quan Sơn trong thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ cứu nước [1954 - 1975] Cũng như các giai đoạn 1930 - 1945; 1945 - 1954, trong cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, huyện Quan Sơn chưa tách thành đơn vị hành chính [cấp huyện] độc lập, do vậy lịch sử huyện Quan Sơn gắn liền với những chuyển biến kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của huyện Quan Hóa. Giai đoạn 1954 - 1960 Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đại thắng, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ công nhận độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Căm-pu-chia; đồng thời mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam. Vào thời điểm này, huyện Quan Hóa có 12 xã, gồm 184 chòm lớn, 524 chòm nhỏ. Dân số 33.562 người, trong đó người Kinh: 740 người; Mường: 181 người; Thái: 24.827 người. Mọi[ ] 5.807 người; Mông: 1.235 người; Dao: 304 người; Khơ Mú: 160 người; Hoa kiều: 250 người; Lào kiều: 95 người. Ruộng đất có 1.698 mẫu 6 sào, bình quân mỗi khẩu 7 thước, rẫy có 3.239 mẫu. Về chính trị, cuối năm 1955 ở các xã: Tam Lư, Quang Chiểu, Tam Chung đã có 34 gia đình gồm 155 khẩu dịch cư sang các xã giáp biên giới Lào. Tay chân do địch cài cắm lại dụ dỗ một số phần tử xấu đánh phá mương, phai [ở Hồi Xuân, Phú Lệ, Phú Nghiêm], chém giết trâu, bò, thả trâu bò ăn mạ của đồng bào; đốt phá nhà cửa của nhân dân [riêng xã Tam Chung có 6 vụ]; chúng còn dùng nước sôi ngâm giống để chống phá cải tiến kỹ thuật sản xuất của ta... Về kinh tế, do tác động của chiến tranh nên ruộng đất bị bỏ hoang nhiều, đồng thời với kỹ thuật canh tác vô cùng lạc hậu cho nên năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi đều rất thấp kém. Tình hình nạn đói cuối năm 1954 đầu năm 1955 chưa giải quyết được. Giữa năm 1956, khi đội “vận động đoàn kết sản xuất” vừa rút đi thì bọn phản động lập tức trở lại hoạt động. Chúng ra sức chống phá làm ảnh hưởng tới thành quả cách mạng nhân dân mới giành được. Bên cạnh đó, vụ đông năm 1955 lại rét đậm, số đồng bào vùng cao biên giới không chỉ bị đói còn thiệt mạng vì rét. Bên cạnh đó, đội ngũ thầy mo, thầy cúng ra sức lừa bịp nhân dân bằng các hủ tục cúng bái, “trừ ma” lạc hậu. Về văn hóa xã hội: lúc này ở Quan Hóa có 3 ngôn ngữ: chữ Quốc ngữ [chưa nhiều người biết]; chữ Thái [chủ yếu là người Thái]; chữ Hán của người Mán, người Dao khiến việc trao đổi, giao tiếp rất khó khăn. Toàn huyện có 9/12 xã có trường học. Đồng bào vùng cao như dân tộc Khơ Mú có 10 người biết đọc bập bẹ, người Mông vào thời điểm này mới bắt đầu tổ chức lớp. Cả huyện chỉ có 288 học sinh từ lớp 1 trở lên[ ]. Trước tình hình đó, trung tuần tháng 7 năm 1955, Ủy ban Hành chính tỉnh mở Đại hội để triển khai phong trào thi đua sản xuất chống đói ở 7 huyện Thượng du. Đại hội đã xây dựng đề án và thảo luận kế hoạch đẩy mạnh sản xuất miền núi. Đại hội đề ra phương châm cơ bản: - Kết hợp giải quyết đời sống cho nhân dân trước mắt, hiện nay với việc kiến thiết lâu dài. - Tận dụng mọi khả năng về trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng để cải thiện đời sống cho đồng bào. - Xây dựng quan điểm “ăn của rừng phải nuôi rừng”. Chủ trương sản xuất cụ thể với từng vùng. Đại hội chỉ rõ: Thứ nhất, ở vùng thấp [các dân tộc: Thái, Mường, hoạt động kinh tế chính là lúa ruộng, làm rẫy trồng hoa màu và chăn nuôi trâu, bò, gà vịt; lâm thổ sản có gỗ, tre, luồng, nứa; nghề phụ phổ biến là nghề dệt] phải tập trung tăng vụ nhằm phát triển lúa Nam Ninh. Ngoài ra, trên các ruộng cao phải trồng ngô, khoai, kê, sắn. Đồng thời đẩy mạnh chăn nuôi trâu, bò. Đàn gia súc phải có người chăn dắt, có chuồng, mùa rét chuồng phải khô, cho ăn đầy đủ, đảm bảo lượng gia súc nuôi sống phải đạt tỉ lệ 75%. Thứ hai, ở vùng cao [các dân tộc: Khơ Mú, Dao, hoạt động kinh tế chính hàng năm là ngô và lúa rẫy, thủ công nghiệp kém phát triển] phải phát triển các hoa màu có sẵn như: ngô, sắn, trồng gối lúa để chống đói. Ngoài ra cần chú ý mua lâm sản; chú trọng nguồn lúa cứu đói vào tháng ba, tháng tư và tháng bảy, tháng tám. Vận động người dân không nên phát rẫy tập trung liền khu quá nhiều vì sẽ gây ra tình trạng đất trống đồi trọc, hạn hán và lũ quét. Khai thác kết hợp với bảo vệ lâm sản rừng như: rừng sa nhân, rừng có củ nâu, rừng có nhiều gỗ tốt. Tuy nhiên, canh tác trên rẫy là sự canh tác thô sơ, lạc hậu, đời sống vẫn bấp bênh cần chuyển hướng đồng bào về làm ruộng hay định canh nhưng không cưỡng bức. Thứ ba, với vùng đồng bào sống về rẫy du canh [chủ yếu là khu vực cư trú của đồng bào Mông, thu hoạch chính là ngô, trồng lúa rẫy, chăn nuôi lợn, gà nhiều; nghề phụ có nghề dệt, nghề rèn và trồng thuốc phiện] cần tập trung giải quyết lương thực, nguồn nước sinh hoạt và trang phục. Đồng thời trồng thêm nhiều hoa màu và phát triển trồng lúa mì, mạch, củ lỗ... giải quyết việc tiêu phụ sản phẩm, đồng thời khuyến khích phát triển chăn nuôi. Thứ tư, cần phục hồi nghề dệt vải lanh để tự túc trang phục. Thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế do Trung ương đề ra, từ sau Đại hội, tại 7 huyện Thượng du, một mặt, Đảng bộ động viên đồng bào các dân tộc tích cực khai hoang phục hồi phát triển sản xuất, mặt khác động viên các tầng lớp nhân dân tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Với những nỗ lực của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc, về cơ bản, đến cuối năm 1955, Quan Hóa đã khắc phục được nạn đói, được giữ Cờ luân lưu do có thành tích “vượt khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, trấn áp địch”, các xã: Hiền Kiệt, Sơn Thủy[ ] được tặng Bằng khen. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 và 7 [khóa II] của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã phát động đồng bào các dân tộc trong tỉnh thi đua sản xuất, tích cực hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện các mục tiêu cải tạo và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Tỉnh ủy Thanh Hóa trong chương trình sản xuất đã chọn 12 xã làm điểm chỉ đạo, trong đó riêng Quan Hóa có 8 xã là: Tam Chung, Quang Chiểu, Hiền Kiệt, Trung Thành, Thiên Phủ, Sơn Thủy, Tam Lư, Trung Hạ [một số xã nay thuộc huyện Quan Sơn]. Mỗi xã trọng điểm được ưu tiên 7 cán bộ tăng cường của tỉnh. Huyện ủy đã tổ chức cho nhân dân học tập nội dung cơ bản của cuộc vận động, thành lập ở mỗi xã một đội “đoàn kết sản xuất”. Đến tháng 5 năm 1956, Đoàn cán bộ của Tỉnh sau khi ổn định tình hình đã rút khỏi địa phương, phong trào khai hoang, phục hóa được Đảng bộ huyện và các chi bộ xã chủ động đẩy mạnh trên toàn địa bàn[ ]. Sau 3 năm khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh [từ năm 1955 đến năm 1957], sản xuất nông nghiệp của huyện Quan Hóa được phục hồi . Trong khi chưa có điều kiện phát triển công nghiệp, Huyện ủy đã chủ trương khuyến khích phục hồi và phát triển các ngành nghề thủ công nghiệp. Ban miền Tây, Huyện ủy đã tìm những người có tay nghề giỏi ở các chòm, bản động viên tiếp tục sản xuất những nông cụ cầm tay, do đó các lò rèn ở vùng cao biên giới được mở lại. Một số nghề truyền thống như dệt vải lanh, đồ mộc, làm giấy... từng bước hoạt động trở lại. Cùng với việc tăng gia sản xuất, Huyện ủy Quan Hóa còn phát động nhân dân làm đường giao thông. Tỉnh ủy chỉ đạo thi công tuyến đường 217A [Thanh Hóa - Na Mèo] - đây là một trong những tuyến giao thông quan trọng nhất của huyện Quan Sơn ngày nay. Cán bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện đã tham gia rất tích cực, góp phần nhanh chóng thông xe tuyến đường dài 92 km nối liền Việt Nam với nước bạn Lào. Ngoài ra các xã đã chú ý sửa chữa, mở rộng các đường liên thôn, liên bản, liên xã. Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế cũng được quan tâm và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Thực hiện chủ chương của Tỉnh ủy và Ban Cán sự miền Tây, tháng 1 năm 1958, Đại hội Đảng bộ huyện Quan Hóa lần thứ II chính thức khai mạc tại Pom Co Hương, bản Khằm, xã Hồi Xuân [cũ][ ]. Tham dự đại hội có 95 đảng viên từ 6 chi bộ xã và 2 chi bộ cơ quan. Năm 1958, sản xuất nông nghiệp bị thiên tai đe dọa, hạn hán kéo dài, đói kém ở vùng biên giới rất trầm trọng nhưng nhân dân Quan Hóa đã nỗ lực phấn đấu, hạn chế được một phần thiệt hại do thiên tai gây ra. Cùng với phong trào đổi công, hoạt động của ngành Thương nghiệp cũng có chuyển biến theo hướng đẩy mạnh bán lẻ, hạn chế bán buôn, đảm bảo một số lượng lớn hàng hóa cần dùng cho nhân dân. Các tổ bán hàng ở Tam Lư được thành lập, các tổ ở Tam Chung, Nam Động, Sơn Thủy được cung cấp thêm hàng hóa... Nhờ đó, thị trường đã được bình ổn. Về văn hóa - xã hội, phong trào bình dân học vụ được đẩy mạnh hơn, phong trào vệ sinh phòng bệnh cũng có những bước tiến mới, người dân đã tự giác đi tiêm phòng. Tháng 4 năm 1959, Hội nghị lần thứ 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khóa II] đã ra Nghị quyết về hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc. Đối với các địa phương miền núi, ngày 28/8/1959, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 156 - CT/TW về việc tiến hành “Cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ”. Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, ngày 21 tháng 9 năm 1959, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã triệu tập Hội nghị cán bộ chủ chốt của 7 huyện miền núi để quán triệt tư tưởng. Các cấp ủy đảng đã nhận thức đúng đắn đây là cuộc cách mạng sâu sắc và toàn diện nhằm xóa bỏ triệt để quan hệ xã hội cũ, xác lập quan hệ sản xuất mới, đưa nhân dân các dân tộc từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tỉnh ủy đã chọn 4 xã trong đó có xã Sơn Thủy [Quan Hóa][ ]để làm thí điểm, đồng thời điều động cho các huyện miền núi 200 cán bộ, kết hợp với Ban Cán sự Miền Tây và các cấp ủy địa phương tiến hành thực hiện. Trên cơ sở nắm vững những khó khăn, thuận lợi và đặc điểm dân tộc ở Quan Hóa, Tỉnh ủy đã xác định tư tưởng chỉ đạo trong cuộc vận động: Nâng cao giác ngộ giai cấp, giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho cán bộ, đảng viên và quần chúng, làm cho mọi người phân biệt rõ hai chế độ, phân rõ ranh giới giữa địa chủ và nông dân, giữa lao động và bóc lột, nâng cao cảnh giác, phân biệt bạn - thù, đề cao khí thế của bần, cố nông và trung nông lớp dưới. Quán triệt tư tưởng đó, Huyện ủy Quan Hóa đã nêu cao tinh thần cách mạng, sáng tạo vạch ra phương pháp phù hợp với điều kiện của huyện. Sau khi rút kinh nghiệm ở xã điểm Sơn Thủy, ngày 27/3/1960, Huyện ủy Quan Hóa đã tiến hành thực hiện cải cách dân chủ trên toàn huyện. Cuộc vận động đã làm tốt công tác tuyên truyền, nhờ đó quần chúng đã phân được ranh giới giữa người bóc lột với người bị bóc lột, giữa kinh tế tập thể với kinh tế cá thể. Với đặc điểm của một huyện miền núi [không phân định thành phần giai cấp rõ rệt như miền xuôi], nhưng Đảng bộ, chính quyền đã tiến hành giáo dục, cải tạo, xử lý tài sản của 31 địa chủ [5 địa chủ cường hào, 17 địa chủ phản động, 19 địa chủ kháng chiến]. Số tài sản thực thu được đã chia cho 105 hộ bần nông và trung nông lớp dưới[ ]. Về hợp tác hóa phát triển sản xuất, qua học tập, đồng bào các dân tộc đã thấy những ưu điểm và con đường tất yếu của nông dân lúc này là làm ăn tập thể, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Kết quả toàn huyện Quan Hóa đã thành lập được 75 hợp tác xã cấp thấp với 1.746 hộ, gồm 11.859 nhân khẩu, 736 mẫu ruộng, 3.907 con trâu: xã Phú Nghiêm đạt cao nhất huyện [85%], sau đó đến Thiên Phủ [71%]...[ ]. Các chủ trương: xây dựng tổ đổi công, thành lập Hợp tác xã tín dụng, Hợp tác xã mua bán đều thu được thắng lợi rất khả quan. Nhìn chung, đến tháng 3 năm 1961, huyện Quan Hóa đã hoàn thành các cuộc vận động. Không những thế, trong 3 năm: 1958 - 1960, huyện đã vận động hàng chục gia đình vùng cao biên giới định canh, định cư. Năm 1959, Ty Y tế đã thành lập trạm xá ở Mường Lát, Sơn Thủy... Cũng thời gian này, hàng trăm người dân đã được xóa mù chữ, tới năm 1960, hầu như tất cả các xã trong huyện đã có trường cấp I. Từ ngày mùng 10 đến ngày 12 tháng 6 năm 1960, Đảng bộ huyện Quan Hóa đã tiến hành Đại hội lần thứ III tại Piềng Thớ, bản Khằm, xã Hồi Xuân. Đại hội có 76 đại biểu tham dự, Ban Chấp hành mới gồm 11 đồng chí chính thức và 2 đồng chí dự khuyết. Đồng chí Trịnh Tôn được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Vi Văn Êu được giao nhiệm vụ Phó Bí thư phụ trách chính quyền[ ]. Giai đoạn 1961 - 1975 Từ năm 1961 đến năm 1965, trước khi bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, diễn ra từ ngày 5 - 10/9/1960 tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thông qua kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế, văn hóa [1961 - 1965]. Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, từ ngày 25/2 đến 5/3/1961, Đảng bộ Thanh Hóa đã tổ chức Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V. Tháng 5 năm 1961, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã phát động phong trào thi đua trong toàn tỉnh. Với khu vực miền núi, Tỉnh ủy quyết định giải thể “Ban cán sự Miền Tây” và “Ủy ban hành chính đặc biệt Thượng du”, thành lập “Ban chỉ đạo công tác Miền Tây”. Cũng trong thời gian nay, Tỉnh quyết định thành lập “Công ty Tổ hợp miền núi” ở Na Mèo, Tam Chung, Hồi Xuân[ ]. Ở Quan Sơn nói riêng và Quan Hóa nói chung, giai đoạn này có nhiều sự kiện quan trọng: Đảng bộ huyện Quan Hóa tiến hành Đại hội lần thứ IV [từ 22 đến 23 tháng 02 năm 1962]. Đại hội thẳng thắn kiểm điểm những hạn chế trên các lĩnh vực trong nhiệm kỳ III, Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ trong nhiệm kỳ là: phát triển các HTX nông nghiệp và đẩy mạnh sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp; phát triển văn hóa, giáo dục, y tế và chăm lo cải thiện đời sống nhân dân. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa IV gồm 1 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lương Văn Họi được bầu làm Bí thư, đồng chí Vi Văn Êu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Về địa lý hành chính, giai đoạn này, huyện Quan Hóa có một số điều chỉnh. Ngày 11/2/1963, thực hiện Quyết định số 30 - CP của Hội đồng Chính Phủ, 3 xã: Tam Chung, Sơn Thủy, Trung Thành được chia thành 7 xã mới[ ]. Đến cuối năm 1965, huyện Quan Hóa có 16 xã với 41.635 nhân khẩu. Trong hoàn cảnh một huyện miền núi: nhận thức của người dân chưa cao, ruộng đất canh tác phân tán, sản xuất nông nghiệp trong 2 năm 1962 - 1963 liên tục bị thiên tai, sâu bệnh nhưng đồng bào các dân tộc Quan Hóa vẫn vững niềm tin vào mô hình kinh tế tập thể. Nhờ đó, diện tích trồng trọt bình quân hàng năm vẫn tăng 6,3%, sản lượng lương thực giữ mức ổn định của năm 1961. Từ năm 1961, địch đã cho máy bay xâm nhập vùng trời Quan Hóa. Đến tháng 5 năm 1962 một chiếc máy bay Mỹ - Ngụy thả biệt kích xuống Pù Cọ [xã Trung Hạ thuộc huyện Quan Sơn ngày nay]. Bước sang năm 1964, đặc biệt là những tháng cuối năm, hầu như ngày nào máy bay và tàu chiến của địch đều xâm phạm vùng biển, vùng trời Thanh Hóa. Ngày 14/3/1964, Ủy ban Hành chính tỉnh Thanh Hóa quyết định thành lập hệ thống tổ chức chỉ đạo phòng không nhân dân các cấp và thành lập Phân đội pháo binh dân quân và súng máy cao xạ ở các huyện Quan Hóa, Ngọc Lặc... Tiếp đó, tháng 5 năm 1964, Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết về công tác quân sự địa phương, nêu rõ nhiệm vụ cụ thể: tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tổ chức phòng thủ sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh công tác bảo vệ trị an, phòng chống gián điệp, biệt kích... Trên cơ sở đó, công tác chuẩn bị chiến đấu được Huyện ủy chỉ đạo thực hiện hết sức khẩn trương. Qua đó, phương án tác chiến ở các xã được thiết lập, nhiều cán bộ được cử đi dự các lớp huấn luyện quân sự; công tác phòng tránh chiến tranh được Huyện ủy chú trọng, dọc theo các tuyến đường 15A và 217, các cơ quan, kho tàng, trường học, bệnh viện, bệnh xá... đều được tổ chức sơ tán. Đối với lực lượng dân quân tự vệ, Huyện đã chỉ đạo phát triển thêm 454 dân quân tự vệ [năm 1965], trong đó có 148 nữ dân quân[ ]. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ V được tiến hành từ ngày 2/10/1964 tại xã Hồi Xuân. Đồng chí Trịnh Thuân, Thường vụ Tỉnh ủy - Trưởng ban miền Tây thay mặt Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã đánh giá những kết quả bước đầu và thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại yếu kém trong nhiệm kỳ IV; đồng thời đề ra các mục tiêu chủ yếu cần phấn đấu trong nhiệm kỳ mới và phát động phong trào thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội. Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa mới gồm 19 ủy viên, Ban Thường vụ Huyện ủy 5 đồng chí, đồng chí Lương Văn Họi được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Hà Văn Ban được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền[ ]; đồng chí Hà Văn Cao, Phó Bí thư trực Đảng. Từ năm 1965 đến năm 1968, đây là giai đoạn cùng với đồng bào các dân tộc Quan Hóa, nhân dân Quan Sơn vừa sản xuất, vừa chiến đấu góp phần đánh thắng “chiến tranh Cục bộ” của đế quốc Mỹ. Trên mặt trận quân sự, từ ngày 21/4/1965 đến thời điểm Mỹ tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc, máy bay Mỹ đã bắn phá trên đất Quan Hóa 681 trận, tất cả 23 xã trong huyện đều có vết bom đạn của đế quốc Mỹ, chúng thả 2.755 quả bom các loại từ 100kg trở lên, 1.070 rốc két, 18 quả tên lửa và hàng ngàn loạt đạn 20 ly... Hành động hiếu chiến của Mỹ đã làm cho 32 người chết, 92 người bị thương, 183 nhà ở bị tàn phá, 19 xe ô tô và đầu máy làm đường bị phá hủy, 26 con trâu, bò bị chết; 18 mẫu ruộng lúa, 2 cầu xi măng, 8 cầu gỗ, 8 trạm xá bị phá hoại... Không những thế, địch đã dùng máy bay trinh sát, chụp ảnh các mục tiêu trong huyện, điểm tập trung chú ý nhất là trục đường 217 và 15A, dọc biên giới rẻo cao và nước bạn Lào. Hàng chục toán biệt kích được sự hậu thuẫn của Mỹ đã tiến hành hoạt động phá hoại ở giáp biên giới các xã: Trung Hạ [thuộc huyện Quan Sơn ngày nay], Phú Lệ, Tam Chung, Quang Chiểu... Đế quốc Mỹ đã cho máy bay thả xuống các chòm, bản trong huyện hàng vạn tờ truyền đơn và các loại bạc giả... Lợi dụng tội ác của giặc Mỹ các phần tử xấu đã tiến hành các hành động trộm cắp, tham ô, buôn lậu, giết người, cờ bạc. Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã phối hợp với bộ đội, công an vũ trang đánh địch gần 200 trận lớn nhỏ, nhiều trận chiến ác liệt đã diễn ra ở Na Sài, Pha Lò, Sơn Điện, Phú Lệ, Tam Chung... Đặc biệt ngày 10/02/1966, quân dân các xã Trung Hạ[ ] và Tam Lư trực chiến tại cầu Pha Lò đã bắn cháy 1 máy bay F105 của Mỹ nhưng không rơi tại chỗ mà bay về phía nước Lào. Ngày 14/5/1967, dân quân xã Phú Lệ “nối dài nòng súng” trên đỉnh núi, bắn rơi thêm 1 máy bay F105, bắt sống giặc lái nhảy dù. Qua 4 năm liên tục vừa sản xuất vừa chiến đấu, quân và dân Quan Hóa đã góp phần bắn rơi 2 máy bay giặc Mỹ, bắn bị thương 30 chiếc. Tại Đại hội Công - Nông - Binh toàn tỉnh, Quan Hóa được báo cáo điển hình, xã Phú Lệ được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba, xã Quang Chiểu trở thành lá cờ đầu bảo vệ trị an; Đơn vị 188 được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba... Phong trào thanh niên tình nguyện nhập ngũ được hưởng ứng trên diện rộng. Các xã trong huyện đều hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân hàng năm. Nhiều thanh niên viết đơn bằng máu xin được tòng quân chiến đấu. Các chi hội Phụ lão, Phụ nữ huyện luôn làm tốt công tác vận động người thân lên đường ra tiền tuyến và tham gia chăm sóc gia đình thương binh, liệt sỹ[ ]. Đóng góp của quân dân Quan Hóa nói chung, Quan Sơn nói riêng đã góp phần làm thất bại Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, ngày 1/11/1968, Chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom bắn phá miền Bắc. Trên mặt trận sản xuất, ngay từ cuối năm 1965, thực hiện chủ trương chuyển hướng của tỉnh, Huyện ủy và Ủy ban Hành chính huyện đã chỉ đạo các cơ sở kinh tế chuyển hướng sản xuất từ thời bình chuyển sang thời chiến để phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh. Trong những năm tiến hành vừa sản xuất vừa chiến đấu, Huyện ủy vẫn liên tục lãnh đạo và phát động các phong trào thi đua như đuổi kịp và vượt Hợp tác xã Đông Phương Hồng [huyện Thọ Xuân]. Đặc biệt, khi Tỉnh ủy phát động phong trào thi đua “ba giỏi”[ ], cán bộ, công nhân, viên chức, xã viên ở Quan Hóa đã sôi nổi thi đua, hình thành các phong trào “tay cày tay súng”, “tay búa tay súng”, “tiếng hát át tiếng bom”... Ngày 3 tháng 9 năm 1967, Đại hội Đảng bộ huyện Quan Hóa lần thứ VI được tổ chức tại bản Khó, xã Hồi Xuân. Đại hội đã ra nghị quyết cho 2 năm: 1968 - 1969 là: “Phấn đấu trở thành một huyện giàu có về kinh tế, vững chắc về chính trị, mạnh mẽ về quốc phòng”, đề ra các mục tiêu “5 tấn thóc, 10 tấn sắn/ha/năm; 3 lợn thịt/hộ; 100 tấn cánh kiến/năm... Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa VI gồm 21 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lương Văn Họi được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Hà Văn Cao và Ngân Thị Nhơn được bầu làm Phó Bí thư. Vượt lên muôn vàn khó khăn, Đảng bộ đã lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể cũng như nhân dân trong toàn huyện thực hiện tốt nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI. Cuối năm 1968 gần 80% diện tích lúa được cấy thẳng hàng, nhiều phụ nữ các xã: Phú Lệ, Trung Thượng, Sơn Lư, Sơn Điện... đã tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Công nhân và công đoàn huyện đã nêu cao khẩu hiệu “tay búa tay súng”, đẩy mạnh sản xuất và các hoạt động khác. Hàng trăm đoàn viên thanh niên tham gia xây dựng các công trình thủy lợi và mở đường giao thông. Trên mặt trận văn hóa - xã hội, sự nghiệp giáo dục, đến năm 1968, cả 23 xã trên địa bàn huyện đều có trường cấp I, trong đó có 9 xã có trường cấp II. Ngoài ra huyện còn được ưu tiên mở hai trường Bổ túc văn hóa cho cán bộ, một trường sư phạm 4 + 3. Đặc biệt, trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng huyện vẫn chú ý mở lớp học Chính trị cũng như nghiệp vụ chuyên môn. Nhờ đó, năm học 1967 - 1968 có 8 trường đạt tiêu chuẩn trường chống Mỹ cứu nước. Các hoạt động y tế, văn hóa thông tin đều có những bước tiến vượt bậc. Từ năm 1969 đến năm 1972, đây là thời kỳ nhân dân miền Bắc tiến hành kháng chiến chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ. Sự kiện lịch sử quan trọng đối với đồng bào các dân tộc Quan Hóa giai đoạn này là Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng bộ Quan Hóa, được tổ chức vào tháng 4 năm 1969, tại Bó Lót, bản Khằm, xã Hồi Xuân. Tham dự Đại hội có 120 đại biểu thay mặt cho hơn 1.400 đảng viên trong toàn huyện. Đại hội khẳng định trong hơn một năm qua, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Quan Hóa đã đạt được những kết quả quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu. Về chiến đấu: “Trong tháng Giêng 1968, không quân ta đã bắn rơi 1 máy bay trinh sát, quân dân các xã Nam Động, Thiên Phủ đã phối hợp bắt sống 4 tên giặc lái, sau đó ta lại bố trí bắn bị thương 1 chiến trực thăng”[ ]. Đại hội xác định nhiệm vụ chính trị của huyện là: “Thực hiện tốt cuộc vận động định canh, định cư để đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống nhân dân các dân tộc, góp phần vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội của miền Bắc, đưa phong trào huyện tiến kịp với phong trào chung trong tỉnh, Phấn đấu thành huyện đạt 5 tấn thóc trên ha để góp phần mau được đón Bác Hồ về thăm tỉnh ta”. Đại hội đã chỉ ra những biện pháp cụ thể để hoàn thành nhiệm vụ chính trị đề ra. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa VII gồm 21 đồng chí, đồng chí Lương Văn Họi được tái cử Bí thư; đồng chí Phạm Văn Khánh được bầu làm Phó Bí thư thường trực, đồng chí Lương Chí Ên được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Chấp hành Nghị quyết 38 - CP của Hội đồng Chính phủ, Tỉnh ủy, Ủy Ban hành chính tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành mạnh mẽ cuộc vận động định canh, định cư kết hợp với hợp tác hóa ở miền núi, từ tháng 12 năm 1968. Việc khảo sát điều tra được khẩn trương xúc tiến từ tháng 1 năm 1969 đến tháng 5 năm 1970, Tỉnh xác định toàn bộ 23 xã của Quan Hóa đều thuộc diện đưa vào cuộc vận động. Đợt một, từ tháng 8 năm 1970 đến tháng 1 năm 1971, tiến hành ở Quang Chiểu, Tam Chung, Hiền Kiệt, Hiền Trung. Đợt hai, từ tháng 2 năm 1971 đến tháng 8 năm 1971, vận động ở các xã: Trung Sơn, Trung Thành, Phú Nghiêm, Phú Lệ, Phú Xuân. Đợt ba, từ tháng 9 năm 1971 đến tháng 4 năm 1972 vận động ở Tam Lư, Sơn Điện, Sơn Thủy[ ]. Cũng trong thời gian này, phong trào làm đường giao thông của huyện diễn ra rất sôi nổi. Đảng bộ huyện đã đề ra chủ trương, phát động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tham gia công tác giao thông với tinh thần tự lực, tự cường là chính. Đường liên thôn, liên bản thì do hợp tác xã chủ động tiến hành. Đường liên xã do xã tiến hành. Hệ thống đường giao thông được mở rộng. Số km đường liên huyện, đường liên thôn trong cuộc vận động là 350km, trong đó có 200km đường ô tô. Về giáo dục, hầu hết các trường trong huyện đều có kế hoạch để hưởng ứng cuộc vận động Định canh định cư một cách thích hợp và phù hợp với điều kiện, khả năng của mình. Số giáo viên các cấp học được đào tạo cơ bản ngày càng tăng, đáp ứng yêu cầu của các cấp học. Giáo viên là người dân tộc trong các năm học 1974 - 1975 tăng nhanh. Qua cuộc vận động Định canh định cư, nề nếp chỉ đạo của Ban quản trị, vai trò làm chủ của xã viên, hợp tác xã được nâng cao một bước về cải tiến quản lý. Nhiều hợp tác xã từ chỗ hoạt động rời rạc đã thực hiện sự phân công lao động, bố trí cân đối ngành nghề, tổ chức được những đội chuyên nghiệp như: khai thác, chăn nuôi, kiến thiết, khai hoang, thủy lợi... Nhiều hợp tác xã đã chuyển biến mạnh mẽ về chất: từ 68 hợp tác xã bị đánh giá yếu kém, đến năm 1971 chỉ còn 49 hợp tác xã, số hợp tác xã được xếp loại khá, tăng từ 69 lên 88 hợp tác xã, tỷ lệ hợp tác xã yếu kém giảm từ 30,8% xuống còn 21,3%. Trong cuộc vận động, huyện đã thành lập được 4 hợp tác xã mới. Tháng 3 năm 1971, tại xã Hồi Xuân, đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VIII. Đại hội đã quyết định phương hướng, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài cho Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện: “xây dựng một huyện giàu có về nghề rừng, phát triển các loại cây công nghiệp, đưa chăn nuôi lên thành ngành sản xuất chính. Về lương thực phấn đấu tự túc trong huyện”. Đại hội đã đề ra ba nhiệm vụ chính trị cụ thể về kinh tế, chiến đấu và tổ chức đời sống. Phát động 2 phong trào thi đua [phong trào học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật và phong trào lao động sản xuất thật sôi nổi]. Từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 5 năm 1972, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX đã diễn ra tại trụ sở Huyện ủy [thị trấn Quan Hóa hiện nay]. Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện, khả năng của huyện, Đại hội xác định nhiệm vụ phấn đấu trong những năm tới, cụ thể là trong những năm 1972 - 1973: phải “Tập trung phát huy 3 thế mạnh: nghề rừng, cây công nghiệp và chăn nuôi mà trọng tâm là nghề rừng. Lương thực phấn đấu tới mức cao nhất theo điều kiện của mình một cách hợp lý để làm cơ sở phát huy 3 thế mạnh, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đưa chăn nuôi lên thành ngành sản xuất chính để từng bước tiến lên xây dựng một huyện “khá về kinh tế, vững chắc về chính trị, mạnh mẽ về quốc phòng”. Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa IX gồm 21 đồng chí. Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí. Đồng chí Lương Chí Ên được bầu tái cử làm Bí thư, đồng chí Cao Ngọc Chinh, Ủy viên Thường vụ trực Đảng, đồng chí Hà Văn Cao, Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Đại hội đã ra lời kêu gọi và phát động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tiếp tục thực hiện 4 phong trào: Phong trào tòng quân chống Mỹ, cứu nước; phong trào làm thủy lợi và khai hoang; phong trào chăn nuôi và làm phân bón; phong trào học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế. Từ năm 1972 đến năm 1975, đây là giai đoạn Đảng bộ và nhân dân Quan Hóa tiến hành khôi phục phát triển kinh tế, văn hóa, góp phần đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, ra sức chi viện cho miền Nam, đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Mặc dù tuyên bố chấm dứt ném bom phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ dã tâm và các hành động xâm lược nước ta. Đối với Miền Nam, chúng triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”; đối với miền Bắc, chúng vẫn thường xuyên cho máy bay trinh sát, tung gián điệp biệt kích phá hoại... Cuối năm 1972, tình hình chiến trường miền Bắc Việt Nam có nhiều thay đổi quan trọng. Thất bại liên tiếp trên mặt trận quân sự đẩy đế quốc Mỹ vào tình thế vô cùng khó khăn. “Để cứu vãn tình thế, Chính phủ Mỹ đã trắng trợn lật lọng, tìm cách xóa bỏ bản dự thảo Hiệp định Pa - ri đã thỏa thuận với ta, đòi ta phải sửa chữa 126 điểm mà trước đó phía Mỹ đã hoàn toàn nhất trí. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, Quan Hóa tuy không trong vùng trọng điểm đánh phá của địch nhưng là vùng trọng yếu về quân sự nên đế quốc Mỹ đã dùng trên 500 lần máy bay bắn phá vào 7 điểm với hàng trăm tấn bom đạn, trong đó có cả bom vi trùng khiến nhiều người dân trong huyện bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và chỉ đạo của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, các đơn vị dân quân tự vệ, bộ đội địa phương trong huyện đã có kế hoạch tác chiến hợp lí. Các dân tộc Quan Hóa nêu cao các khẩu hiệu “vừa sản xuất vừa chiến đấu, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “tay cày, tay súng”, “tay búa, tay súng”... Huyện ủy chỉ đạo thực hiện nghiêm ngặt chế độ phòng không sơ tán, sẵn sàng chiến đấu. Cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện đã đào hàng chục chiến hào giao thông, hàng vạn hầm các loại...; đồng bào ven sông, suối luôn sẵn sàng bè mảng để phòng lụt... Toàn huyện có 14 đội trực chiến ở hầu hết các đường giao thông quan trọng như đường 15A, 217 và các xã giáp biên giới, 4 đài quan sát, 8 đội tuần tra... Các tổ “tay cày tay súng”, “tay búa tay súng” đều được trang bị vũ khí cần thiết như súng trường, trung liên, đại liên[ ]. Sự chuẩn bị chủ động, chu đáo của quân dân Quan Hóa đã lập nên những thành tích vẻ vang: thêm một chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Quan Hóa. Chiến công của quân và dân Quan Hóa, Quan Sơn đã góp phần cùng quân dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ. 3.5.3. Quan Sơn cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc [1975 - 1986] Trong không khí quân dân cả nước đặc biệt là quân dân miền Nam tập trung sức lực mở Chiến dịch Hồ Chí Minh tiến công vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Quan Hóa lần thứ X đã diễn ra vào ngày 11/4/1975. Đại hội đã đánh giá cao những kết quả mà quân dân trong huyện đạt được trong nhiệm kỳ, đồng thời biểu dương tinh thần hy sinh, nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và quân dân các dân tộc trong huyện vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu, chi viện sức người, sức của góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa X gồm 23 đồng chí, đồng chí Lương Chí Ên được tái cử làm Bí thư, đồng chí Hà Văn Cao được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Cao Ngọc Chinh được bầu làm ủy viên Thường vụ trực Đảng. Ngày 30/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, sự nghiệp chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi hoàn toàn. Trong chiến công chung đó, Đảng bộ và nhân dân Quan Hóa, Quan Sơn tự hào vì đã có những đóng góp đáng kể về sức người, sức của cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Do yêu cầu và hoàn cảnh mới nên ngày 10/3/1976, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XI đã diễn ra. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 23 đồng chí, đồng chí Lương Chí Ên tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Hà Văn Cao được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Bùi Minh Đông được bầu làm Ủy viên Thường vụ, trực Đảng. Nhằm đưa nghị quyết Đại hội vào cuộc sống, toàn huyện dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hiện tiết kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, tổ chức từng đợt thi đua với khẩu hiệu: “Dậy sóng từng đợt, dứt điểm từng khâu quyết thắng trận đầu”. Mở đầu là đợt thi đua tập trung lực lượng làm vụ thu và mùa năm 1976, sau đó là các đợt làm thủy lợi, khai hoang, phục hóa, trồng màu và học tập. Sôi nổi nhất là đợt thi đua đồng khởi ra quân khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích gieo trồng. Kết quả sau đợt khai hoang, phục hóa đã đạt 525ha, tăng gấp 5 lần so với năm 1976, các đơn vị tích cực làm đã hoàn thành chỉ tiêu khai hoang, phục hóa trước thời hạn là các xã Sơn Lư, Sơn Thủy, Hồi Xuân, Trung Hạ, Trung Thượng... Năm 1977, tổng sản lượng lương thực năm 1977 đạt 15.097 tấn quy thóc, các hợp tác xã đều hoàn thành kế hoạch. Từ năm 1975 đến năm 1985, thi hành Chỉ thị số 02, ngày 15/2/1977 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Ban Thường vụ Huyện ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo các ban, ngành tập trung củng cố các hợp tác xã hiện có. Căn cứ vào đặc điểm địa hình, đất đai huyện nhà, Thường vụ Huyện ủy Quan Hóa đề ra chủ trương: tùy đặc điểm của từng vùng để xác định phương hướng cho từng hợp tác xã. Do ruộng đất phân tán theo từng thung lũng, không có xen canh, các chòm bản thường ở xa nhau, trình độ quản lý của Ban Chủ nhiệm lại có hạn, nên không tổ chức các hợp tác xã quy mô lớn được. Trường hợp có công việc cần nhiều lao động như làm thủy lợi, khai hoang lớn thì tổ chức phối hợp, trao đổi hợp tác lao động giữa các hợp tác xã liên quan. Nhờ sự chỉ đạo sát sao, kịp thời, đồng bào các dân tộc Quan Hóa đã giành được nhiều thắng lợi: Trồng trọt, chăn nuôi: diện tích gieo trồng lúa đạt 2.936,36ha [99,5% kế hoạch, tăng 20% so với năm 1976]; diện tích trồng sắn đạt 2.856,6ha [tương đương 158,5% so với kế hoạch, tăng gấp rưỡi so với năm 1976]; các loại rau màu khác đều vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao. Các hợp tác xã đều hoàn thành nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước. Một số hợp tác xã còn giành một phần lương thực hỗ trợ cho các vùng mất mùa ở miền xuôi. Số lượng đàn gia súc, gia cầm và thủy sản đều vượt kế hoạch đề ra. Về lâm nghiệp, thực hiện Quyết định 184/CP, toàn huyện đã hoàn thành việc giao đất, giao rừng cho các hợp tác xã và lâm trường. Đã có 96 vườn cây giống được xây dựng. Huyện còn tổ chức tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ rừng trong nhân dân các dân tộc. Kết quả là năm 1977, riêng diện tích trồng luồng đã đạt 2.629,7ha [tương đương 175% so với kế hoạch và tăng hơn 9% so với năm 1976], việc tu bổ rừng luồng đã đạt 105% so với kế hoạch. Đồng thời huyện còn ươm được 1.200kg hạt giống cây chủ thả cánh kiến để mở rộng diện tích vào các năm sau. Sau hai kỳ Đại hội[ ], năm 1981, huyện Quan Hóa bước vào thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm [1981 - 1985]. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, đồng bào các dân tộc Quan Hóa đã cùng cả tỉnh khắc phục hậu quả 2 cơn bão [bão số 6 năm 1980 và bão số 2 năm 1981]. Nhân dân Quan Hóa phát huy truyền thống tương thân, tương ái, hỗ trợ hàng trăm tấn lương thực và hàng ngàn cây luồng cho các vùng bị thiệt hại nặng ở các huyện miền xuôi. Trên mặt trận kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp, nhờ thực hiện cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động theo tinh thần Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng nên diện tích, năng suất và sản lượng lương thực đã đạt chỉ số cao nhất so với các năm về trước và đời sống nhân dân được cải thiện, thành tựu của ngành Vật tư nông nghiệp đạt 138% kế hoạch đề ra, ngành Thương nghiệp thực hiện doanh số bán ra đạt 104,8%, mua vào đạt 155,9% so với kế hoạch, tăng hơn so với năm 1980 là 277%. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ngành, các mặt hoạt động và đời sống nhân dân đều có bước chuyển biến tích cực[ ]. Đại hội Đảng bộ huyện Quan Hóa lần thứ XIV diễn ra từ ngày mùng 1 đến mùng 6 tháng 1 năm 1982 [đợt 1] và từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 1 năm 1983 [đợt 2]. Tại Đại hội, các đại biểu quan tâm, bàn nhiều đến việc tiếp tục chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động và công tác xây dựng Đảng bộ huyện trong sạch vững mạnh. Để thực hiện Nghị quyết Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tổ chức triển khai việc thi hành Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng trong toàn huyện. Tiếp đó, ngày 23/10/1983, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ra Nghị quyết 04 - NQ/HU về việc sửa chữa những lệch lạc trong việc thi hành Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Nghị quyết đề ra những chủ trương, biện pháp cấp bách: phải tiếp tục quán triệt, nắm vững nội dung và nghiêm túc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; kiên quyết sửa chữa những lệch lạc sai sót trong công tác khoán và quản lý hợp tác xã; phát huy vai trò động lực của chế độ khoán mới. Trên cơ sở đó, chuẩn bị và đẩy mạnh sản xuất ngay trong vụ chiêm xuân năm 1984. Vận dụng cụ thể Thông tư hướng dẫn số 01, ngày 28/2/1983 của Bộ Nông nghiệp, tổ chức thực hiện chế độ khoán mới đối với các ngành nghề, nhất là nghề rừng. Nghị quyết 04 - NQ/HU cũng quy định rõ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các tổ chức Đảng, chính quyền, các ban, ngành, các cấp, các đoàn thể và các hợp tác xã trên địa bàn huyện. Giai đoạn 1975 - 1985 là thời kỳ đồng bào các dân tộc Quan Hóa phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách nhưng Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Quan Hóa, trong đó có nhân dân các dân tộc Quan Sơn đã không ngừng phát huy truyền thống yêu nước, ý chí cách mạng để vượt qua mọi khó khăn, góp phần cùng nhân dân miền Bắc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 3.5.4. Quan Sơn trong giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới của Đảng [1986 - 1996] Ngay từ đầu năm 1986, Đảng bộ Quan Hóa đã ban hành Nghị quyết về “Tổ chức thực hiện Nghị quyết 28 của Thường vụ Tỉnh ủy, thi hành Chỉ thị 79, 80 của Ban Bí thư Trung ương Đảng”. Trong đợt sinh hoạt chính trị này, huyện đã chọn các xã: Phú Lệ, Hồi Xuân và Nam Động làm điểm chỉ đạo. Quá trình tổ chức chỉ đạo đã tạo được sự đoàn kết, nhất trí. Thông qua đó, đại bộ phận đảng viên đã phát huy được tinh thần: nói thẳng, nói thật, nói hết, nói đúng, tập trung vào ba nội dung chủ yếu là: phẩm chất cách mạng, phong cách lãnh đạo, chính sách cán bộ. Ngày 20/11/1986, Đại hội Đảng bộ huyện Quan Hóa lần thứ XV đã được tiến hành tại Hội trường lớn của huyện. 150 đại biểu đại diện cho trên 1.400 đảng viên từ các đảng bộ, chi bộ cơ sở tham dự Đại hội. Đại hội đã thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến vào bản dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. Sau khi nghe Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIV, các đại biểu đã tỏ rõ sự nhất trí, đồng thời vạch ra những phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ và những giải pháp lớn của huyện trong những năm 1987 - 1990: Tập trung khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của huyện, xây dựng huyện có cơ cấu nông - lâm - công nghiệp hợp lý, có nhiều sản phẩm hàng hóa, nhất là hàng xuất khẩu... Phải từ lương thực, nghề rừng, xuất khẩu, nhanh chóng phát triển sản xuất hàng hóa phong phú, đa dạng mà đi lên [ ]. Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực trạng của đất nước, năm 1986, tại Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã quyết định tiến hành sự nghiệp đổi mới sâu sắc toàn diện. Được sự định hướng của Trung ương Đảng, để thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, đặc biệt là chương trình lương thực, thực phẩm, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện và Thường vụ Huyện ủy đã tổ chức xây dựng phương án đẩy nhanh phát triển nông nghiệp, chăn nuôi. Huyện ủy chỉ đạo các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện tốt Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Các hợp tác xã [Thiên Phủ, Hiền Kiệt, Trung Hạ, Trung Thượng, Sơn Điện, Tén Tằn, Quang Chiểu, Phú Nghiêm] đã đưa vào sử dụng các giống ngô, lúa mới có năng suất cao, chiếm tới 75 - 80% diện tích. Ngoài lúa, các hợp tác xã còn trực tiếp lãnh đạo xã viên mở rộng diện tích trồng hoa màu: sắn, ngô, khoai, dong giềng, củ, quả các loại. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chú ý thay đổi theo hướng sản xuất hàng hóa. Đặc biệt, huyện đã quyết tâm đưa cây ngô vào trồng thử nghiệm ở các xã vùng cao và đã thu được kết quả rất tốt. Về sản xuất nông nghiệp, do mạnh dạn sản xuất thâm canh cây lúa nước, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa giống mới vào sản xuất nên năm 1986, tổng sản lượng lương thực quy thóc của huyện đã đạt tới 22.090 tấn. Chăn nuôi ngày càng phát triển, tổng đàn trâu năm 1986 có 7.431 con, năm 1987 [đến tháng 10] đã có 7.557 con [bằng 124% so với kế hoạch]. Tỷ lệ đàn lợn vẫn được giữ vững và áp dụng kỹ thuật, giống vào chăn nuôi lợn lai kinh tế. Phong trào nuôi thả cá ở các vùng, các gia đình phát triển mạnh, kể cả vùng cao. Hàng năm, huyện nhập hàng trăm tấn cá cho các hợp tác xã. Về lâm nghiệp, đồng bào các dân tộc Quan Hóa ngày càng nâng cao ý thức bảo vệ rừng. Trong 2 năm, huyện đã giao 157.105ha rừng và đất rừng cho 1.631 hợp tác xã, ba lâm trường và 7.343 hộ gia đình xã viên. Cây luồng đã trở thành sản phẩm hàng hóa, tạo nguồn vốn, thúc đẩy việc xây dựng một số cơ sở vật chất kỹ thuật trong huyện. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản đã có những tín hiệu khả quan. Tổng giá trị tiểu thủ công nghiệp 2 năm đạt 17.511.000 triệu đồng. Sản phẩm chủ yếu là công cụ cầm tay, vật liệu xây dựng. Một số ngành được mở ra như xay xát nông sản, mây tre đan, tăm mành, xuất khẩu... Trong xây dựng cơ bản, được sự hỗ trợ của Nhà nước, huyện đã vận động nhân dân thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Năm 1987, huyện đã xây dựng được Trạm giống cây số 10, nhà chụp phim X quang của bệnh viện. Năm 1988, huyện thực hiện chủ trương cắt giảm đầu tư xây dựng cơ bản với những công trình chưa cấp thiết, tập trung cho những công trình trọng điểm, sớm phát huy tác dụng, phục vụ ba chương trình kinh tế. Hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa: năm 1987, Thường vụ Huyện ủy ra Nghị quyết 05 về một số công tác cấp bách về giáo dục phổ thông và mẫu giáo, nhà trẻ. Các cấp ủy đảng, chính quyền và ngành Giáo dục đã quán triệt và tổ chức thực hiện. Trong hai năm, huyện đã xây dựng thêm được 20 phòng học. Ngoài ra, huyện còn mở được hai lớp dạy nghề mây tre đan và nghề mộc cho 60 học sinh học nghề. Ngành y tế đã tổ chức các đợt tiêm phòng cho nhân dân, kịp thời ngăn chặn bệnh lây lan ở một số vùng. Công tác văn hóa - thông tin, chiếu bóng, truyền thanh đã hướng vào việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ của địa phương, chú ý đến việc xây dựng nếp sống văn hóa mới. Hoạt động an ninh - quốc phòng: Huyện ủy chỉ đạo phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc. Hàng năm, các xã đều hoàn thành nhiệm vụ gọi thanh niên nhập ngũ. Huyện đội duy trì chế độ chỉ huy, trực chiến ở các cơ quan và các trung đội mạnh để sẵn sàng xử lý các tình huống, thường xuyên chấn chỉnh lực lượng dân quân tự vệ và quân dự bị động viên. Huyện đội cùng với Công an huyện đã tiến hành thu hồi vũ khí, vật liệu nổ. Giai đoạn này, các đơn vị hành chính của huyện có sự thay đổi lớn. Theo Quyết định số 04/HĐBT ngày 5/1/1987 của Hội đồng Bộ trưởng chia xã Hồi Xuân thành 2 đơn vị hành chính là xã Hồi Xuân và thị trấn Quan Hóa; ngày 29/2/1988, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 19/HĐBT chia các xã: Phú Nghiêm thành 2 xã: Phú Nghiêm và Xuân Phú; Phú Xuân thành 2 xã là Phú Xuân và Thanh Xuân. Chia xã Phú Lệ thành 3 xã là: xã Phú Lệ, xã Phú Sơn và Phú Thanh; Chia xã Sơn Lư thành 2 xã là: Sơn Lư và Sơn Hà. Chia xã Trung Thành thành 2 xã là: Trung Thành và Thành Sơn; Chia xã Tam Lư thành 2 xã là: Tam Lư và Tam Thanh. Đại hội Đảng bộ huyện Quan Hóa lần thứ XVI được tổ chức ngày 6/1/1989 tại Hội trường UBND huyện. Đại hội đã đánh giá những kết quả mà nhân dân toàn huyện đạt được trong nhiệm kỳ XV trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh - quốc phòng và xây dựng Đảng. Bên cạnh những ưu điểm đó vẫn còn tồn tại những khuyết điểm như: sản xuất nông lâm nghiệp còn chậm chuyển biến về năng suất, sản xuất còn trong tình trạng quảng canh, tự túc tự cấp, sản phẩm hàng hóa ít; việc thực hiện đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp còn hạn chế. Trên cơ sở đó, Đại hội đã vạch ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội những năm 1989 - 1991 là: Giải phóng mọi năng lực sản xuất để giải quyết tốt vấn đề lương thực, phát triển sản xuất hàng hóa trên cơ sở tiềm năng sẵn có, từng bước khắc phục sản xuất tự túc, tự cấp, giải quyết tốt vấn đề học hành sức khỏe, đi lại của nhân dân, đảm bảo giữ vững an ninh - quốc phòng, giữ vững và phát huy tình đoàn kết giữa các dân tộc và tình hữu nghị láng giềng giữa nhân dân hai bên biên giới Việt - Lào anh em[ ]. Quá trình thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI cũng là thời điểm Huyện triển khai Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế khoán trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đây là giai đoạn chuyển biến mạnh mẽ, thực hiện cơ chế khoán mới, cơ chế quản lý mới, đưa hộ gia đình, xã viên trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó yên tâm đầu tư, thâm canh trên diện tích đất mình được giao. Trong năm 1989, toàn huyện thu hoạch được 22.609 tấn lương thực, bình quân đầu người 286kg. Chăn nuôi tiếp tục phát triển đồng đều, nhất là số lượng đàn bò đã tăng lên đến 20.000 con. Việc đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi cá đã trở thành phong trào trong nhân dân. Tính ra, bình quân sản lượng hàng năm của thời kỳ 1986 - 1990 đã có những bước tiến vượt bậc: sản lượng lương thực đạt 18.372 tấn, năng suất vụ chiêm đạt 19,6 tạ/ha; lúa mùa đạt 13,6 tạ/ha. Sản lượng sắn đạt 28.952 tấn, ngô đạt 933 tấn; sản lượng rau đạt 338 tấn; đậu tương đạt 22,5 tấn... Tổng đàn trâu là 8.259 con, đàn bò là 13.026 con, đàn lợn là 19.699 con. Diện tích trồng rừng [chủ yếu là luồng] hàng năm đạt 178ha, khai thác luồng 1,02 triệu cây và 500.000 cây nứa[ ]. Nhìn chung, sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Quan Hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề cho giai đoạn 1991 - 1995. Bước vào những năm đầu thập kỷ 90, bối cảnh quốc tế có những diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng bất lợi cho cách mạng nước ta. Trên địa bàn Quan Hóa, mặc dù đã có nhiều thành tích trong lao động sản xuất nhưng nhìn chung, đời sống nhân dân các dân tộc vẫn rất khó khăn, tình trạng học sinh bỏ học còn nhiều, mạng lưới an ninh nhân dân vẫn còn mỏng. Ngày 30/10/1991, tại hội trường Ủy ban nhân dân huyện Quan Hóa, 150 đại biểu thay mặt cho trên 2.300 đảng viên đã tiến hành Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII [vòng 2]. Sau khi đánh giá những kết quả quân dân trong huyện đạt được trong nhiệm kỳ qua và nêu ra những hạn chế cần khắc phục để đưa ra phương hướng phấn đấu trong nhiệm kỳ mới; Đại hội đã bầu Ban Chấp hành khóa XVII gồm 33 đồng chí, đồng chí Lò Văn Quyn được bầu làm Bí thư, đồng chí Hà Văn Duyệt được bầu làm Phó Bí thư thường trực, đồng chí Hà Văn Thương được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Thời gian thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII cũng là thời gian vận dụng, cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIII vào tình hình thực tế của địa phương. Với kinh nghiệm quý báu đã tích lũy được sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Quan Hóa đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, phát huy thuận lợi để hoàn thành cơ bản các mục tiêu Đại hội XVII đã đề ra. Về kinh tế: Đảng bộ huyện đã triển khai kịp thời và vận dụng sáng tạo cơ chế quản lý kinh tế mới, phù hợp với đặc điểm của huyện nhà. Minh chứng rõ nhất là cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch đúng hướng, theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác được thế mạnh của huyện, xóa bỏ dần sản xuất tự cấp, tự túc. Tỷ trọng ngành nông nghiệp đang giảm dần, so với giai đoạn 1986 - 1990, tỷ trọng ngành nông nghiệp đã giảm từ 70% xuống còn 60%, ngược lại, ngành lâm nghiệp từ chỗ chỉ chiếm 15% đã tăng lên 20%; tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ cũng tăng từ 15% lên 20%. Sản lượng lương thực hàng năm tăng bình quân 6,8% và đạt bình quân 20.000 tấn/năm. Năng suất lúa bình quân đạt 32 tạ/ha, năm cao nhất đạt 37 tạ/ha. Bình quân lương thực hàng tháng đạt 20kg/người, về căn bản đã giải quyết được nhu cầu lương thực của nhân dân. Cơ cấu mùa vụ chuyển dần theo hướng đa dạng, từng bước tạo nền nông nghiệp đa cây, đa con, đa loại hình. Trên một số địa bàn đã phát triển mạnh các cây công nghiệp ngắn ngày như: đậu tương, dâu tằm, bông, chè, cây ăn quả... Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày bình quân hàng năm đạt 300ha, năm cao nhất đạt 513ha, cao gấp 2 lần so với giai đoạn 1986 - 1990, mở ra tiềm năng về sản xuất hàng hóa. Chăn nuôi: trong 5 năm, số lượng đàn gia súc, gia cầm không ngừng tăng nhanh, tỷ trọng ngành chăn nuôi đã chiếm từ 25 - 30% tỉ trọng nông nghiệp. Nhân dân trong huyện đã xác định phát triển chăn nuôi cũng là một biện pháp hiệu quả để tạo ra sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tính đến tháng 3 năm 1996, đàn trâu, bò của huyện đạt 30.000 con, bình quân mỗi hộ có 3 con trâu bò, tăng 12,2% so với giai đoạn 1986 - 1990. Nét nổi bật trong sản xuất lâm nghiệp là từ khi có chủ trương giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp thì công tác chăm sóc, bảo vệ, trồng rừng mới được đẩy mạnh. Trong 3 năm [1994 - 1996], huyện đã tiến hành giao đất, giao rừng cho 3.600 hộ với diện tích 10.000ha, trồng mới được 500ha rừng tập trung và hàng ngàn cây phân tán. Một số mô hình làm kinh tế vườn rừng [nhất là rừng luồng] đã mang lại hiệu quả từng bước phủ xanh đất trống đồi trọc. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng các ngành tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại đã và đang có bước phát triển. Giá trị hàng hóa mỗi năm tăng 5,2%. Các điểm trao đổi, mua bán hàng hóa ngày càng mở rộng, nhất là trên các trục giao thông và trung tâm điểm kinh tế. Ngoài chợ thị trấn, huyện đã củng cố xây dựng mới các chợ: Na Mèo, Tén Tằn. Một số điểm giao thương đã hình thành và phát triển như các điểm ở Km 62, Km 22, Km 35 [đường 217], ở Nam Tiến, Nam Động, trên tuyến sông Luồng, Pom Buôi, Phú Lệ... Về văn hóa - xã hội: các cấp ủy đảng và chính quyền coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong 5 năm [1991 - 1995], đời sống nhân dân trong huyện nhìn chung đã ổn định và mức sống đã tăng cao hơn trước. Số hộ kinh tế khá chiếm 14%, số hộ kinh tế trung bình chiếm 74%. Đến đầu năm 1996, toàn huyện có 34% số hộ có điện sinh hoạt, 5% số hộ có xe máy, 3% số hộ có máy thu hình. Với sự giúp đỡ của Nhà nước và nguồn vốn của địa phương, huyện đã xây dựng hoàn chỉnh công trình đường điện 35KV; năm 1992 người dân đã được xem truyền hình. Về giáo dục - y tế: Đến cuối năm 1995, toàn huyện có 22.000 học sinh [bình quân cứ 4 người dân có 1 người đi học]. Các ngành học phát triển cân đối, tỷ lệ học sinh đến trường và lên lớp ngày càng tăng, chất lượng dạy và học được nâng lên từng bước. Hầu hết các trường học đã được xây dựng kiên cố, không còn tình trạng học ca 3. Huyện đã xây dựng được hai trường cao tầng. Tuy cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế, nguồn thuốc chữa bệnh còn thiếu, nhưng mạng lưới y tế từ huyện xuống cơ sở đã được củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động. Các loại dịch bệnh, đặc biệt là bệnh sốt rét đã giảm đáng kể. Năm 1995, bình quân giá trị tiền thuốc cho 1 người dân đã tăng 8 lần so với năm 1991, việc cấp thuốc theo Chương trình 156 đạt gần 2 tỷ đồng. Ngày 19/2/1994, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Quan Hóa quyết định thành lập Ủy ban Dân số kế hoạch hóa gia đình huyện. Nhờ đó, số người trong độ tuổi sinh đẻ tự nguyện thực hiện các biện pháp tránh thai ngày càng tăng lên, tỉ lệ gia đình sinh con thứ 3 ngày càng giảm xuống. Tăng dân số tự nhiên đã giảm từ 2,54% [năm 1990] xuống còn 2,3% [năm 1995]. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em được triển khai trên diện rộng; tỉ lệ trẻ tiêm chủng mở rộng đạt 87,7%. Các hoạt động thông tin, truyền thông đã góp phần đắc lực vào việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao dân trí cho nhân dân. Hoạt động thể dục - thể thao được duy trì và phát triển ở các trường phổ thông và các chòm, bản, tạo nên phong trào sâu rộng, góp phần bảo vệ sức khỏe, tăng cường thể lực cho nhân dân. Đặc biệt, trong các ngày lễ lớn [như trong năm 1995], các hoạt động văn hóa được tổ chức rất sôi nổi và phong phú. Thực hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, trong 5 năm [1991 - 1995], toàn huyện đã dấy lên các phong trào đền ơn đáp nghĩa với sự hưởng ứng sôi nổi của đông đảo nhân dân. Các chế, độ chính sách được thực hiện đầy đủ, góp phần giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sỹ giảm bớt khó khăn. Các hoạt động từ thiện, nhân đạo đối với người già cô đơn, trẻ mồ côi... đã được triển khai trên diện rộng. Về quốc phòng - an ninh: Trong 5 năm [1991 - 1995], Đảng bộ và nhân dân Quan Hóa luôn luôn thực hiện tốt và nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Ngày 24/3/1996, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII đã được tiến hành. Đại hội đã đánh giá tổng quát những ưu, khuyết điểm của việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XVII, Đại hội nêu rõ: “Nghị quyết Đại hội XVII đã đi sâu vào cuộc sống, đạt được thành tích tương đối toàn diện, kinh tế phát triển và có nhiều mặt tăng trưởng khá, một bộ phận nhân dân bước đầu có ý thức làm kinh tế hàng hóa, năng động hơn, thích ứng với cơ chế thị trường. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch ngày càng rõ. Thế mạnh từng bước được phát huy, đời sống nhân dân có mặt được cải thiện, văn hóa - xã hội có bước phát triển khá, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới tiến bộ”[ ]. Đại hội này được đánh dấu là Đại hội cuối cùng của huyện Quan Sơn [cũ]. Sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII, thực hiện Nghị định 72/CP ngày 18/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ huyện Quan Hóa [cũ] được tách thành 3 huyện là Quan Hóa [ngày nay], Quan Sơn và Mường Lát. 3.6. QUAN SƠN TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA [1996 - 2015] 3.6.1. Thành lập huyện Quan Sơn và sự ra đời của Đảng bộ huyện Ngày 18 tháng 11 năm 1996, huyện Quan Sơn được thành lập theo Nghị định 72/CP của Chính phủ, gồm phần đất của 9 xã huyện Quan Hóa. Từ đây, huyện Quan Sơn chính thức trở thành một đơn vị hành chính của tỉnh Thanh Hóa có hệ thống tổ chức bao gồm 9 xã: Trung Xuân, Trung Thượng, Trung Hạ, Sơn Hà, Tam Thanh, Sơn Thủy, Sơn Lư, Tam Lư, Sơn Điện. Danh xưng Quan Sơn ra đời hàm chứa một ý nghĩa lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển của đồng bào các dân tộc trong huyện. Khi mới chia tách, huyện Quan Sơn có diện tích tự nhiên là 86.534,85ha và 29.952 khẩu. Địa giới huyện Quan Sơn: phía đông giáp huyện Bá Thước và huyện Lang Chánh, phía tây và nam giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía bắc giáp huyện Quan Hóa. Sau khi trở thành một đơn vị hành chính cấp huyện, yêu cầu thành lập một Đảng bộ để lãnh đạo các dân tộc ở Quan Sơn trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội là rất cần thiết trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Ngày 16 tháng 12 năm 1996, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã ra Quyết định số 131/QĐ-TU thành lập Đảng bộ huyện Quan Sơn và Quyết định số 136/QĐ-TU về việc chỉ định Ban Chấp hành Huyện ủy lâm thời huyện Quan Sơn. Ban Chấp hành Huyện ủy lâm thời gồm 15 đồng chí: Hà Văn Thương, Hà Văn Thông, Phạm Văn Thư, Hà Văn Thống, Trịnh Đình Xu, Lương Hồng Thuân, Hà Chí Nông, Hà Văn Đoàn, Lữ Văn Tự, Hoàng Văn Đại, Lò Đình Múi, Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Văn Đồng, Phạm Phú Hào, Lữ Văn Xiệt; Chỉ định và phân công 5 đồng chí ủy viên Ban Thường vụ:đồng chí Hà Văn Thương - Bí thư Huyện ủy; đồng chí Hà Văn Thống - Phó Bí thư thường trực; đồng chí Phạm Văn Thư - Phó Bí thư phụ trách chính quyền; đồng chí Hà Văn Thống - Ủy viên Thường vụ, phụ trách Quân sự huyện; đồng chí Trịnh Đình Xu - Ủy viên Thường vụ, phụ trách Công an huyện. Trong niềm vui phấn khởi hân hoan, thắm tình đoàn kết, ngày 31/1/1997, Huyện ủy lâm thời UBND lâm thời huyện Quan Sơn ra mắt cán bộ, đảng viên đồng bào các dân tộc trong huyện. Để xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước và tổ chức cơ sở Đảng, Huyện ủy lâm thời đã đề nghị các cơ quan chức năng cấp tỉnh cho phép thành lập các tổ chức đoàn thể quần chúng. Với sự lãnh chỉ đạo tích cực sáng tạo và năng động của Huyện ủy lâm thời nên chỉ trong thời gian ngắn, hệ thống chính trị cấp huyện [HĐND, UBND], Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội Nông dân, hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ đã được thành lập và từng bước kiện toàn tổ chức bộ máy, bảo đảm hoạt động theo nề nếp. Bên cạnh đó, Huyện ủy lâm thời đã lãnh đạo Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong huyện xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội tạo ra những điều kiện thuận lợi thúc đẩy kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh - quốc phòng phát triển. Sau một thời gian chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức, nhân sự và cơ sở vật chất từ ngày 26 đến ngày 27 tháng 6 năm 1997 Đảng bộ huyện Quan Sơn đã tiến hành Đại hội lần thứ I. Trong không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội đã đánh giá tình hình hoạt động trong 6 tháng đầu năm 1997 những thành công, hạn chế trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh,... đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp cho chặng đường phát triển tiếp theo. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 33 đồng chí, Ban Thường vụ 11 đồng chí. Đồng chí Hà Văn Thương được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Hà Văn Thông được bầu làm Phó Bí thư thường trực; đồng chí Phạm Văn Thư được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện. Thành công của Đại hội Đảng bộ huyện Quan Sơn lần thứ I đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự nghiệp xây dựng, phát triển, bảo vệ quê hương; Đảng bộ và nhân dân huyện Quan Sơn đã đoàn kết, chung sức, chung lòng vượt qua khó khăn thách thức, tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh của huyện để xây dựng quê hương, phát triển kinh tế - xã hội, tạo những bước tiền đề cơ bản đưa huyện Quan Sơn hòa nhập trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.6.2. Quan Sơn thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [1997 - 2000] Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế của nước ta tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, đất nước cơ bản đã ra khỏi khủng khoảng kinh tế - xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng quyết định chuyển đất nước ta vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh chung của đất nước và của tỉnh Thanh Hóa bước vào thời kỳ mới, huyện Quan Sơn bước vào thời kỳ này với điểm xuất phát thấp và phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách vì huyện vừa mới được thành lập. Tập quán sản xuất của nhân dân đa số còn mang tính tự cung tự cấp là chủ yếu, thu nhập thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội yếu kém, trình độ dân trí còn hạn chế và không đồng đều, tỷ lệ hộ nghèo cao; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc còn thiếu thốn nhiều mặt, trình độ đội ngũ cán bộ cấp huyện và cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra..”[ ]. Tuy nhiên những khó khăn, thách thức ban đầu dần dần đã được khắc phục bởi Quan Sơn là một trong những huyện có tiềm năng, lợi thế, có triển vọng để khai thác phát triển đi lên; nhân dân các dân tộc trong huyện có truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, có ý chí tự lực tự cường để vươn lên xây dựng quê hương. Đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, hăng hái nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm với công việc được giao cùng với quyết tâm của Đảng bộ, sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự hướng dẫn, giúp đỡ của các sở ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh; sự động viên khích lệ của các huyện bạn đã tạo ra động lực mới, khí thế mới tiếp sức cho Đảng bộ và nhân dân trong huyện vượt qua những khó khăn thách thức ban đầu, từng bước xây dựng các nguồn lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương. Là một huyện vùng biên, giáp với biên giới nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, trong quá trình xây dựng và phát triển, huyện Quan Sơn đã biết phát huy và giữ gìn tình đoàn kết hữu nghị với huyện Viêng Say và Sầm Tớ của tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đây là điều kiện quan trọng để huyện Quan Sơn tiếp tục tạo đà và thế để vững bước phát triển đi lên. Ngay trong những năm đầu thành lập huyện, để tiếp tục tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn đã mạnh dạn đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, xóa bỏ những yếu tố lạc hậu trong tập quán cũ, phát huy và kế thừa những truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc trong huyện, xây đắp nên những thành quả mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa. Về kinh tế: Tổng diện tích gieo trồng từ năm 1997 đến năm 2000 đạt 9.898ha [bình quân mỗi năm đạt 3.299,2ha]. Tổng sản lượng lương thực trong 3 năm đạt 26.442 tấn [bình quân mỗi năm đạt 8.814 tấn]; bình quân lương thực theo đầu người đạt 280kg/người/năm. Sản lượng nông nghiệp trên địa bàn huyện về cơ bản đã đảm bảo tự túc lương thực và thực phẩm. Ngành chăn nuôi duy trì và phát triển trên cơ sở các giống vật nuôi truyền thống: đàn trâu hàng năm đạt 3.983 con; đàn bò đạt 6.281 con, diện tích nuôi cá là 26,94ha; Chương trình 135 đã giành 50 triệu đồng làm thí điểm mô hình trang trại luồng - đậu tương - gà Tam Hoàng tại xã Trung Thượng. Trung tâm Khuyến nông - Khuyến lâm huyện Quan Sơn đã tổ chức trồng thí điểm 0,5ha giống đậu tương DTB4. Về lâm nghiệp, đến năm 2000, toàn huyện đã tiến hành giao đất, giao rừng với tổng số 84.493,5ha. Trong đó: giao cho 479 hộ nông dân số diện tích 30.390,6ha, giao cho 2 đồn biên phòng số diện tích số diện tích 12.881ha, giao cho 2 lâm trường số diện tích 14.326ha, giao cho 60 bản số diện tích 11.607ha, giao cho chính quyền cơ sở số diện tích 15.289ha. Rừng và đất rừng ở Quan Sơn được hồi phục chăm sóc bảo vệ tốt, khai thác lâm sản được tiến hành hợp lí, đúng kỹ thuật. Toàn huyện đã trồng mới được 783,6ha rừng luồng, rừng quế và 82.414 cây phân tán. Khai thác lâm sản được tiến hành theo kế hoạch. Chỉ tính riêng trong năm 2000, toàn huyện khai thác được 2.024,5m3 gỗ, 11.322 tấn nan thanh, 181.920 cây luồng, 188 ste củi, 1.500 tấn đũa xuất khẩu, 6.9000 đoạn song, 1,6 tấn quế vỏ. Do trên địa bàn huyện đã hình thành các khu tập trung dân cư nên đã xuất hiện một số cơ sở sản xuất gạch, khai thác đá, cát, sỏi thủ công; Các nghề thủ công như: sản xuất công cụ cầm tay, mộc, may mặc, sơ chế lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng... được hình thành và phát triển mở rộng, thu hút đông đảo lao động xã hội. Các nghề thủ công truyền thống như: dệt thổ cẩm, làm đệm bông... được phục hồi, góp phần nâng tổng giá trị sản xuất thủ công nghiệp; nhiều khu chợ mới được thành lập, một bộ phận cư dân trong huyện đã chuyển sang kinh doanh hàng hóa tổng hợp; các mặt hàng được trợ cước, trợ giá đã đến với đồng bào các dân tộc đủ số lượng và đúng chất lượng. Trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2000, tỉnh và Trung ương đã đầu tư xây dựng 72 công trình xây dựng trên địa bàn huyện. Quan Sơn cũng đã xây dựng được nhiều công trình lớn như: Hội trường của huyện, chợ Na Mèo, Trường tiểu học Trung Thượng II, Trụ sở Ngân hàng Nông nghiệp, Trường Nội trú [cấp II và cấp III], tượng đài liệt sỹ, Trường Tiểu học Sơn Lư, Trường Tiểu học Tam Lư, trụ sở các xã Sơn Lư và Trung Xuân, kè bờ hữu sông Lò, 5 công trình thủy lợi [ở 2 xã Trung Xuân và Trung Thượng], chợ Tam Thanh, trụ sở Kho bạc, mương Na Ấu [xã Tam Thanh], đập Muống [xã Sơn Thủy]... Tiến hành thi công các công trình: đập Hạ [xã Sơn Hạ], Đập Hậu [xã Tam Lư], đường Mẫy Bàng [xã Trung Thượng], Trường Tiểu học Sơn Điện - Sơn Thủy, 7 trạm y tế tại 7 xã [chương trình thuộc dự án Dân số - Kế hoạch hóa gia đình], đường nhựa từ Km 42 vào xã Tam Lư - xã Tam Thanh, đường trục xã Trung Xuân, công trình nước sạch bản Lấm [xã Sơn Lư], đường ngang trung tâm huyện lỵ, đập mương Na Mèo, đập Trung Hạ, 4 trường tiểu học cùng công trình thủy lợi tại 4 xã biên giới. Riêng trong năm 2000, huyện Quan Sơn tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các công trình: trường Trung Hạ, Sơn Thủy; trụ sở Ủy ban nhân dân các xã: Trung Hạ, Na Mèo, Sơn Điện, Mường Mìn, 7 trạm xá xã, 6 nhà y tế thôn, bản; đập Hạ [xã Sơn Hà], đập Hậu [xã Tam Lư], đập Na Pạng [xã Mường Mìn], đập Muống [xã Sơn Thủy], đập Bôn [xã Tam Thanh], đập Sại [xã Tam Lư]. Huyện còn tiến hành giám sát thi công Phòng khám đa khoa cụm xã Sơn Điện - Sơn Thủy - Mường Mìn - Na Mèo; khảo sát, mở rộng 2km đường trung tâm huyện lỵ. Nhìn chung với việc đầu tư xây dựng cơ bản ở Quan Sơn đi đúng hướng nên mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Riêng Chương trình 135 của Chính phủ không chỉ giúp nhân dân vùng sâu, vùng xa đỡ khó khăn mà còn giúp khu vực trung tâm huyện lỵ thêm phần khởi sắc. Bên cạnh những chuyển biến tích cực của kinh tế, văn hóa - xã hội cũng đạt được nhiều thành quả mới. Sự nghiệp giáo dục đào tạo ngày càng được chú trọng. Đảng bộ, nhân dân huyện Quan Sơn đã quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất trường, lớp, tiến hành cải cách giáo dục theo hướng xã hội hóa. Huyện đã chỉ đạo xây dựng trường THCS và THPT Nội trú. Năm 1997 chỉ tuyển sinh được 100 học sinh nhưng số lượng học sinh đã tăng lên hàng năm. Chỉ tính năm 1998, trên địa bàn huyện, nhiều trường phổ thông cơ sở được đầu tư xây dựng, như Trường Nội trú cấp II - III được hoàn thành đã đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa. Phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” đã kích thích chất lượng học sinh các cấp nâng lên. Năm 1999, Trường Phổ thông trung học Quan Sơn đã tổ chức khai giảng khóa học đầu tiên [niên học 1999 - 2000] với 100 học sinh theo học lớp 10. Bước sang năm 2000, số lượng học sinh THPT ở Quan Sơn đã tăng lên 397 học sinh, 11 xã[ ] trong huyện được công nhận xóa mù chữ thành công và phổ cập Tiểu học. Công tác y tế phát triển tương đối toàn diện ở cả tuyến huyện và cơ sở. Bệnh viện huyện Quan Sơn, Phòng khám đa khoa cụm, Trạm y tế xã được xây dựng kiên cố. Tỷ lệ tăng dân số từ 1,7% vào năm 1997 đến năm 2000 đã giảm còn 1,4%. Quan Sơn đã thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa gia đình. Hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao được xã hội hóa và phát triển rộng. Các làn điệu dân ca, các điệu múa truyền thống của các dân tộc trong huyện được khôi phục lại. Các môn thể thao như: bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông, bóng đá... được phát triển thành các môn thể thao quần chúng, được thanh thiếu niên, cán bộ tham gia sôi nổi. Huyện đã tổ chức các cuộc thi đấu thể thao, một số nội dung được lựa chọn tham gia thi đấu cấp tỉnh. Ở các chòm bản, tổ chức biểu diễn các tiết mục văn nghệ dân tộc và truyền dạy cho lớp trẻ. Phong trào xây dựng làng văn hóa phát triển sâu rộng. Nhiều bản làng, gia đình được công nhận làng văn hóa, gia đình văn hóa. Công tác thông tin tuyên truyền được tiến hành liên tục và có hệ thống, nhằm đưa chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tình hình thời sự trong nước và quốc tế đã cập nhật đến từng người dân Quan Sơn. Do được tiếp thu kiến thức văn hóa mới, nhiều gia đình đã biết cách tổ chức sản xuất và làm giàu. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” phát triển sâu rộng và đem lại hiệu quả chính trị - kinh tế - xã hội sâu sắc. Từ năm 1997 đến năm 2000, toàn huyện đã đóng góp 31,5 triệu đồng tu bổ nhà cho thương binh và Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, tặng sổ tiết kiệm cho gia đình chính sách. Song song với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, Đảng bộ và nhân dân huyện Quan Sơn còn tập trung xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc. Cùng với việc xây dựng thế trận lòng dân, các cấp ủy đảng ở Quan Sơn đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng, củng cố vững chắc lực lượng vũ trang nhân dân trên mọi phương diện. Việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị động viên, lực lượng công an viên được Đảng bộ và chính quyền huyện đặc biệt quan tâm. Hằng năm, huyện đều đảm bảo chỉ tiêu gọi thanh niên nhập ngũ. Các lớp tập huấn, huấn luyện hằng năm được thực hiện theo kế hoạch đã định. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện, đặc biệt là khu vực biên giới luôn ổn định. Các xã Sơn Điện, Mường Mìn là những đơn vị dẫn đầu phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 2000. Lãnh đạo huyện Quan Sơn và lãnh đạo các huyện Sầm Tớ, Viêng Xay [nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào] đã tổ chức trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa lãnh đạo và nhân dân các huyện vùng biên giới ngày càng gắn bó thân thiết. Công tác xây dựng Đảng luôn được chú trọng nhằm đảm bảo cho Đảng bộ huyện đáp ứng yêu cầu tổ chức lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế trên địa bàn huyện. Chỉ trong năm 1998, cùng với việc quán triệt các nghị quyết của Đảng, Huyện ủy Quan Sơn đã chỉ đạo Trung tâm Chính trị huyện mở lớp Lý luận phổ thông cho 150 học viên, mở 2 lớp chuyên đề cho 180 học viên, mở 2 lớp đối tượng Đảng cho 185 quần chúng ưu tú, mở 2 lớp thanh niên ưu tú cho 385 học viên và mở 6 lớp truyền tin tại huyện, 3 lớp truyền tin cơ sở. Đến năm 2000, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên tiếp tục được đẩy mạnh, Huyện ủy đã mở 11 lớp giáo dục lý luận chính trị và các chuyên đề về công tác Đảng, công tác đoàn thể cho 1.477 học viên; kết nạp 171 đảng viên mới, chuyển chính thức cho 160 đảng viên, đưa tổng số đảng viên toàn huyện lên 1.500 đồng chí, sinh hoạt trong 23 đảng bộ, chi bộ trực thuộc[ ]. Hoạt động của Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân huyện có nhiều đổi mới theo hướng thực hiện cải cách hành chính, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp cán bộ trong bộ máy chính quyền. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể gắn chức năng và nhiệm vụ của mình với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện, với quyền lợi của đoàn viên, hội viên, đề ra được những nội dung, hình thức sát hợp, thực hiện có hiệu quả các chương trình công tác, động viên nhân dân trong huyện hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, đem lại lợi ích thiết thực cho sự ổn định an ninh, chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa của huyện. Những thành quả đạt được trong chặng đường này đã tạo cho Quan Sơn thế và lực mới, cùng với tỉnh Thanh Hóa và cả nước tiến sang thế kỷ XXI. 3.6.3. Quan Sơn thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ II, III tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn [2000 - 2015] * Giai đoạn 2000 - 2005 Để tổng kết những thành tựu đã đạt được trong nhiệm kỳ 1997 - 2000 đề ra phương hướng, mục tiêu giải pháp cho nhiệm kỳ mới từ ngày 20 đến 22 tháng 10 năm 2000, Đảng bộ huyện tiến hành Đại hội lần thứ II. Tham dự Đại hội có 127 đại biểu đại diện cho 1.420 đảng viên của 23 đảng bộ, chi bộ trực thuộc. Các đại biểu đã tích cực, sôi nổi thảo luận những vấn đề cơ bản của báo cáo chính trị nhằm đạt mục tiêu đề ra. Những quyết định của Đại hội đã mở ra một thời kỳ phát triển mới, đánh dấu một bước trưởng thành, đáp ứng ý chí, nguyện vọng và mong đợi của Đảng bộ và nhân dân trong huyện. Đại hội đã bầu 33 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa II [2001 - 2005]. Ban Chấp hành bầu 11 đồng chí vào Ban Thường vụ Huyện ủy, đồng chí Hà Văn Thương[ ] được bầu làm Bí thư; đồng chí Hà Văn Thông[ ] được bầu làm Phó Bí thư thường trực, đồng chí Phạm Văn Thư[ ] được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND. Trong nhiệm kỳ mới [2000 - 2005], Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn triển khai thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong bối cảnh chung của tỉnh và cả nước có nhiều thuận lợi sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Tuy vậy, Quan Sơn vẫn là một huyện nghèo của tỉnh Thanh Hóa. Quan Sơn đã tiếp tục phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, trong 5 năm 2001 - 2005, kinh tế của Quan Sơn đã có những bước tăng trưởng khá. Về kinh tế: Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của chặng đường này đạt 5,9% [tăng hơn 0,7% so với giai đoạn 1997 - 2000]; thu nhập hàng năm đạt 2,78 triệu đồng/người [thu nhập năm 1997 là 1,4 triệu đồng/người, năm 2000 là 2,25 triệu đồng/người]; nông - lâm nghiệp tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 5,1%; thủ công nghiệp, xây dựng tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 3,2%; các ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm đạt 3,2%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông - lâm nghiệp, tăng tỷ trọng thủ công nghiệp - dịch vụ. Tuy vậy, sự chuyển dịch này mới đang ở bước đầu, nên cơ cấu kinh tế ngành nông - lâm nghiệp vẫn chiếm phần tỷ trọng khá lớn [năm 2005: nông - lâm nghiệp chiếm 57,05%, thủ công nghiệp chiếm 14,59 % và thương mại - dịch vụ chiếm 28,35%]. Sản lượng lương thực quy thóc năm 2005 đạt 7.938,3 tấn [tăng so với năm 2000 là 2.492 tấn]. Số lượng đàn gia cầm, gia súc năm 2005 là 63.000 con [tăng hơn 28.000 con so với năm 2000]. Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2005 đạt 24,2 tỷ đồng, tăng hơn 4,87 tỷ đồng so với năm 2000. Diện tích trồng rừng bình quân hàng năm đạt 382ha [tăng hơn thời kỳ 1997 - 2000 là 182ha/năm]; độ che phủ của rừng được nâng cao nhanh: từ 45% năm 1997, lên 63% năm 2000 và năm 2005 đạt 71%. Giá trị sản xuất thủy sản năm 2005 đạt 1,1 tỷ đồng, tăng hơn năm 2000 là 0,54 tỷ đồng. Về thủ công nghiệp và xây dựng: năm 2005 giá trị sản xuất đạt 26,94 tỷ đồng, tăng 9,28 tỷ đồng so với năm 2000, nhịp độ phát triển hàng năm 0,4%/ năm. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã có những bước phát triển mới, ngoài các sản phẩm chủ yếu như khai thác đá, cát, sỏi, gạch xây dựng, sản xuất đồ mộc... huyện đã phát triển thêm ngành sơ chế đũa, tăm, mành, sơ chế bột giấy từ các sản phẩm tre, luồng, nứa, vầu, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân trong huyện. Năm 2005, thương mại - dịch vụ huyện Quan Sơn đạt giá trị 34,40 tỷ đồng, tăng hơn 18,1 tỷ đồng so với năm 2000, nhịp độ phát triển bình quân hàng năm tăng 10%/năm. Mạng lưới thương mại được mở rộng đến tận bản; thị trường hàng hóa phong phú, đa dạng, đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân các dân tộc ở Quan Sơn. Nguồn vốn được đầu tư xây dựng các trung tâm cụm xã ở Km 21 [xã Trung Hạ], Km 61 [xã Sơn Điện]; nâng cấp cửa khẩu Na Mèo thành cửa khẩu quốc tế, nâng cấp các trục đường giao thông từ huyện đến các xã, xây dựng các tuyến đường liên thôn, liên bản, xây dựng các công trình thủy lợi, điện, thông tin, trạm y tế, trường học, trạm phát lại truyền hình... Trong năm 2001, huyện đã xây dựng, hoàn thiện các công trình: Trường Tiểu học Tam Lư, Trường Tiểu học Tam Thanh, Trạm xá Na Mèo, Mường Pín, Phòng khám đa khoa Trung tâm cụm xã Sơn Điện, các công trình phụ trợ Ủy ban nhân dân huyện và các xã Trung Xuân, Trung Thượng]; các công trình được triển khai xây dựng mới là: Trường Trung học cơ sở xã Trung Xuân, Trường Trung học cơ sở Trung tâm cụm xã ở km 61, trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tam Thanh, Trường Tiểu học bản Xum [xã Sơn Hà]. Huyện tiếp tục thi công 3 cầu treo thuộc dự án 135, thi công các tuyến đường bản Yên [xã Mường Mìn], đường Sủa - Na Hồ [xã Sơn Điện], đường Pha Dùa [xã Sơn Thủy], đường vào trung tâm xã Trung Xuân [hoàn thành trước tết Nguyên đán năm 2002]; xây dựng 5 đập: đập Ban [xã Sơn Điện], đập Hiềng [xã Na Mèo], đập Lấm và đập Hẹ [xã Sơn Lư], đập Còng [xã Sơn Hà]; hoàn thành 7 công trình nước sạch bao gồm: 2 công trình tại xã Na Mèo, 1 công trình tại xã Sơn Thủy, 3 công trình tại xã Sơn Điện và công trình nước sạch của Trường Nội trú xã Sơn Lư. Chỉ tỉnh tính riêng năm 2005, huyện đã hoàn thiện các công trình: đập mương bản Phụn, xã Trung Xuân, trạm bơm mương bản Din, xã Trung Hạ, đập mương bản Cha Lung - xã Tam Thanh, trường Tiểu học Sơn Hà, 2 trạm Hạ thế 0,4 KV ở xã Sơn Lư, xây dựng đường vào trung tâm xã Sơn Hà, trường Trung Hạ, trạm Y tế Tam Lư, đường Pù Khạn [xã Trung Thượng]; các công trình nước sạch ở bản Bo, bản Hiềng [Na Mèo]; các công trình: nhà Văn hóa, đường giao thông, công trình nước sạch, trường tiểu học và mương tưới của 5 xã: Tam Lư, Na Mèo, Trung Hạ, Sơn Thủy, Sơn Lư... xây dựng mới 26 công trình của 11 xã gồm: nhà văn hóa, đập - mương, các công trình nước sạch, trạm Hạ thế 0,4 KV, đường giao thông. Về chương trình kiên cố hóa trường học, huyện đã xây dựng 26 phòng tiểu học cho 6 xã: Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Thượng, Sơn Lư, Tam Lư, Sơn Thủy và 10 phòng trung học cơ sở cho 2 xã: Sơn Lư, Na Mèo,... Trong năm 2005, Quan Sơn đã có thêm 3 xã có điện lưới quốc gia là Tam Lư, Tam Thanh và Trung Xuân, nâng tổng số xã có điện trong huyện lên 11/12 xã với tổng số 24 trạm biến thế. Năm 2005 toàn huyện Quan Sơn đã có 11/12 xã, thị trấn được sử dụng điện lưới quốc gia, 72% dân số được sử dụng điện. Song song với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội có bước chuyển biến rõ rệt. Hệ thống và quy mô giáo dục - đào tạo trên địa bàn huyện Quan Sơn được phát triển, mở rộng theo hướng hiện đại hóa. Trường lớp được kiên cố hóa, đến năm 2005, toàn huyện có 289/336 phòng học được xây dựng kiên cố và 4 trường đạt chuẩn quốc gia; phong trào dạy và học được xã hội hóa, do đó chất lượng giáo dục được nâng lên từng bước. Năm học 2000 - 2001, toàn huyện chỉ có 102 em học sinh giỏi cấp huyện và cấp tỉnh, đến năm học 2004 - 2005, con số này đã tăng lên 306 em. Năm 2005 là thời điểm ngành Giáo dục huyện Quan Sơn phấn đấu giữ vững phổ cập Tiểu học đúng độ tuổi [4/12 xã, thị trấn đã hoàn thành phổ cập Trung học cơ sở]; nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo: năm 2000 tỷ lệ lao động được đào tạo đạt 7,5%, đến năm 2005 đã nâng lên 11,8%. Công tác y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em tiếp tục duy trì tốt [tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm dần theo từng năm: số trẻ em suy dinh dưỡng năm 2000 là 41,6%, đến năm 2005 giảm xuống còn 35%]. Đến cuối năm 2005, đã có 12/12 xã, thị trấn có trạm y tế khang trang, sạch đẹp. Trong năm 2005, Quan Sơn đã có một xã đạt 10 chuẩn quốc gia về y tế. Phát huy thành tích này, huyện tích cực chỉ đạo nhân rộng mô hình xã đạt 10 chuẩn quốc gia về y tế. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của huyện Quan Sơn đến năm 2005 chỉ còn lại 1,38%, giảm hơn năm 2000 gần 0,02%. Phong trào Thể dục - thể thao, văn hóa - văn nghệ quần chúng được đẩy mạnh. Trong từng bản, cơ quan, trường học đều có các hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao. Nhiều bài hát giao duyên của các dân tộc Mường, Thái và các điệu múa đẹp giàu bản sắc được tuyển chọn tập luyện để tham gia hội diễn văn nghệ của huyện, của tỉnh. Các môn thể thao truyền thống và là ưu thế của các dân tộc miền núi như: ném còn, bắn nỏ, đẩy gậy, kéo co được duy trì, phát triển. Đến năm 2005, toàn huyện có 399 gia đình được công nhận gia đình văn hóa - thể thao [chiếm 6,5% tổng số gia đình toàn huyện]. Huyện đã xây dựng 32 làng, cơ quan văn hóa, trong đó có 16 đơn vị được công nhận là đơn vị Văn hóa cấp huyện, 5 đơn vị được công nhận là đơn vị Văn hóa cấp tỉnh, 4.130 gia đình được công nhận là Gia đình văn hóa, đạt 62% tổng số gia đình toàn huyện. Công tác quốc phòng - an ninh thường xuyên được cấp ủy quan tâm. Cơ quan công an và Ban Chỉ huy quân sự huyện đã làm tốt vai trò tham mưu và làm nòng cốt nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong huyện. Hằng năm, Ban Chỉ huy quân sự huyện đã hoàn thành tốt công tác tuyển quân, đảm bảo số lượng và chất lượng, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện được tăng cường. Các chương trình bảo vệ biên giới được duy trì ổn định, hiệu quả. Tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội của huyện được giữ vững, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh. Trong nhiệm kỳ qua, các cấp ủy đảng và chính quyền huyện đã tích cực tuyên truyền nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về vai trò của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong thời kỳ mới, nhằm nâng cao ý thức cách mạng, thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 8 [khóa X] về chiến lược bảo vệ tổ quốc, đập tan âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới, trật tự an toàn xã hội. Trong thời gian 2001 - 2005, huyện Quan Sơn không diễn ra điểm nóng, quan hệ hữu nghị với các huyện Viêng Xay, Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào được củng cố vững chắc, tình hình chính trị ổn định. Do tích cực xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc, Đảng bộ, quân dân huyện nhà đã giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành xây dựng quê hương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn tiếp theo. Nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Đảng bộ huyện Quan Sơn chú trọng công tác tổ chức cán bộ, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 [lần 2], gắn với triển khai thực hiện các chương trình của Đảng bộ huyện và Tỉnh ủy. Công tác cán bộ có nhiều tiến bộ, được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp ủy đảng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp huyện và cơ sở cơ bản đã đạt chuẩn về trình độ lý luận chính trị; công tác nhận xét, đánh giá cán bộ được đổi mới theo hướng công khai dân chủ. Việc bổ nhiệm và bổ nhiệm lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp được thực hiện đúng quy trình, coi trọng phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và khả năng hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở được củng cố, tăng cường. Hoạt động của tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền các cấp đã đáp ứng cơ bản nhiệm vụ đặt ra. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có nhiều tiến bộ đổi mới trong các hoạt động phong trào. Mặt trận Tổ quốc tổ chức cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “Xóa nhà tranh tre dột nát”; “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, tuyên truyền vận động nhân dân các dân tộc trong huyện bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái... Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, tích cực học tập nghị quyết của Đảng, của Đoàn cấp trên, tổ chức tốt các phong trào thi đua tình nguyện làm đường, làm vệ sinh môi trường, tổ chức phát động các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao sôi nổi, bổ ích. Hội Phụ nữ huyện tập trung chỉ đạo thực hiện phong trào thi đua xây dựng gia đình hạnh phúc và các chương trình của Tỉnh hội, Trung ương hội nhằm động viên, khuyến khích chị em phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển kinh tế gia đình theo hướng bền vững. Liên đoàn Lao động với phong trào “Lao động giỏi, sáng kiến cải tiến kỹ thuật”. Hội Cựu chiến binh có phong trào “Giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”, giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ, Hội Nông dân với phong trào “Nông dân sản xuất giỏi, làm giàu chính đáng”, “Giúp nhau xóa đói giảm nghèo”. Hội đã kết hợp với Trạm Khuyến nông tổ chức tập huấn chuyển giao thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ mới cho bà con các dân tộc, nhằm giúp bà con phát triển kinh tế gia đình. Những thành tựu mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quan Sơn đạt được trong giai đoạn 2001 - 2005 là hết sức quan trọng đã tạo tiền đề vững chắc, tạo thế và lực mới để huyện Quan Sơn bước vào nhiệm kỳ mới với những quyết tâm cao và niềm tin vững chắc. * Giai đoạn 2006 - 2010 Trong những năm 2006 - 2010, Quan Sơn có những thuận lợi, công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân Thanh Hóa cùng cả nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ ngày 22 đến 23 tháng 10 năm 2005, tại Hội trường lớn của huyện, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III đã diễn ra. Báo cáo của Đại hội Đảng bộ huyện Quan Sơn lần thứ III đã khẳng định: Nền kinh tế huyện Quan Sơn đã có bước phát triển và tăng trưởng khá, giá trị kinh tế các ngành: nông - lâm - thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ đều tăng so với các giai đoạn trước. Đặc biệt là kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế - xã hội có bước phát triển mới, toàn diện, sâu sắc. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được xây dựng, củng cố vững chắc, tạo ra sức mạnh, giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội, an ninh khu vực biên giới. Hệ thống chính trị: Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng được xây dựng vững chắc, quy chế dân chủ cơ sở được triển khai sâu rộng, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được nâng cao... Trước thực tế Quan Sơn vẫn là huyện nghèo của tỉnh Thanh Hóa, Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2006 - 2010 như sau: Tiếp tục công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát huy nội lực, khai thác hợp lý tiềm năng, thế mạnh, tranh thủ ngoại lực, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho phát triển, phấn đấu đạt và vượt các mục tiêu kinh tế, văn hóa - xã hội; chuyển dịch nhanh, mạnh cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hóa - xã hội; củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa III gồm 35 đồng chí và Ban Thường vụ 11 đồng chí, đồng chí Phạm Bá Diệm được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lò Đình Múi được bầu làm Phó Bí thư - Chủ tịch UBND huyện, đồng chí Hà Chí Nông được bầu làm Phó Bí thư thường trực. Năm 2006 ghi dấu ấn thời điểm kỷ niệm 10 năm thành lập huyện cũng là năm đầu tiên thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III. Trước tình hình đó, Huyện ủy Quan Sơn đã ra Nghị quyết tổ chức lãnh đạo nhân dân huyện nhà thi đua thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, lập thành tích chào mừng 10 năm ngày thành lập huyện và Đảng bộ huyện, đồng thời tạo thế, tạo đà tiếp tục phát triển trong những năm tiếp theo. Đây là niềm động viên, cổ vũ Đảng bộ và nhân dân Quan Sơn tăng cường khối đoàn kết thống nhất, tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đạt được nhiều thành tích cao hơn. Căn cứ vào tình hình thực tiễn của huyện, Đảng bộ, chính quyền huyện xác định cơ cấu kinh tế của Quan Sơn là: lâm - nông - thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ. Trước mắt và tương lai gần cần phải lấy cây lúa, cây ngô làm cây lương thực chính; lấy cây luồng, cây vầu, cây nứa làm cây kinh tế mũi nhọn; lấy con trâu, con bò làm vật nuôi chủ yếu, kết hợp với lợn, dê, gia cầm; lấy kinh tế trang trại vừa và nhỏ làm mô hình kinh tế cơ bản, phát triển mạnh ngành thương mại - dịch vụ ở khu vực huyện lỵ, cụm xã dọc tuyến Quốc lộ 217, khu đô thị cửa khẩu quốc tế, cần thu hút xây dựng, mở rộng hệ thống doanh nghiệp trên địa bàn, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động; phấn đấu trở thành huyện có phong trào bảo vệ rừng, chủ quyền an ninh biên giới tốt nhất; phấn đấu đến năm 2010 xây dựng đô thị Na Mèo và thành lập thị trấn cửa khẩu[ ]. Vượt qua những khó khăn, thách thức, kinh tế - xã hội huyện Quan Sơn tăng trưởng cao hơn giai đoạn trước. Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo phát huy các yếu tố nội lực, tranh thủ sự đầu tư của các dự án, nhất là các dự án phát triển kinh tế - xã hội miền Tây Thanh Hóa, Chương trình 235 của Chính phủ để tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân toàn huyện mở rộng diện tích gieo trồng, tăng cường ứng dụng các biện pháp kỹ thuật về phân, giống, chăm sóc, phòng bệnh, đưa năng suất và sản lượng lương thực, thực phẩm tăng trưởng cao. Sản xuất nông - lâm nghiệp của Quan Sơn vẫn là chủ đạo và giai đoạn này đã chuyển mạnh sang sản xuất theo hướng hàng hóa. Giá trị sản xuất lâm nghiệp đến năm 2010 đạt gần 70 tỷ đồng. Là một huyện có diện tích đất rừng lớn nên công tác trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ và phát triển rừng được quan tâm chú trọng. Từ năm 1996 đến năm 2011, tổng diện tích rừng trồng tập trung của huyện Quan Sơn được gần 4.500ha; khoanh nuôi bảo vệ trên 7.500ha, nâng độ che phủ rừng từ 45% năm 1997 lên 79,2% năm 2010. Quan Sơn là một trong những địa phương được đánh giá có độ che phủ rừng cao nhất trong tỉnh. Hàng năm khai thác khoảng 5.000m3 gỗ các loại, 3.000 tấn nan thanh, hàng triệu cây luồng và cây nứa vầu. Bên cạnh phát triển lâm nghiệp, huyện Quan Sơn còn quan tâm phát triển và ổn định diện tích sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề lương thực. Trong sản xuất nông nghiệp, huyện chỉ đạo đưa các loại giống mới đặc biệt là giống lúa lai, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đầu tư hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu, từ đó đã nâng cao năng suất và sản lượng lương thực. Tổng sản lượng lương thực có hạt đến năm 2010 của huyện Quan Sơn đạt trên 10 nghìn tấn. Tình trạng thiếu lương thực vào thời điểm giáp hạt không còn gay gắt như trước đây. Chăn nuôi hộ gia đình ngày càng phát triển, sản phẩm đa dạng và chuyển dịch sang chăn nuôi theo hướng tập trung và sản xuất hàng hóa. Các mô hình kinh tế gia trại, trang trại nông - lâm kết hợp đã tăng dần hàng năm và hiệu quả thu nhập ngày càng tăng. Tính đến hết năm 2010 trên địa bàn huyện Quan Sơn có 17 trang trại, gia trại với tổng thu nhập đạt trên 50 triệu đồng/trang trại. Cùng với sự phát triển của lâm nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện được đẩy mạnh. Đến hết năm 2010, toàn huyện có 17 doanh nghiệp, Hợp tác xã và tổ hợp sản xuất. Một số cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được đầu tư xây dựng đã và đang đi vào sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động như chế biến lâm sản, mộc dân dụng, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông - lâm sản. Giao thông thuận lợi đã tạo điều kiện phát triển thương mại và dịch vụ. Mạng lưới thương mại - dịch vụ trên địa bàn huyện ngày càng phát triển rộng khắp, hàng hóa phong phú và lưu thông thuận tiện, đảm bảo các mặt hàng chính sách cho đồng bào thuộc vùng 135 và cung cấp hàng hóa vật tư thiết yếu, phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Kết cấu hạ tầng trên địa bàn Quan Sơn được đầu tư phát triển mạnh. Huyện xác định đầu tư hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, chính là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Quan Sơn là một trong những huyện vùng cao biên giới được thụ hưởng đầy đủ các chương trình dự án đầu tư của nhà nước. Từ các nguồn vốn dự án; 134; 135; 30a; 159; 174; WB... huyện đã chỉ đạo ưu tiên, lựa chọn, bố trí cho các công trình trọng điểm, đồng thời quan tâm giải quyết và tháo gỡ những phát sinh, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến độ các dự án. Nếu như giai đoạn 2001 - 2005, tổng vốn đầu tư chỉ đạt 293 tỷ đồng thì giai đoạn từ 2006 - 2010, tổng nguồn vốn đầu tư đạt trên 1.200 tỷ đồng. Hạ tầng cơ sở, đặc biệt là các công trình quan trọng như: giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt, các công trình phúc lợi công cộng... được quan tâm phát triển. Trên địa bàn huyện, 100% số xã đã có đường nhựa ô tô đến được tận trung tâm xã. Hệ thống trường học từ Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở đến Trung học phổ thông trên địa bàn huyện được xây dựng kiên cố. Bệnh viện đa khoa huyện Quan Sơn được đầu tư nâng cấp cả về cơ sở vật chất cũng như được đầu tư trang thiết bị hiện đại, đáp ứng nhu cầu khám và điều trị của nhân dân. Ngoài ra các dự án điện, nước sinh hoạt và một số công trình quan trọng khác được huyện quan tâm đầu tư, đến cuối năm 2010, đã có 75% số hộ dân trên địa bàn huyện được sử dụng điện lưới quốc gia; gần 70% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Mạng lưới bưu chính - viễn thông được phủ rộng khắp huyện. Đến năm 2010 đã có 12/13 xã [thị trấn] có điểm bưu điện văn hóa xã. Sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển mạnh. Đội ngũ giáo viên được xây dựng theo hướng đảm bảo về số lượng, phấn đấu đạt chuẩn để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đến năm 2010, toàn huyện đã xây dựng được 7 trường chuẩn quốc gia và thành lập Trường Trung học Phổ thông Quan Sơn 2. Các xã thị trấn đều có trung tâm giáo dục cộng đồng và hoạt động có hiệu quả. Công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Năm 2010, toàn huyện có 6 xã được công nhận đạt 10 chuẩn quốc gia về y tế. Công tác thông tin truyền thông và hoạt động văn hóa, thể dục thể thao có bước phát triển mới. Đến năm 2010, có 75% dân số của huyện được xem truyền hình. Các hoạt động lễ hội truyền thống, lễ hội dân gian được tập trung khôi phục. Tiêu biểu là khôi phục lễ hội Mường Xia đã bị mai một hơn 70 năm, đáp ứng sự mong đợi của nhân dân. Bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hóa truyền thống của nhân dân các dân tộc ở Quan Sơn. Công tác đảm bảo quốc phòng - an ninh biên giới, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện tiếp tục được đảm bảo và ổn định. Để tổng kết những thành tựu đã đạt được trong 5 năm của nhiệm kỳ 2005 - 2010, đề ra phương hướng, giải pháp cho nhiệm kỳ mới, từ ngày 24 đến 25/7/2010, Đại hội Đảng bộ huyện Quan Sơn lần thứ IV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã diễn ra. Sau khi thảo luận Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ III, trình Đại hội lần thứ IV và khẳng định những thành tựu và nêu ra những hạn chế cần khắc phục cũng như thảo luận để đi đến thống nhất về phương hướng, mục tiêu trong nhiệm kỳ mới, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa IV gồm 35 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí, đồng chí Phạm Bá Diệm[ ] được bầu làm Bí thư, đồng chí Vi Xuân Hiệp được bầu làm Phó Bí thư thường trực, đồng chí Lò Đình Múi[ ] được bầu làm Phó Bí thư - Chủ tịch UBND huyện. Giai đoạn 2011 - 2015 và chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 Những thành tựu đạt được của các giai đoạn trước, là tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Quan Sơn tiếp tục phát huy sức mạnh đoàn kết, thống nhất toàn quân và dân tăng cường giữ vững quốc phòng an ninh, tạo bước phát triển mới với những thành quả nổi bật trong giai đoạn mới. Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2015 tăng 4,93% so với giai đoạn 2005 - 2010. Cơ cấu kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản từ 53% năm 2010 giảm xuống còn 49% năm 2015. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 ước đạt đạt 14,3 triệu đồng [năm 1997 thu nhập bình quân đầu người là 1,4 triệu đồng; năm 2000 thu nhập bình quân đầu người ước đạt 2,25 triệu đồng: năm 2005 thu nhập bình quân đầu người ước đạt 2,78 triệu đồng; năm 2010 thu nhập bình quân đầu người ước đạt 6,7 triệu đồng; năm 2011 thu nhập bình quân đầu người ước đạt 8,2 triệu]. Như vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của huyện đã có sự phát triển nâng cao theo từng giai đoạn, đặc biệt là những năm gần đây [từ 2010 đến 2015] đã đem lại sự cải thiện rõ rệt cho đời sống nhân dân. Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, giá trị sản xuất năm 2015 gấp 1,78 lần so với năm 2010. An ninh lương thực tương đối ổn định, tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2015 ước đạt 14.950 tấn, tăng 40,93% so với năm 2010. Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Nuôi trồng thủy sản được nhân dân chú trọng chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hóa, diện tích nuôi trồng được mở rộng. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng, chăm sóc và khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên được triển khai thực hiện sâu rộng trong nhân dân. Việc chuyển đổi, cải tạo rừng nghèo kiệt sang cây trồng có giá trị kinh tế. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2015 duy trì mức 88%, so với năm 2010 tăng 7,9%. Quan Sơn hiện đang là huyện có độ che phủ rừng lớn nhất tỉnh Thanh Hóa. Ngành công nghiệp - xây dựng có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 14,38%, giá trị sản xuất năm 2015 ước đạt 115 tỷ đồng, gấp 1,98 lần so với năm 2010. Trong giai đoạn 2010 - 2015, huyện có 18 doanh nghiệp và 85 cơ sở chế biến lâm sản được thành lập mới, đóng góp cho ngân sách huyện trên 8 tỷ đồng. Song song với phát triển kinh tế, các lĩnh vực văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng tiếp tục được duy trì và phát triển. Công tác giáo dục tiếp tục được quan tâm đầu tư của toàn xã hội, chất lượng giáo dục đã có sự chuyển biến tương đối toàn diện cả ở diện đại trà và mũi nhọn. Công tác hướng nghiệp, dạy nghề phổ thông được quan tâm, từng bước xây dựng mô hình xã hội học tập. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được chú trọng. Đến hết năm 2015 toàn huyện có 14/14 trường đạt chuẩn. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân được quan tâm, có 6/13 xã, thị trấn đạt chuẩn Quốc gia về y tế. Chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân từng bước được nâng lên. Từ năm 2010 đến 2015 đã khám chữa bệnh cho 224.083 lượt người trong đó có 2.300 lượt bệnh nhân là người Lào[1]. Công tác y tế dự phòng được quan tâm thực hiện cùng với việc thanh tra, kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm. Hoạt động văn hóa thông tin, thể thao có bước phát triển mới. Các giá trị văn hóa truyền thống được khơi dậy bảo tồn và phát huy, tiêu biểu là: Lễ hội Mường Xia; đền thờ tướng quân Tư Mã Hai Đào tại xã Sơn Thủy. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đạt kết quả khá. Đến năm 2015, toàn huyện có 88 đơn vị văn hóa, trong đó 53 bản, khu phố văn hóa và 35 cơ quan văn hóa. Hệ thống truyền thanh, truyền hình được đầu tư nâng cao chất lượng hoạt động. Phong trào thể dục thể thao phát triển sâu rộng, các vận động viên có năng khiếu được chú trọng quan tâm. Nhiều con em các dân tộc Quan Sơn đạt thành tích cao trong các hội thi “Hội khỏe Phù Đổng” do tỉnh tổ chức. Công tác giáo dục luôn được Đảng bộ, chính quyền huyện quan tâm và được đầu tư của toàn xã hội. Giai đoạn này, chất lượng giáo dục phát triển cả ở học sinh đại trà và mũi nhọn. Mạng lưới trường, lớp học tiếp tục được sắp xếp hợp lý, đội ngũ giáo viên được bổ sung về số lượng và chất lượng; tỷ lệ cán bộ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn tăng ở các cấp [Mầm non 100%, Tiểu học 100%; Trung học cơ sở 92,1%; THPT 84,6%]. Công tác hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh THPT được ngành Giáo dục huyện Quan tâm. Với sự nỗ lực, cố gắng vươn lên, khắc phục khó khăn do chủ quan khách quan, năm 2015, huyện đã có 14/414 trường đạt chuẩn, đạt 31,8%. Công tác quân sự, quốc phòng an ninh địa phương được tăng cường và triển khai đồng bộ có hiệu quả, phát huy được sức mạnh tổng hợp xây dựng quốc phòng toàn dân từng bước vững chắc. Năm 2012, Quan Sơn đã tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện và diễn tập chiến đấu trị an cho các cụm hàng năm theo kế hoạch. Chính sách hậu phương quân đội đã được quan tâm thực hiện có hiệu quả. Đảng bộ, chính quyền Quan Sơn thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục nhân dân nhất là các xã, các bản giáp biên thực hiện tốt quy chế biên giới; quan tâm, tăng cường mối quan hệ, đoàn kết, hữu nghị, truyền thống giữa Đảng, chính quyền và nhân dân huyện Quan Sơn với hai huyện Viêng Xay, Sầm Tớ [nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào] nói riêng, hai tỉnh Thanh Hóa, Hủa Phăn nói chung trong hợp tác phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh biên giới góp phần tăng thêm mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giưa hai nước Việt Nam - Lào. Giai đoạn 2011 - 2015 là giai đoạn Quan Sơn tập trung đẩy mạnh một số chương trình trọng tâm trong chiến lược phát triển của huyện: Chương trình xây dựng nông thôn mới: Thực hiện chủ trương của Trung ương, của tỉnh về xây dựng nông thôn mới. Ngày 28/10/2010, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành Nghị quyết số 03 - NQ/HU về “Xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2011 - 2020”. Chương trình xây dựng nông thôn mới được cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quan tâm chỉ đạo quyết liệt, sát thực; kết quả bước đầu chuyển biến tích cực, kết cấu hạ tầng cơ sở được Nhà nước đầu tư, nhân dân hiến đất, góp công xây dựng; 66 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đăng ký giúp đỡ cho 37/93 bản xây dựng nông thôn mới, chiếm tỷ lệ 39,36% số bản trên địa bàn huyện. Kết quả đạt bình quân 8,58 tiêu chí/xã, xã đạt cao nhất 11 tiêu chí, xã thấp nhất đạt 7 tiêu chí. Đến hết năm 2015, bình quân đạt 9,17 tiêu chí/xã, trong đó có 4 bản đạt chuẩn nông thôn mới. Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững: Công tác giảm nghèo được toàn bộ Đảng bộ đặc biệt quan tâm từ việc lãnh đạo, chỉ đạo đến tổ chức triển khai thực hiện. Việc hỗ trợ phát triển sản xuất trong các chương trình, dự án được thực hiện hiệu quả; các hộ nghèo được tạo điều kiện thuận lợi cho vay vốn sản xuất và giải quyết việc làm, do đó đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên; tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới, toàn huyện giảm từ 51,91% năm 2010 xuống còn 20,84 năm 2015 [bình quân mỗi năm giảm 6%]. Công tác giảm nghèo nhanh và bền vững theo tinh thần Nghị quyết 09 - NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đạt được những kết quả bước đầu; đã và đang triển khai có hiệu quả các mô hình sản xuất trồng gấc, nứa vầu, khoai mán, chuối tiêu hồng, bí xanh lai, tại các xã Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Thượng, Sơn Lư, Tam Lư, Sơn Điện, Sơn Thủy... Chương trình phát triển nguồn nhân lực mà trọng tâm là dạy nghề: Các cấp ủy đảng, chính quyền của huyện đã có nhiều giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nguồn nhân lực mà trọng tâm tập trung đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đến nay, huyện có nguồn nhân lực khá dồi dào với nguồn lao động chiếm 59% dân số, chủ yếu là lao động trẻ. Hệ thống giáo dục phổ thông cơ bản có đầy đủ trường lớp và 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên và dạy nghề. Số người có việc làm thường xuyên là 58%, chủ yếu các ngành nghề: Nông, lâm, thủy sản; tiểu thủ công nghiệp; dịch vụ thương mại, trong đó lao động làm nghề nông, lâm, thủy sản chiếm 53%. Bên cạnh những chương trình trọng điểm trên, xác định văn hóa tinh thần là mục tiêu, động lực để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội, trong những năm qua, công tác văn hóa luôn được huyện Quan Sơn tập trung chỉ đạo. Năm 2012, huyện đã tổ chức thành công Liên hoan văn hóa các dân tộc lần thứ nhất, xây dựng được 2 đĩa DVD ca nhạc chào mừng 10 năm, 15 năm thành lập huyện như đĩa DVD Quan Sơn gọi bạn và Vang mãi khúc hát Quan Sơn. Thông qua các tiểu phẩm, bài hát, hình ảnh trực quan, băng zôn, khẩu hiệu đã phản ánh khí thế của nhân dân các dân tộc Quan Sơn cùng chung tay xây dựng nông thôn mới. Nhằm triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt hiệu quả gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ra Nghị quyết số 11 - NQ/HU ngày 28/1/2013 về phát triển Văn hóa và Du lịch giai đoạn 2013 - 2015 định hướng đến năm 2025, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành đề án Phát triển Văn hóa và Du lịch giai đoạn 2013 - 2015 định hướng đến năm 2025. Trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, huyện Quan Sơn đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 5 [khóa VIII] về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhằm giúp mọi người dân, đặc biệt là người dân ở vùng đặc biệt khó khăn có cơ hội tiếp cận với công nghệ thông tin và Internet, Ban quản lý dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam” phối hợp với UBND huyện Quan Sơn đã tổ chức các hoạt động “Ngày hội Internet” tại các điểm Bưu điện văn hóa xã và Thư viện huyện Quan Sơn, thu hút được sự hưởng ứng đông đảo của nhân dân. Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam” do quỹ Bill & Melinda Gates [Hoa Kỳ] tài trợ. Dự án này được tổ chức tại các huyện thuộc 40 tỉnh khó khăn nhất trong toàn quốc, trong đó Quan Sơn là 1 trong những huyện tham gia của dự án. Trong chương trình của dự án, “Ngày hội Internet” đã tổ chức tại 5 điểm truy cập Internet thuộc dự án trên địa bàn huyện Quan Sơn là Thư viện huyện và điểm Bưu điện văn hóa xã Sơn Thủy, Mường Mìn, Tam Lư, Tam Thanh. Với mục tiêu giới thiệu và quảng bá đến đông đảo tầng lớp nhân dân tại các vùng khó khăn của cả nước, dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam” còn giúp các thư viện và các điểm Bưu điện văn hóa xã thay đổi được cách thức hoạt động và phục vụ thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển kỹ năng phục vụ, góp phần đạt được tầm nhìn phát triển của hệ thống thư viện và các điểm Bưu điện văn hóa xã. Các hoạt động của “Ngày hội Internet” đã đưa thông điệp “Thay đổi cuộc sống” tới mọi tầng lớp nhân dân. Từ ngày 9 đến 11 tháng 8 năm 2015, Đại hội Đảng bộ huyện Quan Sơn lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã diễn ra với sự tham dự của 215 đại biểu, đại diện cho 3.695 đảng viên trong toàn đảng bộ huyện. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 34 đồng chí, Ban Thường vụ 8 đồng chí. Sau Đại hội, được sự quan tâm của Tỉnh ủy, bộ máy lãnh đạo và các tổ chức của huyện sớm được ổn định và đi vào hoạt động. Đảng bộ chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn tập trung ngay vào việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đã đề ra, thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 trong điều kiện có nhiều thuận lợi: kinh tế đất nước phục hồi; nhiều cơ chế chính sách của nhà nước, của tỉnh giành cho khu vực miền núi tiếp tục được thực hiện; môi trường đầu tư kinh doanh của tỉnh tiếp tục được cải thiện; Khu kinh tế Nghi Sơn, các công trình, dự án quan trọng của tỉnh Thanh Hóa đã và đang được triển khai thực hiện tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung trong đó có Quan Sơn. Trong giai đoạn 2015 - 2020, huyện Quan Sơn xác định mục tiêu là “huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, tranh thủ ngoại lực, khơi dậy nội lực để phát triển kinh tế - xã hội, thoát nghèo bền vững, cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân; bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội phấn đấu đến năm 2020 đưa Quan Sơn thoát khỏi huyện nghèo, trở thành huyện khá của khu vực miền núi”. Để tổ chức lãnh đạo thực hiện thắng lợi và nhanh chóng đưa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 vào cuộc sống, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện [khóa V] xây dựng Chương trình hành động thực hiện nghị quyết với những nội dung sau[ ]. 1. Các khâu đột phá Trong phát triển kinh tế: Lựa chọn mũi nhọn phát triển lâm nghiệp, các cây nguyên liệu nứa, luồng, gắn với ngành công nghiệp chế biến. Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi với quy mô tập trung. Hình thành chợ đầu mối về lâm sản để thu mua và quản lý tốt giá cả thị trường về mặt hàng lâm sản có sản lượng lớn của huyện. Phát triển mạnh mẽ ngành thương mại, dịch vụ, du lịch gắn với lợi thế của huyện như: Cửa khẩu, tài nguyên rừng, tuyến hành lang Quốc lộ 217 kết nối với nước bạn Lào, các danh lam thắng cảnh, bản sắc văn hóa các dân tộc. Về đầu tư kết cấu hạ tầng: Công bố quy hoạch thị trấn Quan Sơn mở rộng, từng bước đầu tư hạ tầng, sắp xếp lại các cơ quan công sở trên địa bàn; khu trung tâm, thương mại, công viên giải trí, khu dân cư mới. Tham mưu hình thành khu kinh tế Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, đầu tư xây dựng khu đô thị Trung Hạ, Sơn Điện; nâng cấp hệ thống giao thông xã, bản, hệ thống thủy lợi, các khu di dân tái định cư mang tính cấp thiết và xây dựng công sở các xã theo lộ trình. Về xây dựng nông thôn mới: Kết hợp các nguồn lực của nhà nước hỗ trợ và đóng góp của nhân dân để đầu tư các công trình hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất và dân sinh; vận động người dân chủ động xây dựng bản, xã nông thôn mới một cách bền vững, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng môi trường sinh thái xanh - sạch - đẹp, môi trường xã hội lành mạnh. Phấn đấu đến năm 2020 có trên 30% số bản và 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Về văn hóa - xã hội: Tập trung đầu tư để từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất cho các trường học, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ bản, toàn diện giáo dục - đào tạo; từng bước hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất cho các trạm y tế, đội ngũ y bác sỹ để phục vụ tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân; bảo tồn và phát huy tốt bản sắc văn hóa các dân tộc; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2020 xuống dưới mức bình quân của khu vực miền núi. Về xây dựng Đảng và công tác chỉ đạo: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của chi bộ bản, khu phố, chất lượng đội ngũ đảng viên; nhanh chóng kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có trình độ chuẩn, có năng lực công tác tốt phục vụ nhu cầu phát triển của huyện. Đổi mới tư duy, phương pháp, tác phong lề lối công tác; phát huy dân chủ, xây dựng mối đoàn kết, tăng cường kỷ cương, tạo đồng thuận, khơi dậy nội lực và quyết tâm chính trị cao trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. 2. Công tác lãnh đạo thực hiện 3 chương trình trọng tâm Chương trình giảm nghèo bền vững; xây dựng nông thôn mới: Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác xóa đói, giảm nghèo. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chủ trì triển khai Cuộc vận động “Mỗi hộ nghèo phấn đấu thoát nghèo”, hướng dẫn cho người dân tự biết vươn lên trong phát triển kinh tế, tự tạo việc làm và nâng cao thu nhập mang tính bền vững; Triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện Nghị quyết 09 - NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa đến năm 2020”; đẩy mạnh phát triển sản xuất tăng thu nhập; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội; phấn đấu đến năm 2020 thoát khỏi huyện nghèo. Ủy ban nhân dân huyện chủ trì, tham mưu cho Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của huyện đánh giá lại tổng thể chương trình xây dựng nông thôn mới của huyện giai đoạn 2011 - 2015, đề xuất giải pháp chung cho toàn huyện và giải pháp cụ thể cho từng xã, bản trong việc xây dựng nông thôn mới. Xác định quan điểm chỉ đạo trong xây dựng nông thôn mới của huyện theo phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng thụ”, phát huy hiệu quả nội lực trong nhân dân để chủ động xây dựng nông thôn mới một cách bền vững, chống bệnh thành tích, nóng vội. Chương trình phát triển kinh tế lâm, nông nghiệp: Triển khai đồng bộ chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TU, ngày 20/4/2015 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững”, phù hợp với điều kiện khả năng phát triển nông nghiệp của huyện. Ủy ban nhân dân huyện chủ trì rà soát diện tích rừng nghèo, rừng trồng bị thoái hóa để cải tạo và phát triển trồng rừng kinh tế; phát triển các loại cây lợi thế như: vầu, nứa, luồng; nghiên cứu đưa các loại cây mới vào canh tác như: khoai sọ Mán[ ], lúa nếp nương và các loại cây dược liệu quý hiếm... Xây dựng cơ sở chế biến từ nguồn nguyên liệu sẵn có trên địa bàn huyện, hạn chế đến mức thấp nhất xuất thô các sản phẩm từ sản xuất lâm nghiệp. Chuyển đổi hình thức chăn nuôi gia súc, gia cầm từ chăn thả tự nhiên sang hình thức chăn nuôi chuồng trại, trang trại lớn kết hợp với việc phát triển một số điểm chợ nông thôn để tiêu thụ nông sản của nhân dân, trong đó phát triển các loại con nuôi chủ yếu như: trâu, bò, lợn cỏ, lợn lòi lai, dê và gà đồi... Xây dựng đề án chợ đầu mối về thu mua, bán lâm sản. Chương trình phát triển nguồn nhân lực: Ban Thường vụ Huyện ủy tham mưu triển khai đề án phát triển nguồn nhân lực của huyện đến năm 2020. Đẩy mạnh xã hội hóa học tập để nâng cao dân trí. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuẩn về chuyên môn; nâng cao hiệu quả đào tạo nghề phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 50% trở lên, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lao động xã hội, giải quyết việc làm, ổn định đời sống nhân dân. 3. Công tác lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh được xác định với 6 nội dung sau: Lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, bổ sung, điều chỉnh, xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: UBND huyện tập trung chỉ đạo rà soát, bổ sung, điều chỉnh và xây dựng mới quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời triển khai các quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực chủ yếu của huyện đến năm 2020, định hướng đến năm 2025, tầm nhìn 2030. Cụ thể là: quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng; quy hoạch khu đô thị thị trấn Quan Sơn, Na Mèo, Trung Hạ; điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2025 và kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2016 - 2020; quy hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; quy hoạch vùng thâm canh trồng cây vầu tập trung và bổ sung nâng cao chất lượng quy hoạch nông thôn mới; phát triển du lịch sinh thái, văn hóa, cộng đồng. Căn cứ những quy hoạch đã được phê duyệt, UBND huyện chỉ đạo các ngành chức năng công bố công khai, rộng rãi trên cổng thông tin điện tử và các điểm quy hoạch, để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và các tổ chức phi chính phủ; đồng thời tích cực đấu mối với các sở, ban, ngành cấp tỉnh để được bố trí vốn triển khai thực hiện. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tăng cường giám sát thực hiện quản lý các quy hoạch đã được duyệt. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của huyện, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, tạo bước đột phá về tốc độ, chất lượng tăng trưởng: Ban Thường vụ Huyện ủy xây dựng kế hoạch triển khai hiệu quả Nghị quyết của Huyện ủy về phát triển lâm, nông nghiệp; xác định rõ khâu đột phá trong nông nghiệp của huyện là phát triển lâm nghiệp, chăn nuôi theo mô hình mới gắn với quản lý bảo vệ rừng. Đầu tư chợ đầu mối lâm sản làm cơ sở để thu mua tập trung, quyết định mặt bằng giá cho các loại cây chủ lực như: vầu, nứa, luồng. Lựa chọn các khâu đột phá trong phát triển kinh tế như: Nâng cao giá trị sản xuất lâm nghiệp, ứng dụng công nghệ cao vào trồng trọt, chăn nuôi; phát triển mô hình trang trại có quy mô lớn, sản xuất tập trung; tham mưu để cấp có thẩm quyền phê duyệt đề án khu kinh tế quốc tế cửa khẩu Na Mèo gắn với phát triển thương mại, du lịch kết nối với nước bạn Lào, vùng Đông Bắc nước Thái Lan. Xây dựng các cụm công nghiệp quy mô vừa và nhỏ tại Na Mèo, Sơn Điện, Trung Hạ, gắn với khai thác chế biến lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng; khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm, làm thủ công mỹ nghệ, chế biến sản phẩm lâm sản. Tổ chức sắp xếp hợp lý mạng lưới thương mại gắn với quy hoạch đô thị như: Khu vực thị trấn huyện, Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo và các điểm đông dân cư như: Khu Km 61 xã Sơn Điện, khu Km 22 xã Trung Tiến, chợ Tam Thanh, chợ Sơn Hà... Thực hiện tốt công tác quản lý chợ, đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại, tìm thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp mà huyện sản xuất. Đẩy mạnh công tác quảng bá, giới thiệu phát triển kinh tế du lịch ở một số danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử trên địa bàn huyện như: Du lịch sinh thái rừng, địa danh cầu Pha Lò; động Bo Cúng [bản Chanh, xã Sơn Thủy]; thác bản Nhài [xã Sơn Điện]; động Nang Non [bản Păng, xã Sơn Lư]; suối nước nóng bản Pù Khạn [xã Trung Thượng]; Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo để tạo môi trường phát triển kinh tế du lịch trên địa bàn huyện. Ký kết chương trình phát triển du lịch giữa huyện Quan Sơn và huyện Viêng Xay [nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào] để kết nối tuyến hành lang du lịch. Tập trung chỉ đạo cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 02 - NQ/TU của Tỉnh ủy. Tăng cường công tác quảng bá, giới thiệu tiềm năng, lợi thế của huyện Quan Sơn; khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế trong và ngoài huyện đầu tư vào lĩnh vực mà huyện có lợi thế so sánh như: lâm nghiệp, chăn nuôi, thương mại, dịch vụ, du lịch; kinh tế cửa khẩu. Ủy ban nhân dân huyện tham mưu đề án phát triển đội ngũ doanh nghiệp và doanh nhân của huyện; Khai thác hiệu quả các chính sách về thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; tạo điều kiện để phát triển các mô hình kinh tế hợp tác xã, tổ hợp tác kiểu mới để tăng sức cạnh tranh, phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh. Triển khai thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại. Có chính sách để khuyến khích hỗ trợ khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống; có cơ chế khuyến khích các hộ gia đình phát triển mạnh kinh tế hộ, gia trại, trang trại, tự tạo việc làm nâng cao thu nhập. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, từng bước hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật của huyện: Phát huy nội lực, tranh thủ các nguồn lực từ tỉnh và các doanh nghiệp từng bước đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng về giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, văn hóa, các khu tái định cư, khu đô thị, công sở các xã; trước mắt dồn nguồn lực để xây dựng công trình cấp thiết. Tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và các chương trình dự án khác, ưu tiên lồng ghép đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, văn hóa để đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới. Có chính sách để kêu gọi thu hút đầu tư vào khu vực trọng điểm kinh tế Trung Hạ; khu đô thị Na Mèo; khu du lịch Động Bo Cúng, xã Sơn Thủy; khu du lịch sinh thái bản Khạn, xã Trung Thượng. Xây dựng điểm phát triển du lịch cộng đồng, các dự án định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số như: Dự án thực hiện định canh, định cư tập trung cho đồng bào dân tộc thiểu số bản Piềng Trang, xã Trung Xuân; bản Chiềng và bản Bơn, xã Mường Mìn; khu Vũng Cộp, xã Sơn Thủy; bản Piềng Vờn, xã Na Mèo; đề án ổn định đời sống, sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc Mông huyện Quan Sơn giai đoạn 2016 - 2020. Đến năm 2020 đầu tư hoàn chỉnh hệ thống điện lưới cho 13 bản chưa có điện lưới quốc gia. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa - xã hội; cải thiện chất lượng cuộc sống nhân dân: Phát triển giáo dục, đào tạo theo hướng đạt chuẩn hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, đào tạo; trước mắt xây dựng trường Tiểu học và Trung học cơ sở thị trấn Quan Sơn thành trường trọng điểm chất lượng cao của huyện, bình quân hàng năm xây dựng 2 trường đạt chuẩn quốc gia trở lên. Duy trì vững chắc phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS; tăng cường cơ sở vật chất cho dạy nghề trên địa bàn huyện. Phát triển sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng cho nhân dân theo hướng hiện đại, dự phòng tích cực và chủ động; đảm bảo mọi người dân đều được khám, chữa bệnh ban đầu và cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản ở cơ sở; làm tốt công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Không ngừng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và y đức cho đội ngũ y tế để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh ở tất cả các tuyến; phấn đấu đến năm 2020 đạt trên 76,9% số xã, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn 16%. Quan tâm đầu tư các thiết chế văn hóa cơ sở; xây dựng hoàn thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ văn hóa và các hạt nhân văn hóa thể thao cơ sở. Phát động sâu rộng phong trào rèn luyện thể dục thể thao, các hội thao, hội diễn ở cơ sở và trong trường học. Đổi mới công tác thông tin tuyên truyền với các hình thức sinh động để đến với đồng bào các dân tộc. Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất cho hệ thống truyền thanh - truyền hình, nhằm phục vụ nhiệm vụ tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, phổ biến các tiến bộ khoa học kỹ thuật và phục vụ nhu cầu giải trí của nhân dân. Đảm bảo vững chắc quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội; thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân; công tác quản lý bảo vệ rừng: Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 28 - NQ/TW của Bộ Chính trị về việc xây dựng thế trận khu vực trong phòng thủ huyện vững chắc trong tình hình mới. Làm tốt công tác quân sự địa phương, sẵn sàng chủ động trong mọi tình huống. Tạo mọi điều kiện và phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng như: Quân sự, Biên phòng, Công an, Kiểm lâm đảm bảo vững chắc an ninh biên giới, an ninh tôn giáo; phòng chống cháy rừng, ngăn chặn kịp thời việc tuyên truyền xây dựng nhà nước Mông của các thế lực thù địch. Phát động sâu rộng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh trật tự; phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm, các tệ nạn xã hội như nghiện hút ma túy, nạn cờ bạc, số đề... Đẩy mạnh các biện pháp kiềm chế tai nạn giao thông, vi phạm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn, nhất là tuyến Quốc lộ 217. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể phát động phong trào xây dựng tuyến hành lang Quốc lộ 217 xanh - sạch - đẹp; vận động nhân dân xung kích tự quản các tuyến đường huyện, xã, bản một cách thiết thực và bền vững. Duy trì nghiêm túc chế độ tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân ngay từ cơ sở không để xảy ra khiếu kiện đông người, vượt cấp. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp và cơ quan bảo vệ pháp luật trong sạch vững mạnh, thực sự là công cụ sắc bén của Đảng và là chỗ dựa tin cậy của nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp công tác thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn các vụ việc xử lý vi phạm pháp luật, nhằm tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân, xây dựng đường biên giới thân thiện, hữu nghị; tăng cường giao lưu kết nghĩa, làm sâu sắc thêm mối đoàn kết gắn bó keo sơn giữa nhân dân các dân tộc Quan Sơn với các bản, huyện của nước bạn Lào nơi có chung đường biên giới. Các cấp ủy đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và vận động nhân dân làm tốt công tác quản lý, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, phát triển rừng bền vững; duy trì ổn định tỷ lệ che phủ rừng 84% vào năm 2020. Ban hành Nghị quyết về bảo vệ môi trường, đảm bảo đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng, chống săn bắt, sử dụng động vật quý hiếm. 4. Công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, được xác định với 7 nội dung sau: Coi trọng công tác chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên: Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể tập trung làm tốt công tác chính trị tư tưởng để mỗi cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng nhân dân hiểu rõ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Thanh Hóa về phát triển miền núi, xóa đói giảm nghèo; tạo sự quyết tâm, chủ động để phát huy nội lực của huyện trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng huyện Quan Sơn trở thành huyện khá. Các trường học, trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện có kế hoạch cụ thể để đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, triển khai học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với Nghị quyết Trung ương 4 [khóa XI]; xây dựng đội ngũ cán bộ trách nhiệm, tận tụy phục vụ nhân dân. Tập trung xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên: Chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, nhất là chi bộ đảng ở địa bàn dân cư; phát triển đảng viên ở các bản, nâng cao chất lượng đảng viên. Ban Thường vụ Huyện ủy triển khai đề án “Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của chi bộ bản, khu phố”. Ban Tổ chức Huyện ủy tham mưu để Ban Thường vụ, Ban Chấp hành thường xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch nguồn cán bộ, đi đôi với việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đánh giá, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ có năng lực thực tế, đồng thời quan tâm đến chính sách cán bộ một cách hợp lý. Không ngừng mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá, nhận xét cán bộ. Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt cấp ủy, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ tham mưu. Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành đề án luân chuyển đội ngũ cán bộ tại các xã, thị trấn theo tinh thần Kết luận 60 - KL/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Tiếp tục thực hiện đề án điều động, luân chuyển một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện đảm nhiệm các chức danh chủ chốt ở cơ sở, điều động một số chức danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND không phải là người địa phương. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh: Nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng và Ủy ban kiểm tra các cấp về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp, trước hết là người đứng đầu cấp ủy. Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn khóa, hàng năm; chú trọng tổ chức kiểm tra tổ chức cơ sở đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm; tập trung kiểm tra, giám sát những ngành, lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra sai phạm như: quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên; chi tiêu ngân sách, mua sắm tài sản; quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; giải phóng mặt bằng; thực hiện các chương trình, dự án; việc thu và phân bổ các quỹ phòng chống thiên tai, từ thiện.. để chủ động phát hiện, phòng ngừa và ngăn chặn những sai phạm. Tiến hành kiểm tra, giám sát những nơi có dấu hiệu vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và các quy định có tính nguyên tắc trong tổ chức sinh hoạt Đảng, mất đoàn kết nội bộ. Kiểm tra, giám sát người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về năng lực lãnh đạo, quản lý; về phẩm chất đạo đức lối sống; về phong cách và tính tiên phong gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ; thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ thi hành kỷ luật trong Đảng đảm bảo nguyên tắc, thủ tục giữ vững kỷ cương và tăng cường kỷ luật của Đảng. Duy trì hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Đổi mới công tác dân vận trong tình hình mới: Xây dựng, triển khai đề án đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Dân vận ở cơ sở giai đoạn 2016 - 2020, trọng tâm là triển khai thực hiện Chỉ thị 49 - CT/TW, ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”; thực hiện tốt Quy chế dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, phong trào thi đua dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới. Thường xuyên sâu sát cơ sở, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng, giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, nổi cộm của nhân dân. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc: Các cấp ủy đảng tập trung xây dựng Quy chế làm việc, Chương trình công tác toàn khóa và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp mình; đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của cấp ủy đảng. Nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương và nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng. Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải tiến lề lối, tác phong công tác của các Ban Đảng, Văn phòng Huyện ủy và Đảng ủy các xã, thị trấn; phát huy có hiệu quả mạng công nghệ thông tin phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy từ huyện đến cơ sở. Tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động của Hội đồng nhân dân; nâng cao năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp; Quán triệt triển khai Luật tổ chức chính quyền địa phương; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và trách nhiệm của đại biểu HĐND các cấp; chủ động phối hợp xây dựng chương trình và kế hoạch giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đổi mới nâng cao chất lượng các buổi tiếp xúc cử tri. Nâng cao năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của UBND các cấp, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành, quản lý thống nhất trong hoạt động của bộ máy hành chính từ huyện đến cơ sở. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về các mặt yếu kém, tồn tại kéo dài như: Quản lý xây dựng dân dụng, lấn chiếm lòng lề đường; quản lý tài nguyên; Các dự án đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước; công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông; bảo tồn các giá trị văn hóa cộng đồng. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nêu cao trách nhiệm thực thi công vụ trong đội ngũ cán bộ công chức; đồng thời cương quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức, viên chức vi phạm kỷ luật, vi phạm quy chế, không hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng chính quyền các cấp vững mạnh. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, hội quần chúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân: Các cấp ủy đảng tăng cường lãnh đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, hội quần chúng theo hướng đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng; chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên, hội viên và nhân dân; thực hiện tốt chức năng tư vấn, giám sát, phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát huy tốt trách nhiệm, sâu sát với cơ sở, nắm chắc tình hình cơ sở, gắn bó mật thiết với nhân dân; tạo mọi điều kiện để nhân dân phát huy dân chủ, tham gia góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Ban Dân vận Huyện ủy chủ trì phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xây dựng đề án khơi dậy sức dân, phát huy nội lực, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, bảo vệ rừng, giữ vững quốc phòng - an ninh. Sau gần 20 năm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quan Sơn, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực, phát huy được thế mạnh của huyện, các ngành nghề truyền thống được khôi phục, một số ngành nghề mới được phát triển, góp phần quan trọng vào việc xóa đói giảm nghèo. Văn hóa xã hội Quan Sơn có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Quốc phòng an ninh được củng cố và tăng cường, góp phần tích cực vào thành tựu chung của tỉnh và cả nước. Đảng bộ huyện Quan Sơn không ngừng được củng cố cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Hoạt động của chính quyền có nhiều đổi mới. Nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn huyện. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế và phía trước vẫn còn nhiều khó khăn, song những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân huyện Quan Sơn đạt được trong gần 20 năm là rất quan trọng, tạo tiền đề để Đảng bộ và nhân dân Quan Sơn phát huy nội lực, kết hợp ngoại lực, xây dựng Quan Sơn ngày càng phát triển

Chương 4. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

4.1. TỔ CHỨC ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN

4.1.1. Đảng bộ huyện Quan Sơn 4.1.1.1. Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển Ngày 16 tháng 12 năm 1996, Tỉnh ủy Thanh Hóa ra Quyết định số 131-QĐ/TU thành lập Đảng bộ huyện Quan Sơn và Quyết định số 136-QĐ/TU, chỉ định Ban Chấp hành Huyện ủy lâm thời[1]. Khi mới thành lập, Đảng bộ huyện Quan Sơn có 9 Đảng bộ xã: Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Thượng, Sơn Hà, Sơn Lư, Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Điện, Sơn Thủy và 2 Đảng bộ lâm trường với tổng số 860 đảng viên. Ban Chấp hành Huyện ủy lâm thời gồm 15 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí.[2] Trải qua chặng đường xây dựng, phát triển và trưởng thành, Đảng bộ huyện Quan Sơn đã tiến hành 5 kỳ đại hội: Đại hội lần thứ I, nhiệm kỳ 1997 - 2000; Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 2000 - 2005; Đại hội lần thứ III, nhiệm kỳ 2005 - 2010; Đại hội lần thứ IV, nhiệm kỳ 2010 - 2015; Đại hội lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Các kỳ đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho toàn Đảng bộ thực hiện nghị quyết của đại hội, nhằm đáp ứng yêu cầu tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước. DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH HUYỆN ỦY LÂM THỜI [Từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1997] TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú 1 Hà Văn Thương Bí thư Huyện ủy 2 Hà Văn Thông Phó Bí thư Trường trực Huyện ủy 3 Phạm Văn Thư Phó Bí thư - Chủ tịch UBND huyện 4 Hà Văn Thống UV BTV, Chỉ huy Trưởng BCH QS huyện 5 Trịnh Đình Xu UV BTV, Trưởng Công an huyện 6 Lữ Văn Xiệt UV BCH, Phó Chủ tịch UBND huyện 7 Lò Đình Múi UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Tam Lư 8 Phạm Phú Hào UV BCH, Phó Chủ tịch UBND huyện 9 Hà Chí Nông UV BCH, Trưởng Ban Tuyên giáo 10 Lương Hồng Thuân UV BCH, Trưởng Ban Tổ chức 11 Hoàng Đại UV BCH, Giám đốc Lâm trường Na Mèo 12 Hà Văn Đoàn UV BCH, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra 13 Nguyễn Văn Đồng UV BCH, Phó phòng Tài chính - Kế hoạch 14 Nguyễn Văn Hiếu UV BCH, Giám đốc Trung tâm Y tế 15 Lữ Văn Tự UV BCH, Chủ tịch Ủy ban MTTQ huyện Đại hội Đảng bộ lần thứ I Cùng với xây dựng hệ thống chính quyền, đoàn thể, Huyện ủy lâm thời đã ra quyết định thành lập thêm 3 Đảng bộ cơ quan, 6 chi bộ trực thuộc, nâng tổng số lên 20 đảng bộ, chi bộ trực thuộc. Đảng bộ huyện Quan Sơn đã tiến hành Đại hội lần thứ I [từ ngày 26 đến ngày 27 tháng 6 năm 1997]. Đại hội có sự tham dự của 122 đại biểu thuộc 20 tổ chức Đảng trong huyện. Trong không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Đại hội đã đánh giá tình hình hoạt động trong 6 tháng đầu năm 1997 những thành công, hạn chế trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh... từ đó, đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp, Đại hội chỉ rõ: Thuận lợi lớn nhất là có đường lối Đại hội VIII của Đảng soi sáng và những thành tựu bước đầu đạt được trên các lĩnh vực [chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh] là nguồn cổ vũ to lớn đối với Đảng bộ và đồng bào các dân tộc trong huyện. Đặc biệt là từ khi thành lập, Đảng bộ và nhân dân huyện Quan Sơn đã đoàn kết, thống nhất, chung sức, chung lòng vượt qua khó khăn thách thức, khai thác tiềm năng, thế mạnh của huyện để xây dựng quê hương, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. Thành công của Đại hội Đảng bộ huyện Quan Sơn lần thứ I đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự nghiệp xây dựng, phát triển, bảo vệ quê hương. Mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc ở Quan Sơn lúc này là phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ý thức rõ yêu cầu tất yếu khách quan đó, Huyện ủy đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp sắc bén, tổ chức chỉ đạo Đảng bộ, nhân dân huyện nhà phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ Nhất. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 33 đồng chí; Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUAN SƠN KHÓA I, NHIỆM KỲ 1997 - 2000 TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú 1 Hà Văn Thương Bí thư Huyện ủy 2 Hà Văn Thông Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy 3 Phạm Văn Thư Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện 4 Lương Hồng Thuân UV BTV, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy 5 Hà Chí Nông UV BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy 6 Hà Văn Đoàn UV BTV, Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy 7 Lữ Văn Tự UV BTV, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc huyện 8 Lữ Văn Xiệt UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện 9 Lò Đình Múi UV BTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện 10 Trịnh Đình Xu UV BTV, Trưởng Công an huyện 11 Hà Văn Thống UV BTV, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện 12 Lữ Xuân Báo UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Tam Lư 13 Hoàng Đại UV BCH, Giám đốc Lâm trường Na Mèo 14 Lữ Trọng Đạm UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Trung Thượng 15 Lương Ngọc Đặng UV BCH, Trưởng phòng NN và PTNT 16 Phạm Bá Diệm UV BCH, Trưởng Phòng Tổ chức LĐ Thương binh và Xã hội 17 Hà Tuyến Din UV BCH, Chủ tịch Hội Nông dân 18 Lương Văn Ếu UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Tam Thanh 19 Lò Văn Hán UV BCH, Bí thư Đảng ủy thị trấn Quan Sơn 20 Phạm Phú Hào UV BCH, Phó Chủ tịch UBND huyện 21 Vi Xuân Hiệp UV BCH, Chánh văn phòng Huyện ủy 22 Nguyễn Văn Hiếu UV BCH, Giám đốc Trung tâm Y tế 23 Phạm Quang Hòa UV BCH, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo 24 Hà Văn Khêu UV BCH, Phó Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy 25 Hà Hoàn Kiếm UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Trung Hạ 26 Phạm Hồng Kiêu UV BCH, Bí thư Huyện đoàn 27 Lê Hùng Mạnh UV BCH, Trưởng phòng Tài chính - Kế hoạch 28 Mai Bá Nam UV BCH, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo 29 Hà Xuân Thiện UV BCH, Thường vụ trực Đảng ủy xã Trung Xuân 30 Ngân Thị Thới UV BCH, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện 31 Phạm Xuân Tiên UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Na Mèo 32 Phạm Bá Vát UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Mường Mìn 33 Hà Văn Xếm UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Hà

Đại hội Đảng bộ lần thứ II Đại hội Đảng bộ lần thứ II [nhiệm kỳ 2000 - 2005] diễn ra từ ngày 20 đến 22 tháng 10 năm 2000, tham dự Đại hội có 127 đại biểu đại diện cho 1.420 đảng viên của Đảng bộ huyện. Đại hội đã tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả một nhiệm kỳ hoạt động, rút ra nguyên nhân các mặt thành công, hạn chế; xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ, nhiệm kỳ 2000 - 2005. Vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương chiến lược của Đảng trong điều kiện cụ thể của huyện, Đại hội xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm kỳ 2000 - 2005 là: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng và cộng đồng; khai thác và sử dụng hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện địa hóa. Cụ thể là: lấy cây luồng, cây vầu, nứa làm cây kinh tế mũi nhọn; lấy cây lúa, ngô, sắn làm cây lương thực chính; lấy chăn nuôi đại gia súc, gia cầm làm con nuôi chủ yếu, lấy trang trại vừa và nhỏ làm mô hình sản xuất cơ bản; lấy phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, đào tạo lực lượng lao động và ổn định chính trị xã hội làm điều kiện phát triển”. Trong nhiệm kỳ này, Đảng bộ tập trung xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảm bảo cho bản lĩnh cách mạng, năng lực trí tuệ, khả năng tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên, tổ chức cơ sở đảng và toàn Đảng bộ được tăng cường. Ban Thường vụ đã cử 194 cán bộ, đảng viên theo học các lớp trung cấp và cao cấp chính trị, chỉ đạo Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện mở 77 lớp bồi dưỡng lý luận, chuyên môn nghiệp vụ cho 1.992 lượt cán bộ, đảng viên. Kết nạp mới 789 đảng viên, tỉ lệ đảng viên nữ, đảng viên trẻ ngày càng tăng. Tính đến hết năm 2005, tổng số đảng viên toàn Đảng bộ huyện là 2.087 đồng chí. Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng được 374 cán bộ từ huyện đến cơ sở; tổ chức cho 285 đồng chí hoàn thành tốt nghiệp trung học phổ thông, 5 đồng chí học trung cấp chuyên nghiệp; bổ nhiệm mới 62 đồng chí, bổ nhiệm lại 27 đồng chí cán bộ lãnh đạo. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 33 đồng chí; Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUAN SƠN KHÓA II, NHIỆM KỲ 2000 - 2005 TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú 1 Hà Văn Thương Bí thư Huyện ủy Tháng 10/2002 chuyển công tác về UB MTTQ tỉnh 2 Hà Văn Thông Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tháng 12/2002 làm Bí thư Huyện ủy 3 Phạm Văn Thư Phó Bí thư - Chủ tịch UBND huyện Tháng 06/2004 chuyển công tác về Ban Dân tộc tỉnh Thanh Hóa 4 Lò Đình Múi Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy [Từ tháng 3/2003] Từ tháng 4/2004 làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện 5 Lương Hồng Thuân UV BTV, Trưởng ban Tổ chức 6 Hà Chí Nông UV BTV, Trưởng ban Tuyên giáo 7 Hà Văn Đoàn UV BTV, Chủ nhiệm UB KT 8 Lữ Văn Tự UV BTV, Chủ tịch UB MTTQ huyện 9 Lữ Văn Xiệt UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện 10 Hà Văn Thống UV BTV, Chỉ huy trưởng BCH Quân sự huyện Đến tháng 04/2004 11 Trịnh Đình Xu UV BTV, Trưởng Công an huyện 12 Phạm Bá Diệm UV BTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện [từ tháng 07/2003], Từ tháng 7/2014 làm Phó Bí thư trực Huyện ủy 13 Trịnh Đức Hồng UV BTV, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Bổ sung từ tháng 06/2004 14 Ngân Thị Thới UV BTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện Bổ sung từ UV BCH lên UV BTV tháng 06/2004 15 Phạm Phú Hào UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện Bổ sung từ UV BCH lên UV BTV tháng 06/2004 16 Vi Thanh Chướng UV BCH - Phó Trưởng ban Dân vận Huyện ủy 17 Phạm Xuân Cừ UV BCH - Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Lâm trường Na Mèo 18 Lữ Trọng Đạm UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Trung Thượng 19 Lương Ngọc Đặng UV BCH, Trưởng phòng NN - PTNT 20 Hà Tuyến Din UV BCH, Chủ tịch Hội Nông dân huyện 21 Vi Thanh Dưa UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Thủy 22 Lương Văn Ếu UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Tam Thanh 23 Vi Xuân Hiệp UV BCH, Chánh văn phòng Huyện ủy 24 Nguyễn Văn Hiếu UV BCH, Giám đốc Trung tâm Y tế 25 Lương Văn Hoan UV BCH, Phó Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy 26 Phạm Hồng Kiêu UV BCH, Bí thư Huyện đoàn 27 Vi Văn Lăng UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Lư 28 Lê Hùng Mạnh UV BCH, Trưởng phòng Tài chính 29 Mai Bá Nam UV BCH, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo 30 Lò Văn Phiên UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Điện 31 Đào Ngọc Thạch UV BCH, Giám đốc Ngân hàng NN&PTNN [đến tháng 05/2003] 32 Phạm Xuân Tiên UV BCH - Bí thư Đảng ủy xã Na Mèo 33 Lê Văn Toàn UV BCH, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm [đến tháng 10/2004] 34 Phạm Bá Vát UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Mường Mìn Đại hội Đảng bộ lần thứ III Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III, nhiệm kỳ 2005 - 2010 diễn ra từ ngày 22 - 23 tháng 10 năm 2005, gồm 199 đại biểu đại diện cho 2.087 đảng viên của toàn Đảng bộ huyện tham dự. Đại hội có nhiệm vụ đóng góp ý kiến cho văn kiện dự thảo của Đại hội X của Đảng và Đại hội XVI của Đảng bộ tỉnh, tổng kết đánh giá một nhiệm kỳ hoạt động, xác định phương hướng nhiệm vụ mục tiêu, giải pháp và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, nhiệm kỳ 2005 - 2010. Đánh giá về những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ 2000 - 2005, Đại hội đã khẳng định: “Trong 5 năm qua, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đảng bộ và đồng bào các dân tộc huyện nhà đã đoàn kết thống nhất, khắc phục mọi khó khăn thách thức, ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ II, tạo ra những thành tích và kết quả to lớn. Nền kinh tế huyện nhà đã có bước phát triển và tăng trưởng khá, giá trị kinh tế các ngành nông - lâm - thủ công - thương mại - dịch vụ đều tăng so với năm 2000. Đặc biệt là kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế - xã hội có bước phát triển mới, toàn diện, sâu sắc. Hàng trăm công trình giao thông, thủy lợi, điện, nước, hệ thống trường học, bệnh viện, trạm y tế, đài truyền thanh truyền hình, bưu chính viễn thông, các khu trung tâm kinh tế cụm xã, hệ thống chợ thị trấn, chợ biên giới, chợ nông thôn, hệ thống trụ sở cơ quan cấp huyện, cấp xã được xây dựng mới làm thay đổi cơ bản bộ mặt của một huyện miền núi cao biên giới, tạo ra những điều kiện cơ bản thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được xây dựng, củng cố vững chắc, tạo ra sức mạnh giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội, an ninh khu vực biên giới. Hệ thống chính trị được xây dựng vững chắc, quy chế dân chủ cơ sở được triển khai sâu rộng, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được nâng cao. Trên cơ sở đó, Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ, các giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, giải pháp về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị và ban hành Nghị quyết Đại hội để chỉ đạo thực hiện. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện [khóa III] gồm 35 đồng chí; Ban Chấp hành bầu ban Thường vụ gồm có 11 đồng chí. Đại hội Đảng bộ huyện thành công tạo ra những điều kiện quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa quê hương.

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUAN SƠN KHÓA III, NHIỆM KỲ 2005 - 2010 TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú 1 Phạm Bá Diệm Bí thư Huyện ủy 2 Hà Chí Nông Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy 3 Lò Đình Múi Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện 4 Lữ Văn Tự UV BTV, Trưởng ban Tổ chức 5 Lương Hồng Thuân UV BTV, Trưởng ban Tuyên giáo 6 Hà Văn Đoàn UV BTV, Chủ nhiệm UB Kiểm tra 7 Hà Tuyến Din UV BTV, Trưởng ban Dân vận 8 Phạm Phú Hào UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện 9 Ngân Thị Thới UV BTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện 10 Trịnh Đức Hồng UV BTV, Chỉ huy Trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Đến tháng 03/2010 11 Lê Văn Ba UV BTV, Chỉ huy trưởng BCH Quân sự huyện Từ tháng 04/2010 12 Trịnh Đình Xu UV BTV, Trưởng Công an huyện Đến tháng 03/2010 13 Lê Duy Long UV BTV, Trưởng Công an huyện Từ tháng 04/2010 14 Phạm Xuân Cừ UV BCH, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc BQL Rừng phòng hộ Na Mèo 15 Lữ Trọng Đạm UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Trung Thượng 16 Nguyễn Văn Đồng UV BCH, Phó Trưởng phòng Tài chính 17 Nguyễn Thị Dung UV BCH, Giám đốc Kho bạc 18 Đào Thành Dũng UV BCH, Trưởng phòng Công thương 19 Doãn Ngọc Hài UV BCH, Bí thư Huyện đoàn 20 Lò Văn Hán UV BCH, Bí thư Đảng ủy thị trấn Quan Sơn 21 Vi Xuân Hiệp UV BCH, GĐ Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị 22 Nguyễn Văn Hiếu UV BCH, GĐ Trung tâm Y tế Đến tháng 9/2007 23 Hà Thị Hường UV BCH, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ 24 Hà Xuân Khanh UV BCH, Phó Trưởng ban Tổ chức Huyện ủy 25 Lương Văn Khánh UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Điện 26 Hoàng Văn Kiện UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Thủy 27 Phạm Hồng Kiêu UV BCH, Chánh Văn phòng Huyện ủy 28 Mai Bá Nam UV BCH, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Đến tháng 04/2007 29 Lương Thị Ngoan UV BCH, Phó Chủ tịch UBND huyện 30 Lê Thanh Ngợi UV BCH, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Đến 12/2006 31 Lương Văn Noọng UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Tam Thanh 32 Phạm Thanh Quân UV BCH, Chủ tịch Hội Nông dân huyện 33 Lò Văn Quyến UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Trung Xuân 34 Vi Văn Thẹm UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Mường Mìn 35 Lộc Hữu Thương UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Tam Lư 36 Phạm Xuân Tiên UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Na Mèo 37 Vi Xuân Vượng UV BCH, Trưởng phòng Nội vụ

Đại hội Đảng bộ lần thứ IV Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 diễn ra từ ngày 24 đến 25 tháng 7 năm 2010 với sự tham gia của 211 đại biểu đại diện cho hơn 2.900 đảng viên trong toàn Đảng bộ huyện. Đại hội đánh giá về những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn đã đạt được trong giai đoạn 2005 - 2010, đã vượt qua những khó khăn thách thức, một số chỉ tiêu kinh tế đã đạt và vượt kế hoạch; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân cao hơn so với thời kỳ 2001 - 2005; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng và từng bước khai thác được tiềm năng thế mạnh của huyện; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được tăng cường; các thành phần kinh tế đang từng bước phát triển và bước đầu đạt được những kết quả đáng phấn khởi; văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ và ngày càng được xã hội hóa; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự xã hội đảm bảo, an ninh biên giới luôn được giữ vững, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được chú trọng; hệ thống chính quyền được quan tâm xây dựng và củng cố; cải cách hành chính đạt được những kết quả bước đầu; hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành không ngừng được nâng lên; hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội ngày càng thiết thực hơn. Trong nhiệm kỳ, đã cử đi đào tạo lý luận chính trị cho 171 đồng chí, mở được 56 lớp bồi dưỡng, huấn luyện cho 5.384 lượt cán bộ, đảng viên. Số cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh hằng năm đều tăng, số cơ sở đảng yếu kém giảm [năm 2005 tỉ lệ cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh là 70%, đến năm 2009 tăng lên 81% và không còn cơ sở yếu kém]. Chất lượng đảng viên và công tác quản lý đảng viên có nhiều chuyển biến, việc đánh giá phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được đổi mới. Công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng. Trong nhiệm kỳ, đã kết nạp mới được 985 đảng viên, nâng tổng số đảng viên lên gần 3.000 đồng chí. Đại hội đã đề ra phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, quốc phòng - an ninh và công tác xây dựng Đảng, Đại hội xác định: “Tập trung xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục đổi mới công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; Đẩy mạnh việc thực hiện các cuộc vận động, điển hình là cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tiếp tục đổi mới công tác tổ chức cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra giám sát; nâng cao chất lượng công tác dân vận; đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách làm việc của cấp ủy và các tổ chức đảng; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của bộ máy chính quyền các cấp; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; đổi mới nội dung, phương thức vận động quần chúng của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội.” Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện [khóa IV] gồm 35 đồng chí; Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí.

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUAN SƠN KHÓA IV, NHIỆM KỲ 2010 - 2015 TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú 1 Phạm Bá Diệm Bí thư Huyện ủy Đến tháng 3/2013 2 Vi Xuân Hiệp Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy 3 Lò Đình Múi Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện Tháng 4/2013 làm Bí thư Huyện ủy 4 Hoàng Văn Kiện UV BTV, Trưởng ban Tổ chức 5 Lương Hồng Thuân UV BTV, Trưởng ban Tuyên giáo 6 Hà Văn Đoàn UV BTV, Chủ nhiệm UB Kiểm tra 7 Hà Xuân Khanh UV BTV, Trưởng ban Dân vận 8 Lương Thị Ngoan UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện 9 Ngân Thị Thới UV BTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện 10 Lê Văn Ba UV BTV, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện 11 Lê Duy Long UV BTV, Trưởng Công an huyện 12 Bùi Khắc Cảnh UV BCH, Trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường 13 Hà Văn Công UV BCH, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa 14 Nguyễn Văn Đồng UV BCH, Phó Chủ tịch UBND huyện [từ tháng 10/2010 đến tháng 6/2013] Từ tháng 7/2013 đến tháng 12/2015 làm PBT, Chủ tịch UBND huyện 15 Vi Thanh Dón UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Thủy 16 Đào Thành Dũng UV BCH, Trưởng phòng Công thương 17 Doãn Ngọc Hài UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Hà 18 Lò Văn Hán UV BCH, Bí thư Đảng ủy thị trấn 19 Lữ Thanh Hiệng UV BCH, Phó Trưởng ban Tổ chức Huyện ủy 20 Hà Thị Hương UV BCH, Bí thư Huyện đoàn 21 Hà Thị Hường UV BCH, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ 22 Lương Văn Khánh UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Điện 23 Phùng Khắc Khoa UV BCH, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra 24 Phạm Hồng Kiêu UV BCH, GĐ Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện 25 Phạm Bá Luyến UV BCH, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo 26 Hà Văn Phong UV BCH, Phó Bí thư Đảng ủy xã Tam Thanh 27 Lò Văn Quyến UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Trung Xuân 28 Lương Văn Sinh UV BCH, Chủ tịch Ủy ban MTTQ huyện 29 Đào Hữu Tàu UV BCH, Chánh văn phòng Huyện ủy 30 Lương Tiến Thành UV BCH, Trưởng phòng Tài chính - Kế hoạch 31 Phạm Ngọc Tin UV BCH, Chi cục Trưởng Chi cục thuế 32 Mạc Văn Tính UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Trung Tiến 33 Nguyễn Ngọc Văn UV BCH, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc BQL Rừng phòng hộ Na Mèo 34 Vi Xuân Vượng UV BCH, Trưởng phòng Nội vụ 35 Vi Hồng Xiêng UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Na Mèo

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 diễn ra từ ngày 9 đến 11 tháng 8 năm 2015 với sự tham gia của 215 đại biểu đại diện cho 3.695 đảng viên trong toàn Đảng bộ huyện. Đại hội đã đánh giá trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Cộng đồng đoàn kết, dân chủ, kỷ cương được giữ vững; cơ sở hạ tầng được đầu tư phát triển; công tác trồng, chăm sóc, quản lý, bảo vệ rừng được quan tâm, tạo bước đột phá cho phát triển kinh tế. Công tác giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân luôn được quan tâm; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên; việc xóa đói, giảm nghèo và các chính sách an sinh xã hội thực hiện có hiệu quả. Quốc phòng - an ninh luôn ổn định. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được quan tâm; phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc của các cấp ủy Đảng tiếp tục đổi mới; nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện nghiêm túc. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đại hội xác định rõ phương hướng là tiếp tục nâng cao năng lực và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong sản xuất; chú trọng phát triển lâm - nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng nông thôn mới gắn với giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đẩy mạnh các lĩnh vực văn hóa, xã hội, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội; Thực hiện thành công các chương trình trọng tâm của giai đoạn này là: Chương trình giảm nghèo bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới và phát triển du lịch; Chương trình phát triển kinh tế lâm, nông nghiệp, trọng tâm là cải tạo rừng nghèo, vườn tạp và nâng cao tầm vóc đàn gia súc; Chương trình phát triển nguồn nhân lực. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V thể hiện quyết tâm chính trị to lớn của toàn Đảng bộ, phấn đấu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng, quyết tâm xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, khai thác tốt các nguồn lực, tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đến năm 2020 đưa huyện Quan Sơn thoát nghèo bền vững. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 gồm 37 đồng chí, Ban Thường vụ 8 đồng chí. Sau Đại hội, được sự quan tâm của Tỉnh ủy, bộ máy lãnh đạo và các tổ chức của huyện sớm được ổn định và đi vào hoạt động. Đảng bộ chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn tập trung ngay vào việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đã đề ra, thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUAN SƠN KHÓA V, NHIỆM KỲ 2015 - 2020 TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú 1 Nguyễn Ngọc Tiến Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Tháng 9 năm 2015 2 Vi Xuân Hiệp Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tháng 12/2015 chuyển công tác 3 Bùi Mạnh Khoa Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tháng 1 năm 2016 4 Vũ Văn Đạt Phó Bí thư - Chủ tịch UBND huyện Từ tháng 11/2015 5 Hoàng Văn Kiện UV BTV, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy Tháng 12/2015 chuyển công tác 6 Phùng Khắc Khoa UV BTV, Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy 7 Phạm Hồng Kiêu UV BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy Từ tháng 01/2016 8 Hà Xuân Khanh UV BTV, Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy 9 Hà Văn Công UV BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy Tháng 12/2015 chuyển công tác 10 Chu Đình Trọng UV BTV, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy 11 Hà Thị Hương UV BTV, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND huyện 12 Lương Tiến Thành UV BTV, Phó Chủ tịch UBND huyện 13 Nguyễn Anh Tuấn UV BTV, Chỉ huy Trưởng BCHQS huyện 14 Hoàng Chí Đăng UV BTV, Trưởng Công an huyện 15 Nguyễn Văn Bình UV BCH, Phó Chủ tịch UBND huyện 16 Lương Thị Hạnh UV BCH, Phó Chủ tịch UBND huyện 17 Đinh Long Sen UV BCH, Phó Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy 18 Hoàng Văn Sơn UV BCH, Phó Chủ tịch HĐND huyện 19 Lữ Thanh Hiệng UV BCH, Giám đốc TTBD Chính trị huyện 20 Trịnh Vinh Lực UV BCH, Trưởng Phòng Nội vụ 21 Nguyễn Văn Minh UV BCH, Trưởng Phòng Kinh tế hạ tầng huyện 21 Trịnh Hoàng Anh UV BCH, Trưởng Phòng Khuyến nông huyện 22 Lê Đình Xuân UV BCH, Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo 23 Phạm Bá Hào UV BCH, Chánh Thanh tra huyện 24 Lương Văn Sinh UV BCH, Chủ tịch UBMTTQ huyện 25 Hà Thị Hường UV BCH, Chủ tịch Hội LHPN huyện 26 Đào Hữu Tàu UV BCH, Chủ tịch Hội Nông dân huyện 27 Lữ Văn Hà UV BCH, Bí thư Huyện đoàn 28 Hà Văn Mới UV BCH, Chủ tịch LĐLĐ huyện 29 Lữ Văn Luân UV BCH, Giám đốc TTYT huyện 30 Nguyễn Đức Hiệp UV BCH, Hạt Trưởng Kiểm lâm huyện 31 Lê Văn Tài UV BCH, Viện trưởng VKS huyện 32 Vi Hồng Xiêng UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Na Mèo 33 Lương Văn Khánh UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Điện 34 Hà Thị Dung UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Trung Xuân 35 Hà Văn Tý UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Tam Lư 36 Nguyễn Văn Lĩnh UV BCH, Bí thư Đảng ủy Thị trấn 37 Phạm Xuân Cường UV BCH, Bí thư Đảng ủy xã Trung Hạ Nhìn lại chặng đường 20 năm xây dựng và trưởng thành, có thể khẳng định rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các dân tộc huyện Quan Sơn đã và đang tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, tạo nên những thành tựu mới to lớn trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, làm biến đổi sâu sắc toàn diện bộ mặt quê hương. Đặc biệt, trong 20 năm qua, Đảng bộ không ngừng xây dựng và củng cố hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới. Khi mới thành lập, Đảng bộ huyện Quan Sơn gồm có 9 Đảng bộ xã: Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Thượng, Sơn Hà, Sơn Lư, Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Điện, Sơn Thủy và 2 Đảng bộ lâm trường, với tổng số 860 đảng viên. Đến nay, toàn Đảng bộ huyện có 37 tổ chức cơ sở đảng gồm 13 Đảng bộ xã, thị trấn, 24 Đảng bộ, chi bộ trực thuộc, 189 chi bộ bản, khu phố, toàn Đảng bộ có 3.779 đảng viên. Sự vững mạnh của hệ thống chính trị là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong công cuộc xây dựng bảo vệ quê hương đất nước. Đồng bào các dân tộc huyện Quan Sơn tập hợp đoàn kết trong hệ thống chính trị, xây dựng bảo vệ hệ thống chính trị và hăng hái thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Sự gắn kết của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tạo ra nền tảng chính trị vững chắc, tạo nên sức mạnh to lớn giúp Đảng bộ và nhân dân trong huyện vượt qua mọi khó khăn thách thức qua các thời kỳ để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Đó chính là thành tựu to lớn trong lĩnh vực chính trị xã hội mà Đảng bộ và đồng bào các dân tộc huyện Quan Sơn đã dày công vun đắp trong suốt chặng đường đã qua. Phát huy truyền thống đoàn kết và tinh thần cách mạng của đồng bào các dân tộc trong huyện, với tinh thần đoàn kết và cần cù lao động sáng tạo của nhân dân, đặc biệt với sự nỗ lực đổi mới của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn, tin tưởng rằng huyện Quan Sơn sẽ ngày càng phát triển, từng bước khắc phục những khó khăn, vươn lên cùng với các địa phương trong tỉnh, trong khu vực và đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 4.1.1.2. Các cơ quan của Đảng bộ huyện quan Sơn Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quan Sơn [gọi tắt là Huyện ủy Quan Sơn] Là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai nhiệm kỳ Đại hội. Huyện ủy có nhiệm vụ bầu các Ủy viên Ban Thường vụ, bầu các chức danh Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ủy ban kiểm tra. Trên cơ sở quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, Huyện ủy đề ra các chủ trương, chiến lược lớn về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, công tác quần chúng để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương theo nguyên tắc tập trung dân chủ; Chịu trách nhiệm trước Đảng bộ và nhân dân trong huyện về tình hình mọi mặt của Đảng bộ. Tham mưu, giúp việc cho Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy, Thường trực Huyện ủy [Bí thư, Phó Bí thư Thường trực] là hệ thống các cơ quan chuyên trách [thường gọi là các Ban Đảng, đơn vị thuộc Huyện ủy], gồm có: Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức, Ủy ban Kiểm tra, Ban Dân vận và Văn phòng Huyện ủy. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan của Đảng hiện nay được thực hiện theo Quy định số 220-QĐ/TW ngày 27 tháng12 năm 2013 của Ban Bí thư Trung ương về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc huyện, quận, thị, thành ủy trực thuộc Tỉnh ủy, Thành ủy. Ban Tuyên giáo Huyện ủy Công tác Tuyên giáo của Đảng gắn liền với sự ra đời, phát triển, trưởng thành của Đảng. Ngay từ những năm đầu Đảng bộ huyện được thành lập, công tác Tuyên giáo đã có những đóng góp quan trọng trong thực hiện công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền các chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng, thực hiện công tác huấn luyện đảng viên, tham mưu cho cấp ủy chính quyền xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, văn nghệ, khoa học kỹ thuật... Ban Tuyên giáo và đội ngũ cán bộ làm công tác Tuyên giáo của huyện Quan Sơn đã có những đóng góp to lớn vào thành tích chung của Đảng bộ và nhân dân huyện Quan Sơn. Trong thời kỳ đổi mới, đất nước phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách. Công tác tuyên giáo của Đảng tập trung hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Điểm nổi bật của công tác tuyên giáo trong thời kỳ này là tích cực tuyên truyền Chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước; đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn; làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta; cổ vũ, động viên phong trào thi đua trên mọi lĩnh vực; khơi dậy và nhân lên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, sức sáng tạo của toàn xã hội, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Ban Tổ chức Huyện ủy Công tác tổ chức xây dựng đảng gắn liền với sự ra đời, phát triển, trưởng thành của Đảng bộ huyện. Từ khi thành lập, Đảng bộ luôn quan tâm đến công tác tổ chức xây dựng; nhiệm vụ của công tác tổ chức là: Tập trung củng cố, phát triển tổ chức cơ sở Đảng, vận động các phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, giáo dục, bồi dưỡng quần chúng ưu tú để kết nạp Đảng. Giúp cấp ủy củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể chung; thực hiện cuộc vận động thi đua xây dựng Đảng và xây dựng chi bộ vững mạnh; Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, công tác tổ chức xây dựng đảng được quan tâm xây dựng, kiện toàn. Đồng thời tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, xác định chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp hơn trong điều kiện hoạt động mới. Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở. Công tác phát triển đảng viên được quan tâm chỉ đạo đạt kết quả, nhất là ở những vùng trọng yếu. Số lượng đảng viên mới kết nạp hằng năm đều tăng; tỉ lệ đảng viên mới kết nạp là đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là người dân tộc thiểu số, trí thức ngày càng tăng, góp phần thay đổi cơ cấu đội ngũ đảng viên theo hướng tích cực. Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt trong sự lãnh đạo của Đảng ta và trong công tác xây dựng Đảng. Ngay từ khi thành lập đến các giai đoạn cách mạng sau này, Đảng ta luôn coi trọng và không ngừng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và giữ gìn kỷ luật của Đảng. Đối với Đảng bộ huyện Quan Sơn, ngay từ khi mới thành lập, cấp ủy huyện Quan Sơn đã luôn xác định rõ vai trò quan trọng của công tác kiểm tra và làm tốt công tác kiểm tra của Đảng, góp phần xây dựng Đảng bộ huyện Quan Sơn ngày càng lớn mạnh. Trải qua các thời kỳ, công tác kiểm tra của Đảng và hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy đã tích cực, chủ động thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đảng viên, các tổ chức Đảng trên địa bàn huyện. Trong những năm gần đây, Ủy ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ huyện đã chủ động, tích cực tham mưu giúp cấp ủy làm tốt công tác lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật theo Điều lệ Đảng và các nhiệm vụ do cấp ủy giao. Trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện, Ủy ban kiểm tra các cấp đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm và đối tượng chính cần kiểm tra, giám sát; tham mưu giúp cấp ủy chỉ đạo cấp dưới làm tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy và của Ủy ban kiểm tra cấp ủy; tập trung giải quyết đơn thư tố cáo và tiến hành kiểm tra những tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; nghiêm túc xử lý và thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đảm bảo quy trình, quy định, góp phần nâng cao tính giáo dục, sự nghiêm minh trong Đảng, làm cho các tổ chức đảng trên địa bàn huyện ngày càng vững mạnh. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát đã phát huy được tinh thần tiền phong gương mẫu, đoàn kết và trí tuệ của tổ chức Đảng, củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là sức mạnh để Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện vượt qua những khó khăn thách thức, thực hiện thắng lợi hầu hết các mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết đại hội Đảng các cấp đã đề ra. Ban Dân vận Huyện ủy Ngay từ khi Đảng bộ huyện mới ra đời, công tác dân vận đã được quan tâm, chú trọng. Chức năng của Ban Dân vận là cơ quan tham mưu của Huyện ủy, trực tiếp giúp Ban Thường vụ Huyện ủy về công tác Dân vận của cấp ủy và theo dõi công tác dân tộc; công tác tôn giáo; Thường trực Ban chỉ đạo “Quy chế dân chủ xã, phường, thị trấn”. Nghiên cứu, cụ thể hóa những chủ trương, nghị quyết của Trung ương và Tỉnh ủy về công tác dân vận, đề xuất, chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị các kế hoạch công tác và văn bản chỉ đạo của huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy về công tác dân vận. Ban Dân vận còn có nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra các ngành, đoàn thể huyện và các tổ chức cơ sở đảng thực hiện các chỉ thị, nghỉ quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy về công tác dân vận. Phối hợp với MTTQ và các đoàn thể huyện theo dõi, nắm tình hình từ trong Đảng đến mọi đối tượng trong các tầng lớp nhân dân phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy. Phối hợp với Ban tổ chức Huyện ủy làm công tác xây dựng Đảng trong khối dân vận; nắm tình hình đội ngũ cán bộ trong khối và có trách nhiệm tham gia ý kiến trong việc tuyển chọn, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ của Đảng bộ khi có cấp ủy yêu cầu. Hướng dẫn nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ phương pháp công tác dân vận cho Đảng ủy và các tổ chức quần chúng ở cơ sở. Ban Dân vận Huyện ủy và hệ thống Dân vận của Đảng đã tích cực thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh của Đảng bộ huyện. Văn phòng Huyện ủy Trong suốt chặng đường lịch sử gần 20 năm qua, công tác văn phòng cấp ủy huyện Quan Sơn gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển của Đảng bộ huyện. Từ những năm đầu Đảng bộ huyện thành lập, Văn phòng Huyện ủy đã cùng với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện tham mưu, phục vụ cho sự lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện qua các thời kỳ. Văn phòng Huyện ủy là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Huyện ủy mà trực tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực Huyện ủy trong tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp hoạt động các cơ quan tham mưu, giúp việc cho Huyện ủy; là trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy. Trực tiếp quản lý tài sản, tài chính của Huyện ủy và đảm bảo cơ sở vật chất cho các hoạt động của Huyện ủy, Ban Thường vụ, Thường trực Huyện ủy và các cơ quan tham mưu, giúp việc Huyện ủy. 4.1.2. Hệ thống tổ chức chính quyền huyện Quan Sơn 4.1.2.1. Hội đồng nhân dân huyện Quan Sơn Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan Nhà Nước cấp trên về mọi hoạt động của mình. Theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân ngày 26 tháng 11 năm 2003 và được thay thế bằng luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015. Theo quy định, mỗi năm, Hội đồng nhân dân tổ chức họp hai kỳ [có thể tổ chức các kỳ họp bất thường theo quy định của pháp luật tùy theo yêu cầu nhiệm vụ và tình hình của thực tế địa phương]. Từ ngày thành lập đến nay, Hội đồng nhân dân huyện đã trải qua 4 kỳ bầu cử, Hội đồng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ theo quy định của Pháp luật, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội; quốc phòng - an ninh của cấp huyện qua các nhiệm kỳ đại hội. 4.1.2.2. Ủy ban nhân dân huyện Quan Sơn Là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện. Điều hành nhiệm vụ kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn huyện. Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính Nhà nước từ Trung ương tới cơ sở. Nhiệm kỳ của UBND huyện cùng với nhiệm kỳ của HĐND huyện, chủ tịch, các phó chủ tịch UBND huyện và các thành viên UBND huyện. 4.1.2.3. Các phòng chuyên môn thuộc UBND huyện Quan Sơn Số lượng, nhiệm vụ, tổ chức các phòng chuyên môn, đơn vị chuyên môn thuộc UBND huyện được tổ chức theo Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Cụ thể như sau: Phòng Nội vụ Phòng Nội vụ trước đây gọi là Phòng Tổ chức chính quyền, sau sát nhập với Phòng Thương binh - Xã hội thành lập Phòng Tổ chức - Thương binh - Xã hội; sau là Phòng Nội vụ - Lao động - Thương binh và Xã hội; từ năm 2009 tách ra thành Phòng Nội vụ. Phòng Nội vụ là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về: Tổ chức bộ máy; vị trí việc làm; biên chế công chức và cơ cấu ngạch công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính Nhà nước và theo dõi công tác tôn giáo; cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng trong cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập; cải cách hành chính; chính quyền địa phương; địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước; tôn giáo; công tác thanh niên; thi đua - khen thưởng. Phòng Tư pháp Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức được quy định tại Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNVngày 28 tháng 04 năm 2009 của liên Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ. Phòng Tư pháp có nhiệm vụ tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về: công tác xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; chứng thực; hộ tịch; trợ giúp pháp lý; hòa giải ở cơ sở và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Phòng Tài chính - Kế hoạch Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về: tài chính; kế hoạch và đầu tư; đăng ký kinh doanh; tổng hợp và thống nhất quản lý các vấn đề về doanh nghiệp, hợp tác xã, kinh tế tư nhân. Phòng Tài nguyên và Môi trường Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; môi trường; biển và hải đảo [đối với các huyện có biển, đảo]. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có chức năng, nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản, phát triển nông thôn; phòng chống thiên tai; vấn đề chất lượng an toàn thực phẩm đối với nông sản, lâm sản, thủy sản; vấn đề phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại nông thôn, kinh tế hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp gắn với làng nghề; vấn đề xây dựng nông thôn mới. Phòng Kinh tế và Hạ tầng Hiện nay, Phòng Kinh tế và Hạ tầng là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về: Công nghiệp; tiểu thủ công nghiệp; thương mại; quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao [bao gồm: cấp nước, thoát nước đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng; chiếu sáng đô thị, cây xanh đô thị; quản lý nghĩa trang, trừ nghĩa trang liệt sĩ; quản lý xây dựng ngầm đô thị; quản lý sử dụng chung cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị]; nhà ở; công sở; vật liệu xây dựng; giao thông; khoa học và công nghệ. Phòng Dân tộc Phòng Dân tộc có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác dân tộc. Phòng Lao động - Thương binh xã hội Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về: việc làm; dạy nghề; lao động, tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội [bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp]; an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội. Phòng Văn hóa và Thông tin Phòng Văn hóa và Thông tin tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực: văn hóa; gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; quảng cáo; bưu chính; viễn thông; công nghệ thông tin; phát thanh truyền hình; báo chí; xuất bản; thông tin cơ sở; thông tin đối ngoại; hạ tầng thông tin. Phòng Giáo dục và Đào tạo Phòng Giáo dục - Đào tạo là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực: Chương trình và nội dung giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo và tiêu chuẩn cán bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo. Phòng Y tế Phòng Y tế có chức năng, nhiệm vụ tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về: Y tế dự phòng; khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng; y dược cổ truyền; sức khỏe sinh sản; trang thiết bị y tế; dược; mỹ phẩm; an toàn thực phẩm; bảo hiểm y tế; dân số - kế hoạch hóa gia đình. Thanh tra huyện Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng tham mưu tổng hợp cho Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện về: Hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân về chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân; cung cấp thông tin phục vụ quản lý và hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan Nhà nước ở địa phương; bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; trực tiếp quản lý và chỉ đạo hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông; hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ của cá nhân, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp huyện, chuyển hồ sơ đến các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết và nhận kết quả để trả cho cá nhân, tổ chức. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân 13 xã, thị trấn Trong hệ thống chính trị của huyện Quan Sơn còn có Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, cán bộ công chức của 13 xã, thị trấn[ ]. Đây là cấp chính quyền cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ lãnh, chỉ đạo cán bộ và nhân dân địa phương thực hiện các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, góp phần xây dựng quê hương Quan Sơn ngày càng giàu đẹp, hiện đại, văn minh. 4.2. CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI HUYỆN QUAN SƠN 4.2.1. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn Ngày 23 tháng 01 năm 1997, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 14 - QĐ/MTTH thành lập Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn và thành lập Ủy ban Mặt trận lâm thời do ông Lữ Văn Tự làm Chủ tịch. Ngay sau khi thành lập, Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn đã tích cực vận động đồng bào các dân tộc trong huyện đoàn kết thi đua xây dựng Huyện và tích cực chuẩn bị các điều kiện về tư tưởng, tổ chức tiến tới Đại hội. Tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn lần thứ I [1997 - 2000] diễn ra ngày 20 tháng 3 năm 1997, ông Lữ Văn Tự chính thức được bầu làm Chủ tịch Mặt trận. Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn là liên minh chính trị, lấy liên minh công nông làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quan Sơn. Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn là khâu quan trọng trong hệ thống chính trị, cầu nối giữa tổ chức Đảng, chính quyền với quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn được thành lập trong điều kiện đất nước ta đã và đang thực hiện thành công cuộc đổi mới. Trong những năm qua trên tinh thần đổi mới, hoạt động của MTTQ Việt Nam huyện Quan Sơn đã bám sát nhiệm vụ chính trị của huyện, với nhiều hình thức và biện pháp để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng chính quyền, phối hợp với chính quyền, các tổ chức thành viên triển khai, thực hiện quy chế dân chủ. Trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, MTTQ huyện Quan Sơn đã vận động các tầng lớp nhân dân hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nư¬ớc trên các lĩnh vực lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm. Triển khai tốt các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”; Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; Phong trào xây dựng gia đình “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, vận động nhân dân phát triển kinh tế gia đình, kinh tế vườn, góp phần vào việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng. Trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng: Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn đã đóng góp tích cực vào cuộc vận động thực hiện kêu gọi thanh niên nhập ngũ, xây dựng mối đoàn kết quân dân và thực hiện tốt các chính sách hậu phương quân đội. Từ năm 2013, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “MTTQ Việt Nam là cơ sở chính trị chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn trong thời kỳ đổi mới đã được chính quyền, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, MTTQ tỉnh tặng bằng khen, giấy khen. Trải qua các kỳ đại hội [1], MTTQ huyện Quan Sơn đã không ngừng lớn mạnh. Khi mới thành lập có 8 tổ chức thành viên, hiện nay đã có 12 tổ chức thành viên. Trong qua trình hoạt động MTTQ huyện Quan Sơn luôn phát huy vai trò tập hợp đoàn kết mọi tầng lớp các dân tộc, phát động các phong trào thi đua yêu nước nhằm hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa bàn huyện. Trong giai đoạn tiếp theo tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng nông thôn mới, Mặt trận Tổ quốc huyện Quan Sơn sẽ là tổ chức tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tạo nhiều phong trào thi đua yêu nước, giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội huyện Quan Sơn. 4.2.2. Liên đoàn Lao động huyện Quan Sơn Ngày 13 tháng 01 năm 1997, Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 02 - TC/LĐLĐ thành lập Liên đoàn Lao động huyện Quan Sơn và Ban Chấp hành Công đoàn huyện gồm 5 đồng chí, đồng chí Hà Văn Đoàn làm Chủ tịch. Ban Chấp hành Công đoàn đã tích cực vận động cán bộ, công nhân viên chức toàn huyện thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hưởng ứng chủ trương này, công nhân viên toàn huyện đã hăng hái thi đua, hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ được giao và chuẩn bị các điều kiện để tiến tới Đại hội Công đoàn huyện lần thứ I vào ngày 24 tháng 2 năm 1998. Tại Đại hội lần thứ I, Liên đoàn Lao động huyện Quan Sơn đã bầu Ban Chấp hành chính thức và bầu đồng chí Hà Văn Khiêm giữ cương vị Chủ tịch Liên đoàn. Liên đoàn Lao động là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và người lao động ở địa phương; đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân, viên chức và người lao động, tham gia quản lý kinh tế - xã hội, kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, động viên công nhân, viên chức và người lao động trên địa bàn huyện Quan Sơn thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Khi mới thành lập, Liên đoàn Lao động huyện mang tên “Công đoàn Dân chính Đảng” gồm có 121 đoàn viên sinh hoạt ở 3 Công đoàn cơ sở. Đồng chí Hà Văn Đoàn được Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh chỉ định làm Chủ tịch lâm thời Công đoàn Dân chính Đảng huyện Quan Sơn. Trong quá trình đổi mới và phân cấp quản lý theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Công đoàn toàn quốc [khóa VII] đến nay, Liên đoàn Lao động huyện Quan Sơn có 1.867 công nhân, viên chức, lao động, với 1.613 đoàn viên sinh hoạt tại 17 Công đoàn cơ sở và 43 công đoàn trường học. Liên đoàn Lao động đã thực hiện các chức năng chính là tuyên truyền, giáo dục công nhân, viên chức, lao động, tham gia công tác quản lý; chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng cho công nhân, viên chức, lao động; tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần vào những thành tựu đổi mới quê hương Quan Sơn ngày càng giàu đẹp, văn minh. Trong quá trình phát triển, Liên đoàn Lao động đã thường xuyên phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước cấp huyện, Công đoàn ngành địa phương, Công đoàn Tổng Công ty để kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách công nhân, viên chức, lao động; Tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn. Từ khi thành lập đến nay, Liên đoàn Lao động huyện luôn được Đảng bộ huyện quan tâm, tạo điều kiện phối hợp công tác với UBND huyện và các tổ chức chính trị xã hội khác trong huyện, Công đoàn huyện Quan Sơn đã không ngừng lớn mạnh cả về tổ chức chính trị và tư tưởng, có vai trò quan trọng trong việc tập hợp lực lượng công nhân, viên chức, lao động và tổ chức các phong trào thi đua góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của huyện qua các thời kỳ. Trong qua trình hoạt động, Liên đoàn Lao động huyện Quan Sơn đã được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Liên đoàn Lao động tỉnh tặng Cờ thi đua xuất sắc và nhiều bằng khen vì có nhiều thành tích đóng góp xây dựng tổ chức Công đoàn.[1] 4.2.3. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn Ngày 25 tháng 01 năm 1997, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 07 - QĐ/TVTH thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn và Ban Chấp hành lâm thời gồm 5 thành viên, do bà Ngân Thị Thới làm Chủ tịch. Ban Chấp hành lâm thời đã tích cực tổ chức các phong trào thi đua xây dựng huyện và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới Đại hội Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn lần thứ I vào ngày 16 tháng 6 năm 1997. Tại Đại hội, đã bầu ra Ban Chấp hành chính thức và bầu bà Ngân Thị Thới làm Chủ tịch Hội. Hội Liên hiệp Phụ nữ là tổ chức đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước. Đoàn kết vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới. Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình và trẻ em; xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình. Từ ngày thành lập, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn đã không ngừng phát triển và trưởng thành. Khi thành lập, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn có 2.200 hội viên, hiện nay Hội có 7.236 hội viên. Hội đã tập hợp đoàn kết được đông đảo các tầng lớp phụ nữ các dân tộc trong huyện phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù sáng tạo, trung hậu đảm đang, giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc, đem tài năng trí tuệ góp phần to lớn vào sự phát triển của huyện Quan Sơn. Trong quá trình hoạt động, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng chăm lo, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng cho phụ nữ. Hội luôn bám sát các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, tuyên truyền vận động phụ nữ các dân tộc trong huyện hưởng ứng thực hiện phong trào thi đua và cuộc vận động lớn của Hội: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững” và cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, cuộc vận động “Mái ấm tình thương”. Với chức năng nhiệm vụ của mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ đã tuyên truyền vận động cán bộ hội viên phụ nữ tích cực thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Vận động chị em phụ nữ thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện ủy thác với Ngân hàng chính sách xã hội hỗ trợ vốn vay cho hội viên phát triển kinh tế gia đình, xây dựng các tổ tiết kiệm tại chi tổ, chỉ đạo xây dựng câu lạc bộ phụ nữ giảm nghèo. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn đã tăng cường phối hợp với các ban, ngành hỗ trợ phụ nữ nâng cao kiến thức, năng lực, xây dựng gia đình: “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” như chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, trẻ em thông qua tiểu dự án, chương trình phối hợp, tổ chức tập huấn, sinh hoạt câu lạc bộ, tổ chức các Hội thi cấp huyện, xã. Các hoạt động lồng ghép dân số sức khỏe sinh sản, giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và mắc tệ nạn xã hội. Thực hiện luật bình đẳng giới, luật phòng chống bạo lực gia đình... Nhiều mô hình hoạt động có hiệu quả như “Câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình”, “Câu lạc bộ chăm sóc sức khỏe sinh sản”, “Câu lạc bộ dinh dưỡng” đem lại hiệu quả thiết thực. Phát huy vai trò đại diện của tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn tham gia Hội đồng tư vấn các ban chỉ đạo các cấp chính quyền, tham gia thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tham gia giám sát các chế độ chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em, phối hợp với các ngành chức năng phát hiện kịp thời giải quyết bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của phụ nữ, trẻ em không bị xâm phạm. Trong hoạt động đối ngoại nhân dân các cấp, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn đã quan tâm chỉ đạo cơ sở tuyên truyền cho cán bộ, hội viên phụ nữ nâng cao nhận thức về đường lối, chính sách đối ngoại nhân dân của Đảng và Nhà nước ta. Thường xuyên phối hợp với Bộ đội biên phòng, lực lượng vũ trang làm tốt công tác bảo vệ đường biên cột mốc, không xâm canh, xâm cư, không tái trồng cây thuốc phiện, không khai thác gỗ, săn bắn thú rừng bất hợp pháp, nâng cao cảnh giác với các âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch chống phá nước ta. Tăng cường các hoạt động giao lưu thăm thân với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, cùng nhau xây dựng biên giới, hợp tác hữu nghị và phát triển bền vững. Thực hiện phương châm ở đâu có phụ nữ ở đó có tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ, các cấp Hội đã thường xuyên quan tâm xây dựng, phát triển, củng cố, phát triển hội viên. Về công tác cán bộ nữ: Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn luôn coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội các cấp có phẩm chất chính trị vững vàng, tinh thông về nghiệp vụ, có phương pháp vận động quần chúng nhiệt tình, tâm huyết với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Trải qua gần 20 năm phấn đấu và trưởng thành, đến nay Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn đã có hệ thống Hội từ huyện đến chi hội, có đội ngũ cán bộ chuyên trách và trên 7.000 hội viên sinh hoạt ở 99 chi hội. Cán bộ, hội viên phụ nữ trong huyện đang là lực lượng lao động to lớn, tích cực lao động, học tập cùng nhân dân các dân tộc trong huyện, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng nông thôn mới góp phần đưa huyện Quan Sơn thoát khỏi huyện nghèo vào năm 2020. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Quan Sơn đã có nhiều thành tích, liên tục được Trung ương Hội và Tỉnh Hội tặng bằng khen; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ Việt Nam”. 4.2.4. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Quan Sơn Ngày 17 tháng 02 năm 1997, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 37 - QĐ/TĐ thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Quan Sơn và Ban Chấp hành lâm thời Huyện đoàn gồm 15 đồng chí, do đồng chí Phạm Hồng Kiêu là Bí thư. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Quan Sơn kể từ ngày thành lập đến nay trải qua 4 kỳ Đại hội. Những ngày đầu mới thành lập Huyện đoàn, điều kiện khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt, cơ sở vật chất còn nghèo nàn. Nơi làm việc và hoạt động của Đoàn tạm bợ. Nhưng với tinh thần nhiệt huyết của tập thể Ban Chấp hành lâm thời Đoàn đã sớm củng cố, ổn định tổ chức đi vào hoạt động. Ngày 08 tháng 3 năm 1997, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Quan Sơn tiến hành Đại hội Đại biểu lần thứ I với sự có mặt của 95 đại biểu đại diện cho gần 1.000 đoàn viên trong toàn huyện, Đại hội đã bầu 15 đồng chí vào Ban Chấp hành huyện Đoàn khóa I [1]. Có thể nói công tác và phong trào thanh thiếu niên của nhiệm kì đầu là điều kiện, tiền đề cho nhiệm kì tiếp theo phát triển. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên huyện Quan Sơn, là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên, tham mưu và đề xuất với Huyện ủy - HĐND - UBND huyện về quy chế chính sách bảo vệ quyền lợi cho Đoàn viên thanh niên và thiếu niên nhi đồng, đồng thời tập trung tuyên truyền, vận động đoàn viên thanh niên thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên thanh niên và thiếu niên nhi đồng, tạo điều kiện cho đoàn viên thanh niên phát triển kinh tế tạo việc làm, tăng thu nhập, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng cho đoàn viên thanh niên và thiếu niên nhi đồng. Đại diện, bảo vệ quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của đoàn viên thanh niên, tham gia xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước; Đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức hướng dẫn đoàn viên thanh niên và thiếu niên nhi đồng thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, hướng dẫn thiếu nhi làm theo 5 điều Bác Hồ dạy và phấn đấu trở thành đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người công dân tốt của đất nước. Đến nay trên toàn huyện có trên 5.000 đoàn viên, thanh niên với 29 cơ sở đoàn, trong đó có 13 chi đoàn xã, thị trấn, 16 chi đoàn trực thuộc, các cơ sở Đoàn đã thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng thông qua việc tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về Đảng cho đoàn viên thanh niên, đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội Đảng các cấp về các chủ trương, chính sách có liên quan đến các thế hệ trẻ, đến vai trò của đảng viên và nâng cao chất lượng cơ sở Đảng. Cuộc vận động “Đoàn viên phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam” được đẩy mạnh, tạo động lực khích lệ đoàn viên phấn đấu. Trong quá trình hoạt động, Huyện đoàn Quan Sơn luôn là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong các phong trào cách mạng, có mặt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đa số đoàn viên là những người có tri thức, sức khỏe, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng đảm nhận những việc mới, việc khó. Huyện đoàn Quan Sơn đã triển khai nhiều nhiệm vụ thiết thực nhằm hỗ trợ, cổ vũ thanh niên vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng quê hương qua các phong trào “5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “4 đồng hành cùng thanh niên trên con đường lập thân, lập nghiệp”; cuộc vận động Thanh niên làm kinh tế giỏi và nghị quyết tuổi trẻ xây dựng nông thôn mới do đoàn cấp trên phát động. Sự hỗ trợ của Đoàn Thanh niên làm kinh tế rất đa dạng và thiết thực, thu hút đông đảo thanh niên tích cực tham gia. Các thế hệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Quan Sơn đã cùng với thanh niên cả nước luôn phát huy truyền thống cách mạng của các thế hệ cha anh, đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, trung thành tuyệt đối với Đảng, gắn bó chặt chẽ với lợi ích của dân tộc, với nhân dân, truyền thống xung kích cách mạng, xung phong tình nguyện, sẵn sàng đón nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Quan Sơn cũng luôn dành sự quan tâm, tin tưởng đối với thế hệ trẻ, đó chính là niềm cổ vũ lớn lao, là động lực mạnh mẽ để tuổi trẻ tự tin vững bước đi lên, kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam. 4.2.5. Hội Nông dân huyện Quan Sơn Ngày 30 tháng 05 năm 1997, Ban Chấp hành Hội Nông dân Thanh Hóa ra Quyết định số 86/QĐ-HND thành lập Hội Nông dân huyện Quan Sơn và Ban Chấp hành lâm thời gồm 15 thành viên do đồng chí Hà Tuyến Din làm Chủ tịch. Ngày thành lập Hội Nông dân, toàn huyện có 9 tổ chức cơ sở Hội với 87 chi hội; có 3.900 hội viên. Đến nay, toàn huyện có 13 tổ chức cơ sở Hội trên 13 xã, thị trấn; có 99 chi hội với 6.802 hội viên, chiếm 96% hội viên nông nghiệp. Trong đó hội viên là đảng viên 2.271 chiếm trên 30%; có 486 hội viên nữ, 6.334 hội viên nam[1]. Hội Nông dân là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân, đại diện và bảo vệ quyền lợi của nông dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quan Sơn. Hội Nông dân có chức năng, nhiệm vụ: Vận động, giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt. Tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên nông dân. Tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, hội viên, nông dân hiểu biết đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị của Hội Nông dân Việt Nam; Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa; nghị quyết của Đảng bộ huyện Quan Sơn. Khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước; ý chí cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, lao động sáng tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa; hiện đại hóa. Tổ chức học tập nâng cao trình độ tay nghề khoa học kỹ thuật và nghề nghiệp trong sản xuất, kinh doanh cho hội viên, nông dân; nghiệp vụ công tác hội cho cán bộ hội. Vận động tập hợp và làm nòng cốt tổ chức các phong trào nông dân phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng nông thôn mới, xây dựng gia đình nông dân văn hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho hội viên, nông dân. Các cấp Hội là thành viên tích cực trong quá trình thực hiện các chính sách pháp luật, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, ở nông thôn; tham gia xây dựng kinh tế hợp tác, hợp tác xã, tổ chức các hoạt động dịch vụ hỗ trợ nông dân và vận động nông dân thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; tham gia các phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tham gia công tác giám sát, phản biện xã hội, công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh; tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến nông nghiệp, nông thôn; tham gia xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân. Tăng cường công tác hòa giải, gạt bỏ những định kiến, mâu thuẫn, giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nông dân; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chống quan lưu, tham nhũng, mất dân chủ và các tệ nạn xã hội. Mở rộng công tác hoạt động đối ngoại theo quan điểm, đường lối của Đảng trên tinh thần hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng phát triển với tổ chức hội nông dân, tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ. Thực hiện tốt và có hiệu quả 3 phong trào lớn do Hội Nông dân Việt Nam phát động: Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng; Phong trào “Chung tay xây dựng nông thôn mới” thi đua xây dựng gia đình văn hóa, tham gia xây dựng làng, bản, xã văn hóa ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu; Phong trào nông dân thi đua tham gia bảo vệ quốc phòng - an ninh. Trong suốt chặng đường đã qua, Hội Nông dân huyện Quan Sơn luôn là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đứng vào tốp Hội Nông dân dẫn đầu của tỉnh Thanh Hóa. Hội đã được tặng nhiều phần thưởng cao: năm 1999 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Tỉnh hội tặng cờ luân lưu; năm 2000, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Trung ương Hội nông dân Việt Nam tặng bằng khen; năm 2001 được tặng cờ luân lưu của tỉnh Hội [Đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua]; năm 2010, đạt giải Ba Hội thi an toàn giao thông toàn tỉnh; năm 2012, Tặng bằng khen đơn vị đạt giải Nhì, toàn tỉnh về nhà nông đua tài, thi tìm hiểu kiến thức nhà nông; Năm 2014, đạt giải Nhì toàn tỉnh về tham gia cúp bóng chuyền “Bông lúa vàng” năm 2014; năm 2015, được Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tặng bằng khen về “Đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. 4.2.6. Hội Cựu chiến binh huyện Quan Sơn Tháng 2 năm 1997, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, UBND huyện Quan Sơn ra quyết định thành lập Hội Cựu chiến binh huyện Quan Sơn. Ngày 15 tháng 3 năm 1997, Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh tỉnh ra Quyết định số 32 chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Hội Cựu chiến binh huyện Quan Sơn gồm 13 thành viên, do ông Hà Văn Cối làm Chủ tịch. Hội Cựu chiến binh huyện Quan Sơn tiến hành Đại hội lần thứ I vào tháng 6 năm 1997. Hội Cựu chiến binh là tổ chức chính trị xã hội của các cựu chiến binh huyện Quan Sơn, thành viên của Ủy viên Mặt trận Tổ quốc, do Đảng bộ huyện Quan Sơn lãnh đạo. Hội hoạt động theo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy truyền thống “bộ đội Cụ Hồ”, góp phần bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực xây dựng, quê hương đất nước. Khi thành lập, Hội Cựu chiến binh huyện Quan Sơn có 1.391 hội viên, hiện nay tổng số hội viên đã lên tới 2.368. Trong quá trình hoạt động, Hội Cựu chiến binh huyện Quan Sơn đã tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ quan trọng như: tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế gia đình, thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt, hội đã tích cực tham gia giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ. Hội cùng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội làm tốt công tác quân nhân, góp phần giữ vững ổn định an ninh - chính trị, góp phần cùng Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của huyện Quan Sơn. 4.2.7. Các tổ chức quần chúng Hiện nay, trên địa bàn huyện Quan Sơn có các tổ chức quần chúng sau: Hội Người cao tuổi huyện Quan Sơn thành lập ngày 20 tháng 10 năm 2011.Từ ngày thành lập đến nay, đã trải qua 2 kỳ đại hội, Chủ tịch hội là ông Hà Tuyến Din. Hội Khuyến học huyện Quan Sơn thành lập ngày 7 tháng 5 năm 2001. Từ ngày thành lập đến nay, đã trải qua 4 kỳ đại hội. Chủ tịch khóa I là ông Lữ Văn Tự, khóa II là bà Lương Thị Ngoan, khóa III và khóa IV là ông Hà Chí Nông. Hội Chữ Thập đỏ huyện Quan Sơn thành lập ngày 5 tháng 8 năm 2005. Từ ngày thành lập đến nay, đã trải qua 2 kỳ đại hội. Chủ tịch khóa I, II là bà Lương Thị Ngoan. Hội Cựu Thanh niên xung phong huyện Quan Sơn được thành lập từ tháng 12 năm 2006 đã trải qua 3 kỳ đại hội. Bà Lê Thị Quyên làm Chủ tịch Hội cả 3 khóa liên tiếp. Hội Nạn nhân chất độc da cam/ Dioxin huyện Quan Sơn thành lập ngày 9 tháng 10 năm 2009. Từ ngày thành lập đến nay, đã trải qua 2 kỳ đại hội. Chủ tịch khóa I là bà Lương Thị Ngoan, khóa II là ông Lữ Văn Tự. Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi huyện Quan Sơn thành lập ngày 19 tháng 12 năm 2012, đã tiến hành Đại hội lần thứ I do ông Hà Văn Khiêm làm Chủ tịch. Hội Làm vườn huyện Quan Sơn thành lập ngày 09 tháng 06 năm 2014, đã tiến hành Đại hội lần thứ I do ông Phạm Văn Thư làm Chủ tịch. Hội Dân tộc học và Nhân học huyện Quan Sơn được thành lập theo Quyết định số 1809/QĐ-UBND, ngày 20/05/2015 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Đại hội lần thứ I, nhiệm kỳ 2015 - 2020 tổ chức vào ngày 29 tháng 09 năm 2015, Chủ tịch Hội là ông Phạm Xuân Cừ. Trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay, các tổ chức quần chúng đã và đang phát triển, có nhiều hoạt động phong phú, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò trong khối đại đoàn kết toàn dân. Chính quyền các cấp huyện Quan Sơn đã tạo điều kiện để các tổ chức xã hội quần chúng hoạt động có hiệu quả, đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và theo điều lệ đề ra. Với các hình thức hoạt động và vai trò khác nhau, nhưng nhìn chung, mục đích hoạt động của các tổ chức xã hội quần chúng đều có những điểm chung tương đồng, nhằm mục đích chia sẻ những khó khăn trong quá trình phát triển, hỗ trợ nhau phát triển kinh tế, nâng cao mức sống, chia sẻ tình cảm, thăm hỏi lẫn nhau, tạo sự đồng thuận và tính cộng đồng trong điều kiện phát triển mới. Với ý nghĩa đó, vai trò của các tổ chức xã hội quần chúng được xem như là một nguồn lực góp phần vào sự phát triển chung của huyện Quan Sơn trong bối cảnh hiện nay. 4.3. VỀ GIÁO DỤC, Y TẾ HUYỆN QUAN SƠN 4.3.1. Về Giáo dục Quan Sơn là huyện có truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng cũng là vùng quê có tinh thần hiếu học, nhân dân các dân tộc trong huyện luôn cần cù, chịu khó và đoàn kết. Đảng bộ, chính quyền các cấp trong huyện luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao, kịp thời, toàn diện trên mọi lĩnh vực công tác nên diện mạo huyện Quan Sơn đã có nhiều thay đổi: so với năm 1997, tỷ lệ trẻ đến trường tăng từ 80% lên 97%; tỷ lệ người mù chữ trong độ tuổi 15 - 60 tuổi giảm từ 15% [1997] xuống còn 3,6% [2015]. Năm 1997, Phòng Giáo dục huyện Quan Sơn [nay là Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Quan Sơn] được thành lập. Là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo[1]. Gần 20 năm - một chặng đường ngành giáo dục và đào tạo Quan Sơn không ngừng phát triển đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của huyện nhà. Giáo dục huyện vùng cao Quan Sơn được xây dựng, phát triển cùng với sự ra đời của bộ máy hành chính. Những ngày đầu huyện được thành lập, cơ quan làm việc của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện và các ngành, đoàn thể đặt ở trung tâm huyện trong những căn nhà tre nứa lá, cơ sở hạ tầng, điện, nước thiếu thốn, điều kiện sinh hoạt, làm việc khó khăn nên đầu tư cho giáo dục còn hạn chế. Năm 1997, quy mô giáo dục toàn huyện khi đó mới chỉ có 9 trường mầm non với 72 nhóm lớp, 1.020 cháu; 9 trường phổ thông cơ sở [cấp I và cấp II] với 345 lớp tiểu học, 6.072 học sinh; 66 lớp THCS, 1.868 học sinh; chưa có trường THPT cũng như Trung tâm GDTX - DN. Đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên các cấp học, ngành học có 876 người, không đủ về số lượng, vênh về cơ cấu, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ hạn chế, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn đạt khoảng 60%. Nghị quyết Trung ương 2 [khóa VIII] ra đời như một luồng gió mới tiếp thêm sức mạnh cho giáo dục Quan Sơn. Các cấp ủy, chính quyền địa phương, các ngành và nhân dân các dân tộc trong huyện luôn xác định việc “trồng người” để đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai là vô cùng quan trọng. Với sự giúp đỡ của tỉnh, các ngành cấp tỉnh, sự nỗ lực của địa phương sau 2 năm thành lập huyện [đến năm học 1999 - 2000], huyện Quan Sơn đã thành lập được trường THPT mới chỉ có 2 lớp và 100 học sinh. Năm học 2000 - 2001, Trung tâm GDTX được thành lập. Lúc này, toàn huyện đã có 11 trường mầm non với 2.038 cháu; 11 trường tiểu học với 4.949 học sinh; 11 trường THCS với 3.553 học sinh; số học sinh THPT tăng gấp 6,5 lần so với năm học 1999 - 2000. Đến năm học 2015 - 2016, bậc học mầm non đã có 15 trường với 190 nhóm, lớp, 3.638 cháu; tiểu học có 13 trường với 219 lớp, 3.179 học sinh; THCS có 13 trường với 83 lớp, 2.190 học sinh [trong đó có 7 trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS]; 01 trường phổ thông có nhiều cấp học [TH và THCS] với 14 lớp, 313 học sinh; 02 trường THPT với 28 lớp, 994 học sinh; 01 Trung tâm Giáo dục Thường xuyên - Dạy nghề với 61 học viên văn hóa và hàng trăm lượt học viên học nghề mỗi năm. Hiện tại, toàn huyện có 13 Trung tâm học tập cộng đồng [mỗi đơn vị hành chính xã, thị trấn có 01 trung tâm]. Nội dung, hình thức hoạt động của các Trung tâm HTCĐ ngày càng đa dạng, phong phú, thu hút ngày càng nhiều người đến học tập; hoạt động ở các Trung tâm học tập cộng đồng đã từng bước có nền nếp. Vai trò của Trung tâm học tập cộng đồng trong hệ thống giáo dục Quốc dân từng bước được khẳng định, giáo dục cho người lớn ngày càng được quan tâm. Cùng với việc mở rộng quy mô mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học cũng không ngừng được đầu tư xây dựng và bổ sung. Hiện nay, toàn huyện có 522 phòng học, trong đó có 303 phòng học kiên cố, cao tầng chiếm tỷ lệ 58,1%; 150 phòng học cấp 4 chiếm tỷ lệ 28,7%. Tỷ lệ phòng học tranh tre, tạm bợ giảm còn 13,2%. Trong những năm qua, ngành giáo dục và đào tạo huyện Quan Sơn luôn xác định, muốn có trò giỏi trước hết phải có thầy giỏi. Chính vì vậy, Phòng Giáo dục và Đào tạo luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. Đặc biệt đã tham mưu cho UBND huyện ban hành đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục và đào tạo huyện giai đoạn 2013 - 2015, định hướng đến năm 2020” nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục huyện nhà. Năm học 2015 - 2016, toàn huyện có 1.091 cán bộ, giáo viên, nhân viên [mầm non 368; tiểu học 396; THCS 298; Trung tâm GDTX - DN 15; Phòng GD&ĐT 14] thì có 781 đảng viên [chiếm 71,6%], 1.065 người đạt trình độ trên chuẩn là 803 người [chiếm 73,6%]. Hiện có nhiều người đang theo học Thạc sỹ, Tiến sỹ [có 2 Tiến sỹ đã luân chuyển về Trường Đại học Hồng Đức và Trường Chính trị Tỉnh]. Hiện nay số cán bộ giáo viên, nhân viên là người dân tộc thiểu số, người địa phương chiếm tỷ lệ cao [622 người, chiếm 57%]. Những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện; sự phối kết hợp của các phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện; sự quan tâm của các cấp đảng, chính quyền địa phương và nhân dân các dân tộc trong huyện; đặc biệt là sự quyết tâm, năng động vượt khó của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh nên chất lượng giáo dục huyện nhà đã có nhiều điểm khởi sắc. Tỷ lệ trẻ mẫu giáo 5 tuổi ra lớp đạt 100%; tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học, tốt nghiệp THCS đạt 100%. Chất lượng giáo dục đại trà đã có nhiều tiến bộ. Qua nhiều năm phấn đấu xây dựng, đã có 14 trường đạt chuẩn Quốc gia [03 trường mầm non, 05 trường tiểu học, 05 trường THCS, 01 trường TH&THPT] và nhiều trường cận chuẩn đang trong lộ trình xây dựng trường chuẩn Quốc gia; được công nhận đơn vị đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ trong tháng 4 năm 2008; đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi vào tháng 12 năm 2003; đạt chuẩn phổ cập THCS tháng 6 năm 2006 [hoàn thành trước một năm so với kế hoạch]. Tháng 7 năm 2004, huyện được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi [hoàn thành trước một năm so với kế hoạch]. Những thành tích nổi bật: Trong quá trình phát triển, chất lượng mũi nhọn trong giáo dục đào tạo của huyện đã được nâng lên. Huyện đã đạt những kết quả cao trong nhiều cuộc thi do Sở GD&ĐT, Bộ GD&ĐT tổ chức như: Cuộc thi giao lưu học sinh giỏi bậc tiểu học cấp tỉnh được xếp hạng Ba toàn đoàn, nhiều học sinh đạt giải Nhất, Nhì, Ba cá nhân. Cuộc thi Thi bé khỏe - bé khéo tay cấp tỉnh bậc Mầm non được xếp hạng Ba toàn đoàn, nhiều cháu đạt giải Nhất, Nhì, Ba cá nhân; Thi làm đồ dùng đồ chơi bậc Mầm non cấp tỉnh đạt giải Nhất toàn đoàn, nhiều cá nhân đạt giải Đặc biệt, giải Nhất, Nhì, Ba...; Thi sáng tạo khoa học kỹ thuật cấp tỉnh đạt giải Ba và giải Khuyến khích cá nhân. Quan Sơn đã có 03 học sinh đậu vào Trường THPT Chuyên Lam Sơn [chuyên Sinh, Toán, Sử], 01 giáo viên giỏi cấp Quốc gia, 03 giáo viên đạt giải cấp Quốc gia; 06 học sinh đạt giải cấp Quốc gia, có hàng trăm lượt giáo viên, học sinh giỏi cấp tỉnh, nhiều học sinh đạt giải cao ở cuộc thi viết thư quốc tế UPU, tiếng hát “Hoa phượng đỏ”, văn hóa, văn nghệ, viết chữ đẹp, vẽ tranh và thể dục thể thao [huy chương Vàng, Bạc, Đồng Hội khỏe Phù đổng cấp tỉnh và toàn quốc]... với hàng trăm lượt giáo viên và học sinh đạt giải cấp huyện, cấp tỉnh. Với những kết quả “gặt hái” được trong gần 20 năm qua, giáo dục huyện Quan Sơn đã vinh dự được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen [2 tập thể và 05 cá nhân], Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng bằng khen [19 tập thể và 42 cá nhân, 186 cá nhân được tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp giáo dục], 04 đơn vị được tặng cờ thi đua của UBND tỉnh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng bằng khen [05 tập thể và 15 cá nhân], Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tặng bằng khen [01 tập thể và 02 cá nhân], Chủ tịch UBND tỉnh tặng bằng khen [33 tập thể và 152 cá nhân], Liên đoàn Lao động tỉnh tặng giấy khen [19 tập thể và 27 cá nhân], Giám đốc Sở GD&ĐT tặng giấy khen [69 tập thể và 251 cá nhân], Chủ tịch UBND huyện tặng nhiều bằng khen, giấy khen cho nhiều tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ [449 lượt cán bộ giáo viên được công nhận chiến sỹ thi đua cơ sở]. Qua gần 20 năm trồng người, đội ngũ cán bộ, giáo viên huyện Quan Sơn đã và đang “ươm gieo” được những mầm xanh tươi tốt, bổ sung nguồn nhân lực cho huyện và cho đất nước. Để Giáo dục và Đào tạo Quan Sơn phát triển một cách vững chắc, toàn diện, Phòng GD&ĐT xác định những nhiệm vụ trọng tâm cần thiết phải thực hiện từ nay đến năm 2020 và các năm tiếp theo. Trước hết là quy hoạch, sắp xếp lại mạng lưới trường lớp phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương [dồn lớp, dồn khu trong điều kiện thực tế]. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xây dựng trường chuẩn Quốc gia. Trước mắt tranh thủ các chương trình dự án của Nhà nước từng bước thực hiện kiên cố hóa trường lớp học, đến năm 2018 cơ bản xóa nhà tranh tre, nứa lá. Tiếp tục tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong cán bộ, giáo viên và học sinh. Chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý phát triển toàn diện; tích cực đổi mới công tác quản lý, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới công tác thi cử, tuyển sinh, đánh giá kết quả giáo dục. Đẩy mạnh phong trào xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập, phát triển đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ thông qua giáo dục thường xuyên và dạy nghề cho người dân địa phương. Thực hiện có hiệu quả các Đề án về giáo dục đã được các cấp ban hành. Công tác giáo dục và đào tạo của huyện Quan Sơn cần tranh thủ mọi nguồn lực bên ngoài, phát huy tối đa nội lực, đẩy mạnh phong trào thi đua “Hai tốt” và thực hiện các cuộc vận động lớn, các phong trào thi đua của ngành, góp phần xây dựng quê hương Quan Sơn ngày một giàu đẹp. 4.3.2. Về Y tế Giai đoạn từ 1997 - 2006: Trung tâm Y tế [TTYT] huyện Quan Sơn được thành lập theo Quyết định số 29/QĐ-UBND ngày 9 tháng 01 năm 1997 của UBND tỉnh Thanh Hóa. Thời kỳ đầu, Trung tâm Y tế huyện Quan Sơn hoạt động trên nền tảng của Phân viện km 34 với 50 giường bệnh, trong đó có 1 phòng khám đa khoa khu vực đặt tại xã Na Mèo và 9 Trạm y tế xã, tổng số có 24 cán bộ, trong đó có 4 bác sỹ, còn lại là y sỹ, điều dưỡng và cán bộ khác[1], trong đó có 3 đảng viên do đó phải sinh hoạt ghép với Chi bộ Bưu điện. Khi mới thành lập, nơi ăn ở của cán bộ, viên chức và nơi thu dung, cấp cứu, điều trị bệnh nhân còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, phải khẩn trương xây dựng qui chế hoạt động của cấp ủy, chính quyền, thành lập các tổ chức đoàn thể, sắp xếp các khoa, phòng chuyên môn; đồng thời nhanh chóng phát động các phong trào thi đua thực hiện Chỉ thị 661/TTg ngày 17/10/1995 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 04, Chỉ thị số 11 các qui định về 12 điều y đức, triển khai các cuộc thi điều dưỡng giỏi, thanh lịch, thi trưởng Trạm y tế giỏi, phát động phong trào thi đua học tập không ngừng nâng cao kiến thức cho đội ngũ y, bác sỹ và điều dưỡng viên nhằm tạo những nền tảng ban đầu làm cơ sở cho sự phát triển. Mạng lưới y tế cơ sở được tổ chức sắp xếp theo Quyết định số 58/TTg ngày 03/02/1994 của Thủ tướng Chính phủ quy định một số vấn đề về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở. Khi đó huyện Quan Sơn mới có 9 xã có Trạm Y tế.[1] Giai đoạn từ 2006 đến nay: Bệnh viện Đa khoa huyện Quan Sơn được thành lập theo Quyết định số 660/QĐ-UBND, ngày 10 tháng 3 năm 2006 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở chia tách từ Trung tâm Y tế huyện Quan Sơn. Trong quá trình hình thành và phát triển, cùng với bước phát triển chung của toàn ngành và huyện, Bệnh viện Đa khoa huyện Quan Sơn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành y. Sau khi thành lập, bệnh viện được giao chỉ tiêu 50 giường bệnh với 7 khoa phòng chức năng. Đến nay Bệnh viện được xếp hạng III, với số giường bệnh theo kế hoạch là 70 giường, giường thực kê là 160 giường. Bệnh viên đã kiện toàn lại cơ cấu tổ chức của một số bộ phận, gồm 12 khoa, phòng chức năng và 01 phòng khám đa khoa khu vực. Các khoa, phòng của đơn vị đã đi vào hoạt động ổn định, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận được quy định tại Quy chế bệnh viện do Bộ Y tế ban hành. Khi mới thành lập, bệnh viện có 42 cán bộ với cơ cấu gồm 8 bác sỹ [trong đó có 02 bác sỹ đào tạo sau đại học]. Đến nay tổng số cán bộ, công nhân viên chức, người lao động của bệnh viện là 79[1]. Một số thành tích nổi bật: Đối với công tác khám, chữa bệnh, hằng năm Bệnh viện đa khoa huyện thường xuyên cử cán bộ đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nhằm đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho nhân dân, sử dụng và khai thác có hiệu quả các thiết bị hiện đại được đầu tư. Đến nay, bệnh viện đã triển khai được nhiều kỹ thuật mới trong chuẩn đoán và điều trị như: Phẫu thuật kết hợp xương trong phẫu thuật chấn thương chỉnh hình; can thiệp lồng ngực trong chấn thương ngực hở; phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn; chăm sóc sơ sinh non tháng bằng lồng ấp; sử dụng máy thở hồi sức cấp cứu; sử dụng máy rửa dạ dày tự động trong cấp cứu, hồi sức chống độc; xét nghiệm huyết học 10 thông số; xét nghiệm sinh hóa máu bán tự động; xét nghiệm sinh hóa nước tiểu 10 thông số; siêu âm mạch máu; chẩn đoán sàng lọc trước sinh bằng siêu âm màu 3D; nội soi Tai - Mũi - Họng; nội soi dạ dày bằng hệ thống soi tiêu hóa ống mềm. Nhân dân trong huyện được tiếp cận với nhiều dịch vụ kỹ thuật cao, giảm đáng kể chi phí điều trị cho người bệnh, giảm tải cho các bệnh tuyến trên. Bệnh viện Đa khoa huyện Quan Sơn là một trong những đơn vị tuyến huyện có nhiều khó khăn nhưng đã nỗ lực triển khai được nhiều kỹ thuật mới trong điều trị. Năm 2007, bệnh viện được Bộ trưởng Bộ Y tế tặng Bằng khen, năm 2012 được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen. Đến nay toàn huyện đã có 13/13 xã, thị trấn đi vào hoạt động, đáp ứng được nhu cầu phục vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân tại các xã và thôn bản, trang thiết bị dần dần được mua sắm, nhà cửa được nâng cấp, cán bộ chuyên môn có trình độ cao dần dần được đào tạo đáp ứng được về công tác khám chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh trên địa bàn huyện; số cán bộ y tế làm công tác Y học cổ truyền tại các trạm y tế xã, thị trấn là 9 người, gần đạt tỷ lệ 70% trên tổng số trạm Y tế trên toàn huyện. Đối với công tác Y tế dự phòng: mạng lưới y tế cơ sở đã hoạt động có hiệu quả, các xã đã có nhà trạm, cán bộ y tế xã, thôn bản đã hoạt động có nề nếp, các kỹ thuật được triển khai thực hiện tại các xã, thuốc thiết yếu đã tạm đủ. Nhân dân đã tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng về công tác y tế. Bệnh viện triển khai công tác phòng chống sốt rét có hiệu quả, đẩy lùi bệnh sốt rét vào thế ổn định, người mắc sốt rét giảm, không có bệnh nhân tử vong do sốt rét, không có dịch SR. Các chương trình phòng chống các bệnh xã hội như: Chương trình phòng chống bệnh phong được thanh toán trên toàn huyện vào năn 1997; Thực hiện tốt chương trình phòng chống bệnh Lao; trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng hằng năm giảm từ 1,2 - 1,5%. Chương trình “Mắt cộng đồng” được triển khai có hiệu quả, hằng năm đã phối hợp với các đơn vị tuyến tỉnh mổ thay thủy tinh thể miễn phí cho người cao tuổi; Thường xuyên triển khai chương trình phòng chống HIV/AIDS, quản lý và giám sát tốt các trường hợp nguy cơ cao và số ca nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn; tuyên truyền cho nhân dân sử dụng muối iốt để giảm người mắc bướu cổ, Chương trình tiêm chủng được triển khai đồng bộ và thường xuyên. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn phục vụ cán bộ và nhân dân trên địa bàn huyện, ngành y tế Quan Sơn còn làm tốt công tác hợp tác Quốc tế như: Kiểm dịch y tế biên giới qua các cửa khẩu Việt - Lào; khám chữa bệnh cho nhân dân hai huyện Viêng Xay, Sầm Tớ thuộc tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, trao đổi thông tin qua hội nghị, hội thảo chuyên ngành khi được Sở Y tế giao nhiệm vụ. Trung bình mỗi năm [tính từ 2006 đến nay] Bệnh viện Đa khoa huyện Quan Sơn đã khám và điều trị cho trên 200 lượt bệnh nhân Lào, góp phần quan trọng vào mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị Việt - Lào. 4.4. CÁC TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HUYỆN QUAN SƠN 4.4.1. Ban Chỉ huy Quân sự huyện Quan Sơn Quá trình hình thành và phát triển Quan Sơn là huyện vùng cao biên giới phía Tây của tỉnh, địa hình hiểm trở, có trục đường Quốc lộ 217 chạy xuyên suốt theo chiều dài của huyện và qua Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, có 6 xã biên giới giáp với nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào. Là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh của tỉnh Thanh Hóa và của cả nước, vì vậy ngay từ những ngày đầu thành lập huyện, công tác quân sự - quốc phòng địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang luôn được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quan tâm, chăm lo, xây dựng, củng cố, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, biên giới Quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Trải qua gần 20 năm xây dựng, lực lượng vũ trang huyện luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh, mà trực tiếp là Huyện ủy, UBND huyện cùng với sự giúp đỡ của nhân dân các dân tộc trong huyện, lực lượng vũ trang huyện Quan Sơn đã không ngừng được củng cố, tăng cường và trưởng thành nhanh chóng, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện[ ]. Trên cơ sở quán triệt những quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, hằng năm Đảng ủy, chỉ huy Ban CHQS huyện đã làm tốt công tác tham mưu cho Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở địa phương ngày càng vững chắc; tham mưu làm tốt công tác khảo sát, quy hoạch, xây dựng khu vực phòng thủ, khu căn cứ hậu phương, căn cứ chiến đấu theo Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị và Nghị định 152 của Chính phủ; Tham mưu cho Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị 12 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới”. Công tác giáo dục quốc phòng cho học sinh trường THPT và Trường Dân tộc Nội trú học môn giáo dục quốc phòng - an ninh theo phân phối chương trình được tổ chức thực hiện có nề nếp và chất lượng. Thông qua bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh đã nâng cao trình độ, nhận thức về quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận lòng dân trong thời kỳ mới, từ đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn thực hiện nhiệm vụ trên cương vị, chức trách được giao, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương. Chức năng, nhiệm vụ trọng tâm Ban Chỉ huy Quân sự làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương. Bên cạnh chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương, Đảng ủy, Ban CHQS huyện còn chủ động thực hiện tốt công tác phối hợp lực lượng, các ban, ngành đoàn thể nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương, như: Tham gia hoạt động phối hợp bảo vệ an ninh biên giới giữa 03 lực lượng Quân sự, Công an, Biên phòng theo Nghị định 107 của Chính phủ; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các ban, ngành, đoàn thể, các lực lượng đứng chân trên địa bàn làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giáo dục nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới; giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực phản động, thù địch. Thực hiện Pháp lệnh Dân quân tự vệ, Pháp lệnh Dự bị động viên; với phương châm xây dựng lực lượng mạnh và rộng khắp, chú trọng cả về chất lượng và số lượng, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở, lực lượng dân quân tự vệ hàng năm được tổ chức, sắp xếp, biên chế bảo đảm đủ số lượng, chất lượng cao; Lực lượng dân quân tự vệ nòng cốt toàn huyện đến nay đã được biên chế, sắp xếp đủ 13 Ban Chỉ huy quân sự xã, thị trấn, 04 Ban chỉ huy quân sự Tự vệ và 09 đơn vị Tự vệ đúng theo quy định của Pháp lệnh Dân quân tự vệ. 100% các đồng chí Chỉ huy trưởng Ban CHQS xã đều tham gia cấp ủy ở cơ sở; chất lượng dân quân tự vệ từng bước được nâng lên, thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở cơ sở. Lực lượng dự bị động viên thường xuyên được quản lý chặt chẽ và sắp xếp cơ bản đúng với chuyên ngành quân sự, tổ chức hoạt động có hiệu quả, nề nếp. Tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dự bị động viên là 33,14%; Đảng ủy, chỉ huy đã chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ chế độ chi trả phụ cấp chức vụ hàng quý cho các đối tượng dự bị động viên đúng quy định. Hằng năm, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Quân sự huyện đã chủ động làm tốt công tác tham mưu cho huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện và Hội đồng nghĩa vụ quân sự huyện, bằng nhiều biện pháp tích cực, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho thanh niên và nhân dân nâng cao nhận thức về luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của thanh niên đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Do làm tốt công tác tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo và tuyên truyền, giáo dục nên hàng năm đều hoàn thành tốt công tác tuyển quân, đạt 100% chỉ tiêu, bảo đảm chất lượng, đúng luật. Công tác tuyển sinh quân sự, đã làm tốt công tác tuyên truyền trong học sinh và thanh niên, vì vậy số lượng học sinh, thanh niên đăng ký tuyển sinh quân sự và tỷ lệ đỗ vào các trường quân sự hàng năm đều tăng, đã góp phần thiết thực bổ sung lực lượng cán bộ cho quân đội nói chung và cho địa phương nói riêng. Công tác huấn luyện, diễn tập luôn được Đảng ủy, chỉ huy quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo; quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc mệnh lệnh của Tư lệnh Quân khu, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh về công tác huấn luyện, diễn tập hàng năm. Trước khi huấn luyện, diễn tập đã lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác chuẩn bị mọi mặt về con người, kế hoạch, chương trình huấn luyện, diễn tập cho các đối tượng, chuẩn bị về cơ sở vật chất, giáo án, thao trường, bãi tập; chú trọng khâu tập huấn, bồi dưỡng, thông qua giáo án, thông qua kế hoạch diễn tập cho đội ngũ cán bộ, giáo viên; trong huấn luyện đã thực hiện tốt phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, tổ chức huấn luyện, diễn tập sát với tình hình thực tế địa phương và từng đối tượng, sát với phương án chiến đấu trị an ở cơ sở; sau huấn luyện, diễn tập tổ chức kiểm tra, hội thi, hội thao, rút kinh nghiệm, đánh giá kết quả chặt chẽ, nghiêm túc. Lực lượng dự bị động viên, hàng năm được báo động kiểm tra sẵn sàng chiến đấu và huấn luyện theo quy định của trên. Thông qua huấn luyện, diễn tập đã nâng cao trình độ về mọi mặt, khả năng vận hành cơ chế 02 [nay là thực hiện Nghị quyết 28] của Bộ Chính trị, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành đoàn thể và các tầng lớp nhân dân về nhiệm vụ Quân sự, quốc phòng về sự nghiệp xây dựng nền Quốc phòng toàn dân vững mạnh; đồng thời nâng cao trình độ chỉ huy, phối hợp, hiệp đồng giữa các thành phần, lực lượng trong xử trí các tình huống. Song song với nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập là nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, được xác định là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu, vì vậy Đảng ủy, chỉ huy luôn quán triệt sâu sắc nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên về nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu; tổ chức giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ, lực lượng vũ trang xây dựng ý thức thường trực, luôn cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao. Đảng ủy, chỉ huy Ban CHQS huyện thường xuyên quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm Chỉ thị 37 của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương về xây dựng chính quy và Chỉ thị 917 của Bộ trưởng Bộ quốc phòng về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện trong toàn quân. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, đảng viên, phối kết hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể chức năng và cơ sở làm tốt công tác tuyên truyền trong nhân dân và lực lượng vũ trang về 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của lực lượng vũ trang hàng năm, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Luôn đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, đẩy mạnh học tập Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Pháp luật Nhà nước, luôn kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức với công tác chính sách trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính vì vậy đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sỹ luôn có bản lĩnh chính trị kiên định, lập trường tư tưởng vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tích cực chủ động thực hiện tốt công tác dân vận, phát huy vài trò hiệu quả hoạt động của cán bộ, chiến sỹ dân quân tự vệ ở từng cơ sở, nhằm xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, thường xuyên chỉ đạo 2 đội công tác tăng cường xây dựng cơ sở nắm chắc tình hình địa bàn, xây dựng kế hoạch, phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền xây dựng cơ sở vững mạnh về chính trị, phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư. Hàng quý, 6 tháng, một năm, cơ quan Quân sự huyện đã tổ chức hội nghị giao ban phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các ban, ngành, đoàn thể, các đơn vị đứng chân trên địa bàn để thực hiện ngày một tốt hơn nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của địa phương. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các ngành, chức năng thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, chính sách tồn đọng sau chiến tranh, chính sách xã hội trên địa bàn, bảo đảm công khai, công bằng, đúng đối tượng, góp phần tạo được niềm tin của nhân dân các dân tộc trong huyện đối với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và sự quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương. Ngay sau khi huyện Quan Sơn được thành lập, Ban Chỉ huy quân sự, công tác quân sự- quốc phòng địa phương luôn được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quan tâm, xây dựng và từng bước trưởng thành. Xuyên suốt trong quá trình hoạt động của LLVT [lực lượng vũ trang] huyện là: Tập trung xây dựng lực lượng, ý chí quyết tâm, kiên quyết đánh bại chiến lược “DBHB”, BLLĐ của các thế lực thù địch, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng. Với chức năng là cơ quan thường trực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiêm vụ công tác quân sự - quốc phòng của địa phương. LLVT huyện Quan Sơn thực sự là khối đại đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp toàn diện của cấp ủy, chỉ đạo điều hành của chính quyền sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm được giao. Đồng thời đã chủ động, nhạy bén trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, quán triệt chỉ thị, NQ cấp trên, nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch mà đặc biệt là tuyên truyền 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, trên cơ sở đó để không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng của địa phương. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Xây dựng LLVT vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nâng cao chất lượng hoạt động huấn luyện, diễn tập, bảo đảm sẵn sang chiến đấu trong mọi tình huống. Về xây dựng lực lượng, với phương châm, tập trung xây dựng đủ về số lượng nâng cao chất lượng đồng bộ LLVT đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống và phát huy vai trò nòng cốt trong khu vực phòng thủ. Thực hiện nhiệm vụ chính trị, LLVT huyện Quan Sơn cũng đã giải quyết tốt chế độ chính sách hậu phương quân đội, chính sách tồn đọng sau chiến tranh. Về thực hiện chức năng tham mưu: Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm đường lối của Đảng về nhiệm vụ quân sự - quốc phòngP trong tình hình mới,.chỉ thị mệnh lệnh cấp trên, đảng ủy BCHQS huyện đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và LLVT về nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong giai đoạn mới. Đảng bộ quân sự huyện qua các kỳ Đại hội từ 1996 đến nay đều được Đảng bộ cấp trên công nhận là Đảng bộ trong sạch vững mạnh. 100% cán bộ, đảng viên yên tâm, phấn khởi hoạt động công tác, chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Với những thành tích trên, Ban Chỉ huy Quân sự huyện Quan Sơn đã được Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu IV và Đảng bộ, UBND tỉnh Thanh Hoá tặng nhiều phần thưởng cao quý: 1 Bằng khen của Bộ Quốc phòng; 3 Bằng khen của Bộ Tư lệnh Quân khu 4; 2 Danh hiệu Đơn vị quyết thắng của Bộ Tư lệnh Quân khu IV; 1 Bằng khen của Bộ Chỉ huy Quân Sự tỉnh; 3 Bằng khen của Đảng bộ tỉnh; 4 Bằng khen của UBND tỉnh; nhiều chiến sĩ đựoc tặng Bằng khen, Giấy khen. 4.4.2. Công an huyện Quan Sơn Công an huyện Quan Sơn được thành lập năm 1997, trên cơ sở tách từ Công an huyện Quan Hóa theo Nghị định 72/CP của Chính phủ. Những ngày đầu thành lập, Công an huyện gặp rất nhiều khó khăn, toàn đơn vị có 15 đồng chí, cơ sở vật chất thiếu thốn, trong khi đó tình hình chính trị thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá nước ta với nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc, đặc biệt âm mưu, chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bên cạnh đó tình hình hoạt động của các loại tội phạm hình sự, ma túy, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, có thể nói đó là những thách thức lớn đối với Công an huyện Quan Sơn trong công tác quản lý địa bàn vùng cao biên giới trọng yếu của Tổ quốc. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành[1], Công an huyện Quan Sơn ngày càng lớn mạnh về mọi mặt, đến nay toàn thể đơn vị có 70 đồng chí với 07 đội công tác, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh, Huyện ủy - HĐND - UBND huyện, vượt qua những khó khăn, thách thức, lực lượng Công an huyện đã làm tốt công tác tham mưu, chỉ đạo các ngành, các đoàn thể và quần chúng nhân dân trong công tác đảm bảo an ninh Quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội trên địa bàn; thường xuyên phối hợp với các lực lượng Quân sự, Biên phòng quản lý chặt chẽ các địa bàn, mục tiêu, tuyến, lĩnh vực trọng điểm về an ninh Quốc gia; đồng thời triển khai nhiều chương trình, kế hoạch, phương án đấu tranh, mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm làm trong sạch địa bàn. Đi đôi với việc tăng cường công tác nghiệp vụ, Công an huyện luôn quan tâm giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, chú trọng vào việc thực hiện tốt 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân, 5 lời thề, 10 điều kỷ luật và điều lệnh của ngành. Cùng với truyền thống vẻ vang của huyện nhà, tập thể cấp ủy - lãnh đạo và cán bộ chiến sỹ Công an huyện Quan Sơn đã lập được nhiều thành tích xuất sắc, luôn hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Là lực lượng nòng cốt trong công tác bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn bình yên cuộc sống cho nhân dân trên địa bàn huyện Quan Sơn[1]. Với những thành tích trên, Công an huyện đã được Đảng, Nhà nước, Bộ Công an và Giám đốc Công an tỉnh tặng nhiều phần thưởng cao quý: 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất; 1 Huân chương Chiến công hạng Ba; 2 Huy chương “Vì An ninh Tổ quốc”; 1 Bằng khen của Chính phủ; 2 Bằng khen của Tỉnh ủy; 2 Bằng khen của UBND tỉnh; 02 Cờ thi đua của UBND tỉnh; 3 Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới Quốc gia”; nhiều cán bộ chiến sỹ được tặng Bằng khen của Bộ, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. 4.4.3. Các đồn Biên phòng trên địa bàn huyện Quan Sơn 4.4.3.1. Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo [tiền thân là Đồn 22] được thành lập ngày 01 tháng 5 tháng 1959[1]. Thực hiện Nghị quyết 22, ngày 10 tháng 10 năm 1979 của Bộ chính trị, lực lượng Công an nhân dân vũ trang [CANDVT] chuyển từ Bộ công an sang Bộ Quốc phòng thành lực lượng Bộ đội Biên phòng, trạm kiểm soát hành chính của Đồn được tách ra thành Đồn cảnh sát cửa khẩu do Bộ Công an quản lý. Đến tháng 10 năm 1991, Đồn Biên phòng 497 và Trạm Cảnh sát cửa khẩu Na Mèo được hợp nhất lại thành Đồn Biên phòng Cửa khẩu Na Mèo. Từ ngày thành lập đến nay, cùng với sự chuyển biến của lực lượng, đơn vị Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo qua các thời kỳ đã mang các phiên hiệu sau đây: - Từ năm 1959 đến năm 1960 gọi là Đồn 22; - Từ năm 1960 đến năm 1964 gọi là Đồn 101; - Từ năm 1964 đến năm 1987 gọi là Đồn 43; - Từ năm 1987 đến năm 1991 gọi là Đồn 497; - Từ năm 1991 đến năm 2004 gọi là Đồn Biên phòng Cửa khẩu Na Mèo. - Từ năm 2004 đến nay gọi là Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo. Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo đứng chân trên tuyến biên giới phía tây của tỉnh Thanh Hóa, giáp huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Địa bàn đồn quản lý gồm có 2 xã biên giới là: Sơn Thủy và Na Mèo thuộc huyện Quan Sơn, dân cư gồm 4 dân tộc: Thái, Kinh, Mường và Mông, trong đó dân tộc Thái chiếm 80%; có 3 bản người Mông được hình thành từ năm 1990 chuyển cư từ Pù Nhi sang và cũng là 3 bản Mông duy nhất của huyện Quan Sơn. Đối diện với địa bàn hoạt động của đồn là 2 cụm [Mường Pùn và Mường Xôi] thuộc huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn [Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào]; có 22 chòm bản, trong đó 09 bản người Mông. Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo được Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ quản lý bảo vệ 30km đường biên giới, với 13 mốc/16 vị trí; quản lý 01 cặp Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo [Việt Nam] - Nậm Xôi [Lào]; bảo đảm an ninh trật tự, xây dựng cơ sở chính trị địa phương 2 xã biên giới [Na Mèo và Sơn Thủy, huyện Quan Sơn]; và duy trì thực hiện công tác đối ngoại Biên phòng tại Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo. Cụ thể là: Phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ như: xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới; vượt biên, cư trú, đi lại trái phép trong khu vực biên giới; bảo vệ lợi ích Quốc gia về tài nguyên, môi trường trong khu vực biên giới, cửa khẩu. Tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật về biên giới Quốc gia, các điều ước Quốc tế về biên giới lãnh thổ có liên quan đến chủ quyền an ninh biên giới, an ninh cửa khẩu về lĩnh vực xuất nhập cảnh, xuất nhập biên. Kiểm soát hoạt động xuất nhập cảnh qua lại biên giới, cửa khẩu. Giữ gìn an ninh trật tự ở địa bàn biên giới, cửa khẩu. Đấu tranh chống lại âm mưu và các hoạt động phá hoại của bọn tình báo, gián điệp, biệt kích và các loại tội phạm khác xâm phạm an ninh trật tự ở khu vực biên giới, cửa khẩu. Tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn 2 xã giáp biên giới. Quan hệ trực tiếp với lực lượng bảo vệ biên giới nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào để thực thi các điều ước quốc tế về biên giới, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động làm phương hại đến quan hệ hai Nhà nước Việt Nam - Lào. Phối hợp với cơ quan Quân sự huyện tham gia khu vực phòng thủ vững mạnh, sẵn sàng chiến đấu chống gây xung đột vũ trang và chống chiến tranh xâm lược. Thực hiện nhiệm vụ tác chiến phòng thủ. Xây dựng đơn vị chính quy vững mạnh toàn diện. Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo đã đạt được nhiều thành tích góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới, được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân [năm 1978]; Được thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng Hai, hạng Ba cùng nhiều phần thưởng cao quý khác của Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Biên phòng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa, các bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương. Những thành tích ấy góp phần củng cố xây dựng truyền thống của đơn vị anh hùng - Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo trong thời kỳ đổi mới. 4.4.3.2. Đồn Biên phòng Mường Mìn Ngày 20 tháng 01 năm 2006, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 22/QĐ-BQP về việc thành lập Đồn Biên phòng Mường Mìn [mang phiên hiệu 499], Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Qua một quá trình chuẩn bị cho công tác thành lập đồn từ khâu khảo sát vị trí đóng quân đến tổ chức thành lập đồn, ngày 10 tháng 04 năm 2007 Bộ chỉ huy Đồn biên phòng Thanh Hóa chính thức tổ chức thành lập Đồn Biên phòng Mường Mìn. Những ngày đầu thành lập, Đồn Biên phòng Mường Mìn trải qua rất nhiều khó khăn. Trong khi chờ đợi làm doanh trại đơn vị đã ở nhờ tại 5 nhà dân của bản Yên, xã Mường Mìn. Đó là các gia đình ông Hà Văn Học; Vi Văn Khánh; Vi Văn Tuyết; Vi Văn Quán; Vi Văn Nhung. Ban chỉ huy đồn đóng tại gia đình ông Hà Văn Học. Sau gần 4 tháng với sự nỗ lực của các cán bộ chiến sĩ cùng với sự giúp đỡ của nhân dân trên địa bàn, đơn vị đã làm xong 3 dãy nhà tạm 17 gian để cán bộ chiến sĩ tập trung về đồn tiếp tục xây dựng, củng cố doanh trại. Ngày 28 tháng 11 năm 2007, Đồn Biên phòng Mường Mìn chính thức làm lễ ra mắt và ngày 01 tháng 12 năm 2007 chính thức nhận nhiệm vụ quản lý, bảo vệ 12 Km đường biên giới, cột mốc H4, địa bàn 02 xã Mường Mìn và Sơn Điện trên địa bàn 02 xã Sơn Điện và Mường Mìn. Các cộng đồng dân cư trên địa bàn là 16 bản [xã Mường Mìn 5 bản, xã Sơn Điện 11 bản], gồm 3 dân tộc: Thái, Mường, Kinh; trong đó dân tộc Thái chiếm 85%, dân tộc Mường chiếm 11%, dân tộc Kinh 4%. Quá trình xây dựng và trưởng thành của Đồn Biên phòng Mường Mìn đã góp phần quan trọng trong công tác vận động nhân dân chấp hành đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương, tích cực sản xuất, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc, bản làng văn hóa, thực hiện nghiêm hiệp định, hiệp nghị, quy chế khu vực biên giới, cùng Bộ đội biên phòng bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị, lập được nhiều thành tích góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới. Đồn Biên phòng 499 Mường Mìn đã được Bộ Tư lệnh Biên phòng tặng Danh hiệu Đơn vị Quyết thắng, UBND tỉnh Thanh Hóa tặng Cờ Thi đua cùng nhiều giấy khen của Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa. 4.4.3.3. Đồn Biên phòng Tam Thanh Đồn Biên phòng Tam Thanh được thành lập ngày 30 tháng 4 năm 1959 với phiên hiệu là Đồn Biên phòng 45. Năm 1987 được đổi tên là Đồn Biên phòng 501. Năm 2011, được đổi tên là Đồn Biên phòng Tam Thanh, đứng chân trên địa bàn xã Tam Thanh, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa[1]. Đồn Biên phòng Tam Thanh có nhiệm vụ quản lý và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới Quốc gia, đoạn biên giới Việt Nam - Lào dài 22km và Mốc H5; Thực hiện Quyết định số 01 của Thủ tướng chính phủ về việc tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc Quốc giới Việt Nam - Lào, đến nay Đồn bảo vệ 22km đường biên giới và 10 mốc Quốc giới từ mốc 337 đến mốc 346. Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đồn Biên phòng Tam Thanh đã kiên trì bám địa bàn, bám dân, dũng cảm, sáng tạo khắc phục khó khăn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đạt được nhiều thành tích trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước và trong sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn chủ quyền an ninh biên giới Quốc gia. Trong thời kỳ Đổi mới, Đồn Biên phòng Tam Thanh nhiều năm liền là đơn vị dẫn đầu trong phong trào thi đua quyết thắng của lực lượng bộ đội biên phòng Thanh Hóa. Đồn Biên phòng Tam Thanh đã được Đảng và Nhà nước, Bộ đội Biên phòng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa, các bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương tặng nhiều phần thưởng cao quý. Đặc biệt, ngày 03 tháng 3 năm 2008 đơn vị đã vinh dự được Đảng, Quốc hội, Nhà nước tuyên dương đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi mới.

Chương 5. KINH TẾ

5.1. KINH TẾ TRUYỀN THỐNG HUYỆN QUAN SƠN

5.1.1. Khái quát chung Lịch sử phát triển của loài người cũng chính là sự phát triển của phương thức lao động sản xuất. Trình độ phát triển sản xuất là thước đo sự phát triển của xã hội. Vì vậy, tìm hiểu hoạt động của con người trên các lĩnh vực kinh tế là điều cần thiết để rút ra được những kinh nghiệm, bài học trong quá khứ và hoạch định phương hướng, kế hoạch cho sự phát triển bền vững. Qua những dấu vết cổ xưa, ta có thể thấy, con người đã có mặt ở vùng đất thuộc địa bàn huyện Quan Sơn từ rất sớm và có sự phát triển liên tục[ ]. Do đặc điểm về địa lý nên kinh tế truyền thống chủ yếu là hoạt động kinh tế gia đình của các tộc người cư trú lâu đời trên vùng đất Quan Sơn. Theo đó, lịch sử phát triển của các loại hình công cụ sản xuất, săn bắt, các hình thức chăn nuôi, từ cái rìu đá, rìu đồng, cây gậy chọc lỗ đến cái cày, cái bừa, cái liềm gặt lúa, cối tre xay, từ cái nỏ đến khẩu súng săn, từ cái xa quay sợi đến cái khung cửi dệt vải, guồng nước... đều phản ánh sinh động bước phát triển của các chặng đường phát triển kỹ thuật, kinh tế. Sự hình thành và phát triển các loại hình kinh tế truyền thống trên vùng đất Quan Sơn gắn liền với sự tiến bộ, phát triển của trí tuệ con người, của khoa học kỹ thuật theo quy luật chung và những nét riêng, góp phần làm nên bản sắc văn hóa tộc người của vùng đất này. Kinh tế hái lượm ở Quan Sơn có một cơ sở tự nhiên thuận lợi, cung cấp sản vật bốn mùa, mùa nào thức nấy. Hệ thực vật của Quan Sơn rất phong phú. Đây là nơi ít xảy ra những biến cố địa lý lớn, diện tích lại khá rộng nên con người có thể hái nhiều loại quả của rừng nhiệt đới hoặc các loại nấm, măng, các loại rau, hạt ăn được. Với những cây gậy tre, gỗ hoặc công cụ đá, họ có thể đào rễ cây, củ quả và còn có thể thu nhặt trứng, mật ong, những con vật nhỏ như côn trùng, ếch nhái, cua, rùa, các loài bò sát... Kinh tế hái lượm đã ra đời cùng với sự xuất hiện của con người và tồn tại ở vùng đất Quan Sơn một thời gian dài. Cùng với hoạt động hái lượm, hoạt động săn bắt cũng phát triển bởi rừng của Quan Sơn ngày trước có một hệ động vật giàu về thành phần loài và có trữ lượng khá lớn. Hoạt động săn bắt - săn bắn không chỉ cung cấp thức ăn cho con người mà còn liên quan chặt chẽ với trồng trọt, để bảo vệ rẫy, mùa màng. Người Thái cũng như bao cư dân miền núi khác, thường săn bắt những sản vật từ rừng, hái lượm các loại rau, củ, nấm,... Đó là công việc của người phụ nữ Thái kết hợp khi đi rẫy, xuống ruộng, lúc nông nhàn việc săn bắt là do người đàn ông đảm nhiệm. Đánh bắt cá, thủy sản cũng là một hoạt động truyền thống ở Quan Sơn. Diện tích mặt nước, sông suối ở đây khá lớn, cư dân trước đây ở Quan Sơn thường sinh sống ở ven bờ sông, bờ suối. Sông suối ở Quan Sơn có nhiều loài cá và các loài thủy sản khác[ ]. Sông, suối có vai trò quan trọng với cư dân nơi đây không chỉ vì cung cấp nguồn thức ăn mà còn là con đường giao lưu với các khu vực khác và là nguồn cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt. Nghề nông hình thành, bước đầu chỉ thuần hóa và trồng trọt những loài cây có củ, như củ mài, khoai nước... Sau đó, nghề nông được phát triển mạnh ở vào thời hậu kỳ Đá mới khi công cụ sản xuất phát triển khác nhau, trong đó rìu đá mài là một công cụ quan trọng của kinh tế rẫy. Nghề nông xuất hiện bắt đầu cung cấp thức ăn cho con người thường xuyên hơn và cho năng suất cao hơn hái lượm, săn bắt nên dần phát triển thành ngành kinh tế chủ đạo. Kỹ thuật canh tác rẫy cũng dần hình thành với phương pháp “đao canh hỏa chủng” và thường mỗi năm chỉ làm một vụ. Trước hết là chọn đất, sau đó là phát cây, để cây khô rồi đốt trước khi có mưa vài ngày. Sau khi đốt cây, trên mặt đất có một lớp tro làm phân bón. Sau đó người ta xới đất bằng cuốc đá hoặc cuốc gỗ, rồi sử dụng gậy gỗ hoặc tre vót nhọn để chọc lỗ tra hạt. Sau khi gieo hạt, khâu quan trọng là bảo vệ và chăm sóc rẫy. Họ phải dựng chòi canh trên rẫy, rào rẫy, đặt bẫy để chống thú rừng đến phá hoại, đuổi chim chóc vào lúc gieo hạt và lúa chín. Nông nghiệp hình thành, trở thành một nghề chính trong kinh tế. Cây trồng chính là lúa. Lúa xuất hiện từ sớm và là giống cây trồng chủ đạo trong ngành nông nghiệp từ xưa. Dần theo thời gian, người Quan Sơn đã tạo ra được nhiều giống lúa rẫy phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương[ ]. Ngoài cây lương thực, thực phẩm, họ còn trồng trên rẫy các loài cây khác, như bông vải, chè, cây ăn quả,... Ngoài canh tác rẫy, ở Quan Sơn cũng tồn tại hình thức làm ruộng nước, nhưng diện tích loại ruộng này không lớn lắm. Kinh tế trồng trọt đóng vai trò quan trọng đối với người Quan Sơn. Cuộc sống của họ chủ yếu diễn ra trên rẫy, ruộng nước. Mọi nghề phụ đều xoay quanh kinh tế trồng trọt. Nhưng việc trồng trọt trước đây chỉ thực hiện một vụ cho năng suất thấp, bấp bênh, không ổn định do phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nên con người không đủ lương thực để sống, trong khi rừng vẫn là nguồn cung cấp thức ăn và những vật dụng cần thiết. Do đó, kinh tế trồng trọt gắn chặt với kinh tế hái lượm và săn bắt đã tồn tại trong suốt quá trình phát triển ở Quan Sơn. Ngoài trồng trọt, kinh tế chăn nuôi cũng dần xuất hiện. Cũng như ở nhiều địa phương khác trong tỉnh, trong nước, ở Quan Sơn việc thuần hóa động vật diễn ra muộn hơn nhiều so với việc thuần hóa thực vật. Chó có thể là động vật được thuần hóa sớm nhất, vì chó giúp người đi săn và cũng trở thành người bạn thân thiết của con người. Sau đó là lợn, vì lợn rừng phân bố trên một địa bàn rất rộng ở Đông Nam Á và dễ thuần phục hơn các loài động vật khác. Tiếp theo, có thể là các loài động vật nhỏ khác được thuần dưỡng trước như gà, vịt... rồi sau đó đến động vật lớn như trâu, bò... Trâu được nuôi chủ yếu để dùng vào sản xuất nông nghiệp hoặc để trao đổi. Trước đây, việc nuôi trâu của người dân thường bằng cách thả rông ở bãi chăn thả hoặc trong rừng. Sự phát triển của sức sản xuất đã dần dần tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của thủ công gia đình để phục vụ sản xuất và sinh hoạt như các nghề dệt vải, đan lát,... Ở Quan Sơn có nhiều tre, nứa, vầu nên xuất hiện nghề đan lát các vật dụng như rổ rá, gùi... Do nhu cầu của nghề dệt, nên người ta trồng và khai thác những cây có sợi và trồng bông, gai, đay. Dệt vải là công việc bắt buộc của người phụ nữ để trước hết cung cấp cho nhu cầu của các thành viên trong gia đình. Nghề mộc cũng phát triển, do rừng Quan Sơn có rất nhiều gỗ và con người có mặt trên vùng đất Quan Sơn khá sớm nên họ sử dụng gỗ, luồng để làm nhà và các vật dụng trong cuộc sống hàng ngày. Các nghề thủ công ở Quan Sơn khá phong phú, nhưng quá trình thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp diễn ra chậm chạp và yếu ớt. Tất cả mọi công cụ lao động, vải vóc, đồ đan, đồ gỗ... đều do tự sản xuất. Thủ công nghiệp trong một thời gian dài ở Quan Sơn chỉ mang tính chất nghề phụ gia đình. Tuy vậy, khi sản xuất phát triển, sự phân công lao động bước đầu đã diễn ra ở một số ngành kinh tế nên xuất hiện nhu cầu trao đổi. Người dân vừa trồng lúa nước, lúa rẫy, trồng rau củ quả, chăn nuôi gia cầm, gia súc, làm nghề phụ để tự cung tự cấp, kết hợp khai thác lâm thổ sản để giao lưu, trao đổi các mặt hàng phục vụ cho đời sống. Như vậy, kinh tế truyền thống huyện Quan Sơn đã đi qua những chặng đường dài với những hoạt động kinh tế truyền thống cơ bản trên cơ sở điều kiện tự nhiên và tập quán sản xuất của cư dân ở địa phương với cách làm phổ biến của đồng bào Thái, Mường là những cư dân hiện còn biết đến đã có mặt khá sớm trên vùng đất này. Về cơ bản, hoạt động kinh tế truyền thống ở Quan Sơn bao gồm các lĩnh vực chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, làm nghề thủ công, khai thác kinh tế từ rừng[ ]. Truyền thống và những tri thức tích lũy được của người dân trong quá trình sản xuất cần được xem như những thành quả lao động sản xuất, phát triển kinh tế. Trong đó, truyền thống kinh tế, văn hóa - xã hội được bảo tồn, chọn lựa để tạo ra những điều kiện cho vùng đất Quan Sơn liên tục phát triển. 5.1.2. Hoạt động nông nghiệp truyền thống Cư dân Quan Sơn vốn làm nông nghiệp, nghề nông [trồng trọt] lại gắn liền với thủy lợi và chăn nuôi. Kinh tế nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của cộng đồng cư dân nơi đây từ thời nguyên thủy với nền nông nghiệp sơ khai cho đến hiện nay. Trong cộng đồng các dân tộc sinh sống ở Quan Sơn hiện nay, dân tộc Thái là tộc người cư trú lâu đời, dân số đông và trong truyền thống, tiêu biểu cho các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Vì vậy, khi trình bày về kinh tế nông nghiệp truyền thống nói riêng, kinh tế truyền thống nói chung ở Quan Sơn, cuốn địa chí này chủ yếu đề cập đến các hoạt động của người Thái và một số nét tiêu biểu của người Mường. Mặc dù người Kinh là tộc người có số dân đông thứ hai ở Quan Sơn, chiếm vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế Quan Sơn, sau tiếp là người Mông, nhưng trong phần kinh tế truyền thống sẽ không trình bày kỹ về hoạt động kinh tế của các tộc người này.

  1. Trồng trọt Sản xuất nông nghiệp [trồng trọt] truyền thống ở huyện Quan Sơn được tiến hành chủ yếu trên 2 loại hình đất đai là ruộng nước và rẫy. Người Thái cũng như người Mường ở huyện Quan Sơn có thế mạnh trong kỹ thuật canh tác lúa rẫy với một hệ thống những tri thức liên hoàn các khâu từ chọn đất canh tác đến khâu thu hoạch và để lúa giống. * Chọn đất, làm đất rẫy Trong cuộc sống của người Thái, rẫy có nhiều tác dụng. Rẫy cùng với ruộng nước giải quyết nhu cầu về lương thực, ngoài ra rẫy còn là nơi cung cấp thức ăn có chất bột như các loại cây có củ, trồng rau và đặc biệt là trồng bông, chàm, đay để giải quyết nhu cầu mặc. Như vậy, rẫy đã cho phép người ta mở rộng việc trồng trọt với việc xen canh nhiều loại cây trồng rất tốt. Đây là một lợi thế của việc làm rẫy cổ truyền. Chính nhờ lợi thế này mà đại bộ phận họ đã định canh, định cư, với việc làm ruộng và thực hiện luân canh trên rẫy nhằm tăng thêm sản phẩm nông nghiệp. Một lý do khác khiến đồng bào không bỏ việc làm rẫy, vì trong xã hội cũ tầng lớp quý tộc Thái với bộ máy thống trị thực hiện quyền bóc lột nhân dân lao động trên nền tảng ruộng nước chứ không đưa trực tiếp trên những mảnh rẫy. Như vậy, pháp lý xưa đã thừa nhận rẫy là “đất tự do” của người sản xuất. Đây là một yếu tố xã hội đã góp phần đẩy một bộ phận người lao động tách hẳn ruộng để làm rẫy, hoặc chỉ làm một phần ruộng còn chủ yếu bằng rẫy. Những cư dân chuyên sinh sống bằng rẫy đã mất hoàn toàn ưu thế định canh, định cư của người làm ruộng nước. Thực tế ấy, người Thái ở miền núi Thanh Hóa đã coi việc bỏ ruộng để làm rẫy là sự miễn cưỡng. Ngược lại, nếu có ruộng để định canh, định cư và có rẫy để làm nguồn thu nhập bù đắp chỗ thiếu của ruộng đã trở thành cuộc sống lý tưởng của người nông dân Thái. Rẫy của người Thái có nhiều loại: rẫy dốc, rẫy bằng... Nhưng phổ biến hơn cả là loại rẫy dùng thuổng và gậy chọc lỗ. Đồng bào gọi rẫy là “háy”. Theo tiếng Thái, “háy” là một khoảng đất rừng bị người ta chặt, đốt, dọn sạch, xới đất để trồng trọt. Lối canh tác này, ngày xưa còn gọi là “đao canh, hỏa chủng” [canh tác bằng dao, đốt bằng lửa rồi trồng]. Từ các loại cây trồng trên rẫy của người Thái, có thể phân chia thành những loại rẫy chuyên canh đồng thời xen canh như: rẫy lúa thường trồng xen vừng, lạc, khoai sọ, bầu bí, rau... rẫy ngô trồng xen bầu bí... rẫy trồng bông; rẫy kê xen vừng; rẫy sắn. Tất cả những rẫy này nói chung đều phải qua các biện pháp kỹ thuật liên hoàn: chọn đất, phát rừng, đốt và dọn, xới đất, trồng trọt, chăm sóc và thu hoạch. Để thực hiện các biện pháp này, họ chỉ cần sử dụng những công cụ đơn giản như dao, rìu, gậy chọc lỗ, liềm, dao nhíp [để thu hoạch]... Để có đất làm rẫy, người ta phải đi vào rừng để chọn đất khá công phu. Theo kinh nghiệm dân gian, đất rừng nứa và rừng cây gỗ to phát rẫy là thích hợp vì hai loại rừng giữ nước ngầm. Để kiểm tra độ tốt xấu của đất, cắm lưỡi dao sâu xuống đất khoảng 20 - 30cm, khi rút dao lên nếu đất bám chắc và nhiều, màu nâu đen là đất tốt. Đất xấu là đất ở đồi cao, cây cối cằn cỗi, khó cắm dao xuống đất hoặc khi rút dao lên đất khô, không bám, nhiều sỏi... Bắt đầu từ tháng 1 âm lịch, người ta bắt đầu phát rẫy. Phát xong phải “ủ cây” [bốm chá], tác dụng của nó cũng như cày ải ở ruộng nước. Sang tháng 2 âm lịch, người ta bắt đầu đốt và dọn rẫy. Từ xưa người ta đã nghĩ tới biện pháp chống lửa cháy lan rừng. Đó là cách tạo ra một đường rạch cỏ cây bao quanh rẫy, gọi là “kón háy”. Khi lửa cháy tới sẽ không có cây cỏ khô để bắc cầu lan vào rừng. Sau khi đốt, người Thái bắt tay vào việc dọn sạch rẫy [hạ háy]. Tiếp sang khâu xới qua đất để trải tro than đồng đều khắp mặt rẫy, gọi là [cúm háy]. Khoảng cuối tháng 3, 4 âm lịch, người làm rẫy bắt đầu vào mùa gieo hạt. Cách tra hạt giống của họ là đàn ông đi trước dùng gậy bằng gỗ vạt nhọn đầu ở phần gốc, chọc xuống đất tạo ra lỗ, đàn bà theo sau tra hạt. Nếu ở ruộng, khâu cấy quyết định thời vụ, thì ở rẫy khâu đốt và trồng sẽ định rõ thời vụ. Canh tác rẫy yêu cầu đúng thời vụ hơn ruộng nên các khâu liên hoàn thường phải tiến hành trong một, hai tháng rất khẩn trương. * Bảo vệ đất rẫy - Bờ cản chống xói mòn: Hệ thống bờ cản này được làm bằng cách khi dọn rẫy chuẩn bị gieo hạt người ta sẽ gom thân, rễ cây thành những “bờ cản” chạy ngang với độ dốc của rẫy để cản dòng chảy của nước, nhằm hạn chế sự rửa trôi lớp đất màu. Số lượng và chiều dài của “bờ cản” phụ thuộc vào diện tích, còn khoảng cách giữa hai “bờ cản” phụ thuộc vào độ dốc của rẫy. Thông thường, “bờ cản” cách nhau khoảng 5 - 6m, nếu rẫy có độ dốc càng lớn thì khoảng cách giữa các “bờ cản” càng gần nhau. “Bờ cản” này sẽ được “gia cố” nhiều lần trong vụ sản xuất bằng cách khi làm cỏ cho lúa [hoặc hoa màu], khi thu hoạch... thì cỏ rác hoặc rơm rạ [nếu trồng lúa] và thân cây [nếu trồng ngô, đậu...] được thu gom rải đều lên “bờ cản” để tăng khả năng chống xói mòn. Khi lúa và hoa màu đã thu hoạch xong thì những “bờ cản” này sẽ mục và tản dần ra khắp mặt rẫy, tăng độ mùn cho đất. Khi bước vào vụ sản xuất mới người ta lại thiết lập các “bờ cản” để hạn chế sự xói mòn và bạc màu của đất. - Đào rãnh chống xói mòn: Sau khi phát rẫy người ta tiến hành đào rãnh ở trên đỉnh và dọc hai bên sườn của rẫy để hướng dòng chảy của nước mưa theo đường nhất định, tránh việc nước chảy tràn trên mặt rẫy sẽ xói mòn và cuốn theo lớp đất màu. Rãnh đào thường rộng 30 - 40 cm, sâu 20 - 30 cm, đất đào lên sẽ được đắp thành “đê” dọc theo rãnh, ở phía trong rẫy để cản nước. Nhìn chung, việc đào rãnh nhằm hạn chế sự xói mòn của đất là khá hiệu quả, nhưng cũng tốn nhiều thời gian và công sức[ ]. - Trồng cây, rào rẫy, xếp đá chống xói mòn: Trên một số rẫy người Thái còn trồng cây hoặc rào theo bờ của rẫy để chống xói mòn và ngăn cản trâu, bò phá hoại hoa màu [những rẫy gần bản]. Cũng có thể khi phát rẫy người ta để lại những cây dọc theo bờ rẫy để làm hàng rào bảo vệ. Đối với những rẫy có đất lẫn đá thì người ta phải nhặt đá để thuận lợi cho quá trình canh tác. Đá được xếp thành bờ chạy ngang theo độ dốc của rẫy có tác dụng ngăn dòng chảy của nước mưa, hạn chế xói mòn cho đất. - Sử dụng công cụ lao động: Trong canh tác, tùy thuộc vào chất lượng đất, độ dốc... của rẫy mà người dân sẽ sử dụng những công cụ hoặc áp dụng những kỹ thuật canh tác khác nhau. Đối với rẫy bằng, có thể dùng cày, bừa để làm cho đất thông thoáng, thúc đẩy quá trình trao đổi chất, tạo điều kiện cho năng suất cây trồng cao hơn, thời gian canh tác lâu dài [khoảng 9 - 10 năm]. Đối với rẫy dốc thì rất khó dùng cày, nhưng điều quan trọng hơn là nếu dùng cày hay cuốc thì sẽ xới tung lớp đất mặt và đất dễ bị bào mòn, rửa trôi. Người dân thường dùng gậy chọc lỗ tra hạt khi trồng lúa. Thực tế cho thấy công cụ này là sự lựa chọn tối ưu để bảo vệ độ phì cho đất, vì nó không phá vỡ cấu trúc của lớp đất mặt. Hơn nữa, chọc lỗ tra hạt còn có tác dụng làm cho cây mọc đều, chụm, nên thuận lợi cho việc làm cỏ, thu hoạch. - Thực hiện xen canh, “bỏ hoang”: Trong canh tác rẫy, người dân tiến hành xen canh, gối vụ. Việc này có ý nghĩa rất lớn trong việc luôn tạo thảm thực vật trên mặt đất, chống xói mòn, đồng thời tranh thủ được thời vụ, tránh tình trạng mất trắng mùa màng. Thông thường, rẫy lúa trồng xen kê, ngô, bầu bí [lúa trồng ở giữa, xung quanh trồng các loại cây trồng trên]; rẫy sắn trồng xen đậu, bầu bí... Để bảo vệ đất, người dân còn thực hiện chế độ “bỏ hoang” trong canh tác rẫy rẫy. Theo kinh nghiệm của người Thái thì một mảnh rẫy chỉ nên làm tối đa là ba vụ. Sau đó rẫy được bỏ hóa trong khoảng 5 - 10 năm hoặc dài hơn tùy thuộc vào chất lượng đất ở đó tốt hay xấu và nhu cầu về đất canh tác của người dân. Trong thời gian bỏ đất hoang hóa, rừng lại mọc trở lại và chờ đợi một chu kỳ canh tác mới. * Kinh nghiệm canh tác lúa rẫy Làm đất được coi là khâu đầu tiên, rất quan trọng trong mùa vụ. Do đó cũng có thể nói chọn đất làm rẫy là khâu quan trọng trong kỹ thuật canh tác. Người Thái có kinh nghiệm chọn địa điểm làm rẫy trồng lúa tốt nhất là gần chân núi đá cao, có khả năng giữ được nước. Khu đất đó tốt nhất là bãi bằng, nếu không thì thoai thoải không dốc quá, đất phải có màu xám đen hoặc đất vàng sẫm [không chọn khu đất đỏ]. Đất trồng lúa là đất có mùn dày màu nâu, hoặc xám, không quá xốp. Nếu dùng dao thuổng hoặc que chọc xuống đất khi rút lên thấy đất bám dính là trồng lúa tốt. Hướng rẫy lúa về phía đông sẽ tốt hơn hướng rẫy lúa về phía tây vì phía tây nắng nóng buổi chiều sẽ dễ làm khô đất và chết lúa. Trước đây chọn đất phát rừng làm rẫy phải là những khu đất giáp với các cánh rừng già, có cây mọc nhiều, thường là thoải theo triền dốc, nhưng không được dốc quá. Câu thành ngữ “một hòn đá có hai lạng mỡ” là có ý nói chọn đất làm rẫy là phải chọn nơi có màu do lượng mùn dày, là nơi có nguồn nước từ trong rừng già chảy qua, có như vậy thì đất mới đảm bảo được độ ẩm cho đất khi mùa khô lạnh đến. - Xử lý thực bì trồng lúa rẫy: Chọn thực bì để làm lúa rẫy thường là chọn rừng nứa, vầu hỗn giao; tránh rừng có nhiều le, cây thân gỗ vì rừng le khô đất, chồi le tái sinh nhanh, mạnh nên khó làm cỏ, rừng nhiều gỗ khó đốt, khó dọn, gỗ hạ xuống nằm ngổn ngang chiếm nhiều diện tích không tỉa được nhiều lúa, hơn nữa chuột có nhiều chỗ ẩn nấp để hại mùa màng. Việc phát rẫy được người Thái tiến hành rất hợp lý. Phát thực bì vào tháng 2, tháng 4 dương lịch [tháng 1 - 3 âm lịch] hằng năm. Nếu rừng già phải phát từ tháng 1 [tháng 12 âm của năm trước]. Thời gian chọn đất canh tác, chọn đất phát rẫy làm rẫy thường được thực hiện vào mùa khô, thông thường công việc phát rẫy được thực hiện vào tháng 12. Trước đây, người Thái không có thói quen dùng phân bón hóa học mà chủ yếu là phân tự nhiên, phân hữu cơ từ trên rừng chảy về, phân gia súc. - Các loại giống lúa rẫy: Tập quán canh tác lúa rẫy lâu đời đã giúp người Thái ở vùng Quan Sơn tạo được nhiều loại giống lúa rẫy, bao gồm cả lúa nếp và lúa tẻ. Các giống lúa nếp gồm: Kháu háng ngùa [hạt lúa có râu màu vàng như đuôi bò], Kháu mác khén [hạt tròn, gạo trắng thơm, dẻo], Kháu pé lạnh [có đặc tính chịu được nắng hạn], Kháu cắm pạnh háng [nếp cẩm làm thuốc, lá và hạt lúa, gạo màu tím, hạt lúa có râu], Kháu xay khòn [vỏ hơi tím, gạo có màng lụa tím, bẻ hạt gạo thì trắng], Kháu dói [hạt vàng nhạt, có tia đỏ, gạo có mùi thơm]... Các giống lúa tẻ gồm: Kháu chăm háng [hạt lúa dài màu vàng có râu], Kháu chăm khếm [hạt lúa dài có râu ngắn nhọn], Kháu chăm xế [hạt lúa có râu trắng - loại này có thể dùng gạo nấu cháo với thịt gà có màu lông trắng cộng với một số vị thuốc khác dùng cho người bị gãy xương hoặc mới ốm dậy ăn bồi bổ; hiện nay giống này không phổ biến nhiều]. Tất cả các giống lúa trên đều phù hợp với môi trường và chất đất ở vùng biên giới. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của người Thái, trong số những loại giống lúa trên, có một số loại cho năng suất cao hơn, đó là: kháu háng ngùa, kháu mác khén, kháu chăm háng, kháu dói, kháu mác có. - Tỉa lúa rẫy: Kinh nghiệm tỉa lúa rẫy của người Thái ở các xã biên giới thường sử dụng hai cách chính: Cách 1: Dùng gậy gỗ vừa nắm tay [cỡ cán cuốc, cán thuổng] vát hơi nhọn đầu gốc, chọc lỗ tra hạt rồi lấy chân gạt nhẹ mùn đất lấp hạt. Mỗi lỗ tra từ 8 đến 12 hạt lúa giống. Cách 2: Dùng thuổng chọc đất tra hạt lúa. Mỗi lỗ tra từ 8 đến 12 hạt lúa giống. Cả hai cách đều không chọc sâu hoặc nông quá, chỉ chọc sâu cỡ 5 đến 6cm là vừa. Trong lúc tra hạt, không để hạt lúa rơi vãi ra ngoài nhằm tránh chuột, chim phát hiện sẽ bới móc chỗ tra lúa để ăn mất. Nếu tra ít quá, lúa thưa, cây kém năng suất; tra nhiều quá thì cụm lúa quá dày, cây không to, bông nhỏ, dễ bị sâu bệnh. Do vậy, chỉ tra từ 8 đến 12 hạt để có cụm lúa thành bụi khoảng 20 đến 30 cây cả nhánh là vừa. Như vậy, lúa sẽ to đòng, đủ ánh sáng, ít sâu bệnh, bông to dài, nhiều hạt, năng suất cao. Với cả hai cách trên, mật độ lỗ cách lỗ khoảng từ 30 đến 40 cm là vừa và phải chọc lỗ theo kiểu kiềng ba chân để các bụi lúa dễ tiếp ánh sáng. Lúa rẫy gieo thường đẻ nhiều hơn và bông to hơn. Thời gian gieo trồng yêu cầu không kéo dài ngày. Do vậy, theo tập quán canh tác, bà con thường đổi công cho nhau; nếu số người đi trồng lúa đông thì chỉ một hoặc hai ngày là gieo xong lúa giống. - Làm cỏ cho lúa rẫy Nếu là rẫy mới phát thực bì lần đầu thì mỗi vụ làm cỏ từ 3 đến 4 lần. Lần đầu khi lúa lên được khoảng 15 đến 20 cm [khoảng 15 đến 20 ngày sau khi tỉa], lần này thường là cắt đi những bụi cây mọc tái sinh từ gốc nứa, vàu... Lần hai, khi lúa lên cao cỡ 35 đến 40cm [khoảng sau 40 ngày tỉa], cỏ mọc nhiều nên dùng các dụng cụ như chóp, véc, cuốc để xáo xới diệt cỏ, vun gốc cho lúa. Lần ba, khi lúa sắp làm đòng cao 60 đến 70cm thì tiếp tục làm cỏ xới, xáo vun gốc cho lúa. Lần bốn, khi lúa trổ bông, chắc hạt thì đi cắt dây leo, các bụi cây tái sinh, những cây mọc nhanh như nứa vầu, bương, giang... để chuẩn bị thu hoạch dễ dàng. Tùy theo từng nơi, cỏ mọc nhiều hay ít mà có thể làm cỏ đủ bốn lần hoặc giảm bớt một hoặc hai lần; có thể bỏ lần 1 hoặc lần 4, riêng lần 2 và lần 3 [tức là vừa xáo, xới, diệt cỏ và vun gốc cho lúa] nhất thiết phải làm thì lúa mới tốt. - Bảo vệ lúa nương: Với người Thái, việc chăm sóc, bảo vệ rẫy luôn được coi trọng. Ngoài làm cỏ, vun gốc, ngay từ khi bắt đầu gieo lúa, họ đã phải đề phòng chuột, thú rừng và sâu bệnh phá hoại lúa. Ngày xưa còn nhiều thú như nai, lợn lòi, gấu, khỉ... những loài thú lớn hay phá lúa hại nhất. Ngày nay các loại thú lớn không còn nữa nhưng còn khá nhiều chim ri, gà rừng và chuột [chuột phá từ lúc mới gieo hạt, khi lúa lên cây cho đến khi trổ bông lúa, chắc hạt], nên ngay từ khi gieo hạt, họ đã dựng lều để canh giữ rẫy và đã có nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ lúa rẫy: + Cách phòng trừ chuột và gà rừng: Biện pháp thông thường là phát sạch cỏ, bốc hoặc đốt hết các đống rác trên rẫy là những nơi chuột có thể làm ổ. Dùng cây cỏ rào xung quanh rẫy tại các nơi trọng điểm chuột hay đến, thỉnh thoảng để trừ ra một khoảng trống nhỏ đặt bẫy tre vào để khi chuột đi qua sẽ sập bẫy; hoặc dùng những phiến đá mỏng rộng làm bẫy sập để vừa diệt chuột, chắn chuột vừa còn có tác dụng ngăn chặn sự phá hoại của gà rừng. + Cách phòng trừ chim ri: Để phòng trừ chim ri hại lúa, người Thái phát hết bụi rậm cây có tán rộng xung quanh đám rẫy, nơi mà chim ri hay đến trú. Ngoài ra, họ làm nhiều bù nhìn cầm nỏ giả [nỏ làm bằng cây nứa nhỏ nhẹ], rồi treo chúng ở ngoài rẫy vào sáng sớm khi chim chưa dậy và chưa đến phá lúa. Họ cũng có thể làm khớp đuổi chim và các loại thú khác. Khớp được làm bằng một cây nứa hoặc bương, vầu dài khoảng 3 đến 4m, bổ đôi hai phần ba chiều dài của đoạn nứa, một đầu cắm chắc xuống đất, đầu được bổ đôi gác lên một cây chống khác, phần đầu một miếng đã được bổ ra buộc một sợi dây thừng chắc kéo ròng về lều và buộc vào một điểm chắc chắn, thỉnh thoảng giật dây đó làm cho “khớp” kêu để lùa được thú. + Cách phòng trừ sâu bệnh: Theo kinh nghiệm dân gian, khi chưa có các loại thuốc hóa chất diệt trừ sâu bệnh hại lúa, người Thái đã sử dụng một số kiểu ma thuật cũng như cách trừ sâu bệnh như sau: Đối với bệnh sâu xanh cuốn lá, người Thái bắt khoảng 5 đến 10 con sâu về trộn ít muối rồi bỏ vào ống nứa bịt kín rồi treo lên gác bếp gọi là “muối chua”. Với cách làm này, họ cho rằng có thể sâu ngoài rẫy tự mất đi. Khi lúa bị bệnh vàng lá, người Thái lấy củ nghệ vàng giã nhỏ rồi rải trên rẫy lúa, rải càng nhiều càng tốt nhưng chủ yếu là ở những đám lúa bị bệnh. Lúa bị bệnh chấm hồng [chấm nhỏ] ở lá lúa, người Thái bắt từ 3 đến 5 con cua sống, dùng cây nứa cắm một đầu vào con cua còn đầu kia cắm xuống đất; tương tự như vậy, cắm rải ra trên rẫy tại khu vực lúa bị bệnh khoảng từ 10 đến 15 con cua. - Thu hoạch lúa rẫy Khi lúa trên rẫy bắt đầu chín thì chọn ngày cắt lấy khoảng 15 đến 20 cụm lúa non đem về làm cốm để mời ông thổ công đất rẫy. Đồng thời làm một sàn bằng nứa vầu hoặc bương để phơi lúa, tập trung lúa đã cắt về để bó thành cụm cho dễ vận chuyển. Sau khi gặt lúa làm cốm, chờ khoảng ít ngày cho lúa chín già đều khắp rẫy thì tổ chức đi gặt. Đồng bào dùng dụng cụ tự tạo cầm tay [gọi là hép] cắt từng bông lúa. Người giỏi, lành nghề có thể cắt gộp được 2,3 bông lúa một lúc. Đây là dụng cụ thủ công thao tác chậm. Người nhanh và tích cực nhất mỗi ngày từ sáng đến tối cũng chỉ cắt được 40 đến 50 cụm lúa, tương ứng với 40 đến 50kg thóc. Lúa rẫy khi trổ bông, phát triển cao trên 1m thậm chí 1,5 đến 1,6m, cao bằng đầu người. Nếu dùng liềm, hái cắt lúa thì lượng rơm mang về rất lớn; do vậy, bắt buộc đồng bào phải dùng “hép” cắt từng bông có chiều dài cọng rơm cỡ 20 đến 25cm, rồi gỡ sạch bẹ, lá cho dễ phơi và vận chuyển. Tuy nhiên, có nơi đồng bào cũng dùng liềm, hái cắt lúa, sau đó đập lúa lấy hạt tại rẫy để mang về nhà. - Bảo quản lúa rẫy: Sau khi cắt được lúa, đồng bào làm cọc rơm phơi lúa tại nơi cắt; xòe đon lúa ra đặt lên cọc rơm khoảng từ 3 đến 4 bụi rơm vơ dồn lại bẻ thành cọc, rồi đặt đon lúa lên trên. Cứ để đon lúa khô tại chỗ như vậy, nếu nắng to thì từ sáng đến chiều, ít nắng thì hai ngày sau dồn lúa về chòi rẫy để bảo vệ. Sau 1 đến 2 ngày đồng bào buộc 2 đon lúa lại với nhau thành từng đôi gọi là cum lúa để gánh lúa, vác về nhà hoặc treo vào xà làm tại rẫy. - Cách để lúa giống lúa rẫy: Trong quá trình gặt lúa, đồng bào thường chọn luôn lúa giống cho vụ sau. Trường hợp rẫy của mình xấu, không chọn được lúa giống hoặc cần thêm giống lúa mới, đồng bào xin, mua hoặc đổi với nhà khác trong lúc đang thu hoạch trên rẫy. Nếu là đổi lúa giống, thường là theo tỷ lệ 1,5 lúa đổi 1 lúa giống hoặc theo cân hoặc có thể đổi bằng số lượng đon lúa với nhau. Người cẩn thận có thể xin phép chủ rẫy cho mình cắt chọn lúa giống, cắt được bao nhiêu thì chủ rẫy đếm để đổi theo phương thức trên. Chọn giống ở thửa ruộng lúa tốt, trong đó chọn cắt những bông trội, hạt đều, không có bệnh tật. Lấy giống lúa chín rộ không lấy lúa còn non hoặc quá cỗi [lói]. Lói có nghĩa là cọng lúa [rơm] đã gục xuống. Như vậy hạt lúa quá già khó bảo quản, chất lượng nảy mầm không cao. Lúa chưa chín đều [non] mầm đang yếu làm giống cũng không tốt. Lấy giống nếp phải xa thửa ruộng lúa tẻ. Lấy giống lúa tẻ phải xa thửa ruộng lúa nếp thì chất lượng mới chuẩn. Nếu không dễ sinh nếp pha tẻ không dẻo, không thơm và ngược lại. Lúa làm giống phải là lúa hạt mẩy đều, không lép, không mốc và được phơi khô quạt sạch, không bị mối mọt, điều cơ bản nhất là lúa giống phải được chọn tại các đám lúa tốt nhất trên rẫy và chín già tuyệt đối. Khi thu hái lúa giống, phải loại bỏ bông con, bông có nhiều hạt lép, chỉ lấy bông mẹ, chắc hạt và chín đều. Tùy từng loại lúa mà phơi, giống nào dễ rụng hạt thì có thể tuốt ra thành hạt phơi thật khô rồi cất vào bồ, bì hoặc chum [điển hình là giống lúa mác khén], còn giống nào dai, ít rụng hạt thì được gặt bằng lưỡi hái gọi là “hép”, cắt từng bông một, buộc thành bó to bằng lạt giang, sau đó có thể dồn lại làm một bó. Khi phơi, xoè đuôi bó lúa rộng ra rồi phơi. Phơi lúa giống [cum] phải để cả bó và phải thật tỉ mỉ nhiều công đoạn, lộn đi lộn lại nhiều lần, có lúc thì cho cum lúa giống nằm ngang ra, nhưng có lúc lại lộn đuôi bông lúa lên, xong lại cho đầu bó lúa ngược lên để phơi cho khô đều. Sau khi phơi thật khô đều thì lấy lạt buộc cho chặt, rồi mới cất lúa giống chờ vụ gieo hạt năm sau. - Kinh nghiệm chọn ngày và thời tiết trong canh tác lúa rẫy: Theo kinh nghiệm của người Thái, lúa rẫy có 3 loại: lúa sớm, lúa vụ lỡ và lúa muộn. Lúa sớm, lúa vụ lỡ thường được trồng vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 âm lịch. Lúa muộn trồng vào cuối tháng 4 và tháng 5 [chủ yếu là trong vòng tháng 5 âm lịch]. Chọn ngày trồng lúa: tùy từng gia đình, người ta chọn ngày trồng lúa riêng. Tuy nhiên, có một điểm chung là họ thường kiêng trồng lúa vào các ngày an táng cha, mẹ của ông chủ gia đình [nếu bố mẹ đã mất], ngày 4, 14, 24 trong tháng [vì đây là ngày lấy lửa về nhà mới của người Thái, còn gọi là ngày lửa]. Chọn thời tiết: tháng 3 âm lịch là tháng có nhiều nắng nên là tháng đốt rẫy. Tháng 4 và tháng 5 là tháng bắt đầu có mưa nhiều nên là các tháng trồng lúa. Sau 5 tháng chăm sóc và bảo vệ thì đến tháng 9, tháng 10 là lúa chín, cũng là bắt đầu vào mùa khô nên người ta thu hoạch lúa vì vừa dễ thu vừa lúa không bị ẩm mốc, mọc mầm. * Kinh nghiệm canh tác lúa nước Vùng đất Quan Sơn có địa bàn phức tạp, nhiều sông suối. Người Thái định cư chủ yếu ở các vùng bồn địa, trong môi trường tự nhiên và sinh thái nhân văn đó, người Thái đã khai thác và chiếm lĩnh các thung lũng dọc sông suối và các thung lũng tiếp giáp các chân núi để trồng lúa nước. Làm lúa nước, nên người Thái đặc biệt cần đến nước. Nguồn nước thung lũng là nguồn nước có dòng chảy, nên người Thái đã xây dựng hệ thống thủy lợi đưa nước vào ruộng kiểu mương, phai, lái, lín, cọn. Phương thức ứng xử này thể hiện khả năng thích ứng cao với môi trường sinh thái, đồng thời còn tạo nên nét cảnh quan rất đặc trưng của vùng cư dân người Thái. Do đó, bên cạnh những kinh nghiệm trong canh tác lúa rẫy còn có kinh nghiệm trong canh tác ruộng nước. Ruộng của đồng bào thường là ruộng nước 2 vụ trong năm. Vụ chiêm: thường làm đất từ tháng 11, 12 năm trước, cấy lúa vào tháng 1 hoặc tháng 2 [tháng 1 âm lịch] năm sau. Những năm rét đậm, rét hại kéo dài thường cấy vào tháng 2 [sau Tết âm lịch]. Thu hoạch vào tháng 5, 6 [tháng 4, 5 âm lịch] tùy nơi khí hậu nóng lạnh khác nhau. Vụ mùa: sau khi thu hoạch vụ chiêm thì làm đất cấy vào tháng 7 [tháng 6 âm lịch] thu hoạch vào tháng 10, 11 [tháng 9, 10 âm lịch]. - Các loại giống lúa ruộng Kháu cay nọi [lúa nếp thơm]: Hạt tròn, vỏ có màu xám sáng, hơi có lông ngắn. Giống lúa này cây cứng, cao ít đổ. Khi lúa chín thơm cả cánh đồng. Đồ xôi đầu làng ở cuối làng cũng thấy mùi thơm. Kháu nón [lúa nếp thường]: hạt dài vỏ màu vàng nhạt. Lúa này năng suất nhưng cây yếu hay đổ. Kháu vóng [nếp hạt tròn]: vỏ màu nâu, gạo trắng, dẻo. Kháu páy tá [nếp dẻo]: hạt tròn, vỏ màu vàng nhạt, đồ xôi chỉ khoảng 25-30 phút là chín. Kháu tán [nếp cái]: hạt to tròn, vỏ màu hơi mốc, gạo trắng, cơm dẻo. Kháu mác cuối [lúa quả chuối]: hạt dài màu sét, gạo trắng, cơm dẻo. Kháu chăm khếm [lúa tẻ kim]: vỏ vàng có gai ở đuôi, hạt lúa nhỏ dài như kim. Kháu chăm tám [lúa tẻ tám thơm]: hạt nhỏ dài vỏ màu sét. Gạo trắng thơm. Giống được chọn và cất giữ từ vụ trước. Các loại nếp như: nếp thơm, nếp cái chỉ cấy vụ mùa. Lúa vụ chiêm thường chín vào tháng 5 dương lịch, có nơi vùng sâu, vùng xa nước suối lạnh tưới ruộng, không khí mát lạnh hơn thì lúa chín vào tháng 6 hoặc đầu tháng 7 hằng năm. Khi lúa chín đều đồng bào dùng liềm, hái ra cắt lúa bó từng đon phơi trên gốc rơm tại ruộng. Bó lúa nắm đầy trong tay dùng lạt buộc lại sau đó xoè bó lúa ra đặt trên gốc rơm phơi đến chiều thì mang lúa về nhà. Cũng có trường hợp phơi ngoài đồng 2 ngày mới mang về nhà. Ngày nay, đồng bào có máy tuốt, máy phụt nên lúa cắt từng đống [không cần bó đon] sau đó đưa vào máy tuốt, máy phụt lấy hạt thóc về. Rơm có thể lấy, có thể bỏ lại cho trâu bò ăn hoặc ai lấy thì tùy. Ngày trước đồng bào gùi, gánh lúa về nhà hoặc kho của nhà mình. Nếu lúa đã khô thì xếp vào kho hoặc xếp thành từng đống trong nhà, trên gác. Số nào chưa khô thì để riêng phơi ra ngoài sàn [chàn] vì nhà người Thái thường làm chàn ra để phơi phóng các thứ. Sau đó mới cất vào kho hoặc xếp vào đống. Nếu là thóc hạt thì xếp vào bồ, sọt. Ngày nay lúa được tuốt ra thành hạt ngoài đồng đưa về phơi khô cất vào bì tải nơi khô ráo. * Về canh tác vụ mùa: Thời gian vụ mùa thường cấy vào tháng 7 [tháng 6 âm lịch] và thu hoạch vào tháng 10 dương lịch [tháng 9 âm lịch] hằng năm. Cũng có nơi cấy tháng 7 cho thu hoạch đầu tháng 11 do trời lạnh, nước mát lúa chín chậm hơn. Để canh tác lúa tốt, đồng bào vùng biên giới Quan Sơn còn có kinh nghiệm làm đập [phai] ngăn suối ở độ cao hơn ruộng, từ đó đào mương dẫn nước về. Nước về ruộng theo mương tốt hơn dẫn nước theo máng hoặc guồng nước. Vì mương nhận được nhiều phù sa, chất mùn, phân trôi từ nguồn nước suối và trên đường dẫn vào ruộng tạo chất màu tốt cho ruộng. Hệ thống mương dẫn nước vào ruộng thường được làm từ trên cao xuống thấp, các lối dẫn nước này luôn được làm so le nhau, và theo kinh nghiệm của người Thái thì mương dẫn nước tốt nhất là được nối với các nguồn nước chảy từ các khu rừng già ra, nó không chỉ cung cấp nước tưới mà còn là chiếc cầu nối giữa ruộng với kho phân bón tự nhiên từ rừng vào ruộng theo dòng nước. Để có những khu ruộng tốt cho canh tác lúa thì yếu tố quan trọng đầu tiên là nước. Nước có một vai trò rất lớn đối với canh tác lúa trên ruộng, nếu không có nước thì không thể trồng cấy, nhưng để có đủ nước cho mỗi mùa vụ canh tác thì vấn đề bảo vệ các nguồn nước là hết sức quan trọng. Do vậy, đồng bào thường có câu ví “Nặm húa tá, nà húa mướng” [nước đầu bến, ruộng đầu mương], chữ đầu ở đây có nghĩa là chỗ ruộng tiếp giáp đầu tiên với mương sẽ nhận được nhiều phù sa hơn, do vậy lúa tốt hơn. Còn đầu bến có nghĩa là phía trên đầu nguồn nước thì nước sạch hơn. Nếu dùng nước cuối bến sẽ bẩn vì nhiều người tắm giặt, rửa thải các chất bẩn trôi về cuối bến. Nước cho cây trồng cũng tránh được nước đá vôi càng tốt. Vì nước đá vôi làm sơ cứng đất, bó rễ cây làm cây màu khó tiếp thụ chất màu, phân bón. Để bảo vệ được nguồn nước, đồng bào thường có những quy định trong hương ước hoặc truyền miệng với nhau như: cấm rừng đầu nguồn nước; Không làm rẫy, làm vườn đầu bến, không phá rừng đầu nguồn: “Nhà ệt háy, ệt suốn húa tá Nhà khèo pa húa huối” Dịch: Đừng làm rẫy, làm vườn đầu bến Đừng phát rừng đầu suối[ ]. Nước tưới ruộng cũng có quy định chặt chẽ tránh lãng phí nước và điều hòa tưới tiêu công bằng, tránh mạnh ai người nấy lấy nước tùy tiện. Theo đó bản quy định: trên đường mương qua ruộng làm các ống [tó] chia nước về các cánh đồng phù hợp với nhu cầu diện tích cụ thể; Từ trong một cánh đồng có các tạng, các ten [rãnh] phân phối nước xuống thửa ruộng dưới. Không ai được tự ý mở rộng hoặc đắp, ngăn dòng chảy. Như vậy vừa điều hòa tưới tiêu cho ruộng vừa giữ đươc tình làng nghĩa xóm. * Kinh nghiệm trồng ngô Đồng bào ở huyện Quan Sơn có kinh nghiệm trong việc trồng ngô. Đồng bào chọn đất trồng ngô là đất gần núi đá, đất pha đá sỏi ở trên khe suối, sườn đồi. Thường rừng có cây bương, chuối rừng, lá dong thì trồng ngô, kê sẽ rất tốt. Đất trồng ngô phát thực bì vào tháng 11, 12 [tháng 11 âm lịch] năm trước hoặc tháng giêng năm sau. Sang tháng 2 [tháng 1 âm lịch] đốt dọn sạch. Thực bì đất trồng ngô không cần dọn sạch bằng làm đất trồng lúa. Tỉa ngô vào tháng 2 hoặc tháng 3 dương lịch [tháng 1, 2 âm lịch] đến cuối tháng 6 hoặc tháng 7 [tháng 6 âm lịch] sẽ cho thu hoạch ngô nếp. Riêng giống ngô mới thì theo hướng dẫn của trạm khuyến nông huyện và chính quyền địa phương. Kỹ thuật tỉa ngô nếp cũng dùng dụng cụ tương tự như tỉa lúa. Nhưng mỗi hố chỉ cho vào 1 - 2 hạt, hố cách hố 40 - 45cm theo kiểu răng sấu [chân kiềng] không bố trí theo hàng. Trong một vụ phải làm cỏ từ 2 - 3 lần. Lần 1: Khi ngô đã mọc cao khoảng 35 - 40 cm làm cỏ xáo, xới vun gốc. Lần 2: Khi ngô sắp trổ hoa phát dây leo, phát cỏ trên toàn diện tích. Lần 3: Khi ngô đã ra bắp phát dây leo, cây bụi tái sinh cao [cỏ thấp không cần phát]. Vào khoảng tháng 7 dương lịch [tháng 6 âm lịch] là ngô đã già. Đồng bào dùng bế, sọt ra rẫy bẻ cả bắp ngô đem về chòi hoặc về nhà. Nếu là rẫy xa thì hầu như là để ngô lại chòi rẫy đồng thời làm thêm hạn [sàn] mới để tập kết ngô về. Ngô được lật bẻ buộc lại thành từng túm 10 - 20 bắp gọi là phục lưới [túm ngô] treo lên đà, sào [xà lông] để phơi thành từng hàng. Những bắp ngô bóc hết bẹ thì phơi tại sàn, trên cót hoặc thúng. Như vậy ngô không bị bẩn, không dính đất sỏi. Cây ngô nếp phổ biến là 2- 3 bắp trên một cây. Khi chọn giống cho vụ sau đồng bào thường chọn cây ngô to, bắp đều, lấy những bắp ở giữa cây. Lấy giống ở cây trội [cây tốt] trong rẫy. Lấy những bắp căng tròn đều hạt [chặt cả cây, bắp còn vỏ] đã chín đều về treo ngược cây ngô phơi nắng, sau đó treo trên gác bếp hoặc trên trần nhà sàn. Lúc chuẩn bị đến vụ mới đồng bào bóc từng bắp ngô chọn bắp có hạt đều, không mọt nẩy ra phơi khô để chuẩn bị đi tỉa. * Kinh nghiệm trồng sắn Kinh nghiệm trồng sắn, khoai và các loại cây có củ nói chung của đồng bào ở huyện Quan Sơn là đất trồng sắn phải tơi xốp không nhiều loại cây thân gỗ có vị đắng như cây xoan rừng, xoan ta, ràng ràng. Sắn trồng ở sườn đồi, trên đồi dễ thoát nước, củ sắn sẽ không bị úng dễ thu hoạch, chất lượng sắn sẽ không bị xơ cứng mà nhiều bột hơn. Xử lí thực bì làm rẫy sắn từ tháng Giêng đến tháng 2 đốt dọn sạch. Cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3 [tháng 1, 2 âm lịch] trồng sắn khi đó cây sắn chưa ra lộc mới, nếu ra lộc mới chất lượng giống không tốt. Sắn trồng bằng hom, hom sắn được đồng bào chọn để dành từ tháng 11, 12 năm trước [khi thu hoạch sắn]. Các loại giống sắn truyền thống [bản địa]. - Mền có lón [sắn trắng]: cây thấp, cuống lá xanh nhạt, ít cành, củ nhỏ ngắn, vỏ lụa mỏng, vỏ trong màu trắng, ăn sống có thể say, năng suất không cao, nay không dùng. - Mền có táy hoặc mền có lánh [sắn tây hoặc sắn đỏ]: cây cao, cuống lá đỏ, nhiều cành, củ nhỏ dài, vỏ lụa mỏng, vỏ trong đỏ, ăn sống không say. Đồ và nướng ăn rất bở, thơm ngon, ít củ năng suất thấp, nay không còn trồng. - Mền có lé [sắn xanh]: cây cao, cuống lá màu xanh, nhiều cành, vỏ lụa ngoài dày, vỏ trong màu xanh nhạt, ăn sống bị say, năng suất cao [củ to, nhiều củ]. Luộc ăn hay đồ ăn thường có vị đắng dễ say. - Mền có ón [sắn củ khoai]: cây to cao, cuống lá hơi đỏ, cây thường nhiều cành, củ to [có khi đến 10kg/củ]. Vỏ lụa củ sắn dày có khía, vỏ trong dày màu tía, củ sắn có khi tròn như củ khoai lang, ăn sống không say. Luộc hoặc đồ ăn bở, ngon nhưng không thơm. - Mền có tăm [sắn lùn năng suất cao]: loại sắn này mới nhập nơi khác về sau năm 2000, cây thấp, cuống lá hơi xanh, củ nhiều, không ăn sống được, không luộc hoặc đồ ăn được vì hay bị say, phải qua chế biến mới dùng được. Loại sắn này trồng cho các nhà máy chế biến là chủ yếu, đồng bào ít sử dụng tại chỗ. Cây sắn để làm giống là những cây khỏe, nhặt mắt, không xây xước. Sau khi chặt để cây sắn nằm ngang lấy rơm rạ hoặc cành lá phủ lên trên. Cũng có trường hợp đồng bào chọn đám sắn có cây tốt đủ tiêu chuẩn giống để lại chưa thu hoạch đến khi cần trồng mới lấy cây làm giống. Tuy nhiên, vẫn phải chặt cây sắn giống trước khi ra lộc. Khi trồng cắt từng đoạn ngắn cỡ 3 - 4 mắt dài 10 - 15cm, dùng cuốc đào hố rộng 20 - 25 cm, sâu 8 - 10 cm tra hom sắn xuống hố lấp lại đạp chặt xuống để giữ ẩm cho hom sắn giống. Khoảng cách hố 60 - 65cm, trồng theo thế chân kiềng [răng sấu]. Khi thấy lá sắn vàng 1/3 từ gốc lên [khoảng tháng 10] là có thể thu hoạch sắn. Thời gian thu hoạch đến tháng 12. Nếu để sang tháng Giêng, sắn bắt đầu ra lộc thì củ sắn bị sượng [ít bột]. Sau khi thu hoạch đồng bào có thể bán cả củ sắn tươi có cả vỏ. Nếu để dành thì chế biến theo hai cách: cạo vỏ lụa mỏng phần ngoài cho củ sắn lên sàn sấy khô, sau đó cho lên gác để; Bóc vỏ sắn bỏ phần vỏ cứng và lụa, cắt thành lát, mài thành sợi phơi khô bằng ánh nắng mặt trời sau đó cho vào bao bì, sọt để sử dụng hoặc bán. * Kinh nghiệm trồng luồng Người Thái vùng biên giới Quan Sơn có nhiều kinh nghiệm trồng luồng, từ khâu chọn giống đến chăm sóc luồng. Chọn giống cây luồng bánh tẻ từ 1 - 3 năm tuổi, cây có ống ngắn [nhặt mắt]. Mắt luồng có nhánh, gốc nhánh có rễ mới. Thường là lấy cây luồng con, không sâu bệnh, luồng loại 3 - 4 không lấy luồng to loại 1 - 2. Cây luồng ở gần khe suối, triền sông, bãi bằng nơi có độ ẩm cao càng tốt. Kỹ thuật lấy giống: chọn ngày mát trời, mưa nhỏ càng tốt vào rừng chặt luồng giống. Sau khi chặt hạ cây xuống chặt từng đoạn có một mắt ở giữa, phía ngọn chặt bằng, phía gốc vát nhọn rồi đem ra nơi trồng. Sau khi lấy giống về trồng được ngay càng tốt. Nếu chậm cũng không quá hai ngày phải bảo quản giống nơi râm mát. Chặt bớt cành nhánh để lại 20 - 30cm, không được làm tổn thương rễ. Kỹ thuật trồng: cắm phía gốc [đầu đã vát nhọn] xuống đất, lấy búa hoặc đoạn cây gỗ đánh đầu trên cho đoạn giống cắm sâu lút mắt luồng xuống đất khoảng 5 - 6cm là được. Trồng luồng vào những ngày dâm mát, trời mưa sau khi đã làm đất. Kỹ thuật làm đất trồng luồng: phát thực bì để khô đốt cháy để diệt khuẩn, tạo phân tro càng tốt. Trong rẫy luồng trồng xen lúa, sắn, ngô và cây nông nghiệp khác. Trong thời gian 3 năm kết hợp chăm sóc trong thời gian trồng luồng và cây nông nghiệp. Sau đó phát chăm sóc luồng bằng phát dọn, không trồng cây nông nghiệp nữa. * Kinh nghiệm trồng tỉa xen canh, luân canh Đồng bào thường xen canh thêm một số cây nông nghiệp với nhau, cây lâm nghiệp với cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp này với cây lâm nghiệp khác. Ví dụ: trồng lúa, ngô, sắn, đậu, lạc xen cây lát, luồng, đậu thiều. Trồng lúa xen ngô, đậu tương, đậu đũa. Trồng cây luồng xen lát, xoan... Luân canh: rẫy đồng bào Thái thường có quy ước theo vùng và chuyển đổi sau 3 năm canh tác [luân canh]: Vụ đầu gọi là háy láo; Vụ 2 gọi là “háy lộc”; Vụ 3 gọi là “háy lựm”. Sau đó đồng bào chuyển sang vùng khác [thung, đồi khác]. Những chỗ trồng xen cây lâm nghiệp thì tiếp tục chăm sóc, bảo vệ cây lâm nghiệp lâu dài. Những rẫy không trồng cây lâm nghiệp thì đến năm thứ 4 hoặc thứ 5 quay lại. Khi đó rừng đã tái sinh thành rừng non gọi là “Pa láu”. Pa láu là rẫy cũ phục hồi tái sinh tự nhiên vẫn do chủ rẫy có quyền quản lý trong vòng 5 năm trở lại. Qua thời gian đó gia chủ không canh tác thì người khác mới được làm. Người Thái nói: Háy xám pí nhằng táu Lau há pí nhằng dám Dịch: Rẫy ba năm còn đến Rừng sau rẫy năm năm còn thăm. Ý nói trong 3 năm chủ vẫn đến làm rẫy, rừng non sau rẫy 5 năm chủ vẫn trở lại làm tiếp hoặc có quyền quản lý những cây trồng khi làm rẫy còn lại trong rừng tự nhiên.
  2. Thủy lợi cổ truyền Sinh sống trên một vùng đồi núi, địa hình đất dốc, chia cắt phức tạp, người Thái đã sáng tạo một hệ thống thủy lợi cổ truyền, được gọi là: mương, phai [bai], lái, lín [lin]. * Phai Phai là con đập chắn ngang các dòng suối hoặc sông nhỏ được xây dựng từ nguồn nguyên liệu sẵn có như đất, đá, gỗ, tre. Phai lớn có thể đảm bảo nước tưới cho cánh đồng ruộng khoảng 60 - 70ha, phai trung bình khoảng 30 - 40ha, phai nhỏ khoảng 5 - 10ha. Tầm quan trọng của phai trong canh tác nông nghiệp được người Thái so sánh với vai trò của người cha trong gia đình, qua câu thành ngữ: “po tai phai pắng” [cha chết không bằng vỡ phai]. Phai được đắp trước vụ gieo cấy và người ta thường chọn vị trí có các yếu tố sau: nơi đắp phai có hiệu suất tưới cao nhất, nước chảy ngay vào ruộng hoặc nếu phải đào mương thì mương ngắn và dễ đào; nơi lòng suối bị thu hẹp [để giảm công sức và nguyên vật liệu do chiều dài phai ngắn] hoặc có những hòn đá to nổi lên giữa dòng chảy [làm chỗ dựa, tăng độ ổn định cho phai]. Có một số loại phai như sau: - Phai đá Phai đá là loại dùng đá để xếp lại thành một con đập chắn ngang dòng suối. Loại phai này dễ làm, không tốn nhiều công sức, nhưng chỉ có thể thực hiện được ở những đoạn suối hẹp, nông, có nhiều đá. Với những đoạn suối sâu và rộng hơn, người ta dùng nhiều sọt đan bằng tre hoặc nứa [sọt đan to, cao tuỳ kích thước của phai] đựng đầy đá, xếp thành một con đập chắn ngang dòng suối. Lấy một hoặc nhiều tấm phên đan bằng nứa dựng sát các sọt đá ở phía thượng lưu để liên kết các sọt đá với nhau và cản nước. Sau đó lấy đá xếp dọc theo chân hai phía của phai. - Phai cây Phai cây là loại dùng một cây gỗ lớn chắn ngang dòng suối, sau đó lấy đá chèn hai bên cho đoạn gỗ không dịch chuyển. Loại phai này cũng chỉ áp dụng được ở những đoạn suối hẹp, nông. Với những đoạn suối sâu và rộng hơn, cần nhiều nước để tưới cho diện tích canh tác rộng, người ta dùng 3 hoặc 4 cây gỗ to xếp song song sát nhau chắn ngang dòng suối, sau đó dùng một số cây gỗ nhỏ xếp chồng lên trên dọc theo hướng dòng chảy. Kích thước của hai loại gỗ này phải đều nhau. Cứ như vậy, xếp cây to ngang, cây nhỏ dọc nhưng mỗi tầng lại bớt đi một cây gỗ ngang để dáng của phai theo kiểu “hạ thách, thượng thu”. Những cây gỗ xếp ngang có tác dụng ngăn dòng nước, những cây gỗ xếp dọc có tác dụng giữ cho cây gỗ xếp ngang không bị nước đẩy đi. Những cây xếp dọc có kích thước nhỏ để khe hở nhỏ, nước không chảy đi nhiều. Để cho phai thêm vững chắc phải dùng cọc chống các cây gỗ ngang ở phía hạ lưu. Dùng những tấm phên nứa to, dài trùm lên thân phai và lấy đá xếp dọc theo chân hai phía của phai. Một đặc điểm kỹ thuật rất quan trọng là phai không kín mà có nhiều kẻ hở nhỏ để dòng nước chảy qua. Như vây, phai chỉ giữ lại một lượng nước nhất định tùy theo yêu cầu sử dụng và tưới ruộng. Nước suối thường chảy tràn qua nên áp lực và tác động lên phai không lớn, do vậy con người không phải bảo trì, sửa chữa nhiều, đỡ tốn thời gian, công sức và nguyên vật liệu. Thông thường, mỗi bản có một phai để lấy nước tưới cho cánh đồng của bản mình, nhưng cũng có trường hợp một bản [bản lớn, nhiều nóc nhà] có nhiều phai. Với những phai lớn, tốn nhiều công sức và nguyên vật liệu để xây dựng, tưới cho cánh đồng rộng của một hoặc nhiều bản, do nhiều bản chung nhau xây dựng thì được gọi là phai mường và do mường quản lý. * Mương Mương là các đường dẫn nước nhỏ, thường có ba loại: mương chìm [mương đào], mương nổi [mương đắp] và mương nửa chìm nửa nổi [vừa đào vừa đắp]. Có thể một hệ thống mương bao hàm cả ba dạng, bởi vì để dẫn nước vào ruộng thường phải đi qua các địa hình khác nhau. Mương thường bắt đầu từ phai, nhưng không nhất thiết cứ phải có phai mới có mương vì có thể mương được đào từ các khe nước hoặc dòng chảy trên cao. * Lái Để bảo vệ cho mương vững chắc, nhất là những đoạn mương đắp nổi, người ta làm thêm những kè phụ, gọi là “lái”. Kè phụ được làm bằng gỗ, tre, đá, đất... để đắp phụ ngoài những đoạn mương nổi, đắp chặn dòng chảy trong lòng mương để nước dâng lên vào ruộng hoặc chảy vào đoạn mương khác khi cần thiết. * Lìn [máng nước] Trong trường hợp địa hình phức tạp không thể đào hoặc đắp mương dài liên tục được thì người ta làm máng dẫn để thay thế, gọi là “lín”. Máng có thể là những cây tre, vầu bổ đôi, đục bỏ các “mắt” hoặc những tấm ván được ghép với nhau hình chữ U, được đặt trên giá đỡ bằng tre, gỗ hoặc treo qua cây. Chúng có tác dụng nối liền 2 đoạn mương bị tách rời, để dòng chảy được liên tục. Nếu không đào được mương phụ [hoặc không cần thiết phải đào] thì người ta cũng dùng máng để dẫn nước từ mương chính tưới cho cánh đồng gần nơi mương đi qua. Cũng có thể dùng máng dẫn nước thẳng từ “mỏ mước” để tưới cho cánh đồng. * Đắp đập Đập được làm với mục đích làm hẹp dòng suối để tạo ra một dòng chảy mới có lưu tốc lớn hơn. Do đó, đập không nối liền hai bờ suối với nhau, mà có một khoảng trống rộng khoảng 1 - 1,5m ở gần bờ, gọi là “cón nặm”. Khi dòng chảy bị hẹp lại, nước sẽ chảy dồn vào “cón nặm”, lưu tốc dòng chảy lớn sẽ đẩy bánh xe quay. Chiều dài của “cón nặm” khoảng 3 - 5m, thậm chí 20 - 30m nếu đặt nhiều bánh xe. Độ sâu của dòng nước khoảng từ 60 - 80 cm là đạt yêu cầu. Để tạo ra lưu tốc dòng chảy lớn hơn, đồng thời để bảo vệ đập ngăn và “cón nặm”, người ta rải đều các sọt đá thành hàng thẳng ngang dòng suối theo chiều của đập và dọc suối theo chiều của dòng chảy trong “cón nặm”. Để thêm chắc chắn và bịt các khe hở, đập còn được gia cố bằng cọc gỗ, tre, phên nứa. * Guồng nước [Lộc nặm] Trong các trường hợp do ruộng cần tưới nằm ở độ cao lớn, sau khi đắp phai nước đã dâng lên mà vẫn chưa đủ độ cao để chảy trực tiếp vào ruộng thì người Thái lựa chọn giải pháp làm “guồng” [lộc nặm] để kéo nước lên cao. Nguyên tắc của cọn là biến thế năng thành cơ năng, nghĩa là nhờ vào thủy lực của dòng chảy tác động vào cánh chắn để làm cho bánh xe quay, các ống ở bánh xe sẽ múc đầy nước và được đưa lên cao đổ vào máng, từ đó nước theo ống dẫn chảy vào ruộng. Cách làm bánh xe nước [người Thái gọi “Lộc nặm”, “láng lộc nặm”] Guồng được thiết kế như một chiếc bánh xe lớn hình tròn, đường kính phụ thuộc vào độ cao của mặt ruộng cần tưới so với dòng chảy của suối. Có những chiếc guồng có đường kính khoảng 3 - 4m, nhưng cũng có những chiếc có đường kính 7 - 8m. Bánh xe gồm một trục gỗ có đường kính khoảng 10cm, dài khoảng 1,5m, gọi là “có” [giống như chiếc may ơ của bánh xe đạp]. Có khoảng 40 - 50 cặp rui là những cây nứa [hoặc tre nhỏ] có độ dài bằng 1/2 đường kính bánh xe [giống như nan hoa của bánh xe đạp], gọi là “cón pắt”, mỗi cặp có một đầu vạt nhọn cắm chắc vào trục [co], cách nhau khoảng 40 - 50cm và bắt chéo nhau ở khoảng 2/3 chiều dài, tính từ trục. Tại chỗ bắt chéo nhau này cài 2 thanh tre vót tròn hoặc song, 1 thanh phía ngoài và 1 thanh phía trong, gọi là “quằng púm” [vành trong]. Ở 2 đầu phía ngoài của “cón pắt” buộc vào 2 thanh tre vót tròn hoặc song, gọi là “quằng nóc” [vành ngoài]. Sát phía trong “quằng nóc”, cứ cách một “cón pắt” người ta buộc 1 cánh chắn làm bằng phên nứa có kích thước khoảng 25cm x 30cm gọi là “pí”, và cách một cánh chắn buộc 1 ống tải nước, gọi và “bóng nặm”. Những ống nước này được làm bằng những đoạn nứa, vầu già có kích thước bằng nhau lấy những ống mỏng cho nhẹ. Độ nghiêng của ống phụ thuộc vào độ dài ống nước [khoảng 30 - 40cm], đầu ống hướng vào bờ và phải được cân chỉnh chính xác để vừa múc được nhiều nước, vừa đổ đúng vào máng hứng nước [hàng ha]. Bánh xe được đặt trên hai cột có ngàm, trồng ở bờ “cón nặm”. Cột có ngàm dài gọi là “xáu hiếu” trồng phía bờ suối, cột có ngàm ngắn gọi là “xáu cóm” trồng phía ngoài. Giữa trục của bánh xe và ngàm của hai cột được lót một miếng gỗ đẽo hình bán nguyệt hoặc một mảnh nửa cây vầu, gọi là “tạp”, để giảm ma sát, làm cho bánh xe quay đều và trơn hơn. Lúc này, máng hứng nước [hàng ha] được đặt lên đầu ngàm dài của cột “xáu hiếu” và song song với bánh xe. Máng làm bằng gỗ, dài khoảng 2 m, rộng khoảng 30 cm, giống như một chiếc thuyền độc mộc nhỏ. Cũng có thể dùng các tấm ván để ghép lại thành máng. Để máng không nghiêng và rơi khi hứng nước, người ta làm thêm giá đỡ nối với ngàm của cột “xáu hiếu”. Lòng máng được đục thủng 2 lỗ để nước chảy xuống 2 ống dẫn bằng cây luồng khoét các mắt [trừ mắt ở đầu gốc sát bánh xe], gọi là “lìn”. Nếu muốn nước được dẫn đến các thửa ruộng xa hơn, người ta nối thêm ống bằng cách luồn gốc cây luồng này vào ngọn của cây luồng kia. Ống dẫn được đặt trên giá đỡ là 2 đoạn tre bắt chéo nhau, trồng xuống đất. Theo kinh nghiệm dân gian, một chiếc guồng nước [lộc nặm] muốn cân đối và quay đều thì số lượng rui [cỏn pắt] phải gấp đôi số lượng cánh chắn [pí] và số cánh chắn lại gấp đôi số lượng ống tải nước [boong nặm]. Một chiếc guồng đạt yêu cầu về kỹ thuật và hiệu suất là quay 1 vòng hết khoảng 20 giây, trong quá trình quay luôn luôn có 6 ống hứng nước và đổ nước, nghĩa là ống thứ nhất đổ hết nước thì ống thứ 6 bắt đầu đổ nước vào máng. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra cho người làm guồng là phải có óc tưởng tượng tốt, có kinh nghiệm và tính kiên trì, tỉ mỉ trong công việc. Guồng nước đã mang lại hiệu quả cao trong việc cung cấp nước cho các ruộng lúa. Guồng nước là một sáng tạo kỹ thuật của thủy lợi, một “công trình văn hóa” mang đậm bản sắc văn minh nông nghiệp vùng thung lũng[ ]. Cũng như làm phai, guồng nước được làm trước vụ gieo trồng, mỗi guồng nước tưới được khoảng 3 - 5ha và sau mỗi vụ lại phải làm cọn khác thay thế. Trong các bước tiến hành làm guồng thì đắp đập ngăn nước cho guồng quay cũng tốn nhiều thời gian, công sức và nguyên vật liệu. Do vậy, người ta thường chọn vị trí thuận lợi để đắp một đập có thể dựng được nhiều guồng, bằng cách nối dài thêm “cón nặm”.
  3. Chăn nuôi Chăn nuôi là một trong những hoạt động kinh tế quan trọng thứ hai sau hoạt động kinh tế trồng trọt, nhưng chưa tách thành một hoạt động kinh tế độc lập với nông nghiệp, bởi vì chăn nuôi còn phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp. Do đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên thời xa xưa trên vùng đất Quan Sơn đã tồn tại những cánh rừng với hệ động vật phong phú như voi, lợn, hươu, nai,... Cùng với việc khai phá vùng rừng núi trở thành nơi trồng trọt, cư dân Việt cổ sinh sống trên địa bàn huyện Quan Sơn xưa đã biết săn bắt và thuần dưỡng động vật hoang dã trở thành vật nuôi. Chăn nuôi ở huyện Quan Sơn rất đa dạng: nuôi trâu, nuôi bò, dê,... Ngày xưa người Thái nuôi cả voi, ngựa. Do vậy thường có các địa danh như “Luốc chạng, Hới chạng, Na chạng nọi, Sắn chạng, Hới en mạ...” [Thung voi, thửa voi, ruộng voi nhỏ, đồi voi, thửa đua ngựa,...]. Có nghĩa các địa danh đó là nơi chăn thả voi, đua ngựa của đồng bào Thái. Ngoài nhu cầu phục vụ trồng trọt, chăn nuôi còn là nguồn thu nhập dùng để bán, ăn và cúng lễ. Tuy nhiên, trải qua một khoảng thời gian dài, nghề chăn nuôi ở Quan Sơn vẫn là nghệ phụ, tồn tại dưới hình thức chăn nuôi hộ gia đình nhỏ lẻ.
  4. Đánh bắt thủy sản Việc nuôi và đánh bắt thủy sản là một hoạt động trong kinh tế nông nghiệp truyền thống của cư dân Quan Sơn. Nuôi thủy sản chủ yếu dưới hình thức hộ gia đình, góp phần tạo nguồn thực phẩm cho người dân. Ngày xưa đồng bào thường đào ao thả cá trôi, cá chép, cá dốc. Giống cá lấy từ sông, suối tự nhiên. Sau này mua giống cá của các tổ chức cá nhân đem bán tại địa phương như cá trắm cỏ, chép, cá mè, cá trôi, cá rô lai... Thức ăn cho cá thường lấy từ tự nhiên hay tự tạo như: Lá sắn, cây chuối rừng, chuối nhà, hoa quả lấy từ rừng như quả vả, quả sung, lá môn thục, lá sung... Hoặc cám, ngô xay, giã, sắn thái lát cho cá ăn. Lấy giống cá từ sông suối vào các tháng 5, 6, 7 vì tháng 3, tháng 4 là cá đẻ trứng nở cá bột. Đến tháng 5, 6, 7 cá bằng đầu đũa, ngón tay út, tay cái xúc mang về nuôi. 5.1.3. Hoạt động lâm nghiệp truyền thống 5.1.3.1. Phân loại rừng Theo cách phân loại rừng truyền thống của người Thái nói chung, có những loại rừng sau: Thứ nhất là rừng đầu nguồn, đây là loại rừng tích tụ và lưu giữ nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt của con người. Đặc điểm của những khu rừng này là có nhiều cây cối cổ thụ, theo tập quán dân làng không được chặt phát hay khai thác gỗ ở đây, nếu khai thác phải được sự đồng ý của làng. Những khu rừng này thường là nơi phát sinh, khởi nguồn của những khe suối cung cấp nước chủ yếu cho dân làng ăn uống, sinh hoạt và sản xuất. Nhìn chung, đây là loại rừng quan trọng nhất của đồng bào, có nhiều loài gỗ và động vật quý hiếm, với một hệ thảm thực vật phong phú và đa dạng, vừa là nơi bảo tồn gien, nơi đầu nguồn nước. Do đó loại rừng này được người Mường cũng như người Thái bảo vệ rất chặt chẽ, theo luật tục, đây là những khu rừng cấm khai thác bừa bãi[ ]. Để bảo vệ những khu rừng loại này, người ta đã tạo dựng nên các truyền thuyết, huyền thoại các khu rừng hay một vài loại cây, loài động vật hoang dã. Bằng hình thức truyền miệng, những câu chuyện đó được lưu truyền từ đời này sang đời khác và những khu rừng đó đã trở thành thiêng hóa, thần thánh hóa, không ai dám xâm phạm. Trong quan niệm của người Thái, rừng già có ma cai quản nên khi chặt hạ cây to thì phải làm lễ cúng ma rừng. Lễ cúng gồm có trầu, cau, gà, rượu. Nếu chặt nhiều cây to thì phải cúng lợn, dê. Khi vào rừng phải đi nhẹ nhàng, không la ó, không hát hò, không đùa nghịch..., nếu không sẽ bị ma rừng làm cho ốm, thậm chí có thể chết. Loại rừng thứ hai, khác với rừng đầu nguồn, đây là những khu rừng thường không có nhiều nguồn nước khe suối. Do đó, theo phong tục, đây là loại rừng được sử dụng để khai thác gỗ và săn bắn cũng như phát rẫy làm rẫy canh tác cây lương thực. Vì thế, những khu rừng này hiện nay còn được gọi là rừng tái sinh hay rừng sản xuất. Loại rừng thứ ba người Thái gọi là pá héo. Đây chính là những khu rừng nghĩa địa, người dân ở từng làng từ lâu đời chọn làm nơi chôn cất người chết. Vì vậy, có nơi người ta còn gọi là rừng ma. Thông thường những khu rừng này xa khu dân cư, xa nguồn nước và hẻo lánh. Do quan niệm về ma quỷ, thần linh nên người dân trong làng ít qua lại khu rừng này và hầu như không ai dám chặt phát, săn bắn ở đây, bởi thế những khu rừng này thường rất rậm rạp và có nhiều cây cối cổ thụ. Loại rừng thứ tư là những khu rừng thường ở địa hình thấp so với những khu rừng khác, có thảm thực vật chủ yếu là cỏ tranh, nên thường sử dụng những khu rừng này làm bãi chăn thả trâu, bò. Ngoài ra, tuy không phổ biến, nhưng trong tâm thức dân gian đều coi là rừng thiêng[ ]. Đây là những khu rừng có người đã từng bị tại nạn, bị mất tích, hoặc bị hổ ăn thịt... tạo cho người dân tâm lý kiêng sợ và ít khi qua lại nơi đây, không dám khai thác gỗ, săn bắn và hái lượm nên lâu năm trở thành những khu rừng rậm, rừng nguyên sinh. Tập tục trong bản làng ngày xưa có những quy định của dân gian về bảo vệ rừng thiêng[ ]. Ngoài cách phân loại trên, người dân còn phân loại rừng dựa vào những đặc điểm vượt trội của từng khu rừng để đặt tên như: rừng giang, rừng vàu, rừng luồng, rừng cọ, rừng trám, rừng lim, rừng dổi, rừng cỏ tranh, ... Nhìn chung, phần lớn rừng trong địa bàn huyện Quan Sơn trong xã hội truyền thống chủ yếu là rừng già, rừng rậm, đó chính là những khu rừng nguyên sinh. Chỉ có một ít diện tích những cánh rừng có độ dốc thấp, gần khu dân cư, có điều kiện đi lại thuận lợi thì người dân tận dụng phát rẫy làm rẫy trồng cây lương thực và một số cây lâm sản như luồng, cọ, lim, lát... Do đời sống gắn bó lâu dài với rừng mà người dân ở đây đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên quý giá này. Sự phân loại các loại rừng như đã nói ở trên đã thể hiện phần nào sự nhận thức đầy đủ và sâu sắc về rừng. 5.1.3.2. Khai thác và bảo vệ tài nguyên rừng trong xã hội truyền thống Quan Sơn là huyện miền núi, tài nguyên đất đa dạng với diện tích đất lâm nghiệp và đất lâm nghiệp có rừng lớn, độ che phủ rừng cao. Sinh sống ở vùng rừng núi, nghề rừng là nguồn sống quan trọng của cư dân các dân tộc huyện Quan Sơn qua việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thực vật và động vật... Đây là nguồn tài nguyên vô giá, là kho dự trữ nguồn nguyên liệu, dược liệu, nguồn thức ăn, nguồn nước, nguồn đất đai... đồng thời là nơi bảo tồn sự đa dạng sinh học, là chỗ dựa thuận lợi cho đồng bào sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất này hàng bao đời nay. Khai thác kinh tế rừng từ xưa đã là một thế mạnh của người dân vùng đất Quan Sơn. Việc khai thác được nhiều thế hệ tiến hành để nhằm tận thu các nguồn lợi khác nhau từ hái lượm, săn bắt đến khai thác nguyên vật liệu, dược liệu trong các tầng, lớp khác nhau của rừng: tầng nước, tầng dưới mặt đất, tầng trên bề mặt đất, núi đá đến các tầng không gian. Việc khai thác nguồn lâm sản ở đây trước hết là phục vụ những nhu cầu thiết yếu của đời sống gia đình.
  5. Khai thác và sử dụng tài nguyên thực vật Khai thác gỗ Gỗ rất cần thiết trong đời sống hàng ngày. Người dân địa phương khai thác nhiều loại gỗ khác nhau tùy theo mục đích sử dụng chúng để làm nhà, làm công cụ sản xuất, săn bắn, làm các công trình công cộng như cầu cống và các công trình thủy lợi, làm quan tài và làm chất đốt. Gỗ làm nhà được người dân lựa chọn cẩn thận nhất, đặc biệt là gỗ để làm cột cái. Mỗi một ngôi nhà sàn cần ít nhất 6 cột cái, kích thước các cột cái tùy thuộc vào nhà to hay nhỏ, nhưng đường kính thường dao động từ 30 cm - 50 cm. Theo kinh nghiệm đúc kết nhiều đời của người Thái, gỗ dùng làm nhà tốt nhất là những loại gỗ sến, táu, tấu mật, nghiến, mài lái, đinh hương, chò nâu, vàng tâm... Trong đó, gỗ thường được chọn làm cột là gỗ mài lái và gỗ nghiến, đây là hai loại gỗ không bị mọt, tốt hơn lim. Các loại xà ngang, xà dọc người ta thường chọn những loại gỗ không mọt như lát hoa, chò nâu, sến... Cột cái được làm từ những loại gỗ trên có thể chôn thẳng xuống đất nhưng ít khi bị hỏng, có độ bền cao trên 50 năm. Tuy nhiên, nếu được kê trên bệ đá thì độ bền còn cao hơn nữa. Theo kinh nghiệm người dân cho biết, trước đây rừng trong địa bàn của họ ở rất phong phú các loại gỗ quý kể trên. Một số nơi khan hiếm những loại gỗ này thì người dân thay thế nó bằng các loại gỗ có độ bền tương đối cao như nhãn rừng, quýt rừng, chồ hô... Nếu như cột cái được làm bằng những loại gỗ này thì không chôn trực tiếp xuống đất vì nó nhanh mọt nên phải được kê trên đá. Đối với gỗ làm cột con, tùy theo diện tích ngôi nhà cần từ 8 - 18 cột, loại gỗ làm cột con không cần phải cầu kỳ như cột cái. Có thể sử dụng những loại gỗ làm cột cái để làm cột con hoặc sử dụng các loại gỗ khác như dổi, sâng, quân... là những loại gỗ không mọt và dễ kiếm. Các loại gỗ này còn được sử dụng để làm sàn nhà, đây là những loại gỗ có vân rất đẹp. Các loại gỗ được chọn làm vách, sàn, mái là những loại gỗ phải đáp ứng được yêu cầu bền, không mọt, đẹp, dẻo và nhẹ. Những loại gỗ được ưa dùng nhất là dẻ, xoan đào [chương], hồng rừng... Đây là những loại gỗ trước đây rất sẵn ở rừng Quan Sơn. Theo kinh nghiệm của người dân địa phương, những loại gỗ bi, vàng tâm, sú... thường được sử dụng làm quan tài vì đây là những loại gỗ tốt, không mọt, chịu nước. Trong đó gỗ bi là loại gỗ có độ bền cao nhất, tốt hơn cả gỗ trám, gỗ trầm hương, khi chôn xuống đất hay ngâm xuống nước ít bị mục ruỗng, phù hợp cho việc chôn cất lâu năm. Một ưu điểm khác của loại gỗ bi là thân gỗ to, cao và thẳng, do vậy một cây có thể làm được ít nhất vài ba chiếc quan tài. Để làm chuồng nuôi gia súc trâu, bò người dân sử dụng tất cả các loại gỗ trừ nhóm gỗ để làm cột cái và làm quan tài vì đó là những loại gỗ quý hiếm, khó tìm. Gỗ cọ, gỗ móc chủ yếu được sử dụng làm máng dẫn nước vì loại gỗ này thân thẳng, đều gốc đều ngọn, ngoài ra các loại gỗ này còn có ưu điểm mềm, nhẹ, dễ moi lòng và chịu được nước, dùng được ít nhất 10 năm mới phải thay máng mới. Ngoài ra, gỗ rừng còn được khai thác làm chất đốt để nấu ăn, sưởi ấm vào mùa đông. Củi đun được tận dụng chủ yếu từ những bộ phận thừa của những cây khai thác lấy gỗ, thân cây khô mục ở trong rừng. Những loại cây có dầu như pơ mu... người dân rất ít sử dụng để làm củi đun vì có mùi độc ảnh hưởng đến sức khỏe. Gỗ có thể được khai thác quanh năm, tuy nhiên, mùa khai thác chính là mùa khô từ tháng 8 đến tháng 12 âm lịch bởi một số lý do sau: thứ nhất, đây là thời gian nông nhàn mọi người đều rảnh rỗi nên có thể huy động được nhân công. Thứ hai, đây là mùa thu - đông, thời tiết khô ráo, ít mưa, ít muỗi, vắt và cũng trùng với thời gian thời tiết lạnh nên lao động đỡ mệt mỏi hơn khi làm việc với cường độ cao. Lý do nữa cũng rất quan trọng, đó là vào mùa thu - đông hàm lượng nước trong thân cây không cao nên gỗ ít bị nứt và không bị mọt. Gỗ được khai thác vào mùa này chủ yếu để làm nhà và làm công cụ sản xuất. Khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 7 âm lịch, vẫn có thể khai thác gỗ để làm chuồng trâu, bò, lợn khi các gia đình có nhu cầu. Theo kinh nghiệm dân gian, nếu dùng gỗ để làm nhà nên tránh khai thác vào hai mùa xuân và mùa hè, vì khai thác vào mùa hè [tháng 4 đến tháng 7 âm lịch] gỗ hay bị mọt do thời tiết mưa nhiều và nóng ẩm, còn nếu khai thác vào mùa xuân sẽ làm giảm chất lượng và độ bền của gỗ vì đây là mùa sinh trưởng của cây, các chất trong cây tập trung vào nuôi lá, cành, thân cây tích nước nhiều hơn dẫn đến gỗ không tốt, hay bị mọt và nứt vỡ. Hơn nữa, mùa xuân là mùa đâm chồi nảy lộc nếu khai thác gỗ vào thời gian này sẽ làm ảnh hưởng đến mầm non, thảm thực vật cũng như tầng tán thấp nhất của rừng. Ngoài việc sử dụng gỗ làm nhà và làm các vật gia dụng khác, người dân địa phương còn khai thác gỗ để sử dụng làm các công trình công cộng và hệ thống thủy lợi như guồng nước, bai đập và máng dẫn nước. Để làm nhà, người dân còn khai thác những nguồn vật liệu khác như tre, nứa, cọ... Vầu, giang non được khai thác chủ yếu để làm lạt. Nứa, vầu già được khai thác để đan các tấm phên làm vách nhà. Để không bị mọt, người ta khai thác vào mùa thu - đông, đồng thời phải chọn những cây già và không cụt ngọn. Lá cọ, lá kè cũng được dùng phổ biến để kết tranh lợp nhà. Ưu điểm của mái tranh cọ rất mát vào mùa hè và ấm vào mùa đông. Những cây cọ già lá rất bền có thể sử dụng được 10 - 15 năm, nếu lợp dày cẩn thận lại được bảo vệ bởi một lớp bồ hóng có khi thời gian sử dụng tới 20 năm mới phải lợp lại. Ngoài ra, người ta còn sử dụng cỏ tranh để lợp nhà. Tuy nhiên, cỏ tranh không tốt như các loại lá kia. Trước đây, những khu rừng có nhiều trảng cỏ tranh được người dân sử dụng làm bãi chăn thả trâu, bò. Cứ vào khoảng cuối mùa khô [tháng 10 đến tháng 12 âm lịch] người ta lại đốt những bãi cỏ tranh này thành tro, gốc và rễ còn lại ở dưới đất sang mùa xuân lại mọc lên thành những thảm cỏ xanh tốt dùng làm thức ăn cho gia súc. Đây là kinh nghiệm sử dụng và tái tạo đồng cỏ tại chỗ phục vụ cho chăn nuôi mà không ảnh hưởng đến tài nguyên rừng và môi trường sinh thái. Những nơi không có lá cọ, lá kè, cỏ tranh người dân lấy nứa, vầu, gỗ xa mu lợp nhà. Khai thác nguồn thức ăn - Khai thác và sử dụng các loại măng: Rừng Quan Sơn có rất nhiều loại măng, được đồng bào khai thác quanh năm để làm thức ăn. Trong đó có các loại phổ biến như sau: măng luồng, nứa, bương được khai thác chủ yếu vào các tháng 4, 5, 6; măng đắng được khai thác chủ yếu vào tháng 7, tháng 8; măng tre được khai thác chủ yếu vào tháng 5, tháng 6; măng mai được khai thác chủ yếu vào tháng 5, tháng 6; măng mu còn gọi là măng vàu, đây là loại măng đắng được khai thác chủ yếu vào tháng giêng, tháng hai; măng sặt được khai thác chủ yếu vào tháng 7, tháng 8; măng trúc được khai thác chủ yếu vào tháng 2, tháng 3. Ngoài ra còn có các loại măng lồ ô, măng le le... được khai thác quanh năm. Nhìn chung, hầu hết các loại măng mọc vào mùa mưa từ tháng 3 đến tháng 8. Trong tất cả các loài măng trên thì măng mai, măng le, măng trúc, măng giang là những loại măng ngon nhất và thường để dành biếu anh em họ hàng hoặc làm quà cho khách ở xa. Xưa kia, vào thời điểm giáp hạt từ tháng 2 cho đến tháng 4, người dân cũng cần đến nhiều măng và các loại rau rừng để ăn thay cơm. Cũng như các địa phương ở khu vực miền núi khác của xứ Thanh, người dân huyện Quan Sơn chế biến măng theo hai cách, qua lửa và không qua lửa. Phơi khô hoặc chế biến bằng vi sinh [lên men] là hai cách chế biến không qua lửa. Măng bương, măng nứa, măng mai, măng vàu là những loại măng thường được phơi nắng, sấy khô rồi dùng mo cau, bẹ tre, luồng gói kỹ cất trên gác bếp dự trữ ăn dần vào những thời điểm hiếm rau, hay dùng những khi không có điều kiện hái lượm các loại rau rừng khác. Ngoài ra, nguồn măng này còn là hàng hóa trao đổi, đem bán ở chợ hoặc để biếu anh em họ hàng và khách ở xa. Chế biến bằng lên men là cách thông dụng hơn cả. Phổ biến nhất là tạo ra các loại măng chua. Người ta thường sử dụng các loại măng có vị ngai ngái như: măng tre, măng bương, măng luồng... để ủ chua. Măng chua được nấu thành nhiều món ăn khác nhau như: xào, nấu với thịt gà, nhái, các loại cá đồng, cá sông, tôm tép, cua, ốc... Nhìn chung, măng chua nấu với các chất tanh sẽ khử được mùi tanh và càng tạo mùi thơm hấp dẫn. Ngoài hai cách chế biến trên để dự trữ ăn dần, người dân còn sử dụng ăn sống trực tiếp, đồ chín và nướng. Khác với măng nứa, măng tre mọc ra từ gốc, măng mu mọc ra từ rễ. Riêng măng mu vừa mọc nhú khỏi mặt đất dùng thuổng moi củ lấy về ăn sống rất ngọt, nếu để lâu chồi cao khỏi mặt đất lại trở nên đắng. Do vậy, nếu muốn ăn thật đắng thì người ta để cho măng mọc cao khoảng 30 - 40 cm mới cắt về đồ ăn. Vì vậy, vào tháng giêng, tháng hai âm lịch, là thời điểm đất ẩm ướt măng mu mọc nhiều, người dân vào rừng đào măng mang về, bóc bẹ rửa sạch, dùng dao tước bỏ phần thân măng gần phần rễ rồi bổ dọc hoặc thái ngang thành từng miếng chấm muối trắng ăn kèm với một số loại rau thơm như mùi tàu, đinh lăng, kinh giới, tía tô... Có nhiều cách chế biến măng vàu như luộc, đồ, xào, nhưng với măng vàu nướng là ngon hơn cả. Vùi kín mụt măng trong than bếp cho đến khi chín. Người ta chọn những mụt măng đã nhô khỏi mặt đất từ 7 - 10 cm, phần nhô khỏi mặt đất có vị đắng hơn phần nằm trong lòng đất. Vị đắng mới là đặc trưng của măng vàu. Món măng này có mùi thơm đặc biệt, trở thành món ăn đặc sản của người dân nơi đây. Với măng tươi có thể luộc, nhưng đồ vẫn ngon hơn vì đồ mới giữ nguyên được vị được chất của măng. Măng đồ chín có thể dùng để làm nham [nộm] hoặc để xào với thịt lợn, thịt gà. Măng nứa chấm với muối vừng hoặc với tỏi vắt thêm nước chanh, măng mai chấm với mắm chua. Măng đồ vốn là món ăn dân giã nhưng rất ngon, rất phổ biến trong bữa ăn quanh năm của đồng bào Thái, Mường. - Khai thác và sử dụng các loại rau, củ, quả rừng: Các loại rau, củ, quả là nguồn thức ăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bữa ăn hàng ngày. Người dân huyện Quan Sơn trước đây sử dụng hàng chục loại rau rừng như hoa chuối rừng, cây chuối rừng, rau sắng, rau chua phổ, rau má, rau tàu bay, rau dớn, lá chân chim... Những món canh ngon miệng khác cũng có nguyên liệu được khai thác từ rừng như: canh duốc, canh măng hèo nấu với nhái hoặc ba ba.... Canh duốc là loại canh có nguyên liệu chính là cây chuối rừng bóc trắng, thái lát mỏng bóp muối, nấu với thịt gà, xương lợn... Canh măng hèo có nguyên liệu chính là măng nhánh lấy từ cây bương, giang, luồng bóc vỏ thái nhỏ, gia vị gồm có mẻ, sả [sịa], ớt và mùi tàu, lá lốt nấu với nhái hoặc ba ba... Ngoài các món ăn thuần rau, các loại rau rừng còn được nấu với các loại đạm động vật tạo nên nhiều món ăn ngon và bổ, trong đó chủ yếu nấu với các loại cá, cua, ốc, ếch là những loại chứa nhiều chất tanh. Bên cạnh với các loại rau, củ, người dân địa phương còn khai thác các loại quả, hạt rừng để làm thức ăn và làm gia vị như: trám, sung, dổi, mắc khẻn ...Các loại nấm và mộc nhĩ cũng là đối tượng hái lượm phong phú của người dân địa phương. Hai loại sản phẩm chủ yếu này được người dân khai thác trong mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 8 âm lịch. Rừng còn là kho dự trữ các loài cây gia vị. Những gia vị được người dân khai thác chủ yếu từ rừng đó là các loại củ, quả, hạt như: củ gừng, củ riềng, quả ớt, củ riêng, củ kiệu, củ sả, hạt khẻn, hạt dổi... Ngoài ra, còn có các loại gia vị chua khác như quả tai chua, khế rừng, chanh rừng, quýt rừng, lá chua phổ, lá chua me. Sống gần rừng, gắn bó với rừng, đồng bào có nhiều kinh nghiệm về thời vụ, đặc tính sinh trưởng của các loại cây để quyết định thời điểm, cách thức thu hái thích hợp. Chẳng hạn như thu hái măng đắng vào tháng 3; măng luồng, nứa, bương vào tháng 5; măng giang vào tháng 8... Không thu hái tận thu, quá mức để cây vẫn còn lá quang hợp; với cây lấy củ thì sau khi lấy xong củ phải trồng lại cây; với cây lấy rễ thì không được lấy hết bộ rễ... Măng có nhiều loại, măng sặt, măng đắng [no chá, no mú] mọc vào mùa xuân [tháng 2, tháng 3] hằng năm. Riêng măng mu càng lên cao càng đắng, do vậy phải tìm măng mới nhú phải đào đất xuống lấy măng thì ngon hơn. Măng nứa, vầu mọc vào tháng 5, 6, 7. Nhưng măng vầu đắng, thâm không ăn được. Măng giang, le, bương mọc vào tháng 6, 7, 8. Chế biến măng có nhiều cách, nhưng có một cách ăn măng ngon nhất là luộc cả bẹ trong niếng đồ cơm, khi chín đưa ra để nguội bóc sạch bẹ để ăn thì thơm, mềm rất ngon miệng. Tiếng Thái gọi cách này là “tốm tềnh cáp cáng viếng” [luộc cả vỏ trong niếng]. Cách thứ hai: măng tươi thái thẳng thớ không lấy ngọn, mỗi đoạn chừng hai đốt tay, sau đó trộn với tro rồi cho vào sọt, đưa xuống suối ngâm khoảng 3 ngày, ra thăm thấy lát măng mềm thì rửa sạch đem về nấu với ngọn bí đỏ, hạt ngô non. Hái nấm rừng: nấm bao gồm có nhiều loại, tiêu biểu như nấm hương, nấm mối, nấm ới ới, nấm tắt tắt, nấm mộc, nấm dùi cồng[ ]... Trong đó, nấm hương là loại nấm ngon nhất và có hương vị thơm nên được người dân địa phương đặc biệt chú ý khai thác và sử dụng. Ngoài ra còn có giá trị kinh tế cao nên thường dùng để bán và trao đổi với người Kinh ở dưới xuôi. Nấm rừng có hai loại: nấm mọc từ đất, nấm mọc từ cây khô, cây ẩm mục. Nấm mọc từ đất vào thời gian tháng 5, 6 bắt đầu có mưa rào “ngóc hệt táp kháu, táp puốc” [mọc nấm lúa, nấm mối]. Hai loại nấm này màu trắng, ngọn có núm, khi già xòe ra như ô ăn rất ngon. Riêng táp puốc [nấm mối] hay mọc quanh tổ mối có hình trụ to như ngón tay, trên là xoè ô, nón rộng như khay đựng chén nhỏ. Hái được nấm mới mọc còn đang chụm [tròn đầu] thì ngon hơn nấm đã xòe rộng nón. Hái quả sa nhân: cây sa nhân thường mọc dưới tán rừng nơi gần sông, suối, bãi bằng. Quả sa nhân làm nhiều thuốc. Nếu chẳng may bị ứ hơi đầy bụng đau quằn quại chỉ cần 2 - 3 quả sa nhân bóc vỏ nướng chín giòn nhai nuốt xuống bụng 15 - 20 phút là khỏi. Cách thu hái quả sa nhân như sau: Vào khoảng tháng 6, 7 dương lịch là quả sa nhân già, tháng 8 là chín. Hái những quả vừa già đến [có vỏ màu xanh đậm] thì tốt hơn, dễ bảo quản, quả chín dễ mốc, quả non chất lượng chưa cao. Quả sa nhân mọc từng chùm dưới rễ cây mẹ. Quả già có màu xanh đậm, cứng; quả non màu trắng bợt; quả chín màu hồng nắn mềm dễ tách vỏ. Vỏ sa nhân thường có 3 múi, vỏ có lông xù xì nhưng không sắc, không ngứa. Ta hái sa nhân về phơi khô bỏ vào chum, vại, bì tải, sọt, bế có thể được 1 - 2 năm chưa hỏng, trừ những quả non, quả chín. Bóc vỏ quế: vỏ quế cũng là loại dược liệu quý. Dân gian đã có câu: “Quế quý như vàng” quế có thể chưng cất vỏ, lá, cành nhánh thành tinh dầu hoặc ướp để dùng. Trong đó vỏ quế là là sản phẩm quý nhất, cách thu hái [bóc vỏ] quế như sau: Quế bóc vỏ mỗi năm 2 lần: vụ hè và vụ thu. Vụ hè bóc tháng 4, 5; Sang cuối tháng 5 và tháng 6 sẽ khó bóc vì quế ra hoa. Vụ thu: bóc vỏ quế từ tháng 7, 9; có năm bóc được đến trung tuần tháng 10 dương lịch. Chọn những cây không có búp non để bóc [cây có búp non thì sẽ khó bóc]. Kỹ thuật bóc như sau: bóc chọn không cần hạ cây, dùng dao năm hoặc dao quắm khoanh nửa thân cây quế, mỗi đoạn tùy theo yêu cầu kích cỡ sản phẩm. Sau đó rạch thẳng theo thân cây cả hai cạnh. Dùng mũi dao, que vót lép mũi chọc vào cạnh đã rạch để bóc vỏ quế ra. Không được bóc khoanh tròn toàn thân cây làm như vậy cây quế sẽ chết. Bóc cả cây: hạ cây quế sát gốc sao cho cây ngã đúng hướng theo ý muốn của mình. Tránh va đập vào cây khác, khi cây đã nằm xuống đất dùng dao khoanh tròn thân cây [đoạn ngắn dài] tùy theo quy cách của sản phẩm, lấy mũi dao rạch dọc theo thân cây đoạn vỏ đã khoanh. Sau đó dùng mũi dao, que vót lép đầu chọc vào chỗ đã rạch từ từ bóc vỏ quế ra. Để cho chắc chắn tránh lãng phí thì trước khi hạ cây quế phải nhìn cây không có chồi non, không có hoa, rạch một đoạn nhỏ để bóc thử, thấy bóc dễ mới hạ cây. Mùa xuân là mùa đâm chồi nảy lộc, mùa phát triển của thực vật nên công việc hái lượm tấp nập hơn. Mùa đông số loài giảm xuống nhưng lại có những loài có khối lượng cá thể lớn như: môn rừng, rau chúp, tàu bay... nên vẫn đáp ứng đủ nguồn rau ăn. Hái lượm các loại rau, măng, củ, quả tự túc thức ăn hàng ngày cho gia đình là mục đích chính, nhưng không thể phủ nhận vai trò là sản phẩm hàng hóa của một số loài như măng, nấm..., trước hết là trao đổi ngay trong nội bộ vùng, sau là trao đổi với người ngoại vùng.
  6. Khai thác và sử dụng tài nguyên động vật Khai thác nguồn thức ăn Sống trong hệ sinh thái phổ tạp, có tài nguyên động thực vật rất phong phú và đa dạng, do đó bên cạnh việc khai thác nguồn thực vật người dân còn khai thác nguồn động vật sử dụng làm thức ăn và nhiều mục đích khác. Mặc dù hiện nay người dân không còn săn bắn nữa, nhưng thông qua việc liệt kê tên gọi của các loài động vật đã từng sống và đang sống trong rừng cho thấy đồng bào các tộc người nơi đây có nhận thức rất sâu sắc về nguồn tài nguyên này. Cũng giống như nguồn tài nguyên thực vật, đồng bào liệt kê được hàng chục loài động vật khác nhau trong rừng. Có thể phân chia thành những loại sau: Động vật ăn thịt gồm: Hổ, báo, mèo rừng, chó sói... Động vật thuộc bộ móng guốc gồm: gấu, sơn dương, nai, hươu, hoẵng, lợn rừng... Động vật bò sát gồm: kỳ đà, tắc kè, thằn lằn, rắn, trăn... Loài linh trưởng gồm: khỉ, đười ươi, vượn, voọc, cu li... Động vật gặm nhấm gồm: chuột, dúi, nhím, tê tê... Côn trùng gồm: ong, sâu, bọ cánh cứng [cánh kiến, bọ tre, ve...], cào cào, châu chấu... Ngoài ra, rừng còn có nguồn thủy sinh như cá, tôm, cua, ốc, ếch... ở khe suối, ao hồ, trong rừng. Săn bắn là hoạt động khai thác truyền thống chủ yếu, đi săn là công việc dành chủ yếu cho nam giới. Người Thái thường săn bắn theo mùa. Kinh nghiệm dân gian cho thấy, mùa đi săn chủ yếu vào mùa thu - đông bởi những lý do sau: trước hết, đây là mùa quả rừng chín [như trám, bùi...], do đó mùa này cũng là mùa chim, thú béo nhất trong năm. Trên rừng còn có lúa rẫy, ngô, sắn làm cho những bầy thú như lợn lòi, cày, nai, hoẵng, nhím... kéo đến tìm kiếm thức ăn, vì vậy đi săn trong mùa thu - đông còn có một lý do nữa đó là bảo vệ mùa màng. Thứ hai, đây là mùa khô lạnh, ít muỗi, vắt, những loài rắn rết là kẻ thù nguy hiểm nhất của người đi săn cũng đi tìm chỗ trú đông không ra ngoài kiếm ăn, do đó thuận tiện cho việc đi săn. Thứ ba, theo kinh nghiệm của nghề săn vào dịp thu - đông là thời điểm thú rừng bắt đèn dễ bắn[ ]. Thứ tư, đây là mùa đông khô lạnh, con người ít mệt mỏi đảm bảo sức khoẻ truy sát thú, hơn nữa vào mùa này nếu con mồi mắc bẫy, mắc kẹp, bắn chết chưa lấy về được để đến ngày hôm sau vẫn còn sử dụng được vì thú không bị thối rữa. Lý do cuối cùng, đây là mùa nông nhàn người dân có điều kiện tổ chức những cuộc săn. Theo quan niệm của đồng bào, công việc săn bắn không chỉ mục đích tìm kiếm nguồn thức ăn mà đây còn là thú tiêu khiển của giới đàn ông. Tuy nhiên, không phải đi săn ngày nào, giờ nào cũng gặp được thú rừng. Thú rừng thường xuất hiện nhiều theo giờ, theo tháng, theo mùa. Chính vì thế, người Thái cũng như người Mường ở huyện Quan Sơn đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm trong săn bắn. Cụ thể như mùa măng dễ gặp lợn lòi, hoẵng, nai trong rừng nứa, vầu và cây có chồi, có lộc ở thấp. Mùa hoa quả trong rừng, như mùa quả sấu, quả vải rừng chín sẽ gặp nhiều vượn khỉ, vọoc. Mùa ong mật làm tổ sẽ hay gặp gấu... Dụng cụ săn bắn phổ biến trước kia là bẫy và cung nỏ. Những loại bẫy họ sử dụng cũng phong phú, đối với loại thú nhỏ như dơi, các loài gặm nhấm thì dùng cung nỏ, bẫy sập, bẫy dính hoặc lưới quây. Với loài thú lớn hơn như hoẵng, sơn dương, nai... họ dùng bẫy treo, bẫy thòng lọng... Sau này việc sử dụng súng phổ biến hơn, chủ yếu dùng súng kíp, súng hỏa mai, súng hai nòng. Súng săn trước kia ngoài việc dùng trong săn bắn còn được sử dụng trong đám ma với mục đích thông báo cho làng biết đã có người qua đời. Có hai hình thức săn, đó là săn cá nhân và săn tập thể. Săn tập thể là hình thức săn nguyên thủy nhất, thường được diễn ra trong mùa khô từ tháng 8 âm lịch đến hết năm. Khi phát hiện có thú, trưởng phường săn huy động toàn thể dân làng cùng tham gia. Ngoài dùng súng họ còn dùng chó, mõ, gậy gộc, lưới vây và hò hét inh ỏi để bao vây truy sát con thú. Những buổi đi săn tập thể thường được tổ chức vào ban ngày. Sản phẩm săn bắn được đem về chia cho dân làng cùng ăn. Người Thái có câu: Húa ma, khá nóc, phượng non đín khao bán, nghĩa là sau khi đưa đầu [thú sắn được] đùi phải mang đi mời Tạo, còn nửa nằm đất thì chia cho bà con dân bản, số còn lại chia cho phường săn. Trước đây, hầu hết các bản làng đều có phường săn. Và phường săn chỉ giành cho nam giới tham gia vì đi săn rất cần đến sức khoẻ và phải biết trèo cây khi bị thú tấn công. Mỗi phường săn thường phải có từ 5 - 7 tay súng. Đứng đầu phường săn là trưởng phường săn, đây là người có uy tín, kinh nghiệm trong săn bắn và phải biết tính lịch săn, đồng thời có cồng để tập hợp phường săn và điều khiển chó săn. Để tổ chức một cuộc săn người ta phải tính ngày, tính giờ xuất phát. Ở một số địa phương còn có tục xem chân gà trước khi đi săn. Trưởng phường săn trước khi phát cồng tập hợp quân, phải thịt một con gà bói chân xem có được thú to hay thú nhỏ. Kinh nghiệm được đúc kết trong sắn bắn nhiều đời của người dân địa phương cho biết, những khu rừng lau, rừng chuối pha nứa vàu, rừng gần rẫy sắn, rẫy ngô, rẫy lúa thì sẽ có lợn lòi, hoẵng, nai. Rừng có nhiều cây ăn quả thì sẽ có khỉ, vượn, vọoc, gấu, cáo... ăn ở trên, có lợn rừng, hoẵng, nai ăn ở dưới gốc nhặt quả rơi rụng. Rừng rậm có nhiều thú ăn cỏ tất sẽ có nhiều thú ăn thịt như hổ, báo đến trú ngụ. Các loài hoẵng, lợn lòi, cáo thường ở gần, còn các loài thú như nai, gấu, bò rừng, trâu rừng thường ở rừng sâu. Săn cá nhân hay còn gọi là săn rình, thường được tiến hành vào chập tối hay ban đêm. Khi phát hiện được dấu chân hoặc tiếng kêu của con thú thường xuyên qua lại ở một cánh rừng, hay mỗi khi thú phá hoại ngô, sắn, lúa trên rẫy thì người thợ săn lên đường. Dụng cụ đi săn bao gồm súng, tên nỏ và đèn ló, ngoài ra người thợ săn dẫn theo chó săn để nó đuổi thú về phía chủ và truy sát những con thú đã trúng đạn, sát thương. Thú săn được thường là nhím, nai, hoẵng, lợn rừng, dúi, sóc, chuột...; các loài chim như công, phượng hoàng, vẹt các loại, gà lôi... Kinh nghiệm cho biết, nếu thú phát hiện thấy hơi người thì nó sẽ lập tức bỏ trốn, do đó người thợ săn luôn ý thức không đứng đầu hướng gió. Cùng với việc sử dụng súng, nỏ để săn thú thì việc săn thú bằng bẫy cũng rất phổ biến, sử dụng một số loại bẫy như bẫy kẹp, bẫy sập, bẫy thòng lọng, bẫy chông, bẫy chuồng, bẫy lao, bẫy dính, bẫy treo.... Để tránh tai nạn, những người đặt bẫy thường phải báo cho dân làng hoặc đánh dấu bằng cách cắm cây nêu ở gần khu vực có bẫy để những người đi qua nhận biết tránh đường. Nhưng dù dùng phương tiện công cụ gì thì cũng cần có kiến thức, kinh nghiệm mới bắt được thú. Đồng thời đồng bào cũng nhắc nhở nhau không được quá ham, quá đà trong việc săn bắn thú rừng. Tục ngữ Thái đã dạy: “Ệt hẹo nha cái xám dặng Ệt chặng nha cái xám luông” Dịch: Làm bẫy đừng quá ba đường Làm đập bắt cá đừng quá ba cái[ ]. Ý khuyên rằng: Một người không được làm nhiều bẫy bắt thú, bắt cá. Nếu ai cũng làm nhiều thì thú và cá sẽ hết. “Tố púm man nha dẹ Mé lúc on nha nhinh” Dịch: Thú có chửa đừng diệt Mẹ nuôi con đừng bắn Có nghĩa nhắc nhau bảo vệ nòi giống của thú. Nếu săn bắt con đang chửa, mẹ đang nuôi con nhỏ thì vô tình mình giết cả hai mạng thú một lúc. Nói cách khác đây còn là ý nghĩa nhân văn sâu sắc đối với sự sống của mọi sinh linh. “Lúp ná xám kháp cói lăn co” Dịch: Vuốt mặt ba lần mới bóp cò. Ý muốn nói thợ săn phải bình tĩnh trước khi bắn. Nếu nóng vội có thể bắn nhầm phải người, phải thú nhà hoặc thú cấm. “Linh tố liếu nha khá Hến tố lạ nha nhinh” Dịch: Khỉ một con đừng giết Thấy thú lạ đừng bắn. Có nghĩa là, khỉ thường đi theo đàn, nếu chỉ còn một con là sự lạ, có khi sắp tiệt đàn hoặc là sự kiêng khem, cấm kỵ không được giết. Khai thác nguồn động vật còn bao gồm các loại côn trùng như châu chấu, mối, dế mèn, các loại ong... Rừng ở huyện Quan Sơn có đến chục loại ong như: ong mật, ong bò vẽ, ong đất, ong nghệ, ong muỗi,... Người ta thường khai thác ong mật [ong khoái] từ tháng 3 đến tháng 5 âm lịch vì đây là mùa ong đi lấy mật, còn tháng 9, 10 khai thác ong đất. Ngoài ra, các loài chim, dơi, gà rừng... cũng là đối tượng săn bắt chung của người dân địa phương. Tìm bắt ong lỗ: vào khoản tháng 8, 9 đầu tháng 10 dương lịch hằng năm, khi lúa trổ đã trĩu bông và đuôi bông lúa đã vàng là mùa ong lỗ sai tổ. Ong lỗ là những con ong to hơn ong bò vẽ mình có khoang đen, vàng, đốt rất đau có thể chết người. Chúng đào lỗ dưới đất. Thường thì có một lỗ vào cửa chính nhiều đất mượn dễ phát hiện và có từ 1-3 lỗ nhỏ để đi ra tiếng Thái gọi là “hù ngóc”. Những lỗ này chỉ lọt quả trứng gà và không có đất mượn nên khó phát hiện. Người săn ong phải dũng cảm, bình tĩnh khi đã phát hiện tổ ong. Nép vào một chỗ kín, đứng yên để theo dõi chúng vào ra. Từ đó phát hiện ra lỗ vào, lỗ ra thật chính xác. Khảo sát xong chờ trời tối hẳn [khoảng 8 - 9 giờ tối] ong sẽ vào trong lỗ gần hết. Chỉ còn vài ba con canh ở cửa. Ta dùng lửa châm vào các lỗ đã phát hiện [cả lỗ ra vào], thổi lửa và khói theo cửa chính vào tổ ong làm ong già sẽ chết. Khi đã xác định đàn ong già chết hết ta dùng cuốc, xẻng đào lấy các tầng ong non trong tổ ra. Có trường hợp không phát hiện được đủ lỗ thoát của ong, người lấy ong bị đàn ong đánh trả rất nguy hiểm có thể chết người. Thời điểm lấy ong là trung tuần hàng tháng trong vụ theo âm lịch. Tìm bắt ong mật: ong mật thường làm tổ trên cao, việc sinh đẻ ong non do một mình ong chúa đảm nhiệm. Ong mật đốt không đau bằng ong lỗ. Nhưng tư thế lấy ong lại rất khó, hay xảy ra tai nạn rơi từ trên cao xuống. Ong mật làm mật mỗi năm hai lần vào mùa xuân [cuối tháng 3], vào mùa thu [tháng 7, 8 dương lịch]. Đồng bào thường nhắc nhau lấy ong mật phải bảo vệ ong chúa, không làm ong chúa chết thì đàn ong mới còn. Việc lấy ong mật chỉ là xua đàn ong bay đi để mình lấy mật, không được làm mất ong chúa, không được làm ong mất tổ mà lìa đàn. “Phấng xía mé măn luân Nộc chác pừng măn móm” Dịch: Ong mất chúa [mẹ] nó tàn Chim lìa đàn nó tủi[ ]. Kỹ thuật lấy ong mật: sau khi phát hiện tổ ong ta phải đánh dấu X vào gốc cây để xác định mình đã phát hiện [tổ ong đã có chủ], ra ngoài đường hoặc dưới khe suối gần nhất làm ký hiệu chỉ về phía tổ ong cho mọi người biết mình đã phát hiện tổ ong. Ong thường làm mật vào giữa tháng từ ngày 14 - 17 âm lịch là phải lấy mật. Trước khi đi lấy mật phải chuẩn bị sọt, túi nilon hoặc xô, chậu để đựng cả tảng mật ong [chưa vắt]. Đem theo lửa, bó đuốc, bùi nhùi hoặc lốp xe đạp, xe máy cũ treo vào đầu sào đốt dơ thẳng lên tổ ong cho ong già bay đi. Trường hợp tổ ong cao phải trèo lên gần vị trí tổ ong mới đốt lửa để xua ong. Sau khi ong già đã bay ra thì dùng sọt đã lót nilon hoặc xô có quai buộc dây thừng đủ dài xuống đất đặt sọt [xô] vào dưới tổ ong rồi dùng dao năm cắt phần cần lấy cho rơi vào sọt [xô]. Rồi ròng dây xuống cho người đỡ lấy. Khi mang mật ong về nhà thì dùng 2 lớp vải màn sạch trùm lấy tảng mật ong để bóp chặt cho mật ong xuống chậu. Sau đó có thể lọc nhiều lần qua vải màn sạch tùy ý mình trước khi cho mật vào chai. Nút chai bằng lá chuối, ruột bắp ngô khô, giấy... Các loài thủy sinh, nhuyễn thể, lưỡng cư, bò sát được săn bắt chủ yếu theo mùa vụ bao gồm các loại cá, tôm, cua, ốc, rùa, rắn, tắc kè, kỳ đà, kỳ nhông... Mùa săn bắt chủ yếu là mùa nóng, mùa mưa. Nhìn chung, rừng trước đây thuộc quyền sử dụng của chung cộng đồng, trải qua thời gian khai thác người dân bản địa đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên rừng, mang lại nhiều nguồn lợi có giá trị trong cuộc sống.
  7. Quản lý nguồn tài nguyên rừng Quản lý tài nguyên thực vật Trước đây, người Thái, người Mường phân chia đất đai nói chung và tài nguyên rừng nói riêng bằng quy ước phân thủy. Ngoài ra, còn phân định ranh giới đất đai dựa vào các dông núi. Đây là quy ước truyền thống, tuy không thành văn nhưng rất có hiệu quả trong quản lý. Ở từng làng bản, các thành viên, gia đình đều có quyền khai thác, sử dụng và có trách nhiệm quản lý nguồn tài nguyên này. Chỉ được khai thác trên địa phận rừng của bản, không được khai thác rừng trên địa bàn của bản khác. Những người già có trách nhiệm trao truyền cho con cháu nhận biết về ranh giới đất đai cũng như không gian sinh tồn của bản mình. Để bảo vệ rừng đầu nguồn, trước đây những người cao tuổi còn truyền miệng nhau những câu chuyện ly kỳ, hoặc đặt tên cho những khu rừng này là “rừng ma - rừng thiêng”. Họ cho rằng, bảo vệ rừng đầu nguồn là bảo vệ nguồn nước. Nếu không có rừng đầu nguồn thì người dân sẽ không có nước sản xuất và sinh hoạt. Vì thế, ngoài việc bảo vệ bằng quy ước thì người dân còn bảo vệ bằng niềm tin tín ngưỡng. Việc chặt cây lấy gỗ làm nhà và chặt phá rừng làm rẫy là điều khó tránh khỏi. Trong bản làng, nếu hộ nào có nhu cầu chặt cây lấy gỗ làm nhà hoặc chọn đất làm rẫy mới đều thông báo để bản làng biết và có sự tham gia giám sát, giúp đỡ của cộng đồng. Vì vậy, trên thực tế tuy không có ai đứng ra cấm đoán, nhưng gia chủ vẫn tự giác chỉ khai thác rừng trong khuôn phép mà cộng đồng quy ước, chấp thuận. Gia đình nào chặt phá quá đáng hoặc xâm hại vào khu “rừng cấm” sẽ bị cộng đồng chê trách, trường hợp vi phạm nặng nề hơn cộng đồng sẽ từ chối “khéo” không tham gia giúp đỡ các công việc như kéo gỗ, dựng nhà[ ]. Thậm chí bị phạt vạ bằng tiền, của cải nộp cho bản, làm bữa khao bản để xin lỗi. Người dân địa phương trước đây có tập quán đi chọn gỗ và đánh dấu, làm nêu báo hiệu cho người khác biết cây đã có chủ sở hữu. Tùy theo từng gia đình, từng làng có cách đánh dấu riêng và ở các địa điểm khác nhau trên cây. Song, cách đánh dấu thông thường là dùng dao khắc dấu chéo [X]. Khi chọn cây, đồng bào cũng chú ý đến các cách đánh dấu này để khỏi nhầm lẫn. Nhiều làng có lệ cấm rừng diễn ra vào tháng Giêng. Làng bản nổi trống báo hiệu cấm vào rừng lấy măng, nếu ai cố tình vi phạm thì sẽ bị phạt bằng cách bắt dao và những vật dụng mang theo... Vấn đề ngăn chặn việc cháy rừng cũng được quy định thành lệ rất cụ thể. Trước khi đốt rẫy, họ thường làm một đường biên ngăn lửa rộng khoảng 2, 3 sải tay để giữ một khoảng cách nhất định tránh lửa bén tới chân rừng, một trong những điều cần tránh là không đốt vào những thời điểm gió to, không đốt vào chiều tối. Quản lý tài nguyên động vật. Việc phân chia sản phẩm săn tùy thuộc vào vấn đề tổ chức nhóm người đi săn trên tiêu chí công bằng và ưu tiên cho người bắn đầu tiên. Người trực tiếp hạ sát con thú, theo luật săn được hưởng riêng cái thủ, gọi là phần “mũi súng”, ngoài ra còn được hưởng 1/3 bộ lòng và một đùi thịt. Nhưng nếu đến người thứ hai mới bắn con thú chết hẳn thì người thứ hai được mông kèm cái đuôi, một phần thịt và xương bả đít. Phần thịt còn lại chia đều cho tất cả những người tham gia cuộc săn. Khoanh thịt cổ được chia đều cho các chủ chó săn. Ai phát hiện có thú báo cho phường săn cũng được một phần thịt như những người khác. Theo tục lệ, người trực tiếp bắn chết thú phải làm lễ cúng thần rừng tại nhà và báo cáo thành quả với tổ tiên. Thông lệ, khi chia thịt phải để dành riêng một phần thịt và lòng cho các thành viên tham gia cuộc săn liên hoan một bữa tại nhà trưởng phường săn. Nếu chỉ săn được thú nhỏ thì không chia phần mà cùng nhau tổ chức ăn uống tại nhà trưởng phường săn. Lệ xưa cũng quy định, nếu con thú bị bắn trên đất làng mình nhưng chết trên đất làng khác thì làng ấy được hưởng một nửa phần con thú. Trong xã hội truyền thống, đất đai, rừng núi là của chung cộng đồng nhưng trên danh nghĩa nhà Tạo là những chúa đất cai quản chung. Do đó, theo tục lệ quy định săn tập thể hay săn cá nhân nếu được loài thú lớn như nai, hoẵng, lợn rừng thường phải biếu nhà tạo trong mường một đùi trước hoặc một khoanh thịt thăn. Có những mường nhà Tạo quy định nếu săn được hổ phải nộp da và bộ xương, nếu là gấu phải biếu mật... Nếu ai dấu diếm sau này bị phát hiện sẽ bị nhà Tạo phạt tội. Đối với người Thái, việc săn bắn muông thú vừa để bảo vệ mùa màng, vừa kiếm thêm thực phẩm cho bữa ăn của gia đình. Tuy vậy, để bảo tồn các loài thú, bản - mường quy định cấm săn bắn từ tháng 3 đến tháng 6 [âm lịch] vì đây là mùa sinh sản của các loài thú. Hơn nữa, người đi săn thuộc dòng họ nào thì phải biết con vật kiêng [vật tổ] của dòng họ mình để tránh. Nếu ai giết hoặc ăn thịt con vật được coi là ông tổ dòng họ thì sẽ bị ốm đau, bệnh tật... Ngoài săn bắt động vật trên cạn, người Thái còn dùng chài, lưới, đơm, xúc, câu... để tiến hành đánh bắt các loài động vật dưới nước như cá, tôm, cua, ốc... Để bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bản còn cấm đánh cá từ tháng 6 đến tháng 8 [âm lịch] vì đây là mùa cá sinh sản. Tất nhiên, việc cấm cần được hiểu là cấm đánh cá tràn lan, tận thu, huỷ diệt... người dân vẫn có thể chài, lưới, câu cá bình thường. Họ có những kinh nghiệm về các cách đánh bắt truyền thống và hiệu quả: chọn một khúc sông, suối thích hợp, đắp một đập để hướng dòng nước chảy theo một dòng hẹp, tạo thành một cái thác nhỏ, làm một cái sàn ghép bằng nứa hoặc vầu hứng dưới thác, sàn ghép không kín để nước và cá nhỏ chảy qua dễ dàng, chỉ con cá nào to mới mắc lại trên sàn[ ]. Trong săn bắt, người dân có ý thức cao trong việc bảo vệ các loài vật trong rừng. Cụ thể là không được làm bả thuốc độc giết động vật để ăn thịt; không ai được bắn giết các loài thú đang có chửa hoặc nuôi con bú; không được phá tổ chim lấy trứng để ăn, không được làm thịt những con gà đang đẻ hoặc đang ấp trứng. Họ quan niệm nếu ai làm như vậy là tội ác và sẽ bị báo ứng cho chính cuộc đời của mình. Thậm chí khi bắt được con vật chửa, người ta còn thả nó về rừng... Đây chính là kinh nghiệm khai thác bền vững, chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc nhằm duy trì, bảo tồn sự đa dạng sinh học. Hiện nay, phần lớn các quy ước, hương ước của các thôn làng đều có nội dung quy định bảo vệ động vật rừng, nhằm ngăn chặn săn bắn trái phép. Nghiêm cấm việc săn bắn động vật rừng quý hiếm đã được Nhà nước quy định tại Nghị định số 48/2002/NĐ-CP, ngày 22/4/2002. Nếu cá nhân tổ chức nào tự do săn bắn động vật rừng không có giấy phép của cơ quan chủ quản, thôn phát hiện lập biên bản tạm giữ tang vật công cụ sử dụng săn bắt và xử lý theo quy định của pháp luật, ngoài ra còn phải kiểm điểm trước thôn. 5.1.4. Thủ công nghiệp truyền thống Trong xã hội truyền thống, do đặc trưng của văn hóa bản mường nên vùng đất Quan Sơn trước đây không hình thành các làng nghề như vùng châu thổ. Nghề thủ công truyền thống phổ biến ở đây là những nghề thủ công gia đình. Nghề thủ công của người Thái, người Mường thường được tiến hành trong thời gian nông nhàn nhưng có nghề chỉ tiến hành khi có nhu cầu, khi công việc hoàn thành thì làm việc khác; phổ biến nhất là nghề dệt, nghề đan, nghề làm rượu, làm nhà.,.. Sự hình thành và phát triển nghề thủ công đồng thời với quá trình hình thành và phát triển của nông nghiệp, bởi vì giữa thủ công nghiệp và nông nghiệp có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ trợ để thúc đẩy qúa trình phát triển của kinh tế sản xuất, đáp ứng nhu cầu sinh tồn. Bên cạnh hoạt động kinh tế nông nghiệp truyền thống, thủ công nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu kinh tế và văn hóa tộc người nói chung. Hơn thế, thủ công nghiệp không những có giá trị về mặt kinh tế mà còn có giá trị về mặt văn hóa, văn minh tộc người. Đồng thời đó là minh chứng cho sự phát triển về mặt kỹ thuật, mỹ thuật, trí tuệ và bàn tay tài hoa của các thế hệ tiền nhân. Các nghề thủ công ở huyện Quan Sơn không phong phú và đa dạng như ở các khu vực đồng bằng, bởi có những lý do riêng, đó là tính khép kín của cộng đồng, nền kinh tế tự cấp tự túc, dân cư thưa thớt và đặc biệt là sự hạn chế về địa lý tự nhiên. Tuy vậy, ở các bản làng, các hoạt động tiểu thủ công gia đình của người Thái như nghề dệt, nghề làm đệm, chăn gối, nghề mộc, nghề đan lát được hình thành, phát triển... Trong đó, nổi bật hơn cả là nghề dệt vải, dệt thổ cẩm, đan lát, tạo ra các sản phẩm độc đáo như vải, mặt chăn, gối, màn, rèm, cạp váy, khăn, túi,... các đồ gia dụng bằng tre, vầu, mây như gùi, hòm đựng quần áo bằng mây, dón để phụ nữ đeo bên hông, ép đựng xôi, mê đan tre để hứng gạo trước khi đồ xôi, nong, nia, rổ, rá,... Để cho nghề dệt duy trì và phát triển, người Thái, người Mường từ xưa biết trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, kéo sợi để dệt vải, trồng chàm để nhuộm vải. - Nghề dệt vải Đây là nghề thủ công truyền thống có lịch sử lâu đời, vải[ ] gắn liền với dân tộc Thái, Mường. Trong xã hội truyền thống, nhân dân các dân tộc ở huyện Quan Sơn đều thông thạo nghề dệt. Theo sự phân công lao động tự nhiên thì việc làm ra vải chủ yếu thuộc về nữ giới. Nam giới là người hỗ trợ trong việc chế tác các công cụ như khung cửi, guồng xe sợi... Như vậy, trong tập quán truyền thống, đã tạo lập cho người phụ nữ tay nghề làm ra vải. Người Thái đã tổng kết “nhinh ệt phái, chai xan he” [gái dệt vải, trai đan chài]. Còn tục ngữ người Mường lại nói “Đán ôông hẩu nấm ná, đán bá hẩu trôộc vằn” [Muốn biết đàn ông hãy xem bờ ruộng, muốn biết đàn bà hãy xem cạp váy]. Là con gái Thái thì không được phép ngừng tay làm vải và phải đạt trình độ tinh xảo như câu tục ngữ Thái đã nói: “sấp đôi bàn tay thành hoa văn, ngửa đôi bàn tay thành hoa lá” [khoắm mư pên lai, hai mư pên bók]. Nếp sống xưa cho rằng, biết làm vải thì mới là phụ nữ, nhược bằng không thì người đó dù có chăm chỉ mọi việc khác đến đâu, cũng bị xã hội cho là lười. Trong tín ngưỡng phồn thực, tiếng Thái gọi là “ệt hít nặm nèo” [làm tục nòi giống] thì hạt thóc và hạt bông là hai vật được chọn làm tượng trưng. Khi về nhà chồng chia cho gói hạt bông, thóc về làm giống. Giống bông được trồng để phục vụ nghề dệt của người Thái, nhìn chung có hai loại: loại cho bông màu trắng [phải đón] và loại cho bông màu hung đỏ [phải may]. Bông không ưa đất ẩm thấp, do đó đồng bào thường trồng tập trung ở các bãi rẫy, bãi sông rộng lớn, khô hạn và có ánh nắng chói chang. Song, đất bông hợp nhất là các đồi đất nâu và một số bãi bằng gần sông. Từ thập niên chín mươi của thế kỷ XX trở lại đây diện tích trồng bông bị thu hẹp do sự xuất hiện của sản phẩm may mặc công nghiệp. Tuy vậy, nghề trồng bông xe sợi dệt vải ở huyện Quan Sơn không mất hẳn như một số huyện miền núi khác mà những chiếc khung dệt và tiếng thoi đưa vẫn thấp thoáng hiện hữu trong đời sống thường nhật ở từng gia đình, bản làng. Cũng như rẫy lúa, rẫy bông được tiến hành theo phương pháp: phát, đốt, tra hạt. Trong khâu tra hạt người Thái thường dùng gậy chọc lỗ, hoặc dùng thuổng xỉa lỗ trỉa hạt. Theo nông lịch cổ truyền, dựa vào thời tiết khí hậu, người dân ở đây thường gieo trồng bông từ cuối tháng Chạp cho đến tháng Giêng - Hai âm lịch. Thời gian làm cỏ chăm sóc bắt đầu từ tháng 3, tháng 4 trở đi. Đến khoảng tháng 6, 7 âm lịch là lúc quả bông nở rộ trên rẫy, các cô thôn nữ rủ nhau đi hái, vui đùa như ngày hội, lúc này bông mới là nguyên liệu thô được chuẩn bị để đưa vào khâu liên hoàn trong quy trình sản xuất ra tấm vải. Những người phụ nữ với đôi tay khéo léo của mình đã bắt đầu bằng những việc: phơi nắng cho bông nở hết cỡ và đưa bông vào máy cán quay tay để tách hạt. Tiếp đó, đưa bông vào khâu bật, cuốn bông thành từng đọt ngắn [người Thái gọi là lo phải] để kéo thành sợi trên guồng xa quay tay. Sau đó bông đã thành sợi thì được đưa vào guồng cuốn thành từng con để đem hồ bằng cháo gạo tẻ nấu loãng với độ nửa chín nửa sống rồi đem dăng trên sàn phơi nắng cho sợi khô. Tiếp đến việc đưa sợi cuốn vào suốt, dăng sợi, lắp go và đưa vào khung cửi để dệt thành tấm vải. - Nghề làm đệm, chăn, gối Đây là một nghề thủ công truyền thống hầu như gia đình Thái nào cũng tự làm được. Sau khi thu hoạch thì bông được lựa chọn, phân thành những loại khác nhau. Các loại bông đó được phơi nắng cho khô rồi cất vào bồ, bịch để sử dụng dần. Loại sợi để dệt vải mặc được kéo từ loại bông quả lứa đầu, lứa quả này cho loại sợi trắng và mịn màng hơn. Từ những lứa quả sau, sợi bông ngắn, không nõn nà lắm thường để kéo thành sợi dệt mặt chăn hay bật thành bông làm mền chăn. Mền chăn làm bằng bông bật phồng và được can bằng những đường chỉ ngang, dọc, chéo tạo thành tấm. Sự tập trung chú ý để tạo nét văn hóa là ở phần vỏ chăn. Mặt ngoài, hay còn gọi là mặt phà [ná phà] là chỗ thể hiện ra bên ngoài những ý niệm thẩm mỹ nên được khâu phủ bằng tấm thổ cẩm. Bằng thổ cẩm, mặt chăn gợi một cảm giác rực rỡ bởi những hoa văn hình kỷ hà và đường chạy đan xen của các mầu sắc trắng, vàng, tím, xanh... dệt trên nền đỏ tươi sáng. Có hẳn loại thổ cẩm dệt để dùng cho việc này nên mang tên đặc trưng là mặt chăn [ná phà] thì chỉ hai mầu có thể coi như sở trường của nghệ thuật dân tộc: Màu trắng là nền, còn đen dệt hoa văn biểu đạt đầy đủ các họa tiết trang trí Thái. Khâu nối với mặt thổ cẩm để thành túi bọc lấy ruột chăn là miếng vải trắng hoặc kẻ sọc, mang tên là “tấm lót chăn” [phả lóp phà]. Đây là mặt phía trong của vỏ chăn, phần trực tiếp đắp sát thân người, có thể tháo ra thường xuyên để giặt. Đệm Thái đã nổi tiếng là bền, ấm và đẹp. Chất liệu bông để nhồi là tên gọi đệm, đồng thời cũng là chỗ căn cứ để phân loại tốt hay xấu. Đệm bông gạo được xếp vào loại tốt nhất vì nó có độ mềm, nhẹ và đặc biệt ấm. Xếp sau đệm bông gạo là đệm bông cỏ gianh và sau cùng là đệm bông lau vì cứng nặng, độ ấm kém hơn. Hiện nay, người Thái ở huyện Quan Sơn rất ưa dùng đệm bông lau, đệm không giặt được nên chỉ phơi, đập cho sạch bụi, do đó mặt trên mới có vải ga lót thường dùng vải mầu trắng để luôn luôn phải sạch sẽ hoặc những vải kẻ sọc đẹp mắt. Trong xã hội truyền thống, chăn, đệm còn là sản phẩm tượng trưng cho sự chăm chỉ và giàu có. Đã chăm và giàu thì phải có những đệm chăn, xếp thành từng tầng ở mé đầu gian ngủ. Ngoài đệm nằm, người ta còn làm đệm ngồi, tựa... Gối Thái có hình hộp chữ nhật chiều dài khoảng 30 - 35cm và chiều cao vừa tầm là 8 - 10 cm, có thể làm đơn và kép. Trước đây, người Thái ở huyện Quan Sơn sử dụng cả gối đơn và gối kép, nhưng hiện nay chủ yếu dùng gối đơn. Gối kép tiện dụng hơn cho những người không gối cao đầu. Lõi gối được nhồi bằng bông gạo, cỏ gianh, hoặc bông lau nên đệm mềm. Đặt đầu lên gối để ngủ ít khi có hiện tượng nhức đầu, mỏi cổ, đau gáy như loại gối đẽo bằng khúc gỗ hay đan bằng mây tre. - Nghề thêu Bộ trang phục của phụ nữ Thái luôn có chiếc khăn đội đầu, được nhuộm màu đen hoặc chàm đậm và hai đầu khăn được thêu hoa văn. Cũng như dệt vải, việc thêu rất cầu kì và đòi hỏi sự chính xác cao được giới nữ đảm nhiệm. Hoa văn trên khăn đội đầu thường là hình quả trám, hình thoi, khi đội khăn thì người đối diện sẽ không nhìn thấy hoa văn mà phải nhìn từ đằng sau hoặc nhìn ngang, tạo nên nét đẹp duyên dáng. Ngoài ra, những người phụ nữ khéo léo còn biết áp dụng kỹ năng thêu vào y phục, vật dụng khác như thêu vỏ gối, thêu khăn tay, thêu hoa văn lên mặt chăn, thân váy, chân váy... Trước đây thì người ta dùng chỉ tằm, chỉ bông nhuộm màu để thêu, còn bây giờ chủ yếu là dùng chỉ hoặc len công nghiệp. Khăn thêu bằng loại chỉ truyền thống có ưu điểm là chi chít rất chắc, rất vững, không lo bị tuột, còn các loại khăn thêu bằng chỉ công nghiệp thì chỉ có ưu điểm là màu sắc sáng hơn, đẹp hơn và không bị đổ màu. - Nghề đan lát Nghề đan lát được hình thành và gắn bó mật thiết với đời sống nông nghiệp và săn bắn hái lượm của người nông dân qua nhiều thời kỳ lịch sử. Nguyên liệu dùng để đan lát chủ yếu là tre, nứa, giang, vầu, mây... Các nguyên liệu này thường được khai thác tại chỗ ở vườn nhà hoặc trong rừng. Trước khi đan, ngoài việc chẻ, vót thành các nan để đan còn một số khâu kỹ thuật xử lý thanh nan bền, đẹp hơn như ngâm nước vôi hay treo gác bếp... Các đồ dùng thông dụng đan bằng nguyên liệu tre, vàu, giang, tiêu biểu như: Gùi [đớp pế] để vận chuyển, đớp cặp [một loại hòm đựng quần áo, đan bằng mây], bung [bồ để gánh thóc, chứa thóc], cái ớp để nam đeo, cái dăng [tiếng Mường gọi là dón] để phụ nữ đeo bên hông, cái kè đè - công dụng như cái ớp, mặt mâm cơm, mặt ghế ngồi và nong, nia, dần, sàng, rổ, rá, ép khảu.... Hoa văn trang trí trên những đồ đan chính là do kỹ thuật đan tạo ra. Cũng có khi người ta cố tạo ra hoa văn bằng cách cài xen kẽ các kiểu đan với nhau hay có khi do kỹ thuật đan quy định. Loại đồ đan được cài hoa văn điển hình như là bem, lớp cặp. Hoa văn bem kết hợp hai loại môtíp: Mô típ ngôi sao và mô típ ô vuông đồng tâm. Do kỹ thuật cài hoa khéo léo nên những hình sao nổi lên rất rõ trên phần thân và nắp bem. Loại hoa văn đáng kể thứ hai được đan lóng đôi trên bung, dăng, ớp... Loại này không cài hoa mà hoa văn được tạo ra do kỹ thuật đan vận dụng một cách linh hoạt. Loại đan lóng như gùi, sọt... không thành hoa văn. Ở người Thái có loại đan mắt cáo khá phổ biến. Có loại mắt cáo vuông như giỏ [xà hè] để đựng rau, rửa rau [xạ], có loại mắt cáo chéo hay lục giác như sọt gánh lúa, gánh mạ... Sau đây là một số sản phẩm đan lát tiêu biểu: + Đan gùi: đây là sản phẩm làm chủ yếu từ vàu, nứa, giang. Người Thái gọi gùi là đớp, và họ có hai loại đớp đó là đớp bế và đớp cặp. Đớp bế chuyên dùng để vận chuyển lương thực, rau, củi..., còn đớp cặp có chức năng như cái rương, hòm chuyên dùng để đựng màn, áo, váy, khăn... Nghề đan gùi chủ yếu mang tính tự phát dưới hình thức truyền nghề. Đó là người biết nghề dạy cho con cháu và người học việc, học đến đâu thực hành luôn đến đó. Công việc tổ chức sản xuất mang tính chất riêng lẻ, quy trình đan lát cũng không phức tạp lắm, do đó những ai chịu khó và tinh ý một chút cũng có thể làm được vật dụng như ý. + Đan dón: dón tiếng thái gọi là Kgiăng là một trong những sản phẩm đan lát đặc sắc, là dụng cụ quan trọng rất cần thiết trong đời sống thường nhật, nhất là đối với phụ nữ. Dón có hai loại: dón lạt dẹp và dón hộp. Dón lạt dẹp là dón được đan bằng nan mỏng, dón có hình khối gần vuông, chiều rộng đáy chừng khoảng 20cm, miệng dón rộng hơn chút ít, chiều cao dón cũng khoảng 20cm. Theo kinh nghiệm dân gian, nguyên liệu dùng để đan dón tốt nhất là giang. Giang được khai thác vào mùa thu - đông, không nên khai thác vào mùa mưa để tránh bị mọt. Nan đan dón lạt dẹp phải chọn loại giang bánh tẻ [không quá già cũng không quá non] có lóng dài, thẳng để dễ chẻ và dễ đan; không bị gãy trong khi đan và cho sản phẩm đẹp. Để tạo hoa văn, người thợ đan phải nhuộm màu một số nan. Tuy nhiên, nhuộm màu sắc nào là do người thợ đan dón quy định, thể hiện ký thác ý nghĩa cần nhắn gửi với người dùng dón. Quy trình đan dón cũng giống như phần lớn các dụng cụ đan lát khác, người thợ bắt đầu đan từ đáy dón đến thân dón và miệng dón. Sau khi đan xong người ta trang trí cho chiếc dón trở nên duyên dáng hơn và cuối cùng trang điểm cho dón sợi dây vải nhỏ đẹp và bền. Sợi dây này chính là quai dón dùng để buộc dón bên người khi ra khỏi nhà đi chơi, đi chợ hay đi vào rừng, lên rẫy... Dón lạt dẹp chỉ dành để dựng kim chỉ và đồ trang sức của các cô gái trẻ. Qua đôi bàn tay của những người thợ khéo léo, có đôi mắt thẩm mỹ và óc sáng tạo thì chiếc dón sẽ tăng phần hấp dẫn và duyên dáng cho các cô gái Thái, gái Mường. Những chiếc dón có chủ ý tặng người yêu thì bao giờ hoa văn trên dón cũng mang những ẩn ý tinh tế. Người được tặng dón sẽ dễ dàng hiểu được ẩn ý trong những loại hoa văn này. Dón hộp, tiếng Mường gọi là chòn trôộp, là một loại dụng cụ đựng của hồi môn của những cô gái khi về nhà chồng. Xưa kia, của hồi môn của những cô gái là váy áo, các tấm vải thổ cẩm, chăn, các loại vòng bằng bạc, những gia đình quý tộc, giàu có thì có vòng vàng.... Chiếc dón hộp trở thành vật trang trí trong buồng cưới, thậm chí nó còn là của hồi môn của mẹ cho con đối với những gia đình nghèo khó, vì thế nó không chỉ có giá trị ở góc độ vật chất mà nó còn có giá trị ở phương diện tinh thần. Nguyên liệu chính để làm sản phẩm này là tre [pheo]. Cũng theo kinh nghiệm truyền thống, để cho dón đẹp và bền người ta thường chỉ dùng cật của những cây tre thẳng, có lóng dài, tất nhiên là phải chọn tre không quá non cũng không quá già. Dón hộp đan theo kiểu đan nong đôi. Phần đáy được đan trước, đáy dón hình tròn, đường kính thường có kích thước 30cm, ở giữa đáy đan vồng lên để chống ẩm khi tiếp xúc với sàn nhà. Sau phần đáy dón là phần thân và phần vai dón. Vai dón là nơi bắt đầu đan luống dọc chụm vào nhau để làm miệng dón. Chiều cao của dón tính từ đáy lên đến cổ và lên đến vai dón chừng khoảng 30cm, đường kính phần vai dón khoảng 40cm, miệng dón tròn có đường kính khoảng 25cm. Trên cùng là nắp đậy, vì có nắp đậy này nên mới gọi là dón hộp[ ]. + Đan giỏ: Giỏ [tiếng Thái Quan Sơn gọi là Xạ, KChọ, Muống...]. Giỏ và dón là hai vật dụng không thể thiếu của gia đình người Thái. Giỏ có cấu tạo hình trụ, có khi là 3 cạnh [muống], phình ở giữa, phần cổ bóp nhỏ, miệng có nắp [pha hốm], được dùng để đựng các loại côn trùng, con vật [làm thức ăn] bắt được như: Châu chấu, dế, cá... Giỏ được đan từ các thanh tre được chẻ nhỏ, vót nhẵn, kích thước to hay nhỏ tuỳ thuộc vào mục đích của người sử dụng. Phần nắp đậy [pha hốm] được nối với giỏ bằng một đoạn dây ngắn được đan từ lạt tre. + Đan nong, nia, thúng, mủng, rổ, rá, dần, sàng: đây là các vật dụng vừa hỗ trợ sản xuất vừa phục vụ sinh hoạt hằng ngày. Những vật dụng này thường đan theo kiểu nong mốt hoặc nong đôi, có loại đan kín, có loại đan hở, kích thước lớn, nhỏ tùy tên gọi và mục đích sử dụng. Phần giữa thường đan bằng lạt dày, phần bao phía ngoài đan bằng nan tạo nên sự chắc chắn. Khi đan xong, tấm đan sẽ được cắt tạo hình tròn để lèn vào cạp, tạo thành vật dụng. Cạp cũng được làm từ thân cây tre, cạp nong thì to gần bằng 3 ngón tay, thúng mủng thì nhỏ hơn, cạp rổ, rá to bằng một ngón tay. Cạp được đánh nhẵn, mỗi vật dụng cần có hai cạp để lèn trong lèn ngoài. Khi tấm đan lát đã được lèn vào cạp thì dùng dây mê buộc chặt cố định. Ngày nay mặc dù kinh tế hàng hóa phát triển, nhưng các sản phẩm đan lát truyền thống này vẫn được nhiều gia đình người Thái, Mường và các tộc người khác ở huyện Quan Sơn ưa chuộng và chính những sản phẩm này đang dần trở thành một loại hàng hóa phổ biến trên thị trường. - Nghề làm rượu cần Người Thái gọi rượu cần là láu xá, vì nguyên liệu chính làm rượu cần là sắn hoặc gạo, tấm, ngô. Những thứ này trộn với nhau thành “xa láu”. Còn người Mường gọi rượu cần là ráo toòng [nghĩa là rượu được giấu kín, mắt không nhìn thấy rượu, uống vào thì biết]. Để làm được men phải dùng cả gánh cây, cỏ, củ, rễ, quả... Tuy là cỏ cây trong rừng, nhưng mỗi khu rừng chỉ có một vài thứ. Vì thế, muốn có đủ nguyên liệu làm men dùng cho cả năm, những người phụ nữ khi đi rừng hễ thấy cây cỏ nào làm được men thì lấy về, rửa sạch, phơi khô rồi cất lên gác bếp để dành. Nguyên liệu ủ rượu tuy không nhiều thứ bằng nguyên liệu ủ men nhưng lại quyết định chất lượng và nồng độ của rượu. Có những thứ tưởng chừng như không có ý nghĩa gì như trấu mà lại rất quan trọng, phải chọn lựa kỹ càng và xử lý công phu. Kỹ thuật chế biến rượu cần, trước hết là kỹ thuật chế biến men. Men là chất xúc tác, là chất kích thích làm cho cơm rượu lên men, tạo ra vị ngọt, cay, đắng, chua... Men để ủ rượu gọi là men cỏ, nguyên liệu làm men của người Thái gồm các thứ cơ bản sau: bột gạo, củ riềng, đọt móc, lá chua me, lá me đất, lá và rễ cây ớt chỉ thiên... Nguyên liệu làm men của người Mường khác dân tộc Thái là thêm vỏ quế, cây mun. Tuy nhiên, sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì những nơi người Mường và người Thái sống gần gũi nhau thì thường có sự ảnh hưởng lẫn nhau... Như vậy, men cỏ đều lấy bột gạo là nguyên liệu chính để nắm thành hình dạng cái men. Chất thuốc của men là các loại cây cỏ có vị chua, cay, nóng. Tuy cùng công thức trên nhưng men của các gia đình không giống nhau, bởi vì kinh nghiệm là một trong những bí quyết quan trọng tạo nên sự khác biệt này. Cũng đủ những thứ cỏ như truyền thống vẫn làm, nhưng chưa có cân đong chính xác mà chỉ áng chừng như một nắm, một bó, một vốc,... nên chất lượng men phải khác nhau. Hoặc khi lấy đủ thứ rồi, nhặt bỏ vào một xanh bảy, xanh tám nấu sôi cho cạn đi khoảng 2/3 lượng nước, 1/3 nước còn lại gọi là nước cốt mới đem trộn với bột gạo để làm men, nên đo ước chừng 1/3 kia cũng tương đối, tất cả phụ thuộc vào kinh nghiệm. Công đoạn tiếp theo là kỹ thuật ủ rượu. Người Thái gọi là vào rượu, trong khi đó người Mường lại gọi là bốc rượu. Trước hết là chuẩn bị dụng cụ cần thiết như nong, mẹt, ớp, thúng... Các loại lá để lót và ủ như lá chuối, lá dáy, lá tai voi... Tất cả những những thứ này đều được cọ rửa sạch sẽ rồi hong khô. Dụng cụ để làm cơm rượu cũng phải chuẩn bị sẵn như hông để đồ và các thứ kèm theo. Sắn khô là nguyên liệu chính để làm cơm rượu. Sắn khô thường để trên gác bếp, nên ám khói, do đó phải kỳ công tước vỏ, rửa sạch, hong khô rồi thái nhỏ. Ngâm trấu nếp ngoài sông hoặc suối có nước chảy vài ngày cho ngấm nước đều rồi nhấc lên xắc xắc cho trôi sạch bụi đến khi nào nước trong mới được. Sau khi phơi, trấu cũng được đồ chín rồi đem hong gió cho khô. Sau khi chuẩn bị xong, người ta tiến hành làm cơm rượu. Cách làm cơm rượu để ủ rượu cần cũng giống như hiện nay làm cơm để nấu rượu. Chỉ khác là cơm rượu không nấu mà đồ. Trước hết, người ta giã dập sắn lát rồi chao qua nước, bốc vào hông để đồ. Sắn chín đổ ra nong hoặc mẹt có lá lót, canh ra cho đều, chờ nguội. Công việc tiếp theo là vào men. Khi cơm còn hơi ấm, bóp viên men cho vụn rắc lên rồi trộn đều. Tùy thời tiết và cũng tùy thời gian định sử dụng chĩnh rượu đó mà tăng giảm lượng men cho hợp lý. Khi men được trộn đều, đậy lá lên trên và trận lại để ủ. Thời gian ủ thường hai ba ngày đêm là dậy men [người có kinh nghiệm không cần mở ra xem mà chỉ ngửi thấy mùi cơm rượu là biết đem ủ được chưa]. Công đoạn tiếp theo là bốc rượu vào chum, chỉnh, vò. Công việc này thường do các mẹ, các chị là những người có nhiều kinh nghiệm tự tay làm. Con dâu, con gái phụ giúp mẹ và cũng đồng thời ghi nhớ kinh nghiệm, thứ tự làm như sau: Trước hết bốc trấu lót vào đáy chum dầy khoảng một gang tay. Bốc bã rượu đã ủ chín đều vào chum, chỉnh, vò... Trên cùng, lót một lớp trấu ở phần cổ chum. Tro bếp nhào với nước sền sệt để trát miệng chum. Lấy lá chuối hoặc ni lông bịt miệng chum. Khi chum rượu đã bịt miệng, người ta khiêng vào nơi để cố định trong nhà. Sau 1 tháng trở lên đối với vò nhỏ, 3 tháng trở lên đối với chum, chỉnh lớn là rượu cần đã dùng được, càng để lâu thì rượu cần càng ngon. + Làm rượu nếp cẩm: Rượu nếp cẩm ở huyện Quan Sơn có 2 loại: một loại dành cho các bà đẻ thì chôn xuống đất [trong rượu có chế thêm trứng gà, mật ong], loại khác để như rượu cần. Đây là đồ uống truyền thống thường được chuẩn bị chu đáo mỗi độ tết đến xuân về, hay mỗi khi có cưới hỏi, mỗi khi có khách quý tới thăm nhà... Điều kiện thổ nhưỡng, đất đai ở huyện Quan Sơn phù hợp với nhiều giống lúa nếp quý của địa phương, trong đó đặc biệt có giống nếp cẩm. Gạo nếp cẩm có màu đỏ tím tạo nên một hương vị đặc biệt, khác với nhiều loại nếp thường. Đặc điểm của giống lúa này chịu hạn rất tốt, sâu bệnh ít phá hoại, thân cao bông to và hạt mẩy. Người ta gieo lúa vào khoảng cuối tháng 4 đầu tháng 5 âm lịch, thu hoạch vào khoảng cuối tháng 9 và tháng 10 âm lịch, lúa thường được trồng trên rẫy. Sau thu hoạch người ta bảo quản rất cẩn thận. Khi nào cần sử dụng người ta mới xay giã, dần sàng, chuẩn bị cho việc làm rượu. Quy trình ủ rượu rất công phu, quan trọng hàng đầu là việc chọn men. Men rượu cũng có những bí quyết gia truyền, nguyên liệu bao gồm các loại rễ, củ, lá cây rừng, đồng thời phải vào tận rừng sâu kiếm sa nhân và thiên niên kiện là hai vị chính dùng để làm men, đảm bảo cho rượu nếp cẩm có hương vị riêng. Lâu nay người ta dùng cả loại men thường dùng nấu rượu để ủ nếp cẩm. Gạo nếp cẩm có thể cho vào nấu như nấu cơm hoặc ngâm gạo nửa ngày rồi đồ như đồ xôi. Yêu cầu cơm phải chín kỹ, khô ráo, [nếu cơm nấu bị nhão thì rượu không ngọt thơm mà thường có vị chua nồng]. Đổ cơm vào nong, nia, hoặc mẹt quạt cho nguội. Giã men thật nhỏ trộn đều vào cơm, sau đó cho cơm đã trộn men vào thùng, hoặc xoong, nồi, lấy lá chuối đắp phủ kín mặt trên của đồ đựng, che thêm lớp vải mỏng lên phía trên cùng, dùng chăn bông hoặc bì gai quấn chặt đưa vào nơi kín gió ủ cơm. Khoảng 2 - 3 ngày sau, khi có mùi thơm vị ngọt toát ra là lúc cơm chín. Cho thứ cơm này vào chum sành hoặc vò, bình men... đổ thêm một lượng rượu nếp [hoặc rượu nấu bằng gạo tẻ], sau đó bịt kín miệng bằng lá chuối khô, hoặc bằng nhiều lượt vải ni lông. Người ta thường ủ rượu bằng cách đào lỗ chôn xuống đất, tuy nhiên có thể cho cơm rượu vào bình rượu không cần chôn xuống đất, thời gian càng lâu rượu càng ngon. Khi làm lễ hạ thổ vò rượu, người Mường thường khấn có nội dung đại ýlà “xin thổ thần thổ địa cai quản giúp cho bình rượu này được thơm ngon tinh khiết, đem lại sức khỏe cho người ốm yếu, sự trẻ trung cho người già cả, lòng chung thủy cho đôi trẻ...”. Phải đủ 3 tháng 10 ngày mới đào rượu lên dùng. Vì trong khoảng thời gian 100 ngày đã tụ kết đủ âm dương của trời đất, cho vị rượu thơm ngon đặc biệt. Rượu nếp cẩm có hai cách thưởng thức, có thể xúc cả bã rượu lẫn nước để ăn, hoặc dùng khăn lọc, chắt lấy nước cốt để uống, do đó có thể nói ăn rượu nếp cẩm, hay uống rượu nếp cẩm cũng được. Rượu nếp cẩm có màu tím sánh như mật. Tùy theo độ tuổi và thể trạng mà thưởng thức, cảm giác như là một liều thuốc tăng lực làm phấn chấn tinh thần. Phụ nữ mới sinh nở có thể dùng thứ rượu này ngâm với lòng đỏ trứng gà để phục hồi sức khỏe. Món ăn, đồ uống này được phổ biến rộng rãi. Nhiều gia đình ở đồng bằng hay thành phố cũng đã học được cách ngâm ủ rượu để dùng. Sự có mặt của rượu nếp cẩm trên thị trường nó đã khẳng định sự sáng tạo cũng như tri thức ẩm thực Thái, Mường từ lâu đã đạt đến trình độ cao và rất tinh tế. 5.2. KINH TẾ HUYỆN QUAN SƠN HIỆN NAY 5.2.1. Sự chuyển dịch chung của kinh tế huyện Quan Sơn Đi qua hai cuộc chiến tranh liên tiếp, cả nước nói chung và Thanh Hóa nói riêng đã trải qua những năm tháng khó khăn. Chỉ từ khi thực hiện công cuộc đổi mới khởi đầu từ Đại hội VI của Đảng [năm 1986], với Khoán 100 [năm 1981 và Khoán 10 năm 1988], thì bộ mặt nông nghiệp - nông thôn của cả nước nói chung mới bắt đầu có những bước chuyển mình rõ rệt[ ]. Vận dụng sáng tạo các nghị quyết của Trung ương, Thanh Hóa đã triển khai việc thực hiện khoán hộ trong nông nghiệp. Chính sách khoán hộ đã tạo điều kiện để nông dân Thanh Hóa làm chủ mảnh ruộng được giao ổn định, lâu dài. “Kinh tế ở Thanh Hóa bắt đầu đi vào quỹ đạo của kinh tế hàng hóa và đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình thực hiện đổi mới[ ]. Quá trình phát triển kinh tế của huyện Quan Sơn từ năm 1986 đến nay được ghi nhận qua những giai đoạn, gắn liền với những bước ngoặt lớn trong hoạch định chính sách của Nhà nước nói chung và của tỉnh, của huyện Quan Sơn nói riêng. Giai đoạn 1986 - 1995, cả nước thực hiện công cuộc đổi mới gắn liền với Khoán 100, Khoán 10. Nhờ đó mà người dân cả nước nói chung có động lực trong sản xuất, nâng cao hiệu quả của kinh tế hộ gia đình. Tuy vậy, kinh tế huyện Quan Sơn thời kỳ này cơ bản vẫn trong quỹ đạo của kinh tế truyền thống, các ngành dịch vụ thời kỳ này chưa có sự chuyển dịch, bứt phá nếu không muốn nói là còn bỡ ngỡ với cơ chế thị trường. Giai đoạn 1996 - 2000: vào thời điểm năm 1996, cả nước nói chung, Thanh Hóa nói riêng đã đi qua một chặng đường 10 năm thực hiện quá trình đổi mới. Ngành nông nghiệp tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, bên cạnh việc tiến hành việc giao đất ổn định, lâu dài cho người dân còn thực hiện nhiều chính sách cải cách trong nông nghiệp như thâm canh, tăng năng suất cây trồng. Nhờ đó mà người dân cả nước nói chung và của Thanh Hóa nói riêng có động lực trong sản xuất, từng bước nâng cao hiệu quả và vai trò của kinh tế hộ gia đình. Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp bắt đầu được đẩy mạnh; phát triển thương mại - dịch vụ theo định hướng của nền kinh tế hàng hóa; kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, phát triển nông nghiệp - nông thôn. Trên cơ sở những thành tựu đạt được trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển chung của cả nước, kinh tế Thanh Hóa khởi sắc và hoàn thành kế hoạch 5 năm [1996 - 2000], kết thúc thế kỷ XX bước sang thế kỷ XXI, nhân dân Thanh Hóa cùng đồng bào cả nước bước vào thời kỳ mới sau khi ra khỏi khủng hoảng kinh tế. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã đánh giá “5 năm qua, trong bối cảnh vượt qua những yếu kém của nền kinh tế, những tác động của cuộc khủng khoảng tài chính, tiền tệ khu vực và mặt trái của kinh tế thị trường vừa phải nỗ lực giải quyết hậu quả thiên tai lũ lụt gây ra. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn giữ vững tinh thần đoàn kết nhất trí, chủ động vận dụng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, coi trọng phát huy những thành quả đạt được trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, tiếp tục khơi dậy tiềm năng sáng tạo trong nhân dân và các nguồn lực của địa phương, đồng thời tranh thủ có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài, phấn đấu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XV đề ra, tạo ra bước phát triển quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị”[ ]. Tuy vậy, hiệu quả việc chuyển đổi cơ chế không diễn ra tức thì và đồng đều ở mọi nơi. Sau khi thành lập huyện, Quan Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ nhất đã viết: “Xuất phát điểm nền kinh tế của huyện còn rất thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu. Trình độ dân trí thấp, vốn liếng chủ yếu là tỉnh trợ cấp, tư tưởng bảo thủ, ỷ lại, trông chờ còn nặng nề. Tập quán sản xuất lạc hậu, tư duy kinh tế kiểu cũ còn nặng nề ở phần đông trong nhân dân các dân tộc. Là huyện vùng cao biên giới, địa hình phức tạp, đất rộng người thưa, đi lại khó khăn, giao lưu trao đổi hàng hóa giữa các vùng trong huyện cũng như đối với bên ngoài không thuận lợi, hạn chế rất nhiều đến quá trình phát triển kinh tế của huyện. Mô hình HTX kiểu cũ không còn phù hợp, chuyển sang kinh tế hộ, lấy hộ làm kinh tế tự chủ, giao đất giao rừng đến hộ và người lao động có nhiều mặt tốt và thuận lợi, nhưng có nhiều mặt đáng lo, đó là vốn và kinh nghiệm sản xuất của nông dân không đồng đều, bên cạnh mặt tích cực như kích thích sản xuất thì cơ chế thị trường đã tác động mạnh đến sự phân hóa giàu nghèo. Đội ngũ cán bộ trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể của huyện còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm và còn nhiều bất cập. Khó khăn lớn nhất của huyện là piềng, bãi ít, việc giải quyết đất canh tác hoa màu cạn cho nhân dân đang mâu thuẫn với việc bảo vệ rừng[ ]. Mặc dù ban đầu có nhiều khó khăn thách thức như vậy, nhưng trong những năm đầu thành lập huyện, để tiếp tục tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn đã mạnh dạn đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, xóa bỏ những yếu tố lạc hậu trong tập quán cũ, những ràng buộc và thói quen của cơ chế cũ, đẩy lùi khó khăn, thách thức, không ngừng lao động sáng tạo, xây đắp nên những thành quả mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần cùng cả nước đẩy lùi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua thử thách to lớn của thời đại, tạo những bước tiền đề cơ bản đưa huyện Quan Sơn phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Xác định được những khó khăn, trở lực lớn, những tiềm năng, thuận lợi của huyện, trong giai đoạn 1997-2000, Quan Sơn đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Cơ cấu kinh tế của huyện được xác định là Lâm - Nông nghiệp - Thương mại dịch vụ - Tiểu thủ công nghiệp. Chủ trương phát triển kinh tế của huyện Quan Sơn trong giai đoạn này là tập trung giải quyết vững chắc vấn đề lương thực trên cơ sở ổn định diện tích lúa nước, diện tích ngô, sắn; đẩy mạnh các loại cây củ như củ mài, cử từ, khoai mán, khoai sọ,.. chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, đưa vụ hè thu lên thành một vụ sản xuất chính; Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh các biện pháp thâm canh; Phát triển mạnh vườn rừng, trại rừng để trồng cây ăn quả có giá trị cao, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và nguyên liệu chế biến; Đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính và có tỷ trọng trong kinh tế nông thôn; đẩy mạnh chăn nuôi đại gia súc nhưng phải phù hợp với quy hoạch và đồng cỏ. Đối với lâm nghiệp, Đảng bộ và nhân dân huyện Quan Sơn xác định đây là tiềm năng thế mạnh trong nền kinh tế của huyện, bảo vệ tốt rừng tự nhiên hiện có, bằng khoanh nuôi bảo vệ rừng tái sinh. Trong các loại cây công nghiệp ở huyện Quan Sơn thì cây luồng là chủ lực bên cạnh các loại cây khác cũng rất quan trọng như cây quế, dổi, lát hoa, cây chủ thả cánh kiến và các loại cây ăn quả. Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động trong nông thôn, phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp dịch vụ ở nông thôn như sản xuất vật liệu xây dựng [đá, cát, sỏi, gạch, ngói...]; chuẩn bị cho sự ra đời các doanh nghiệp nhỏ ở các tụ điểm kinh tế để sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông - lâm sản, tăm mành, sơ chế gỗ, làm cót ép; Cải tạo và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống và phát triển kinh tế[ ]. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện Quan Sơn đã vươn lên trong khó khăn thử thách, quyết tâm xây dựng huyện phát triển với nghị lực và niềm tin mạnh mẽ. Mô hình kinh tế vườn rừng, nhất là vườn luồng, quế bắt đầu vươn bóng phủ xanh đất trống đồi trọc, độ che phủ rừng trước năm 1997 là 45%, đến tháng 6 năm 1997 là 59%. Các tụ điểm kinh tế đang dần dần hình thành theo các tụ điểm dân cư trên địa bàn huyện; Các hoạt động thương nghiệp và dịch vụ đã bước đầu đáp ứng nhu cầu tối thiểu những mặt hàng thiết yếu. Tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ cũng có những chuyển biến nhất định. Các khu dân cư tập trung đã hình thành các tụ điểm buôn bán, trao đổi hàng hóa; các nghề thủ công truyền thống như dệt thổ cảm, đan lát được thổi sinh khí mới để duy trì, phát huy. Một bộ phận dân cư trước đây chưa biết buôn bán, đã bắt đầu có thay đổi trong tư duy, thoát ly thuần nông - lâm, tiếp cận với kinh tế hàng hóa thị trường. Tuy vậy, trong những tháng năm đầu của huyện vừa mới thành lập, sự tăng trưởng kinh tế chưa thật sự vững chắc, chưa có kinh tế hàng hóa và sản phẩm mũi nhọn; Chuyển dịch cơ cấu cây trồng còn lúng túng; Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất đời sống, nhất là giao thông khó khăn đang cản trở đến sự phát triển kinh tế; Tiểu thủ công nghiệp dịch vụ đang ở dạng sơ khai; xuất khẩu chưa có gì; mất cân đối về thu chi ngân sách; số hộ đói nghèo nhiều [52%], nhất là ở vùng sâu vùng xa[2]. Giai đoạn 2001 - 2005, kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, phát triển nông nghiệp - nông thôn. Cơ cấu kinh tế của huyện tiếp tục được xác định là Lâm - Nông nghiệp - Thương mại dịch vụ - Tiểu thủ công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện bình quân hằng năm thời kỳ này đạt 5,4%, tăng hơn so với thời kỳ 1997 - 2000 là 0,7%; Thu nhập bình quân đầu người 2.780.000 đồng/năm, tăng hơn năm 2000 là 530.000 đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ đói nghèo 27,53% [theo chuẩn mới]. Lâm nghiệp phát triển theo hướng lâm nghiệp xã hội, bình quân hằng năm giai đoạn 2001- 2004 trồng được 382ha rừng tập trung, nâng độ che phủ rừng đạt 71% vào năm 2004. Hạ tầng kinh tế cũng được đầu tư đáng kể, tạo ra động lực phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện. Giai đoạn 2006 - 2010: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Thời kỳ này, kinh tế huyện Quan Sơn tiếp tục có bước tăng trưởng khá. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trong ngành công nghiệp và dịch vụ[ ]. Bước sang giai đoạn này, tăng trưởng kinh tế của huyện đạt 9,44% cao hơn thời kỳ 2001 - 2005 là 3,44%. Thu nhập bình quân đầu người 7,5 triệu đồng/người/năm. Tăng hơn so năm 2005 là 4,8 triệu đồng/người/năm. Giá trị gia tăng ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 11,4% cao hơn thời kỳ 2001 - 2005 là 6,34%. Trồng mới được 800ha rừng, quản lý bảo vệ rừng đạt kết quả tốt. Tiếp tục nâng độ che phủ rừng vào năm 2010 đạt 76%. Giá trị gia tăng ngành công nghiệp, xây dựng bình quân hằng năm đạt 15,04% ước đạt 53 tỷ đồng. Dịch vụ phát triển đa dạng và có nhiều chuyển biến tích cực. Sự nổi bật của thời kỳ này là cơ cấu kinh tế huyện Quan Sơn tiếp tục chuyển dịch đúng hướng và từng bước khai thác được thế mạnh của huyện. Cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ năm 2010 là 53% - 17% - 30%. Tỷ lệ ngành nông, lâm, ngư nghiệp năm 2005 là 57%, giảm xuống 53%. Tỷ trọng công nghiệp từ 14,59% năm 2005, tăng lên 17%, dịch vụ năm 2005 là 28,36%, tăng lên 30%. Tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm là 1.070 tỷ đồng. Trên cơ sở những bước chuyển mình về kinh tế của giai đoạn này, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn 25%. Bên cạnh đó, huyện Quan Sơn còn phấn đấu trở thành một trong những huyện đứng đầu về giữ gìn chủ quyển an ninh biên giới và quản lý bảo vệ rừng tốt, tiếp tục tạo thế và lực cho những bước phát triển kinh tế bền vững của huyện trong những chặng đường tiếp theo. Giai đoạn 2011 - 2015: huyện Quan Sơn thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm [2011 - 2015] trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng, kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và có bước phát triển đáng kể; kinh tế trong tỉnh phát triển đột phá, nâng cao khả năng cạnh tranh trong thu hút đầu tư; kinh tế - xã hội của huyện có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương. Trên địa bàn huyện, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém, thời tiết diễn biến bất thường, dịch bệnh xảy ra nhiều nơi. Năng lực của đội ngũ cán bộ và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, với sự tập trung cao, phối hợp tốt trong chỉ đạo điều hành của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, sự nỗ lực của toàn thể nhân dân trong huyện đã tạo sự chuyển biến về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Huyện Quan Sơn tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, gắn liền với quá trình đô thị hóa, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Bắt đầu phát triển rõ nét các hướng mũi nhọn phát riển kinh tế. Cơ cấu kinh tế của huyện bước sang giai đoạn này được xác định là: lâm, nông, thủy sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ thương mại và du lịch. Quan Sơn đã chú trọng đến phát triển chuyên môn hóa theo các tiểu vùng lãnh thổ: Tiểu vùng cao phía tây, tiểu vùng thấp phía Đông, các điểm phát triển tiểu thủ công nghiệp, các khu - cụm du lịch, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, khu đô thị,... Bước sang giai đoạn này, dẫu vẫn còn nhiều khó khăn phải nỗ lực vượt qua, nhưng kinh tế huyện Quan Sơn đã duy trì phát triển với tốc độ tăng trưởng khá và tương đối toàn diện, năng lực sản xuất từng bước được nâng lên, quy mô kinh tế đang được mở rộng[ ]. Sự tổng hợp các các biện pháp thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp kết hợp với các ngành nghề phi nông nghiệp, đã thúc đẩy kinh tế huyện tăng trưởng khá cao, bình quân đạt 14,37% tăng 4,93% so với giai đoạn 2006 - 2010. Cơ cấu kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực: tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản từ 53% năm 2010 giảm xuống 49% năm 2015, ngành công nghiệp, xây dựng tăng từ 17% năm 2010 lên 19% năm 2015, dịch vụ từ 30% lên 32% năm 2015. Thu nhập bình quân đầu người 14,3 triệu đồng/người/năm tăng 7 triệu đồng so với năm 2010. So với năm 1997 tăng 5,14 lần Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp năm 2015 đạt 223 tỷ đồng, gấp 1,78 lần so với năm 2010. Trong đó nông nghiệp 103 tỷ đồng, lâm nghiệp 115 tỷ đồng, thủy sản đạt 5 tỷ đồng. Độ che phủ rừng năm 2015 duy trì mức 83,9% so với năm 2010 tăng 7,9%. Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng 115 tỷ đồng, gấp 1,98 lần năm 2010. Giá trị ngành dịch vụ tăng trưởng 16,49%. Dư nợ cho vay của Ngân hàng nông nghiệp 88 tỷ đồng, Ngân hàng chính sách xã hội 140 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách bình quân hằng năm 364 tỷ đồng, tăng 12,61%. Tổng vốn đầu tư phát triển 331 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện theo chuẩn mới năm 2015 là 20,84%. Phát huy những thành quả đã đạt được trong các giai đoạn đã qua, chặng đường phát triển tiếp theo của huyện Quan Sơn đã được xác định với mục tiêu là: tranh thủ nguồn lực hỗ trợ của Tỉnh, Trung ương, khơi dậy mạnh mẽ nội lực của huyện đẩy mạnh phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hàm lượng tiến bộ khoa học, công nghệ trong sản xuất. Chú trọng phát triển nông - lâm nghiệp, đặc biệt là phát triển kinh tế lâm nghiệp trên cơ sở quy hoạch, lựa chọn trồng các cây mũi nhọn gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới gắn với giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội; tiếp tục phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng thế mạnh của huyện, đồng thời cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, tranh thủ thời cơ vận hội, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp, nhất là cấp xã; Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội; Phấn đấu đến năm 2020 thoát khỏi huyện nghèo và trở thành huyện khá ở khu vực miền núi[ ]. 5.2.2. Các nhóm ngành kinh tế hiện nay 5.2.2.1. Nông, lâm, thủy sản
  8. Nông nghiệp Bước sang thời kỳ phát triển và hội nhập, nông nghiệp huyện Quan Sơn đã có bước chuyển biến theo định hướng thị trường và sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế của huyện; không chỉ giải quyết vấn đề an ninh lương thực tại chỗ, nhất là đối với vấn đề an ninh lương thực vùng biên giới, nông nghiệp còn giải quyết việc làm, khai thác tốt hơn tiềm năng và thế mạnh của huyện, xóa đói giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân trong huyện. * Các loại đất nông nghiệp của huyện Quan Sơn Đất đai luôn là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu và phân bố nông nghiệp, nhất là đối với trồng trọt. Đặc điểm địa hình chủ đạo của huyện Quan Sơn là núi cao, hiểm trở và chia cắt phức tạp với tập hợp các dạng địa hình đồi cao, núi thấp, núi trung bình xen các thung lũng hẹp; trên 91% diện tích của huyện là đồi núi với độ cao trung bình 600 - 700m, độ dốc cấp IV, V, VI [trên 150]. Địa hình của huyện thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam; với nhiều dãy núi cao hiểm trở như Pù Mằn - Sơn Hà; Pa Panh - Sơn Điện - Sơn Lư. Vùng địa hình có độ dốc dưới 150 chiếm diện tích rất nhỏ với gần 9%. Như vậy, diện tích đất thích hợp với sản xuất nông nghiệp của huyện không nhiều, tập trung chủ yếu ở các xã phía Đông Bắc như Trung Thượng, Trung Xuân, Trung Hạ,... khu vực có địa hình cao chiếm phần lớn lãnh thổ của huyện chỉ thích hợp với trồng rừng, phát triển lâm nghiệp. Quan Sơn có tài nguyên đất đa dạng nhưng lại bị hạn chế bởi yếu tố địa hình. Trên địa bàn của huyện, đất đỏ vàng trên đá macma axit, đất đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất là hai loại có diện tích lớn nhất và phân bố ở tất cả các xã trong huyện, loại đất này thích hợp trồng rừng, cây công nghiệp, cây dược liệu và cây ăn quả. Ngoài ra huyện còn có đất mùn vàng đỏ trên núi cao, phân bố ở các đỉnh núi trên 1.000m; đất phù sa bồi tụ ven sông suối, đất dốc tụ chân đồi... thích hợp để sản xuất lương thực, hoa màu,... Do đặc thù về điều kiện tự nhiên nên hiện trạng sử dụng đất của huyện cũng thể hiện những điểm riêng. Trong tổng diện tích tự nhiên rộng lớn, diện tích đất đã được đưa vào sử dụng chiếm 91,7%, đất chưa sử dụng chiếm 8,3%. Trong đó, riêng dùng cho lâm nghiệp đã chiếm tới 86% với quy mô 80 nghìn ha; đất sản xuất nông nghiệp của huyện rất nhỏ 2,5 nghìn ha chiếm 2,7%. Đặc biệt là đất phi nông nghiệp có tỷ lệ thấp nhất ở tỉnh Thanh Hóa [2,9%]. Như vậy, trong cơ cấu sử dụng đất ở huyện Quan Sơn, đất đai chủ yếu được dùng cho mục đích lâm nghiệp. Đáng chú ý là diện tích rừng tự nhiên của huyện rất lớn và phân bố đều khắp các xã trong huyện, đất rừng phòng hộ phân bố dọc các xã biên giới với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào [Sơn Hà, Tam Thanh, Na Mèo, Mường Mìn, Sơn Thủy,...]. Đất sản xuất nông nghiệp của huyện có quy mô rất nhỏ, trong đó 60% dùng vào trồng cây hằng năm với quy mô chỉ có 1,5 nghìn ha, riêng đất lúa là 1,2 nghìn ha, trồng cây lâu năm chỉ đạt gần 1.000ha. Nhóm đất này phân bố rải rác, manh mún ở các thung lũng ven sông suối. Diện tích đất chưa sử dụng của huyện Quan Sơn còn rất lớn với 7.743ha, chủ yếu là đất đồi núi chưa sử dụng, việc đưa diện tích đất này vào canh tác gặp nhiều khó khăn do chủ yếu là núi đá khó cải tạo, địa hình chia cắt,... Diện tích đất phi nông nghiệp của huyện chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chỉ chiếm 2,9% diện tích tự nhiên, tỷ lệ đạt cao nhất là thị trấn Quan Sơn [9,2%], xã Tam Lư [5,43%], xã Trung Hạ [6,43%], các xã còn lại chỉ chiếm từ 1 - 3%. Điều này cũng cho thấy, Quan Sơn là huyện có dân cư thưa, kinh tế còn mang tính thuần nông, thuần lâm, đô thị hóa và công nghiệp hóa chưa phát triển mạnh. Riêng đối với loại hình đất nông nghiệp được phân chia như sau: đất trồng cây hằng năm, đất trồng cây lâu năm;

Bảng 10: Tình hình sử dụng đất nông nghiệp huyện Quan Sơn[ ] Đơn vị tính: Ha Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng diện tích đất nông nghiệp [1+2+3] 73.603 73.553 73.529 73.520 73.520 82.565 1. Đất sản xuất nông nghiệp 2.519 2.515 2.505 2.505 2.505 2.540 1.1. Cây hằng năm 1.543 1.540 1.531 1.530 1.530 1.549 Đất trồng lúa 1.195 1.195 1.192 1.192 1.192 1.210 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi 1 Đất trồng cây hằng năm khác 348 345 339 339 339 339 1.2. Cây lâu năm 976 975 974 974 974 991 Cây công nghiệp lâu năm Cây ăn quả 525 525 525 525 525 525 Cây lâu năm khác 452 450 449 449 449 466 2. Đất lâm nghiệp 71.015 70.968 70.955 70.946 70.946 79.952 Đất rừng sản xuất 35.772 35.726 35.713 35.704 35.704 43.500 Đất rừng phòng hộ 35.242 35.242 35.242 35.242 35.242 36.453 Đất rừng đặc dụng 3. Đất nuôi trồng thủy sản 70 70 70 69 69 73 Đất nuôi trồng thủy sản nước ngọt 70 70 70 69 69 73 Qua bảng trên cho thấy, mặc dù là một huyện miền núi có 4/5 diện tích là đồi núi, nhưng diện tích đất trồng cây hằng năm lại lớn hơn đất trồng cây lâu năm. Vì vậy, trong thời gian tới, để khai thác hiệu quả và bền vững về nguồn tài nguyên quý giá này, huyện Quan Sơn cần phải quy hoạch chuyển đổi sang trồng cây lâu năm hoặc trồng rừng. Tuy nhiên, mâu thuẫn trong quá trình chuyển đổi cần phải giải quyết đó là nhóm cây trồng lâu năm gặp trở ngại về vấn đề thu nhập do chi phí đầu tư ban đầu lớn, yêu cầu khắt khe về kỹ thuật sản xuất, thời gian kiến thiết dài, không phù hợp với kinh tế hộ miền núi nếu không có chính sách hỗ trợ sản xuất và đầu tư của chính quyền, đặc biệt là đối với cây trồng có hiệu quả cao như cây ăn quả. * Các hoạt động sản xuất nông nghiệp và kết quả đạt được trong một số năm gần đây - Về trồng trọt Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, trồng trọt là lĩnh vực sản xuất quan trọng của huyện trong những năm qua. Ngành trồng trọt phát triển tương đối ổn định, năng suất cây trồng được cải thiện rõ rệt nhờ việc áp dụng tốt khoa học, kỹ thuật trong sản xuất, đưa các giống cây trồng có năng suất chất lượng cao và áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ... cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng đang được chuyển đổi một cách phù hợp, nhiều mô hình sản xuất áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến đang được mở rộng về quy mô. Bên cạnh đó, hệ thống khuyến nông của huyện hoạt động rất tích cực trong triển khai các mô hình trình diễn, phổ biến kiến thức kỹ thuật canh tác, hỗ trợ giống mới cho nhân dân vì vậy sản xuất nông nghiệp của huyện Quan Sơn đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả khả quan. Trong cơ cấu cây trồng, cây lương thực chiếm vai trò chủ đạo, trong đó lúa là cây chủ lực, tiếp đến là cây ngô, sắn; nhóm cây rau đậu có vị trí đáng kể, song chủ yếu là tự cấp tự túc; cây công nghiệp hằng năm của huyện chủ yếu là đậu tương, lạc và mía nhưng quy mô nhỏ. Sản lượng lương thực có hạt của huyện Quan Sơn đến năm 2015 đã đạt 15.269 tấn, bình quân đạt 399kg/người. Diện tích lúa cả năm tăng từ 1.986ha [năm 2010] lên 2.341ha [năm 2015], năng suất lúa tăng từ 34,7 tạ/ha [năm 2010] lên 42,4tạ/ha [năm 2015]. Diện tích ngô tăng từ 1.627ha [năm 2010] lên 2.167ha [năm 2015], năng suất ngô tăng từ 22,4 tạ/ha [năm 2010] lên 22,5 tạ/ha [năm 2015].

Bảng 11: Diện tích gieo trồng cây hằng năm [ ] Đơn vị tính: Ha Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 7.220 7.575 7.731 7.733 8.015 7.865 Phân theo vụ Vụ đông 603 724 749 630 696 724 Vụ chiêm xuân 3.638 3.774 3.880 3.939 4.015 3.880 Vụ mùa 2.979 3.076 3.101 3.164 3.304 3.261 Phân theo loại cây 1. Cây lương thực 3.613 3.650 4.015 4.080 4.508 4.634 Cây lúa cả năm 1.986 2.070 2.080 2.114 2.341 2.430 Lúa chiêm xuân 668 669 672 692 834 977 Lúa mùa 1.318 1.401 1.408 1.422 1.507 1.453 Màu lương thực 1.627 1.580 1.935 1.967 2.167 2.203 Ngô 1.627 1.580 1.935 1.967 2.167 2.203 2. Cây chất bột Sắn 1.300 1.400 1.500 1.500 1.250 1.276 3. Cây rau đậu các loại Rau các loại 749 788 790 805 981 1,021 Đậu các loại 101 104 107 78 93 65 4. Cây công nghiệp hằng năm Đậu tương 560 563 563 489 397 238 Lạc 69 69 75 72 87 118 Mía 41 45 46 39 40 32

Bảng 12: Năng suất các loại cây chủ yếu[ ] Đơn vị tính: Tạ/ha Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 2015 1. Cây lương thực có hạt Lúa cả năm 34,70 35,77 34,29 41,97 40,75 42,38 Lúa chiêm xuân 40,01 42,00 43,01 48,00 46,80 45,50 Lúa thu mùa 32,01 32,79 30,12 39,04 37,41 40,28 Màu lương thực Ngô 22,42 22,52 19,86 22,40 22,52 22,56 2. Cây chất bột Sắn 115 110 105 105 110 111 3. Cây rau, đậu các loại Rau các loại 42,67 43,00 43,04 43,48 44,34 34,74 Đậu các loại 21,88 23,08 23,36 24,30 23,66 24,92 4. Cây công nghiệp hằng năm Đậu tương 14,96 17,58 17,12 17,89 17,98 18,82 Lạc 9,19 7,10 7,15 7,50 7,63 7,63 Mía 450,00 550,00 546,44 519,18 510,00 519,25

Bảng 13: Sản lượng một số cây trồng chủ yếu Đơn vị tính: Tạ/ha Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 2015 1. Sản lượng cây lương thực có hạt 10.538 10.963 10.974 13.277 14.419 15.269 Lúa cả năm 6.890 7.405 7.132 8.872 9.539 10.299 Lúa chiêm xuân 2.672 2.810 2.890 3.322 3.903 4.447 Lúa thu mùa 4.218 4.595 4.242 5.550 5.636 5.852 Màu lương thực 3.648 3.559 3.843 4.405 4.880 4.970 Ngô 3.648 3.559 3.843 4.405 4.880 4.970 2. Cây chất bột Sắn 14.950 15.400 15.750 15.750 13.745 14.099 3. Cây rau, đậu các loại Rau các loại 3.196 3.388 3.400 3.500 4.350 3.547 Đậu các loại 221 240 250 190 220 162 4. Cây công nghiệp hằng năm Đậu tương 838 990 964 875 714 448 Lạc 63 49 54 54 67 90 Mía 1.845 2.475 2.530 2.030 2.040 1.670

Bảng 14: Sản lượng lương thực phân theo vụ[ ] Đơn vị tính: Tấn Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Sản lượng cây lương thực - Tổng số [tấn] 10.538 10.963 10.974 13.277 14.419 15.269 Vụ đông 579 380 600 630 770 792 Vụ chiêm xuân 4.221 4.432 4.526 5.332 6.133 6.514 Vụ mùa 5.738 6.151 5.848 7.315 7.516 7.963 Trồng lúa: diện tích trồng lúa trên địa bàn của huyện Quan Sơn trong nhiều năm ít biến động. Diện tích gieo trồng lúa năm 2000 là 1.786ha, năm 2005 tăng lên 2.060ha, đến năm 2010 giảm xuống 1.986ha, năm 2012 tăng lên đạt hơn 2.000ha. Đáng chú ý là năng suất lúa của huyện tăng nhanh từ 25,0 tạ/ha năm 2000 lên 29,0 tạ/ha năm 2005 và đạt 35,7 tạ/ha năm 2012. Nguyên nhân chủ yếu là nhờ việc đưa vào các giống lúa lai có năng suất cao thay thế các giống lúa năng suất thấp của địa phương. Diện tích lúa lai đưa vào gieo cấy hằng năm tăng từ 15% năm 2000 lên 20% năm 2005 và đạt trên 35% năm 2010, ngoài ra nhờ việc đầu tư các công trình thủy lợi, đảm bảo nhu cầu tưới cho bộ phận diện tích lúa trước đây dựa vào tưới trời. Nhờ năng suất lúa tăng mà sản lượng lúa cũng tăng nhanh, sản lượng lúa tăng từ 4.363 tấn năm 2000 lên 5.965 tấn năm 2005, năm 2012 tăng lên 7.419 tấn. Về cơ cấu giống lúa, chủ yếu là các giống lúa lai có chất lượng, hiệu quả kinh tế cao như: lúa lai Đ.Ưu 527, Nhị Ưu 63, Nhị Ưu 838, Nhị Ưu 69; TH3-3, TH3-4; các giống lúa thuần Khang Dân 18, Q5, Xi21, Xi23...; các giống lúa chất lượng cao như: Hương thơm, Bắc thơm số 7... đang được đưa vào sản xuất đại trà.

Bảng 15: Diện tích lúa cả năm phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Ha TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 1.986 2.070 2.080 2.114 2.341 2.430 1 Trung Xuân 132 126 129 143 129 117 2 Trung Hạ 222 224 224 228 209 209 3 Trung Tiến 134 122 126 135 242 229 4 Trung Thượng 90 111 111 106 70 67 5 Sơn Lư 123 127 127 101 123 145 6 Sơn Hà 109 120 120 120 164 164 7 Tam Lư 161 167 167 205 196 217 8 Tam Thanh 214 215 215 251 243 250 9 Sơn Điện 229 232 234 174 208 184 10 Mường Mìn 141 158 158 165 145 145 11 Sơn Thủy 269 261 262 273 318 377 12 Na Mèo 146 183 183 198 280 313 13 Thị trấn Quan Sơn 15 24 24 15 14 12

Bảng 16: Năng suất lúa cả năm phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Tạ/ha TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 34,70 35,77 34,29 41,97 40,75 42,38 1 Trung Xuân 34,72 37,58 34,38 40,82 45,24 41,77 2 Trung Hạ 35,04 36,85 34,73 44,52 48,63 42,58 3 Trung Tiến 35,07 36,56 34,60 41,21 40,26 41,96 4 Trung Thượng 36,21 36,31 34,19 39,38 39,29 41,85 5 Sơn Lư 33,93 34,49 32,68 39,43 40,21 43,10 6 Sơn Hà 34,74 35,83 34,58 44,59 41,78 42,09 7 Tam Lư 34,29 35,93 34,82 44,40 40,14 42,64 8 Tam Thanh 34,28 36,05 34,95 43,50 41,01 42,26 9 Sơn Điện 34,05 35,56 35,17 41,67 41,41 42,85 10 Mường Mìn 35,23 37,03 34,62 41,59 41,32 42,70 11 Sơn Thủy 34,60 34,37 33,78 38,25 40,55 42,13 12 Na Mèo 35,04 34,15 32,73 42,74 40,71 42,46 13 TT Quan Sơn 36,84 33,96 32,29 42,86 41,26 42,73

Bảng 17: Sản lượng lúa cả năm phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Tấn TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 6.890 7.405 7.132 8.872 9.539 10.299 1 Trung Xuân 458 474 444 585 520 490 2 Trung Hạ 779 826 778 1.015 860 890 3 Trung Tiến 470 446 436 555 975 960 4 Trung Thượng 327 403 380 417 275 280 5 Sơn Lư 418 438 415 399 495 625 6 Sơn Hà 379 430 415 535 685 690 7 Tam Lư 552 600 582 908 785 927 8 Tam Thanh 735 775 752 1.090 995 1.055 9 Sơn Điện 779 825 823 725 860 790 10 Mường Mìn 495 585 547 687 600 620 11 Sơn Thủy 930 897 885 1.045 1.290 1.590 12 Na Mèo 512 625 599 845 1.140 1.330 13 Thị trấn Quan Sơn 56 82 78 66 59 52

Bảng 18: Diện tích lúa chiêm xuân phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Ha TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 668 669 672 692 834 977 1 Trung Xuân 44 43,0 44,0 45,5 37 37 2 Trung Hạ 82 78,0 78,0 96,2 77 80 3 Trung Tiến 45 43,0 43,0 47,5 66 72 4 Trung Thượng 35 44 44 45 25 26 5 Sơn Lư 29 28 28 28 38 62 6 Sơn Hà 41 38 38 38 82 82 7 Tam Lư 60 57 57 69 70 91 8 Tam Thanh 70 78 78 93 96 101 9 Sơn Điện 75 74 75 48 79 76 10 Mường Mìn 59 58 58 61 61 61 11 Sơn Thủy 78 78 79 76 98 129 12 Na Mèo 45 44 44 37 99 154 13 Thị trấn Quan Sơn 7 6 6 8 7 7 Bảng 19: Năng suất lúa chiêm xuân phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Ha TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 40,01 42,00 43,01 48,00 46,80 45,50 1 Trung Xuân 40,92 42,79 42,61 48,35 45,21 45,21 2 Trung Hạ 40,02 42,56 42,95 49,90 46,68 45,00 3 Trung Tiến 40,27 42,09 45,35 48,42 45,52 45,20 4 Trung Thượng 41,64 40,45 41,93 44,89 46,00 44,57 5 Sơn Lư 39,30 42,14 42,86 47,86 47,49 46,85 6 Sơn Hà 39,26 41,05 42,11 47,37 46,97 45,14 7 Tam Lư 38,99 42,46 43,07 47,47 46,33 45,77 8 Tam Thanh 39,43 42,31 42,50 47,64 47,38 45,51 9 Sơn Điện 39,92 41,89 43,33 48,76 47,98 45,84 10 Mường Mìn 39,70 41,90 42,24 46,97 47,46 45,83 11 Sơn Thủy 39,90 41,79 43,67 49,60 46,94 45,64 12 Na Mèo 41,20 42,05 43,30 46,20 46,46 45,16 13 Thị trấn Quan Sơn 43,08 41,67 42,50 46,75 45,45 45.45

Bảng 20: Sản lượng lúa chiêm xuân phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Tấn TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 2.672 2.810 2.890 3.322 3.903 4.447 1 Trung Xuân 178 184 188 220 165 165 2 Trung Hạ 329 332 335 480 358 360 3 Trung Tiến 180 181 195 230 300 325 4 Trung Thượng 147 178 185 202 115 115 5 Sơn Lư 112 118 120 134 180 290 6 Sơn Hà 159 156 160 180 385 370 7 Tam Lư 232 242 246 328 325 417 8 Tam Thanh 276 330 332 445 455 460 9 Sơn Điện 301 310 325 235 380 350 10 Mường Mìn 235 243 245 287 290 280 11 Sơn Thủy 310 326 345 375 460 590 12 Na Mèo 185 185 191 170 460 695 13 Thị trấn Quan Sơn 28 25 26 36 30 30

Bảng 21: Diện tích lúa mùa phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Ha TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 1.318 1.401 1.408 1.422 1.507 1.453 1 Trung Xuân 88 83 85 98 93 81 2 Trung Hạ 140 146 146 132 132 129 3 Trung Tiến 90 79 83 87 176 157 4 Trung Thượng 55 67 67 61 45 41 5 Sơn Lư 95 99 99 73 85 83 6 Sơn Hà 69 82 82 82 82 82 7 Tam Lư 102 110 110 135 125 126 8 Tam Thanh 144 137 137 157 147 149 9 Sơn Điện 153 158 159 126 128 108 10 Mường Mìn 81 100 100 104 84 84 11 Sơn Thủy 191 183 183 198 220 248 12 Na Mèo 101 139 139 161 181 159 13 Thị trấn Quan Sơn 9 18 18 8 8 6

Bảng 22: Năng suất lúa mùa phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Tạ/ ha TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 32,01 32,79 30,12 39,04 37,41 40,28 1 Trung Xuân 31,67 34,88 30,12 37,32 38,25 40,22 2 Trung Hạ 32,12 33,80 30,34 40,59 38,02 41,08 3 Trung Tiến 32,40 33,54 29,04 37,28 38,29 40,47 4 Trung Thượng 32,73 33,58 29,10 35,30 35,56 40,15 5 Sơn Lư 32,31 32,32 29,80 36,20 36,97 40,31 6 Sơn Hà 32,07 33,41 31,10 43,31 36,60 39,04 7 Tam Lư 31,53 32,55 30,55 42,84 36,68 40,38 8 Tam Thanh 31,79 32,48 30,66 41,03 36,84 40,05 9 Sơn Điện 31,16 32,59 31,32 38,95 37,36 40,74 10 Mường Mìn 31,98 34,20 30,20 38,42 36,86 40,43 11 Sơn Thủy 32,44 31,20 29,51 33,91 37,70 40,30 12 Na Mèo 32,31 31,65 29,39 41,95 37,57 39,86 13 Thị trấn Quan Sơn 32,18 31,39 28,89 38,96 37,66 39,50

Bảng 23: Sản lượng lúa mùa phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Tấn TT Xã, phường, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 4.218 4.595 4.242 5.550 5.636 5.852 1 Trung Xuân 280 290 256 365 355 325 2 Trung Hạ 450 494 443 535 502 530 3 Trung Tiến 290 265 241 325 675 635 4 Trung Thượng 180 225 195 215 160 165 5 Sơn Lư 306 320 295 265 315 335 6 Sơn Hà 220 274 255 355 300 320 7 Tam Lư 320 358 336 580 460 510 8 Tam Thanh 459 445 420 645 540 595 9 Sơn Điện 478 515 498 490 480 440 10 Mường Mìn 260 342 302 400 310 340 11 Sơn Thủy 620 571 540 670 830 1,000 12 Na Mèo 327 440 409 675 680 635 13 Thị trấn Quan Sơn 28 57 52 30 29 22

Trồng ngô: trong những năm qua, ngô là cây lương thực được phát triển mạnh. Diện tích ngô năm 2000 đạt 959,0ha, năm 2005 tăng lên 1.381ha, năm 2012 tăng diện tích trồng ngô lên 1.915ha. Năng suất ngô cũng tăng lên từ 13,6 tạ/ha năm 2000, lên 16,4 tạ/ha năm 2005 năm 2012, đạt 20,1tạ/ha. Sản lượng ngô năm 2000 là 1.148 tấn, năm 2005 đạt 2.260 tấn, đến năm 2012 tăng lên 3.843 tấn. Diện tích ngô phân bố đồng đều ở tất cả các xã trong huyện, trong đó nhiều nhất là ở các xã Trung Hạ, Sơn Thủy, Sơn Điện... Cơ cấu giống ngô chủ yếu được đưa vào gieo trồng trong thời gian qua như: CP888, CP999, CP919, NK4300, NK67, NK6654, NK54, NK66, LVN10, LVN855, VN8960, LCH... [thời gian sinh trưởng vào khoảng 95-100 ngày], là các giống có khả năng chống đỡ, chịu hạn tốt phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của huyện. Sự phát triển của cây ngô đã đóng góp đáng kể vào tổng sản lượng lương thực toàn huyện, góp phần gia tăng giá trị sản xuất cũng như hiệu quả sử dụng đất. Bảng 24: Diện tích ngô cả năm phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Ha TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 1.627 1.580 1.935 1.967 2.167 2.203 1 Trung Xuân 171 162 178 168 182 184 2 Trung Hạ 165 165 206 187 231 272 3 Trung Tiến 97 95 116 121 126 170 4 Trung Thượng 95 93 97 108 131 143 5 Sơn Lư 95 92 113 120 126 115 6 Sơn Hà 90 90 121 127 90 80 7 Tam Lư 152 147 173 166 205 187 8 Tam Thanh 143 144 179 186 178 162 9 Sơn Điện 148 141 200 220 208 212 10 Mường Mìn 105 97 145 130 150 161 11 Sơn Thủy 200 194 209 209 292 325 12 Na Mèo 151 145 183 209 228 170 13 Thị trấn Quan Sơn 15 15 15 16 21 22

Bảng 25: Năng suất ngô cả năm phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Tạ/ha TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 1.627 1.580 1.935 1.967 2.167 2.203 1 Trung Xuân 171 162 178 168 182 184 2 Trung Hạ 165 165 206 187 231 272 3 Trung Tiến 97 95 116 121 126 170 4 Trung Thượng 95 93 97 108 131 143 5 Sơn Lư 95 92 113 120 126 115 6 Sơn Hà 90 90 121 127 90 80 7 Tam Lư 152 147 173 166 205 187 8 Tam Thanh 143 144 179 186 178 162 9 Sơn Điện 148 141 200 220 208 212 10 Mường Mìn 105 97 145 130 150 161 11 Sơn Thủy 200 194 209 209 292 325 12 Na Mèo 151 145 183 209 228 170 13 TT Quan Sơn 15 15 15 16 21 22

Bảng 26: Sản lượng ngô cả năm phân theo xã, thị trấn Đơn vị tính: Tạ/ha TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 22,42 22,52 19,86 22,40 22,52 22,56 1 Trung Xuân 22,40 20,73 19,02 22,08 22,47 22,77 2 Trung Hạ 23,49 22,58 18,79 22,02 22,60 22,71 3 Trung Tiến 23,81 22,74 20,56 22,48 23,03 22,61 4 Trung Thượng 22,95 22,37 23,97 22,15 22,15 22,92 5 Sơn Lư 22,11 22,82 21,95 22,72 23,02 22,83 6 Sơn Hà 21,89 22,63 18,39 21,29 22,91 23,49 7 Tam Lư 20,66 22,41 19,94 22,28 22,29 23,16 8 Tam Thanh 21,54 23,54 20,00 21,90 22,92 22,21 9 Sơn Điện 22,64 25,87 19,05 22,56 22,68 22,99 10 Mường Mìn 22,86 24,95 20,62 22,46 22,77 22,44 11 Sơn Thủy 23,43 20,00 19,86 23,91 21,74 21,55 12 Na Mèo 21,66 21,87 18,52 22,47 22,42 22,07 13 Thị trấn Quan Sơn 19,00 21,33 25,87 21,15 23,94 24,26

Trồng sắn: trong những năm gần đây do nhu cầu phát triển của thị trường, đặc biệt là nhu cầu nguyên liệu của nhà máy chế biến tinh bột sắn. Diện tích gieo trồng sắn của huyện không ngừng được tăng lên và trở thành cây trồng quan trọng góp phần xóa đói giảm nghèo của huyện trong thời gian qua. Vùng nguyên liệu sắn cung cấp cho Nhà máy chế biến tinh bột sắn Bá Thước, kết quả thực hiện qua các năm như sau: Năm 2000 trồng được 910ha, sản lượng đạt 8.191 tấn; năm 2005 trồng được 898ha, sản lượng đạt 8.702 tấn và đến năm 2010 vùng sắn nguyên liệu đạt 1.300ha với sản lượng là 14.300 tấn. Tuy nhiên, sắn là cây hằng năm được trồng chủ yếu trên đất dốc, nên đất bị xói mòn và rửa trôi mạnh, lại trồng độc canh nên năng suất không cao. Thực tế vùng nguyên liệu sắn chưa năm nào cung cấp đủ nguyên liệu cho nhà máy hoạt động hết công suất. Cây công nghiệp: cây công nghiệp ngắn ngày của huyện chủ yếu là mía, lạc và đậu tương... Tổng diện tích cây công nghiệp ngắn ngày được phát triển ổn định, năm 2000 là 86,0ha, tăng lên 476,0ha vào năm 2005 và đến năm 2010 đạt 670,0ha. Trong các cây công nghiệp ngắn ngày thì đậu tương chiếm diện tích chủ yếu. Đậu tương: trong những năm qua diện tích trồng đậu tương đều tăng. Năm 2000, trồng được 66ha tăng lên 352ha năm 2005 và đến năm 2010 đạt 560ha. Năng suất nhìn chung còn thấp, năm 2000 đạt 11 tạ/ha, tăng lên 17,1 tạ/ha vào năm 2005 và đến năm 2010 đạt 17,54 tạ/ha. Cây lạc: tổng diện tích gieo trồng năm 2005 là 77ha, năm 2010 giảm xuống còn 69ha, năng suất lạc hằng năm đạt từ 7,2 tạ/ha đến 8 tạ/ha; sản lượng đạt thấp và không ổn định, năm 2005 là 46 tấn và đến năm 2010 tăng lên 50 tấn, chưa có vùng chuyên canh có quy mô lớn để trở thành sản phẩm hàng hóa xuất khẩu với số lượng lớn. Cây mía: diện tích gieo trồng nhỏ lẻ, không tập trung, năm 2005 diện tích đạt 47,1ha, giảm xuống 41ha vào năm 2010. Sản lượng tăng từ 2.519 tấn năm 2005, giảm xuống 2.419 tấn vào năm 2010. Rau đậu các loại: diện tích trồng rau các loại toàn huyện năm 2000 là 271,5ha, tăng lên 525,2ha vào năm 2005 và đến năm 2010 đạt 749,0ha; Tổng sản lượng rau các loại tăng dần theo từng năm, năm 2000 là 1.422,66 tấn, tăng lên 2.337,14 tấn vào năm 2005 và đến năm 2010 đạt 3.924,8 tấn. Diện tích trồng đậu các loại toàn huyện năm 2000 là 40,5ha, giảm xuống 34,8ha vào năm 2005 và đến năm 2010 đạt 44,0ha; Tổng sản lượng đậu các loại theo từng năm, năm 2000 là 213,34 tấn, giảm xuống 154,86 tấn vào năm 2005 và đến năm 2010 đạt 231,9 tấn. Cây ăn quả: cây ăn quả của huyện phát triển chậm, diện tích trồng manh mún, phân tán trong vườn của các hộ gia đình, chưa hình thành các vùng chuyên canh cây ăn quả. Năm 2005, diện tích trồng là 108ha, đến năm 2010 tăng lên 139ha chủ yếu là trồng các loại cây ăn quả phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong huyện với các loại cây chính như nhãn, vải, dứa, chuối... tuy nhiên nhiều diện tích cây già cỗi cho năng suất, hiệu quả thấp. Do không được coi là thế mạnh trong sản xuất nông nghiệp của huyện, nên người dân không đầu tư mà sản xuất chủ yếu mang tính tận dụng nhằm tăng thêm nhu nhập. - Về chăn nuôi Chăn nuôi của huyện Quan Sơn liên tục có bước phát triển khá mạnh về số lượng đàn gia súc và gia cầm, từng bước chuyển đổi mô hình chăn nuôi nhỏ lẻ của các hộ gia đình là chủ yếu sang hình thành một số trang trại chăn nuôi đại gia súc [trâu, bò] theo phương thức sản xuất hàng hóa, từng bước đem lại hiệu quả kinh tế, tạo động lực góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp huyện trong những năm qua; công tác kiểm soát, phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm có nhiều chuyển biến tiến bộ, tỷ lệ tiêm phòng hằng năm đạt từ 60 - 85% tổng đàn. Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2001 đạt 720 tấn, năm 2005 tăng lên 770 tấn, năm 2006 đạt 848 tấn, năm 2010 đạt 1.023 tấn. Giá trị sản xuất [GTSX] ngành chăn nuôi năm 2000 đạt 7,29 tỷ đồng tăng lên 9,18 tỷ đồng năm 2005, năm 2010 đạt 21,5 tỷ đồng. Tốc độ phát triển GTSX bình quân hằng năm cả giai đoạn 2001-2010 đạt 10,3%. Tỷ trọng ngành chăn nuôi trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chiếm 25,5% năm 2000, giảm xuống 23,1% năm 2005, năm 2010 đạt 31,8%. Phát triển chăn nuôi, trước hết là phát triển chăn nuôi đại gia súc là một thế mạnh của huyện Quan Sơn. Với tiềm năng đất đai phong phú cho phép huyện Quan Sơn có thể phát triển chăn nuôi gia súc thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi phát triển chưa thật sự ổn định theo từng giai đoạn: giai đoạn 2001-2005, số lượng đàn gia súc, gia cầm của huyện tăng trưởng đều. Năm 2001, đàn trâu có 5.364 con, đàn bò có 2.965 con, đàn lợn 12.459 con, đàn gia cầm có khoảng 36,7 nghìn con, đến năm 2005 số lượng đàn gia súc, gia cầm đều tăng, đặc biệt đàn bò và đàn gia cầm. Đàn trâu có 6.263 con, tăng trưởng bình quân 3,1%; đàn bò có 3.880 con, tăng trưởng bình quân 5,6%; đàn lợn 14.840 con, tăng trưởng bình quân 3,6%; đàn gia cầm có khoảng 68,6 nghìn con, tăng trưởng bình quân 13,3%. Bước sang giai đoạn 2006 - 2010, số lượng đàn gia súc, gia cầm của huyện tăng trưởng không đều. Năm 2006, đàn trâu có 6.602 con, đàn bò có 4.334 con, đàn lợn 13.728 con, đàn gia cầm có khoảng 210 nghìn con. Đến năm 2010, đàn trâu có 7.697 con, tăng trưởng bình quân 3,1%; Đàn bò có 6.104 con, tăng trưởng bình quân 7,1%; Đàn lợn 17.067 con, tăng trưởng bình quân 4,5%; Đàn gia cầm có khoảng 154 nghìn con, tăng trưởng bình quân giảm 6%. Giai đoạn 2010 - 2015, huyện thực hiện một số chương trình, dự án hỗ trợ nông dân phát triển chăn nuôi đã thúc đẩy chăn nuôi trong huyện phát triển nhanh hơn, chất lượng đàn lợn, đàn gia súc, gia cầm được nâng lên. Công tác quản lý thức ăn chăn nuôi được tăng cường, mở rộng hoạt động cung ứng thức ăn chăn nuôi cho các hộ nông dân. Năm 2015, đàn gia súc phát triển có 7.240 con trâu, 8.740 con bò, 17,4 nghìn con lợn và 150 nghìn con gia cầm. Giá trị sản xuất chăn nuôi năm 2015 đạt 63,4 tỷ đồng [giá 2010]; tăng trưởng bình quân 21%/năm thời kỳ 2011-2015 và chiếm 45% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Hiện chăn nuôi đang chuyển dần từ tập quán chăn nuôi phân tán sang mô hình sản xuất tập trung.

Bảng 27: Số lượng gia súc, gia cầm và sản lượng thịt hơi xuất chuồng [Thời điểm ngày 01 tháng 10 hằng năm] Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Trâu [con] 7.697 7.701 8.105 7.503 7.133 6.240 Bò [con] 6.104 6.883 7.440 7.472 7.624 8.421 Lợn [con] 17.067 9.395 17.470 17.574 17.967 17.537 Gia cầm [1.000 con] 113 134 107 125 139 139 Trọng lượng thịt hơi xuất chuồng [Tấn] 1.183 1.808 2.430 2.999 3.193 3.333 Trong đó: thịt lợn [tấn] 957 1.502 2.049 2.444 2.554 2.647

Bảng 28: Đàn trâu chia theo xã, thị trấn [Thời điểm ngày 01 tháng10 hằng năm] Đơn vị tính: Con TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 7.697 7.701 8.105 7.503 7.133 6.240 1 Trung Xuân 750 750 790 731 671 547 2 Trung Hạ 794 793 833 753 738 551 3 Trung Tiến 626 626 661 597 572 378 4 Trung Thượng 252 272 313 317 302 285 5 Sơn Lư 447 448 480 450 423 375 6 Sơn Hà 579 576 597 536 466 372 7 Tam Lư 681 688 728 667 627 541 8 Tam Thanh 899 899 937 900 905 644 9 Sơn Điện 693 693 720 605 514 798 10 Mường Mìn 488 492 519 484 441 289 11 Sơn Thủy 612 612 647 642 714 858 12 Na Mèo 758 742 757 731 698 535 13 Thị trấn Quan Sơn 118 110 123 90 62 67

Bảng 29: Đàn bò chia theo xã, thị trấn [Thời điểm ngày 01 tháng 10 hằng năm] Đơn vị tính: Con TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 6.104 6.883 7.440 7.472 7.624 8.421 1 Trung Xuân 417 428 452 469 468 460 2 Trung Hạ 642 529 568 628 645 553 3 Trung Tiến 676 817 876 880 877 746 4 Trung Thượng 557 698 767 776 763 762 5 Sơn Lư 680 392 439 413 427 437 6 Sơn Hà 286 252 264 281 309 396 7 Tam Lư 288 405 435 487 512 444 8 Tam Thanh 656 789 857 870 873 904 9 Sơn Điện 776 1.202 1.285 1.170 1.148 1.042 10 Mường Mìn 331 493 536 508 531 805 11 Sơn Thủy 473 584 643 686 690 927 12 Na Mèo 194 160 184 198 296 862 13 Thị trấn Quan Sơn 128 134 134 106 85 83

Bảng 30: Đàn lợn chia theo xã, thị trấn [Thời điểm ngày 01 năm 10 hằng năm] Đơn vị tính: Con TT Xã, thị trấn 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng số 17.067 9.395 17.470 17.574 17.967 17.537 1 Trung Xuân 985 359 901 924 870 946 2 Trung Hạ 1.520 538 1.378 1.069 1.003 917 3 Trung Tiến 987 1.022 1.444 1.106 976 1.010 4 Trung Thượng 860 282 842 833 873 597 5 Sơn Lư 1.049 673 1.237 1.493 1.483 1.343 6 Sơn Hà 814 545 904 998 1.066 809 7 Tam Lư 2.006 645 1.797 1.817 1.703 1.548 8 Tam Thanh 1.469 945 1.503 1.568 1.682 1.623 9 Sơn Điện 1.661 1.929 2.783 2.983 2.908 3.514 10 Mường Mìn 1.375 716 1.147 852 906 1.141 11 Sơn Thủy 1.928 857 1.803 1.849 1.950 1.826 12 Na Mèo 1.758 687 1.263 1.510 1.975 1.863 13 Thị trấn Quan Sơn 657 197 468 572 572 400

  1. Lâm nghiệp * Kết quả trồng khoanh nuôi tái sinh rừng huyện Quan Sơn Lâm nghiệp là ngành kinh tế lâu đời và phát triển mạnh trong thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX, với hướng chính là khai thác lâm sản. Từ thập niên 80 của thế kỷ XX trở lại đây, chủ yếu là trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng. Rừng đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Quốc gia, của tỉnh Thanh Hóa nói chung và của huyện Quan Sơn nói riêng - Rừng trồng ở huyện Quan sơn: Quan Sơn có các loại đất thích hợp cho cây rừng: loại thứ nhất là nhóm đất feralit trên núi có mầu vàng đến nâu vàng, phần lớn tầng dày trên một mét là điều kiện tốt cho cây rừng phát triển. Loại đất này chiếm phần lớn diên tích đất Quan Sơn. Loại thứ 2: Nhóm đất phù sa macma axit bồi tụ ven sông, suối, bãi bằng núi có độ dốc thấp, nhóm này là đất tốt cho cả cây trồng nông nghiệp và cây lâm nghiệp. Những yếu tố của đất và khí hậu ở huyện Quan Sơn rất thuận lợi cho cây lâm nghiệp lá rộng nhiệt đới phát triển. Do đó, công tác trồng rừng ở huyện Quan Sơn có nhiều thuận lợi và Đảng bộ nhân dân phát huy ưu thế để bảo vệ, khoanh nuôi, trồng chăm sóc phát triển rừng đạt kết quả cao. Quan Sơn đã có nhiều biện pháp hữu hiệu phát triển nghề rừng. Tại Đại hội Đảng bộ huyện Quan Sơn lần thứ I đã nêu khẩu hiệu “Bảo vệ rừng là bảo vệ chính mình, phá rừng là tự giết mình”, “trồng cây, gây rừng là yêu nước”. Thực hiện mục tiêu chính trị đó, nhân dân Quan Sơn đã trồng rừng bằng nhiều cách như: cách thứ nhất là các hộ dân tự bỏ vốn, công sức để trồng, nhất là cây luồng, do đó rừng luồng phát triển nhanh nhất. Khi mới chia tách thành lập huyện năm 1997, toàn huyện chỉ có 2.800ha rừng luồng. Đến năm 2010, có trên 8.363ha rừng luồng, chủ yếu là rừng sản xuất; Cách thứ hai là trồng theo dự án 327, 661, 147 do Nhà nước đầu tư hỗ trợ vốn. Bao gồm rừng phòng hộ, rừng sản xuất. Đặc biệt từ khi Hạt Kiểm lâm được giao làm chủ dự án 147 tốc độ trồng rừng sản xuất hằng năm càng cao chất lượng tốt. Cách thứ ba là các chủ rừng Nhà nước: 3 Đồn biên phòng, 2 Ban Quản lý rừng phòng hộ đầu tư trồng rừng nơi đất trống trong diện tích được giao quản lý kể cả rừng phòng hộ và rừng sản xuất. Tính đến năm 2010, toàn huyện có 11.931,36ha rừng trồng. Trong đó: + Rừng sản xuất do nhân dân trồng là chủ yếu 10.205,87ha rừng trồng các loại tăng so với khi mới thành lập huyện là: 9.131,36ha. + Rừng phòng hộ do chủ rừng Nhà nước trồng: 1.725,49ha. + Nhiều khu rừng trồng từ năm 2005 trở về trước đã cho sản phẩm khai thác, nhất là luồng trên địa bàn huyện Quan Sơn. Mỗi năm khai thác tiêu thụ hàng triệu cây, do nhân dân khai thác từ rừng trồng, đem lại thu nhập khá. Nhân dân thường gọi cây luồng là “Cây xóa đói, giảm nghèo”. Rừng luồng trồng sau 5 năm đã cho sản phẩm, mỗi năm, mỗi bụi mọc thêm 3 đến 10 cây măng, 1ha luồng có từ 250 - 300 bụi luồng, chu kỳ khai thác luồng khoảng 60 năm với điều kiện chăm sóc tốt, khai thác đúng kỹ thuật, cường độ chặt cho phép không quá 25% tổng số cây. Những năm gần đây, cây luồng bị xuống giá so với cây nứa, cây vầu. Đồng bào đã chuyển phương thức tiêu thụ luồng cây sang chế biến đũa để tiêu thụ sản phẩm tinh có giá trị cao ra thị trường. Tính ra 1 cây luồng nhóm 2 nếu bán cây thu được 18.000 đồng/cây. Sau khi chế biến sẽ có giá trị 30.000 - 35.000 đồng/cây, trừ chi phí chế biến giá trị thực của cây luồng cũng nâng lên được trên 20.000 đồng/cây, tăng 2.000 đồng/cây. Việc thực hiện dự án 147 do Hạt kiểm lâm làm chủ dự án, nhân dân đã chuyển mạnh sang trồng cây thân gỗ như keo, xoan, lát. Trồng keo, xoan, lát làm giàu đất, tạo mùn và ít khô đất. Dưới tán xoan, keo 2 năm đầu đồng bào kết hợp trồng ngô, sắn tăng thu nhập. Đến nay khoảng trống trong đất lâm nghiệp của huyện Quan Sơn, nhất là 6 xã biên giới còn rất ít do được trồng rừng liên tục từ khi thành lập huyện đến nay. Rừng tạp, thảm cỏ cũng được cải tạo thành rừng luồng, keo, xoan, lát. Riêng cây quế mấy năm gần đây bị mất giá nên đồng bào không còn trồng. Chỉ còn lại một ít diện tích ở Sơn Điện, Na Mèo, Tam Lư, Tam Thanh và Ban Quản lý rừng phòng hộ Na Mèo, nhưng chất lượng rừng bị giảm nhiều. Cây co phèn [cây chủ thả cánh kiến] trước đây co nhiều dọc sông Lò, sông Luồng, nhất là xã Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Điện, Mường Mìn, Sơn Thủy nay rất hiếm. Sản lượng cánh kiến hằng năm không đáng kể. Nếu việc này được khôi phục chắc sẽ tạo việc làm và thu nhập tốt vì hiện nay thị trường cánh kiến đỏ đang khan hiếm. - Khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên: đây là một biện pháp kỹ thuật lâm nghiệp tác động để phục hồi rừng, phát triển rừng ít tốn kém mà hiệu quả lớn, đa dạng. Trong đó ngoài việc phục hồi rừng còn yếu tố môi trường rất tốt do không phát dọn, không đốt nên không tạo xói mòn, không diệt phá mầm hạt. Huyện Quan Sơn luôn chú ý đến biện pháp khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên. Đến nay nhiều khu rừng đã phục hồi và phát triển tốt, đa dạng sinh học, rừng nhiều tầng rất đẹp, có tác dụng phục hồi tốt. Riêng giai đoạn năm 2001 đến năm 2010, huyện Quan Sơn đã khoanh nuôi tái sinh được 10.815 lượt ha. Các chương trình dự án 661; 147 và 30a là 9.165ha, dự án khác 1.650ha. Tuy nhiên, do rừng mới phục hồi chưa có sản phẩm khai thác nên tạm thời người lao động chưa có thu nhập. Nhưng chi phí đầu tư khoanh nuôi tái sinh thấp chỉ từ 200.000 đồng - 500.000 đồng/ha/năm [tính cả công và chi phí khác], do vậy khi có sản phẩm cho thu hoạch chủ rừng và người lao động sẽ có lợi nhuận cao. Nhìn tổng quan, ta thấy tài nguyên rừng ở huyện Quan Sơn phong phú. Quan Sơn có nhiều rừng gỗ, nứa, vầu, giang, bương, cây dược liệu và lâm sản khác trong rừng. Trên địa bàn huyện Quan Sơn diện tích đất lâm nghiệp hầu như không có đồi trọc. Độ che phủ rừng cao nhất toàn tỉnh. Nhiều diện tích rừng trồng đã đến tuổi khai thác, cho sản phẩm và có thu nhập khá cao. Nhiều tiểu khu rừng tự nhiên độ tàn che trên 0,7 đó là những tiềm năng và lợi thế cho huyện Quan Sơn phát triển đi lên từ nghề rừng. Rừng trồng cũng được chú ý phát triển mạnh nhất là luồng, mỗi năm tăng 300 - 500ha. Những năm gần đây thu nhập lâm nghiệp thông qua tiểu thủ công nghiệp [chế biến tại chỗ] từng bước được tăng lên nhất là dọc các tuyến đường 217, đường liên xã, đường vành đai biên giới, nhiều cửa hàng, cửa hiệu, nhiều xưởng chế biến đã mở ra. Đây là hướng đi tích cực để tận dụng tài nguyên góp phần bảo vệ, phát triển rừng. Giảm khai thác tiêu thụ hàng thô về lâm sản sẽ tiết kiệm tài nguyên, tạo việc làm mới ổn định, nâng cao giá trị hàng hóa, sản phẩm. Như vậy, có thể nhận thấy rằng, huyện Quan Sơn đã xác định thế mạnh của kinh tế rừng. Tiến tới cần xây dựng khu chế biến lâm sản tập trung theo quy hoạch để có đầu tư thỏa đáng cho việc phát triển kinh tế rừng bền vững. Việc tăng cường quản lý bảo vệ rừng, trồng chăm sóc khoanh nuôi phát triển rừng những năm qua đã được chú ý đúng mức. Trồng rừng luồng thuần loài tạo vùng nguyên liệu hàng hóa nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro do luồng bị mất giá, khuy [thoái hóa] thì thu nhập của người dân sẽ rất khó khăn. Nứa, vầu nhiều nhưng nhiều nơi khai thác không đúng quy trình kỹ thuật, cường độ chặt quá lớn làm giảm khả năng sinh trưởng phục hồi rừng, rừng bị thoái hóa. Nứa loại 1, 2, 3 giảm nhiều chỉ còn loại 4 và tép, giá trị thấp. Rừng gỗ cần được chú ý quản lý bảo vệ. Một số xưởng chế biến luồng, nứa, vầu cần chú ý đến bảo vệ môi trường. Nhiều diện tích đất lâm nghiệp là rừng tự nhiên có độ che phủ cao nhưng độ tàn che thấp [rừng nghèo], nứa, vầu cần có biện pháp khai thác hợp lý, có biện pháp kỹ thuật để chăm sóc khoanh nuôi, ngừng khai thác có thời hạn để cho rừng phục hồi. Rừng ở huyện Quan Sơn còn nhiều độ che phủ, độ tàn che cao là thế mạnh cả về kinh tế và môi trường ở trên địa bàn của huyện. Song, cần quan tâm chú ý việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng tuân thủ quy định về quy trình kỹ thuật cường độ khai thác, nhất là với nứa, vầu, luồng để không làm cho rừng nghèo kiệt, thoái hóa. Việc khai thác chế biến lâm sản trên địa bàn cần có quy hoạch đồng bộ với các giải pháp bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi thiên nhiên, góp phần ứng phó biến đổi khí hậu. Quan Sơn có nhiều biện pháp để thúc đẩy phát triển kinh tế lâm nghiệp, đẩy mạnh chuyển đổi, cải tạo rừng nghèo kiệt sang cây trồng có giá trị kinh tế, đồng thời tăng cường bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng. Phát triển các mô hình trang trại rừng, tăng số lượng từ 15 trang trại với doanh thu bình quân 40 triệu đồng/trang trại năm 2010, lên 22 trang trại, doanh thu 70 triệu đồng/trang trại năm 2015. Các sản phẩm lâm nghiệp chủ yếu tiếp tục tăng, từ năm 2010 đến năm 2015, khai thácgỗ tăng từ 2.395m3 lên 2.917m3, khai thác củi giảm từ 61.000Ste xuống 60.000Ste, khai thác tre, luồng giảm từ 1.756 nghìn cây xuống còn 1.645 nghìn cây do chế biến giảm, khai thác nứa giấy tăng từ 40.500 tấn lên 59.120 tấn. Nhìn chung, rừng ở huyện Quan Sơn còn nhiều tài nguyên, đất lâm nghiệp bình quân đầu người còn khá lớn. Nếu Quan Sơn có chiến lược sử dụng rừng và đất lâm nghiệp đúng quy hoạch, kế hoạch, đúng quy trình kỹ thuật thì rừng và đất lâm nghiệp sẽ là nguồn lợi lớn, là nguồn thu nhập chủ yếu hàng ngày của người dân.
  2. Thủy sản Mạng lưới sông suối trên địa bàn huyện phong phú. Ngoài ra, ở trong các làng bản còn có các khe suối nhỏ khác. Từ những lợi thế trên, từ rất lâu đời người dân nơi đây đã biết khai thác sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước vào sản xuất cũng như đánh bắt và nuôi trồng thủy sản góp phần bổ sung nguồn thức ăn hàng ngày. Đánh bắt nguồn thủy sản là một hoạt động kinh tế bổ trợ nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống. Bởi vậy, người dân bản địa nơi đây đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm trong việc đánh bắt và có nhiều loại dụng cụ đánh bắt khác nhau, với nhiều kỹ thuật đánh bắt phong phú và đa dạng. Là huyện miền núi nên tiềm năng về phát triển thủy sản của Quan Sơn không nhiều. Các hoạt động về thủy sản của người dân chủ yếu khai thác, đánh bắt tự nhiên và nuôi thủy sản trên các ao hồ nhỏ mang tính tự cấp, tự túc. Nuôi trồng thủy sản của huyện chủ yếu tận dụng diện tích ao hồ, mặt nước để nuôi thả. Diện tích nuôi trồng năm 2000 là 63,1ha với sản lượng đạt 117,2 tấn; Năm 2005, diện tích nuôi trồng là 76ha, sản lượng 130 tấn; đến năm 2010 diện tích nuôi trồng là 69,7ha, sản lượng đạt 122 tấn. Góp phần tăng thu nhập cho người dân trên địa bàn. Năm 2000, giá trị sản xuất ngành thủy sản đạt 0,86 tỷ đồng, đến năm 2005 tăng lên 1,2 tỷ đồng, năm 2010 đạt 1,39 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân hằng năm cả thời kỳ 2000 - 2010 là 4,5%. Tỷ trọng thủy sản trong nội bộ ngành nông lâm thủy sản chiếm 1,6% năm 2005 và giảm còn 1,1% vào năm 2010. Năm 2015, sản lượng thủy sản đạt 245 tấn, tăng gấp 1,3 lần so với năm 2010, giá trị sản xuất thủy sản tăng từ 04 tỷ đồng lên 11 tỷ đồng, góp phần tạo nguồn thực phẩm và thu nhập cho một số hộ nông dân. 5.2.2.2. Công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng
  3. Công nghiệp, thủ công nghiệp Số cơ sở sản xuất công nghiệp của Quan Sơn chủ yếu là các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp mang dáng dấp công nghiệp, chưa có cơ sở công nghiệp hiện đại. Cơ cấu ngành công nghiệp chủ yếu đang thuộc về chế biến nông sản và các cơ sở sản xuất gạch. Mặc dù huyện có thế mạnh về lâm sản nhưng ngành công nghiệp chế biến lâm sản chưa phát triển mạnh, chủ yếu là sơ chế, như các xưởng đũa luồng, tăm mành từ nứa vầu... Tuy vậy, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công ghiệp của huyện vẫn duy trì được tốc độ phát triển khá, giá trị sản xuất [giá 2010] tăng bình quân 20,4%/năm, năm 2015 đạt 54 tỷ đồng. Trong 5 năm 2011 - 2015, số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng lên gấp 2,1 lần, từ 321 cơ sở lên 670 cơ sở, nên đã góp phần tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện. Các sản phẩm chủ yếu gồm khai thác sản xuất vật liệu xây dựng [đá, cát, sỏi, gạch], sản phẩm may mặc, chế biến thức ăn gia súc, sản xuất nông cụ, chế biến lâm sản [đũa, tăm, ván ép], dịch vụ sửa chữa cơ khí, sản xuất đồ mộc, đồ dân dụng. Hiện tại trên địa bàn huyện có quy hoạch cụm công nghiệp Trung Hạ và cụm công nghiệp Sơn Điện. Sự phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã tận dụng được thời gian lao động nông nhàn ở nông thôn, tăng thêm thu nhập cho người lao động, giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong huyện. Song nhìn chung, các cơ sở công nghiệp trên địa bàn huyện có quy mô còn nhỏ, hiệu quả hoạt động còn thấp, các cơ sở sản xuất phát triển chưa đồng đều giữa các vùng, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, vốn đầu tư thấp, phổ biến vẫn là vốn kinh tế hộ cá thể, sức thu hút lao động và thu hút đầu tư chưa hấp dẫn. Vấn đề vay vốn của các doanh nghiệp và các hộ sản xuất theo chính sách Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn đã tác động không nhỏ đối với phát triển ngành nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Đồng thời, thị trường tiêu thụ chưa được khai thông, sản xuất hàng hóa, khai thác nội lực tại chỗ còn yếu; thiếu vốn, thiếu công nghệ sản xuất, đặc biệt là thiếu khoa học kỹ thuật và lao động chất lượng cao. Bảng 31: Sản phẩm công nghiệp chủ yếu, giai đoạn 2011 - 2015[ ] TT Chỉ tiêu ĐVT 2005 2010 2015 TT [%/năm] 2006 -2010 2011 - 2015 GTSX [giá 1994] tỷ đồng 3,1 7,6 20,0 19,6 21,4 2 GTSX [giá 2010] tỷ đồng 17,0 43,0 20,4 3 GTSX [giá thực tế] tỷ đồng 16,3 54,0 4 Một số sản phẩm chủ yếu 5 Đá hộc khai thác 1.000m3 24,2 38 56 9,4 8,1 6 Cát sỏi các loại 1.000m3 6,2 13 20 16,0 9,0 7 Gạo ngô xay xát Tấn 3.940 7.221 8.300 12,9 2,8 8 Gỗ xẻ các loại 1.000m2 376 520 6,7 9 Gạch xây các loại 1.000 viên 860 1.468 1.879 11,3 5,1 10 Giường tủ các loại cái 522 1.279 1.544 19,6 3,8

Về nghề thủ công, trước đây người Thái có nghề trồng bông dệt vải thô để tự túc và làm chăn hoa “Pha lai” bằng sợi đen, trắng rất đẹp. Ngày nay, nghề này hầu như không còn phổ biến như trước, nghề trồng dâu nuôi tằm để làm “phá” tức vải thổ cẩm làm chăn, đệm và trang trí vì có hoa văn phong phú, đa dạng, đẹp mắt có thể làm thành hàng hóa, đặc biệt là dùng làm “chướng kha” tức là sắm đồ cho thiếu nữ đến tuổi kết hôn về nhà chồng như: chăn, đệm, gối, đủ cho đôi vợ chồng trẻ; đệm cho ông bà nội và 1 bộ đệm biếu cho cậu, mợ bên ngoại, ngoài ra còn có chăn, đệm dành cho tiếp khách. Vì thế xưa có câu “ngủ nhà Thái, không lo chăn đắp”. Nghề thêu dệt, làm phá thổ cẩm, làm váy mặc hiện nay vẫn phát huy truyền thống như xưa, nghề đan lát, mộc có từ xưa đến nay, nhưng vẫn chưa được cải tiến nhiều, chỉ làm để tự cung tự cấp, chưa thành hàng hóa, chưa có thợ chuyên nghiệp. Một số nghề truyền thống như dệt thổ cẩm đang được khôi phục lại ở các bản, nhưng chưa tập trung thành làng nghề. Hoạt động kinh tế tiểu thủ công nghiệp của Quan Sơn còn chịu sự chi phối bởi tập quán sản xuất của cư dân. Nghề thủ công truyền thống phản ánh sinh động tiềm năng, trí tuệ và sức lao động cần mẫn của con người trong tiến trình lịch sử. Dù vậy, thủ công nghiệp vẫn nằm trong khuôn khổ của kinh tế tiểu nông, chưa trở thành nghề chuyên môn hóa, vẫn tồn tại dưới hình thức cá thể hộ gia đình.

  1. Xây dựng Xây dựng là ngành thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Đối với huyện Quan Sơn, trong những năm qua, ngành xây dựng có những bước phát triển nhanh trên cả phương diện công trình dân dụng và các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, giao thông vận tải, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế. Từ lâu đời, đồng bào các dân tộc huyện Quan Sơn đã biết sử dụng các nguyên liệu của núi rừng như: tre, nứa, mây, gỗ,... làm nhà sàn để ở. Về mặt kiến trúc, cách thức làm nhà ở được trình bày ở chương sáu của cuốn địa chí này. Ở đây chỉ đề cập đôi nét về công trình xây dựng. Dưới thời các triều đại phong kiến và chế độ thực dân Pháp, việc xây dựng các công trình theo kiểu mới trên vùng đất Quan Sơn không có gì đáng kể. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến kết thúc 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, do điều kiện chiến tranh và tình hình kinh tế - xã hội chưa phát triển, việc xây dựng được tiến hành tương đối chậm. Chủ yếu là xây dựng các công trình công cộng như: đường giao thông, cầu cống, đập, hồ, công sở, trường học, trạm xá... phục vụ cho sản xuất, đời sống và các lợi ích công cộng. Trong các giai đoạn tiếp theo, ở vùng nông thôn miền rừng núi như Quan Sơn, việc xây dựng theo phương thức truyền thống vẫn được duy trì. Mặt khác, cùng với sự di dân của đồng bào miền xuôi lên, việc xây dựng đường giao thông, nhà cửa cũng được tiến hành, làm thay đổi cảnh quan của địa phương. Bên cạnh một số nhà sàn, nhà trệt truyền thống của đồng bào các dân tộc địa phương, ngày càng có nhiều ngôi nhà của đồng bào Kinh, được xây dựng bằng các nguyên liệu như gạch, ngói, xi măng... theo kiểu dáng hiện đại. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới [1986], và khi huyện Quan Sơn được thành lập [1996], sự ra đời của thị trấn và các trung tâm thị tứ, việc xây dựng được đẩy mạnh. Các cơ quan, trụ sở của Đảng, Chính quyền, Ban, Ngành chuyên môn, trường học, bệnh viện, nhà văn hóa, đường giao thông, Đài phát thanh, truyền hình, Bưu điện... ngày một khang trang, hiện đại. Tại các xã, cuộc vận động kiên cố hóa đường sá, xây dựng trạm điện, trạm xá, trường học, trụ sở Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã, Nhà Văn hóa, chợ... thu được nhiều kết quả. Bộ mặt bản làng, đời sống của đồng bào các dân tộc ở huyện Quan Sơn ngày càng được đổi mới và cải thiện. Các công trình thủy lợi, như hồ, đập, trạm bơm nước được chú trọng xây dựng để chống lũ lụt, đảm bảo nước tưới tiêu cho cây trồng nông, lâm nghiệp và đáp ứng yêu cầu nước của công nghiệp... Tốc độ, quy mô xây dựng đang ngày càng nhanh chóng, hiện đại hơn trước. Bước sang giai đoạn 2011- 2015, ngành xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân 13,5%/năm. Trên cơ sở các quy hoạch đã được phê duyệt, trong đó xây dựng kết cấu hạ tầng với trọng tâm là phát triển giao thông, hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, dịch vụ, công nghiệp. Đến nay nhiều công trình đã cơ bản hoàn thành và đưa vào sử dụng như: đường tuần tra biên giới, đường Sơn Thủy - Na Mèo, đường Sơn Hà - Tam Lư, cầu thị trấn Quan Sơn, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. 5.2.2.3. Giao thông vận tải Giao thông vận tải có vai trò đảm bảo cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội giữa các vùng miền, là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế khác. Mọi hoạt động kinh tế trên địa bàn huyện Quan Sơn được thực hiện chủ yếu bằng đường bộ và đường sông, ngoài ra cũng có thể sử dụng đường hàng không qua Cảng hàng không Thọ Xuân. Trong đó, hệ thống giao thông đường bộ có vai trò quan trọng nhất trong việc kết nối kinh tế - xã hội của huyện với các huyện khác trong và ngoài tỉnh.
  2. Đường bộ - Quốc lộ 217 nối với Quốc lộ 1A tại thị trấn Lèn, huyện Hà Trung - tỉnh Thanh Hóa lên Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo sang tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đoạn qua huyện Quan Sơn dài 75,2km: Km 120+200 [thuộc địa phận xã Trung Hạ] đến km 195+400 [Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo]. Đường 217 là đường quốc lộ cấp 4 miền núi, chiều rộng nền 7,5m; mặt đường 6,5m. Đường 217 thi công vào ngày 01 tháng 12 năm 1955, hoàn thành tháng 4 năm 1956, rải nhựa mặt đường năm 1976, năm 1990 và nâng cấp hoàn thành năm 2015, hiện nay chiều rộng mặt đường là 7,5m đã được rải thảm nhựa. - Đường nối các huyện phía Tây Thanh Hóa [nay là Quốc lộ 16]: bắt nguồn từ tỉnh Sơn La, qua huyện Mường Lát - Thanh Hóa, đi qua các xã biên giới của huyện Quan Sơn như: Sơn Thủy, Mường Mìn, Sơn Điện, Sơn Lư, Sơn Hà về Yên Khương, huyện Lang Chánh, tiếp tục kéo dài vào phía nam. Quốc lộ 16 đoạn đi qua huyện Quan Sơn dài 42,7km, nền đường rộng 6,0m, mặt nhựa 3,5 m, thi công năm 2009 - 2010. Trong đó đi trùng vào Quốc lộ 217 từ km 173+370 [bản Luốc Làu xã Mường Mìn] xuống đến km 145+020 [bản Păng, xã Sơn Lư] dài 28,35km. - Đường tuần tra biên giới của Biên phòng đi theo đường biên giới của huyện Quan Sơn, dài 69,1 km, khởi công từ năm 2010 đến nay đã hoàn thành. - Đường liên xã, gồm có các tuyến đường sau: + Đường Trung Hạ - Trung Xuân [giao với Quốc lộ 217 tại km 125 + 60] dài 6km, nền đường rộng 6,0m, mặt đường rải nhựa 3,5m. Từ Trung Xuân có đường mòn rộng 1,5m qua Pha Lý ra Hồi Xuân tại cửa sông Lò dài 8km. + Đường bản Xày [giao với Quốc lộ 217 tại km 126+380] vào xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh, đoạn qua bản Xày xã Trung Hạ dài 4km, dân địa phương thường gọi tuyến đường này là đường Xày - Tiên. + Đường từ Km 129+860 - Quốc lộ 217 [thuộc địa phận xã Trung Tiến] đi Nam Động - Quan Hóa. Đường dài 21km, rộng 3,5m, do đội thanh niên tình nguyện 426 thi công năm 1978. Hiện tại đang tiến hành nâng cấp đường mặt nhựa đến bản Chiềng, xã Nam Động, huyện Quan Hóa, dài 9km. + Đường Sơn Lư - Tam Lư - Tam Thanh lên biên giới Việt - Lào Mường Pao dài 18km, nền đường rộng 6,0m, mặt nhựa 3,5m. + Đường từ Km 164+580 - Quốc lộ QL217 đi bản Xa Mang, xã Sơn Điện sang bản Pa, xã Tam Thanh dài 12km [đoạn từ bản Xa Mang, xã Sơn Điện đến bản Pa, xã Tam Thanh chưa xây dựng], nền đường rộng 5,0m, chưa xây dựng phần mặt đường. + Đường mòn liên xã, liên huyện từ km 166+200 - Quốc lộ 217 qua bản Ngàm, Na Hồ xã Sơn Điện đi qua bản Bau, bản Lở - huyện Quan Hóa nối với tuyến đường Hồi Xuân - Mường Lát tại bản Chiềng xã Nam Động, đường rộng 2 - 3m, đường đất chỉ lưu thông xe thô sơ, đi bộ, đi ngựa được, tuyến đường dài 21km. Đoạn qua huyện Quan Sơn dài 7km. Trước năm 1957 khi chưa có đường 217, tuyến đường này là mạch giao thông đường bộ chủ yếu đi từ Cửa khẩu Na Mèo xuống Hồi Xuân - Quan Hóa dài trên 80km. + Đường từ bản Luốc Làu, xã Mường Mìn [giao với Quốc lộ 217 tại km 137+370] đi Sơn Thủy lên km 185+700 [Quốc lộ 217] bản Sộp Huối, xã Na Mèo dài 15 km. Trong đó đoạn trùng với đường vành đai biên giới từ km 173+370 Quốc lộ 217 đến trụ sở xã Sơn Thủy dài 6km, nền đường rộng 6m, mặt đường rải nhựa 3,5m. Các tuyến đường xã có chiều dài lớn, gồm có: + Đường từ bản Cha Lang [km 122+800 - Quốc lộ 217] đi bản Xanh, xã Trung Hạ dài 5 km, đường đất rộng 3,5m. + Đường từ Km 130+30 - Quốc lộ127 qua bản Lốc vào bản Toong dài 2 km, đường đất rộng 3m. + Đường nối từ Quốc lộ 217 đến bản Cum đi bản Tiên, xã Lâm Phú nối với tuyến đường bản Xày vào Lâm Phú tại bản Tiên, đường đất rộng 4,5m, đoạn qua đất Quan Sơn dài 3km. + Đường từ Km 132+780 - Quốc lộ 217 [trung tâm xã Trung Tiến] vào bản Pa Chè, Cum, xã Trung Tiến dài 1,5km, nền đường 5m, mặt đường bê tông 3,5m. Từ bản Cum đến bản Hón Sài, xã Lâm Phú dài 13,5km, đường đất rộng 3,5m. + Đường Máy - Bàng từ phía Bắc cầu Pha Lò [km 140+150 - Quốc lộ 217] vào bản Máy đến bản Bàng, xã Trung Thượng dài 6km, nền đường 6m, chưa xây dựng mặt đường. + Đường nối từ đường Máy - Bàng lên bản Khạn, xã Trung Thượng dài 4,5 km, đường đất rộng 6m. + Đường từ Km 159+820 - Quốc lộ 217 [thuộc địa phận bản Bun] đi bản Na Hồ, Na Phường, Sủa, xã Sơn Điện kéo dài đến bản Bâu, xã Nam Động, huyện Quan Hóa dài 9 km, mặt đường đất rộng 3,5m. + Đường từ Km 173+990 [thuộc địa phận bản Mìn] qua bản Yên đến Đồn Biên phòng Mường Mìn, xã Mường Mìn dài 10 km, nền đường 6m, mặt đường cấp phối rộng 3,5m. + Đường từ Km 186+650 - Quốc lộ 217 [tại bản Sộp Huối] đi bản Na Poọng, Cha Khót, xã Na Mèo dài 12km, mặt đường rộng 3,5m, mặt đường đất. + Đường bản Na Mèo đi qua bản Ché Lầu, xã Na Mèo đến bản Mùa Xuân xã Sơn Thủy dài 25km, do Bộ đội biên phòng Thanh Hóa thi công năm 2008, có 2km đường nhựa với chiều rộng nền 6m, mặt 3,5m còn lại là đường đất rộng 3,5m. + Đường từ bản Hiềng đi bản Sa Ná, bản Son, bản Ché Lầu xã Na Mèo dài 12km mặt đường đất rộng 3,5m. + Đường từ bản Thủy Thành đi Ka Lóc qua Pha Lài lên bản Mùa Xuân xã Sơn Thủy dài 25 km, mặt đường đất rộng 3,5m. + Đường từ bản Muống qua bản Khà lên bản Mùa Xuân, Xia Nọi, xã Sơn Thủy dài 24 km, đường đất rộng 3,5m.
  3. Đường thủy Giao thông đường thủy ở huyện Quan Sơn gồm có sông Lò, sông Luồng và các suối lớn như: Suối Xia, suối Hạ, suối Đe, trước những năm 1980, các tuyến sông suối này nhân dân thường vận chuyển bè, mảng hoặc kéo luồng, nứa, gỗ, vầu theo dòng nước. Nhất là sông Lò, sông Luồng trước những năm 1970 là mạch giao thông đường thủy chính ở Quan Sơn. Mỗi năm, hai con sông này vận chuyển hàng triệu cây nứa, vầu, luồng, hàng nghìn m3 gỗ tròn về sông Mã - Hồi Xuân bán cho Nhà nước. Nay tuyến giao thông đường thủy ít sử dụng do nguồn nước cạn, vận chuyển khó khăn, năng suất thấp, mất nhiều thời gian, công sức, hơn nữa giao thông đường bộ phát triển, xe vận tải các loại thuận tiện cho việc vận chuyển lưu thông hàng hóa hơn đường thủy.
  4. Vai trò của hệ thống giao thông thủy bộ trên địa bàn huyện Quan Sơn Quốc lộ 217: đường Quốc lộ 217 bắt nguồn từ Thị trấn Lèn huyện Hà Trung - Thanh Hóa chạy lên Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo sang nước bạn Lào, dài 195,4km. Đoạn qua huyện Quan Sơn, từ xã Trung Hạ [từ km 120+200] lên đến Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo [195+400] dài 75,2 km. Quốc lộ 217 là huyết mạch giao thông đường bộ chạy qua huyện Quan Sơn. Từ khi được khai thông đến nay nó đã phát huy tác dụng con đường phục vụ dân sinh, kinh tế quốc phòng - an ninh trên địa bàn huyện nói riêng, thông thương giữa Thanh Hóa - Hủa Phăn và Việt Nam - Lào nói chung. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Quốc lộ 217 ngày đêm vận chuyển lương thực, thực phẩm, hàng hóa, thuốc men, đạn dược, phương tiện... phục vụ nhân dân các dân tộc huyện Quan Hóa cũ, nay là huyện Quan Sơn, đảm bảo đời sống nhân dân giữ yên biên giới, chiến đấu bắn trả máy bay Mỹ bảo vệ quê hương, cầu đường quốc lộ, giữ vững mạch giao thông, tiếp tế cho chiến trường thượng Lào. Đặc biệt là căn cứ địa cách mạng Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, nơi Trung ương cách mạng Lào đặt căn cứ giáp với huyện Quan Sơn. Do ý nghĩa và tầm quan trọng đó nên máy bay Mỹ đánh phá ác liệt cả ngày lẫn đêm. Những điểm xung yếu như: cầu Pha Lò km 140+150, cầu suối Yên km 172+200, cầu suối Cài km 191+180, cầu Na Mèo; các đỉnh núi khúc cua nguy hiểm như km 130+30, km 156, km 175, km 182, km 193, 194 Các bãi tập kết kho tàng phương tiện vận tải của ta ở km 168+600, km 191+500, km 191 là trọng điểm quan trọng máy bay Mỹ bắn phá hầu như 24/24h, chúng đã thả xuống những nơi này hàng chục ngàn tấn bom đạn, đủ các loại, các cỡ. Trong đó có cả bom nổ chậm, bom Na pan, bom tấn, bom bi sát thương... Dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền, nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn đã dồn hết sức người, sức của cùng bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến giữ vững mạch giao thông, giặc phá ta sửa, bom đào, ta lấp, giặc đánh ban ngày, ta sửa ban đêm, giặc đánh cả ngày đêm ta sửa cả đêm lẫn ngày. Cứ ngớt tiếng bom thì hàng đoàn người từ lực lượng xung kích của địa phương cùng bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến lại lao ra đường lấp hố bom, sửa cầu, sửa đường cho xe và người đi qua. Là tuyến huyết mạch giao thông giữa Việt Nam lên thượng Lào trực tiếp với căn cứ Trung ương Cách mạng Lào, có ngày hàng trăm xe quân sự vận chuyển người, phương tiện, đạn dược, lương thực, thực phẩm sang giúp nước bạn Lào nhưng không bị thiệt hại đáng kể do con đường 217 luôn được đảm bảo thông suốt. Năm 1966, tại cầu Pha Lò [sông Lò] km 140+150, dân quân 2 xã Trung Hạ, Tam Lư đã bắn cháy máy bay phản lực Mỹ bằng súng bộ binh [xã Trung Hạ [năm 1966] bao gồm các xã: Trung Hạ, Trung Tiến, Trung Xuân, Trung Thượng; xã Tam Lư bao gồm: Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Hà, Sơn Lư và thị trấn Quan Sơn hiện nay]. Sau khi hòa bình lập lại, Quốc lộ 217 được tu sửa, nâng cấp, rải nhựa [1976 - 1990] là đường giao thông huyết mạch xuyên qua huyện, phát huy tác dụng thông thương, vận chuyển hàng hóa. Mỗi năm Quốc lộ 217 lưu thông hàng ngàn lượt xe đến lấy hàng tại huyện Quan Sơn hoặc chuyên chở hàng hóa sang nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Từ khi thành lập huyện đến nay, ngoài sử dụng tại chỗ, mỗi năm huyện Quan Sơn xuất ra ngoài huyện hàng trăm ngàn tấn nan thanh, hàng triệu cây vầu, nứa, luồng, hàng ngàn m3 gỗ cũng chính là nhờ tuyến đường 217. Ngoài việc phục vụ dân sinh, kinh tế, quốc phòng - an ninh, đường 217 còn có tác dụng nâng cao dân trí, văn hóa cho đồng bào các dân tộc trong huyện. Nhờ có đường 217 mà các đoàn nghệ thuật của tỉnh, của trung ương đến lưu diễn. Viễn thông Viettel, Vinaphone đến lắp đặt sóng truyền hình. Điểm Bưu điện văn hóa xã, các trường học được Nhà nước xây dựng mới khang trang ở hầu hết các trung tâm xã, thị trấn của huyện, hàng hóa, hành khách lưu thông thuận lợi, tạo mối giao lưu giữa các vùng miền trong và ngoài huyện. Đảng bộ và nhân dân huyện Quan Sơn coi đường 217 là cột sống của mình, là huyết mạch chính trong cả thời chiến lẫn thời bình, giúp cho kinh tế, đời sống của nhân dân địa phương phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Đồng thời tăng cường mối tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào cũng có một phần tác dụng của tuyến đường 217. Quốc lộ 16: đoạn qua huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa dài 42,7 km, là tuyến đường phục vụ dân sinh, kinh tế - quốc phòng - an ninh của huyện và cả nước. Từ khi Nhà nước thi công và đưa vào sử dụng đường vành đai biên giới nhiều khu dân cư của huyện đã thoát khỏi cảnh biệt lập, được thông thương với bên ngoài, đời sống tinh thần vật chất của đồng bào biên giới được nâng lên rõ rệt như: khu vực Vũng Cộp, hang Bo Cúng, bản Chanh, bản Hiết, bản Muống, xã Sơn Thủy, bản Hạ, bản Làu, bản Xum, xã Sơn Hà... Những địa phương này khi chưa có đường vành đai biên giới đi qua là vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn, đời sống nhân dân gặp nhiều gian khổ nhưng chưa có cách nào để tự thoát ra được. Khi có đường vành đai biên giới chạy qua đồng bào như thể mình được khai thông giải phóng đã có đường đi, lối lại đàng hoàng. Có đường đi lại, đồng bào mua được xe máy, ô tô, công nông, máy cày, máy bừa, làm được nhà mới cho mình ở, chở vật liệu vào xây mới trường lớp cho con em học hành, giao lưu mua bán hàng hóa, từ đó thoát khỏi cảnh vùng sâu, vùng xa hẻo lánh xưa kia, tốc độ giảm nghèo nhanh hơn trước. Đây là những tác dụng nhìn thấy trực tiếp của tuyến đường mà đồng bào miền núi vùng cao nói chung, nhân dân các dân tộc huyện Quan Sơn nói riêng được thụ hưởng đường vành đai biên giới Quốc gia. Nhờ có đường vành đai biên giới, nhiều khu dân cư mới được mở ra làm nơi trao đổi mua bán hàng hóa, dân số vùng cao tăng lên góp phần giữ vững an ninh biên giới. Quốc lộ 16 đi qua huyện Quan Sơn bắt đầu từ Vũng Cộp, xã Sơn Thủy [nối với đường đi Mường Lát tại bản Chiềng - Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa] đến km 173+370 - Quốc lộ 217 [bản Luốc Lầu, xã Mường Mìn] dài 22,7 km. Từ km 145+20 - Quốc lộ 217 qua bản Hạ, bản Làu, bản Xum - xã Sơn Hà - huyện Quan Sơn đến giáp huyện Lang Chánh dài 20km, tổng 42,7 km. Từ km 173+370 đến km 145+20 - Quốc lộ 217 [bản Păng, xã Sơn Lư] trùng tuyến Quốc lộ 217 dài 28,35 km. Đường tuần tra biên giới: đường tuần tra biên giới do bộ đội biên phòng quản lý, phục vụ việc tuần tra bảo vệ đường biên, cột mốc biên giới trên địa bàn toàn huyện nói riêng, cả tỉnh, cả nước nói chung. Tuy nhiên, nó cũng góp phần giao lưu thông thương hàng hóa, có vai trò như đường dân sinh cho các bản giáp biên giới. Đường liên xã: là các tuyến đường nối liền các xã trong huyện với nhau tạo thành sự thông thương, giao lưu hàng hóa, kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh và phục vụ cho việc lãnh đạo, chỉ đạo điều hành mọi công tác của Đảng, Chính quyền, đoàn thể các cấp đến với dân và nhân dân lên xã lên huyện làm việc dễ dàng, tạo sự gắn bó, gần gũi giữa dân với Đảng, Chính quyền với nhân dân, tạo sự liên kết gắn bó thông thương giữa các xã trong mọi hoạt động thời chiến cũng như thời bình. Đường liên xã thời nay hầu như đã đi được ô tô, xe máy nên rất thuận tiện cho kinh tế xã hội phát triển, góp phần giữ vững quốc phòng - an ninh trên địa bàn mà tuyến đường đi qua. Các tuyến đường liên thôn: đường liên thôn một số sử dụng từ đường quốc lộ, đường vành đai biên giới, đường tuần tra biên giới, đường liên xã... Chỗ nào không có các tuyến đường đó đi qua thì nhân dân xây dựng đường liên thôn, liên bản. Đường liên thôn chủ yếu do nhân dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí nên đường thường có khổ hẹp và chưa đạt chuẩn về độ dốc, độ cua, việc đi xe ô tô ít lưu hành được, chủ yếu là cho người đi xe máy, đi bộ. Đường liên thôn phần lớn được hình thành từ xa xưa, đến nay do đời sống xã hội phát triển, nhân dân tự tu sửa, mở rộng hoặc được Nhà nước hỗ trợ đầu tư nên một số tuyến đường đã rộng hơn, đi lại dễ dàng hơn, có thể đi xe máy và ô tô loại nhỏ. Đường liên thôn có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội bảo vệ quốc phòng - an ninh trên địa bàn, góp phần giữ vững an ninh biên giới. Nếu không có các tuyến đường đó thì mọi hoạt động ở địa phương sẽ khó khăn. Từ trước đến nay, các con đường liên thôn đã phát huy tác dụng góp phần vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước ngay tại địa bàn. Nhân dân huyện Quan Sơn mong rằng trong tương lai gần, đường liên thôn được mở rộng, nâng cấp để phục vụ tốt hơn nữa cho đời sống của đồng bào góp phần xây dựng nông thôn mới, xây dựng thành công công cuộc Công nghiệp hóa - hiện đại hóa trên địa bàn vùng núi Quan Sơn. Ngoài các thôn lợi dụng đường quốc lộ, đường vành đai, đường tuần tra, đường liên xã. Hiện nay, trên địa bàn huyện Quan Sơn có hàng chục tuyến đường liên thôn, có tổng chiều dài hàng trăm km, nằm khắp các thôn bản trong huyện. Ngoài tác dụng giao lưu kinh tế xã hội, đường liên thôn còn là cầu nối tình cảm thăm thân giữa bản này, bản kia, giữa nhân dân hai bên biên giới thông qua đường tiểu ngạch chính là các đường liên thôn được hình thành từ xa xưa giữa ta và bạn để lại cho đến ngày nay. 5.2.2.5. Hạ tầng điện, thủy lợi
  5. Về hệ thống điện Sau khi thành lập huyện, năm 1996 đến năm 2000, huyện Quan Sơn đã có lưới điện quốc gia về đến huyện. Đây là nỗ lực lớn của ngành điện lực cũng như sự cố gắng vượt qua khó khăn về địa hình chia cắt phức tạp của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân từ cấp huyện đến cấp xã, thị trấn để nhân dân trong huyện có điện phục vụ nhu cầu đời sống và sản xuất. Hiện nay, toàn huyện có 111 trạm biến áp, với 201km đường dây 35KV, 119,37km đường dây hạ thế 0,4KV. Có 93/99 bản với 8.395 hộ [chiếm 96%] được sử dụng điện lưới quốc gia. Còn lại 6 bản với 350 hộ chưa được sử dụng điện là: bản Mùa Xuân, bản Xia Nọi, bản Khà, bản Chanh, bản Sa Mang, bản Pa. Nhờ có hệ thống lưới điện quốc gia về đến các khu, bản, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân Quan Sơn được nâng lên, thông tin liên lạc được thông suốt, tạo điều kiện để người dân tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào thực tiễn lao động sản xuất, các ngành nghề, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, giao thông, thủy lợi có điều kiện phát triển hơn trước, khoảng cách về thông tin, hưởng thụ văn hóa của người dân miền núi được thu hẹp so với miền xuôi.
  6. Về thủy lợi Bên cạnh hệ thống thủy lợi cổ truyền, hiện nay huyện Quan Sơn còn có 127 đập thủy lợi và 287,2km kênh mương, phục vụ tưới, tiêu cho diện tích 972,9ha. Được sự quan tâm của Đảng và chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương, hệ thống thủy lợi trên địa bàn huyện đang được xây dựng theo hướng hiện đại hóa để phục vụ phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp của huyện Quan Sơn. 5.2.2.6. Thương mại, du lịch
  7. Thương mại Hoạt động thương mại có vai trò lưu thông phân phối hàng hóa ở các vùng đến được tay người tiêu dùng. Vì thế nên sản xuất càng phát triển, thì càng phải có sự cung ứng, trao đổi lưu thông các loại sản phẩm sản xuất. Thương mại góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, mang lại nguồn thu nhập cho người dân lao động. Ngoài ra, thương mại còn có khả năng tạo việc làm cho người lao động. Hoạt động thương mại còn góp phần tạo ra các mối quan hệ, trao đổi về văn hóa giữa con người ở các địa phương, các vùng miền khác nhau. Trước năm 1945, các hoạt động kinh tế trên vùng đất Quan Sơn về cơ bản vẫn là nền kinh tế tiểu nông mang tính chất tự cung tự cấp, trong đó kinh tế nông nghiệp [trước hết là trồng trọt và chăn nuôi] kết hợp với hoạt động săn bắn và hái lượm chiếm vị trí chủ đạo. Còn lại các lĩnh vực khác các nghề thủ công hay hoạt động buôn bán, chợ búa chỉ là mặt thứ yếu có tính chất bổ trợ trong thời gian nông nhàn. Tuy nhiên, do những tác động khách quan và chủ quan của một vùng đất biên giới, nền kinh tế hàng hóa của huyện Quan Sơn cũng bước hình thành và phát triển. Trước hết phải thấy rằng, vị trí địa lý, địa hình huyện Quan Sơn cũng khó khăn và phức tạp, dẫn đến hạn chế nhiều tới vấn đề giao lưu, giao thương nội vùng cũng như ngoại vùng. Do đó, trong suốt thời kỳ ngàn năm phong kiến, khi giao thông đường bộ còn chưa phát triển thì sự liên hệ giữa các bản làng trong huyện với nhau chủ yếu là những con đường mòn men đồi và men theo khe suối. Ngoài những con đường mòn truyền thống, dòng sông Luông, sông Lò cũng góp phần quan trọng, trở thành một tuyến đường thủy kết nối với vùng đồng bằng. Xưa kia, ở các bản làng người Thái, người Mường, bên cạnh hình thức trao đổi truyền thống vật đổi vật ngang giá. Và trong bối cảnh nền kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển thì người dân dần dần thích ứng với tiền, từng bước chuyển từ tiền xu, tiền bạc cho đến tiền giấy, tiền polimer như hiện nay là cả một quá trình phát triển của hoạt động thương mại và kinh tế thông qua trao đổi và buôn bán. Những sản phẩm của người nông dân ở Quan Sơn xưa kia dùng để trao đổi và buôn bán chủ yếu là những sản phẩm lương thực họ tự làm ra như lúa, ngô, sắn... và những hàng lâm sản khai thác được ngay trong không gian núi rừng như: măng khô, măng tươi, mộc nhĩ, nấm hương, mật ong, ... Trước khi người Kinh ở dưới đồng bằng lên đây trao đổi và giao lưu buôn bán thì những sản phẩm này người ta chủ yếu dùng để trao đổi giữa các gia đình với nhau, hay giữa bản này với bản khác, mường này với mường khác. Dần dần, thông qua con đường trao đổi và mua bán hàng hóa, nhiều cư dân Kinh ở những khu vực đồng bằng trong tỉnh và một số tỉnh ngoài cũng đã đến vùng đất Quan Sơn sinh sống, buôn bán và lập nghiệp, họ cư trú tập trung chủ yếu ở khu vực thị trấn, ngã ba, ngã tư của huyện. Hiện nay, hình thức buôn bán và trao đổi đã khác, đồng bào từ bỏ hình thức hàng đổi hàng, vật đổi vật và thay vào đó là quy sản phẩm hàng hóa ra tiền theo giá chung thị trường. Tuy vậy, hoạt động giao thương hiện nay ở huyện Quan Sơn chưa nhộn nhịp như các huyện miền xuôi. Nguyên nhân chính đó là cư dân sống thưa thớt, không tập trung, địa bàn chia cắt, giao thông đi lại khó khăn, đặc biệt là do đời sống kinh tế chưa phát triển cao, vì thế chưa kích thích sự hình thành và phát triển những trung tâm buôn bán sầm uất và trao đổi hàng hóa ngay trên địa bàn huyện. Trước đây, người nông dân đến với chợ không chỉ để mua bán và trao đổi hàng hóa mà còn để chơi chợ và ăn chợ; để giải tỏa những vất vả, lo toan của đời thường. Còn những nam thanh, nữ tú họ đến với chợ không chỉ đơn thuần để mua bán mà ý nghĩa lớn hơn đó là đi chơi chợ, và chợ còn là môi trường là không gian thuận lợi nhất để họ được gặp nhau tâm sự, tỏ tình, nhờ đó mà nhiều đôi nam nữ đã nên duyên vợ chồng từ những phiên chợ quê. Hiện nay, hệ thống đường bộ cho ô tô, xe gắn máy và khách hành bộ đi lại được mở ra nhiều tuyến, có thể đi từ thành phố Thanh Hóa lên Bái Thượng, từ Bái Thượng lên thị trấn Ngọc Lặc, và từ Ngọc Lặc đi thẳng lên Quan Sơn. Hoặc đi theo tuyến đường Quốc lộ 217 cũng đến được huyện và từ Quan Sơn qua Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo sang nước bạn Lào. Giao thông thuận tiện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các thương nhân từ miền xuôi thường xuyên qua lại nơi đây, các mặt hàng ở thị trấn, thị tứ ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, kích thích sự giao lưu và phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc trong huyện, tỉnh và cả các địa phương khác trong nước và nước ngoài. Đến nay, trên địa bàn huyện Quan Sơn tuy chưa có những trung tâm thương mại lớn xứng tầm mà vẫn chủ yếu là các điểm bán hàng như: thị trấn Quan Sơn, chợ cửa khẩu Na Mèo, chợ Sơn Hà, chợ Tam Thanh vẫn là những trung tâm thương mại quan trọng của huyện. Các mặt hàng bán ra chủ yếu vẫn là lâm thổ sản và sản phẩm chăn nuôi. Các mặt hàng mua vào chủ yếu là nhiên liệu, điện, vật tư nông nghiệp, phân bón, thuốc phòng trừ bệnh dịch, hàng tiêu dùng, các giống cây, giống con. Bên cạnh các chợ kể trên đang hoạt động thì trên các dãy phố chính ở thị trấn huyện phần lớn các gia đình đã tận dụng mặt tiền và không gian nhà ở của mình để mở các cửa hiệu bán hàng tạp hóa, các đại lý bán buôn bán lẻ, các nhà hàng ăn uống, góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hóa. Các hoạt động kinh doanh dịch vụ, thương mại tiếp tục được mở rộng, cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và cung ứng hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn. Đến giai đoạn 2011 - 2015, trung bình hằng năm số cơ sở kinh doanh dịch vụ thương mại tăng thêm khoảng 70 - 80 cơ sở; giá trị sản xuất dịch vụ thương mại tăng bình quân 12%/năm. Giá trị sản xuất dịch vụ thương mại [giá thực tế] năm 2015 đạt 426 tỷ đồng, tăng gấp 1,8 lần so mức năm 2010 [238 tỷ đồng]. Đến thời điểm năm 2015, toàn huyện có 850 cơ sở kinh doanh thương mại nhà hàng, khách sạn, thu hút trên 1,3 nghìn lao động; tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 234 tỷ đồng. Các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, sắt thép, xăng dầu, vật liệu xây dựng, hàng may mặc, tiêu dùng gia đình được lưu thông đến các xã. Các điểm trung tâm tập trung kinh doanh thương mại trên địa bàn huyện hiện có 05 địa điểm: thị trấn Quan Sơn, Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo và các tụ điểm kinh tế Km 19 Trung Hạ, Km 22 Trung Thượng, Km 61 Sơn Điện. Toàn huyện có 04 chợ đầu mối gồm chợ thị trấn huyện, chợ Cửa khẩu Na Mèo, chợ đường biên Tam Thanh và chợ Sơn Điện. Mạng lưới các điểm cung ứng xăng dầu hiện có 03 điểm gồm ở thị trấn huyện, khu vực cửa khẩu Na Mèo và Trung Thượng cơ bản đáp ứng yêu cầu phục vụ vận tải lưu thông hàng hóa trên trục quốc lộ đi Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo. Về xuất khẩu, năm 2015 giá trị hàng hóa xuất khẩu trên địa bàn đạt 1,6 triệu USD, tăng bình quân 10,9%/năm. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng tiểu thủ công nghiệp [tăm mành, đũa tre,...]. Cùng với hoạt động thương mại, các hoạt động dịch vụ của Quan Sơn cũng được duy trì và bắt đầu có tốc độ phát triển nhanh. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân, doanh nghiệp vay vốn tín dụng phát triển sản xuất. Tổng dư nợ tín dụng năm 2015 đạt 182,2 tỷ đồng, tăng gấp 1,2 lần so với năm 2010. Số cơ sở kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa, hành khách tiếp tục tăng lên, đến năm 2015, toàn huyện có 69 phương tiện vận tải [ô tô tải và xe khách], khối lượng vận chuyển đạt 105.000 tấn hàng hóa và 113,8 nghìn lượt hành khách, tăng gấp 1,4 lần về khối lượng hàng vận chuyển và 2,2 lần về khối lượng hành khách vận chuyển so với năm 2010. Hiện tại, mạng lưới giao thông trên địa bàn huyện nhất là Quốc lộ 217 đang tiếp tục được nâng cấp hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho dịch vụ vận tải lưu thông hàng hóa, hành khách ngày càng thuận lợi đến các trung tâm xã. Dịch vụ thông tin truyền thông phát triển nhanh, đến nay 100% số xã đã có các điểm phục vụ bưu chính, viễn thông. Trên địa bàn huyện có 01 bưu cục cấp II tại trung tâm huyện và 13 điểm bưu điện văn hóa xã, 80% các thôn, bản trên địa bàn các xã, thị trấn được phủ sóng thông tin di động, cung cấp các dịch vụ điện thoại cố định.
  8. Du lịch * Lợi thế và tiềm năng Du lịch là ngành kinh tế thuộc khu vực dịch vụ. Phát triển các ngành dịch vụ, trong đó có du lịch là nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh hiện nay, vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế là rất lớn. Huyện Quan Sơn có tiềm năng và điều kiện để phát triển du lịch. Du lịch phát triển góp phần mang lại nguồn thu nhập cho nền kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, đồng thời thúc đẩy nhiều ngành kinh tế và dịch vụ khác phát triển như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, sản xuất lương thực thực phẩm phục vụ du lịch, sản xuất các mặt hàng lưu niệm. Du lịch phát triển còn có tác động đến việc bảo vệ môi trường cảnh quan, bảo vệ tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, ngoài ra còn tăng cường mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, các địa phương trong nước và quốc tế. Vị trí địa lý của huyện Quan Sơn cũng phát huy được lợi thế cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và du lịch nói riêng. Nơi đây có Quốc lộ 217, nhiều tỉnh lộ chạy qua, có đường biên giới với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào dài 64 km với Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, là cầu nối giữa Thanh Hóa và huyện Quan Sơn với tỉnh Hủa Phăn của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào bằng hệ thống đường bộ qua các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ quan trọng. Những tuyến đường này giúp cho Quan Sơn mở rộng giao lưu kinh tế với các vùng miền trong tỉnh, với cả nước và khu vực trên mọi lĩnh vực. Trên địa bàn huyện Quan Sơn có nhiều điểm du lịch: Động Bo Cúng, Pha Dua [Sơn Thủy], động Nang Non [Sơn Lư]; Thác bản Nhài [Sơn Điện], Thác Ma Hao [Trung Hạ], thác Sao [Tam Thanh]; Phù Mằn, Cầu Pha Lò [Trung Thượng], hang Hòm [Trung Xuân]; Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo; không gian văn hóa Mường Mìn, Núi Lá Hoa - bản mùa Xuân, Xia Nọi, Pha Dùa, đền thờ Tư Mã Hai Đào, động Bo Cúng [Sơn Thủy], thác bản Nhài [Sơn Điện]. Quan Sơn có nhiều điểm du lịch tự nhiên có giá trị, đó là các thác nước, hang động trên địa bàn huyện. Những địa danh nổi tiếng của huyện cũng là những địa điểm du lịch thu hút khách trong và ngoài tỉnh nên có thể hình thành các tour du lịch từ Quan Sơn tới các địa phương khác và ngược lại. Khí hậu Quan Sơn rất thuận lợi để phát triển hệ sinh thái với những cảnh quan thiên nhiên đa dạng để phát triển du lịch. Cùng với lợi thế về tài nguyên du lịch, về hệ sinh thái rừng, Quan Sơn còn có di tích lịch sử - văn hóa, các lễ hội của đồng bào Thái nơi đây với những nét sắc thái truyền thống có ý nghĩa trong việc thu hút khách du lịch. Những nét đặc sắc của văn hóa các dân tộc Thái ở huyện Quan Sơn về ẩm thực, đồ uống, trang phục, nhà ở, cũng tạo thành một lợi thế trong việc thu hút du lịch. * Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất của ngành du lịch Du lịch của huyện Quan Sơn có nhiều tiềm năng, song muốn trở thành hiện thực thì phải được đầu tư, tổ chức. Điều này vẫn còn là một vấn đề lớn của huyện. Về giao thông phục vụ du lịch, cho đến nay tình trạng giao thông ở huyện Quan Sơn đã được cải thiện nhiều và trong kế hoạch sẽ được đầu tư hơn nữa để tạo điều kiện cho sự phát triển du lịch nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung. Phương tiện vận tải phục vụ du lịch chủ yếu là đường bộ với loại hình vận chuyển bằng ô tô... Hệ thống cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc phục vụ du lịch ở huyện Quan Sơn mới bước đầu hình thành nhưng cũng phần nào đáp ứng nhu cầu. Các cơ sở lưu trú trên địa bàn chưa phát triển. Dịch vụ ăn uống cũng còn phải tổ chức, cải tiến nhiều hơn nữa để bảo đảm các mặt cần thiết cho khách du lịch, như vệ sinh an toàn thực phẩm, kỹ thuật chế biến các món ăn dân tộc, vừa thể hiện tính chất đặc sản của địa phương vừa hợp khẩu vị của khách du lịch. Hiện nay, hệ thống cơ sở khách sạn, nhà hàng phục vụ du lịch trên địa bàn huyện được quan tâm phát triển. Đến năm 2105, toàn huyện có 144 cơ sở kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng. * Tổ chức hoạt động du lịch Nhìn chung, tổ chức hoạt động du lịch hiện nay ở huyện Quan Sơn chưa phát triển so với tiềm năng du lịch to lớn của huyện. Điều này đòi hỏi trong thời gian tới địa phương phải tổ chức, huy động mọi nguồn lực để phát triển du lịch trên tất cả các mặt về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, về nội dung hoạt động, về chuyên môn nghiệp vụ. Quan Sơn là địa phương có nhiều tiềm năng về khai thác, phát triển du lịch. Du lịch sinh thái - nghiên cứu khoa học, du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng là những thế mạnh mà huyện có thể khai thác để góp phần thúc đẩy hoạt động du lịch nói riêng và kinh tế nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng cũng như tiềm năng du lịch của mình nên Đảng bộ, chính quyền huyện đã đề ra nhiều phương án nhằm tăng cường, mở rộng hơn nữa hoạt động du lịch. Hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng đang từng bước được xây dựng là một điều kiện thuận lợi cho du lịch Quan Sơn phát triển trong một tương lai gần. Quan Sơn đang tập trung khai thác thế mạnh về tài nguyên du lịch nhằm phát triển du lịch trên cơ sở khai thác các danh lam thắng cảnh thiên nhiên và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng của đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện; đồng thời kêu gọi thu hút đầu tư các điểm du lịch đã được quy hoạch như: Khu du lịch sinh thái Bản Khạn, Động Bo Cúng, Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, tạo thành tuyến du lịch kết nối với các điểm du lịch tại huyện Viêng Xay nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Đồng thời tổ chức hợp lý không gian du lịch của huyện trên cơ sở khai thác tổng hợp các tài nguyên du lịch trên địa bàn như du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng; Liên kết các tuyến, điểm du lịch của huyện với các tuyến điểm du lịch của tỉnh Thanh Hóa và vùng Tây Bắc, vùng Bắc Trung Bộ, tạo thành các tour, các tuyến du lịch liên tỉnh, liên vùng. Tuy nhiên, Quan Sơn cũng gặp không ít khó khăn trong việc phát triển hoạt động du lịch. Điều kiện địa hình của huyện Quan Sơn khá phức tạp, đồi núi cao, do đó việc đi lại, giao lưu giữa các vùng, các bản làng với nhau còn hạn chế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành các tour du lịch; nhiều danh lam thắng cảnh chưa có dịp giới thiệu đến các du khách. Một yếu tố trở ngại nữa đối với du lịch Quan Sơn là trình độ dân cư, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ ngành du lịch cũng chưa được đào tạo một cách hệ thống, vì thế phần nào cũng ảnh hưởng chất lượng hoạt động của ngành du lịch. Mặc dù có khá nhiều thắng cảnh tự nhiên nhưng trên thực tế số lượng các địa danh đưa vào hoạt động du lịch ở huyện Quan Sơn còn hạn chế[ ]. Có thể trong giai đoạn này, Quan Sơn cần chỉ tập trung vào một số mục tiêu, một số di tích danh thắng trọng điểm nhằm đem lại dấu ấn cho khách du lịch thập phương. Nhưng xét về lâu dài, huyện cần phải có sự đầu tư đồng đều hơn để khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch của mình. Hoạt động du lịch của Quan Sơn hứa hẹn sẽ là một ngành đem lại nguồn thu ngân sách cao và ổn định. Tổng quan bức tranh kinh tế huyện Quan Sơn cho ta thấy, cùng với sự phát triển chung của toàn tỉnh Thanh Hóa, huyện Quan Sơn đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội cả về quy mô và chất lượng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, cơ sở hạ tầng được cải thiện, các lĩnh vực văn hóa - xã hội, đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên. Nền kinh tế của huyện đang phát huy thế mạnh về phát triển lâm nghiệp, thương mại, dịch vụ; du lịch, khai thác khoáng sản; xây dựng kết cấu hạ tầng; mở rộng giao lưu kinh tế với các vùng trong tỉnh, trong khu vực và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Tiềm lực kinh tế được củng cố và phát triển, tạo nền tảng cơ bản cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Tuy nhiên, điểm xuất phát kinh tế của huyện còn thấp so với bình quân chung của toàn tỉnh, tốc độ phát triển kinh tế khá nhưng chưa đủ để tạo ra sự bứt phá. Cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, lực lượng lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp. Kinh tế huyện Quan Sơn đã có một quá trình tăng trưởng liên tục, tăng trưởng khá nhưng nền sản xuất vẫn chưa thật sự chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa. Về nguồn lực phát triển kinh tế của Quan Sơn có cả thuận lợi và khó khăn. Quan Sơn là một trong 62 huyện nghèo của cả nước được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư bằng nhiều chương trình, dự án cho hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Lãnh thổ rộng lớn, tài nguyên đất đai đa dạng, đặc biệt là đất rừng chiếm diện tích lớn với 80,89% tổng diện tích tự nhiên. Đây là lợi thế cạnh tranh của huyện để sản xuất được nhiều sản phẩm lâm sản xuất khẩu. Tiềm năng về khai thác đất sản xuất nông nghiệp còn nhiều, khí hậu phù hợp cho phát triển sản xuất nông nghiệp, thảm thực vật đa dạng phong phú, vì vậy an ninh lương thực sẽ được đảm bảo nếu đầu tư tốt và đúng hướng; Vị trí địa lý nằm trung tâm giao lưu khu kinh tế động lực Lam Sơn - Khu đô thị Ngọc Lặc, có điều kiện giao lưu Bắc - Nam và giao lưu với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Nguồn thủy năng và địa hình thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp thủy điện quy mô vừa và nhỏ phục vụ cấp điện tại chỗ đáp ứng yêu cầu cho phát triển sản xuất và sinh hoạt của nhân dân; Tài nguyên rừng khá lớn, thuận lợi phát triển các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến lâm sản của tỉnh, là điều kiện thuận lợi để huyện phối hợp với các cơ sở công nghiệp, các khu công nghiệp, các trung tâm phát triển kinh tế của tỉnh; Về đất đai, Quan Sơn có lợi thế cho phát triển đa dạng các loại hình kinh tế: kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại; phát triển các vùng cây chuyên canh cây nguyên liệu công nghiệp, cây dược liệu, trồng rừng sản xuất; phát triển chăn nuôi đại gia súc, gia cầm theo hướng sản xuất hàng hóa cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh, thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp; Quan Sơn có nghề truyền thống mang bản sắc dân tộc cho phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến lâm sản, làm hàng mây tre, hàng thổ cẩm và các hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ tiêu dùng, xuất khẩu; cho phát triển các công nghiệp vừa và nhỏ gắn vùng nguyên liệu, phát triển các cụm công nghiệp làng nghề; Quan Sơn có các di tích, danh thắng vùng sơn cước huyền bí với những thiết chế văn hóa, những phong tục tập quán trong sản xuất, sinh hoạt và trong tín ngưỡng, lễ hội mang đậm nét văn hóa các dân tộc; là những tài nguyên cho phát triển các sản phẩm du lịch nhân văn rất hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế; Những khó khăn chủ yếu là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu nhất là cơ sở hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường học, thủy lợi... Các công trình cơ sở hạ tầng khác chưa được xây dựng đồng bộ. Quá trình hội nhập kinh tế trong thời gian tới sẽ tạo sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt hơn đối với phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong khi nội lực chưa đủ mạnh, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, việc kêu gọi đầu tư từ bên ngoài gặp nhiều khó khăn. Dân cư thưa, thiếu lao động, đặc biệt là tỷ lệ lao động trong nông - lâm nghiệp còn cao; chất lượng nguồn lao động còn hạn chế, tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của huyện. Khí hậu có nhiều yếu tố bất lợi, chịu nhiều ảnh hưởng của gió Tây khô nóng, lũ lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra; địa hình chia cắt hiểm trở, khó đi lại, ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân. Phong tục tập quán sản xuất tự túc, tự cấp; tư duy sản xuất hàng hóa còn hạn chế. Đó là những lực cản mà Quan Sơn đang phải đối diện. Để đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, Quan Sơn phải nhận diện đầy đủ những lợi thế và những khó khăn thách thức. Đồng thời cần phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực với quyết tâm chính trị cao tin chắc kinh tế của huyện sẽ có bước phát triển nhanh và bền vững.

Chương 6 VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC

Đời sống văn hóa các dân tộc ở huyện Quan Sơn phản ánh sinh động sâu sắc sự đoàn kết chung sống, hòa hợp giữa các dân tộc Thái, Kinh, Mường, Mông... Dân tộc Thái có lịch sử cư trú lâu đời và có số dân đông nhất huyện Quan Sơn sẽ được phản ánh sâu đậm sau đó đến dân tộc Kinh, Mường, Mông...

6.1. DÂN TỘC THÁI 6.1.1. Tên gọi và nguồn gốc lịch sử của người Thái ở huyện Quan Sơn 6.1.1.1. Tên gọi Người Thái ở Việt Nam cư trú trên địa bàn khá rộng, từ miền Tây Bắc đến miền Tây Thanh Hóa và Nghệ An. Do cư trú ở những vùng miền có đặc điểm riêng về địa lý, lịch sử cùng các mối quan hệ giao lưu văn hóa, nên người Thái ở Việt Nam hình thành các nhóm Thái địa phương. Trong quan niệm của các nhà dân tộc học, tên gọi hay danh xưng được xem là một “chỉ báo chủ yếu để phân biệt tộc người này với tộc người khác” và “chỉ cần biết thật tường tận ý nghĩa của các tên gọi nhóm địa phương, chúng ta cũng sẽ có những hiểu biết mới”[ ]. Để tìm ra được một số nét tương đồng và khác biệt về văn hóa giữa người Thái ở Thanh Hóa và Tây Bắc, thì vấn đề trước tiên là tìm hiểu về tên gọi các nhóm Thái ở hai vùng Thanh Hóa và Tây Bắc. Theo đó, cũng cần phải tìm hiểu về tên gọi của nhóm Thái ở Quan Sơn. Tên gọi dân tộc Thái đã trở thành tộc danh chung và được ghi nhận trong các văn bản pháp lý của Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh danh xưng này thì người Thái vẫn dùng tên tự gọi là Táy hay Tày, Phú Tày, Cồn Tày trong phạm vi cộng đồng của họ. Dù ở Tây Bắc hay ở Thanh - Nghệ đều là như thế... Từ đó đã phát sinh ra nhiều tên gọi các nhóm Thái địa phương”[ ]. Ở Tây Bắc có sự phân chia thành hai ngành: Thái Trắng [Tày Khao] và Thái Đen [Tày Đăm] rất rõ ràng. Khác với người Thái ở Tây Bắc, người Thái ở Thanh Hóa không phân định thành hai ngành Thái Đen, Thái Trắng mà chỉ có hai nhóm Thái với tên tự gọi là Tày Dọ và Tày Mươi. Tên gọi Tày hay Táy chỉ phần lớn bộ phận người Thái ở các huyện Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Bá Thước, Lang Chánh, còn Tày Dọ chỉ một bộ phận người Thái ở huyện Thường Xuân. Nhóm Tày Dọ số dân ít hơn, tập trung ở mường Chiềng Vạn, huyện Thường Xuân, gồm các xã Vạn Xuân, Xuân Lộc, Xuân Lẹ, Xuân Chinh. Nhóm Thái tự nhận là Tày Dọ ở Thường Xuân gọi nhóm Thái có mặt lâu đời, trước nhóm này, phân bố chủ yếu ở Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Bá Thước là Tày Mươi. Nhóm Tày Mươi có số lượng dân cư đông hơn, cư trú tập trung ở vùng tây bắc Thanh Hóa, phân bố chủ yếu ở các huyện: Quan Sơn, Quan Hóa, Lang Chánh, Bá Thước, Mường Lát, Như Xuân, Như Thanh... Nhóm này còn được người Thái ở Thanh Hóa gọi là Tày hoặc Táy [biến thể do phát âm cao thấp của người Thái ở từng địa phương]. Tuy nhiên, danh xưng [tên gọi] phổ biến nhất mà người Thái ở Thanh Hóa thường dùng là gắn với tên mường, bản, quê hương của họ. Chẳng hạn như: Tày Ca Da [người Thái mường Ca Da], Tày Khoòng [người Thái mường Khoòng], Tày Đeng [người Thái mường Đeng][ ], Tày Xia [người Thái mường Xia], Tày Mìn [người Thái mường Mìn]; Tày Chự [người Thái mường Chự]. Ngoài ra, trên địa bàn Quan Sơn, tên gọi còn chỉ rõ địa danh cụ thể nơi cư trú như: Tày Chiềng [người Thái ở bản Chiềng]; Tày Nhài [người Thái ở bản Nhài]; Tày Ngàm Mò [người Thái ở bản Ngàm, mường Mò]; Tày Ngàm Chự [người Thái ở bản Ngàm, mường Chự]... Như vậy, về danh xưng, người Thái ở Quan Sơn vừa có sự tương đồng với người Thái ở Việt Nam nói chung vừa có nét khác biệt. Bao trùm trong cách gọi tên dân tộc Thái ở Tây Bắc là gọi theo sự phân chia thành hai ngành Thái Trắng và Thái Đen. Còn ở Quan Sơn hay ở Thanh Hóa nói chung thì tự gọi theo tên các mường là yếu tố nổi bật nhất. 6.1.1.2. Nguồn gốc lịch sử của người Thái huyện Quan Sơn Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở miền núi Thanh Hóa đã hình thành 40 mường của người Thái [Quan Hóa 7 mường, Mường Lát 7 mường, Quan Sơn 6 mường, Bá Thước 4 mường, Lang Chánh 4 mường, Thường Xuân 9 mường, Như Xuân 3 mường]. Trong số đó, có 4 mường lớn có thế lực cả về kinh tế lẫn chính trị là mường Ca Da ở Quan Hóa, mường Khoòng ở Bá Thước, mường Chiềng Vạn ở Thường Xuân và mường Đeng ở Lang Chánh[2]. Quá trình hình thành cộng đồng người Thái ở Quan Sơn nằm trong bối cảnh chung về nguồn gốc người Thái ở Thanh Hóa. Kết quả khảo sát, nghiên cứu về nguồn gốc lịch sử của người Thái ở Thánh Hóa được tổng hợp như sau: - Người Thái ở Ca Da: “Con đường di dân đến Ca Da trong lịch sử của người Thái đã được thể hiện trong mo đưa hồn người chết. Trong bản mo ghi chép tại vùng Ca Da, khi kể đến đường đi ngày xưa của cây cỏ, súc vật từ trên trời xuống trần gian, có các địa danh tên đất, tên mường đã phản ánh một cách rõ ràng người Thái ở Ca Da đã từ Tây Bắc, từ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, đi dọc sông Mã xuống vùng Quan Hóa... Khi đã định cư vững chắc, người Thái lại tiếp nhận nhiều đợt di cư sau này của những người đồng tộc theo con đường truyền thống mà cha ông họ đã đi. Mặt khác, người Thái Ca Da cũng được bổ sung thêm một nguồn “Thái hóa” đáng kể từ người Mường, người Kinh nhập vào”[ ]. - Người Thái ở mường Khoòng: “Dòng họ Hà Công, một dòng họ lớn ở mường Khoòng là một chi của dòng họ Hà Công của người Thái Mai Châu [Hòa Bình]. Theo các cụ già ở xã Cổ Lũng, nơi trung tâm của mường Khoòng trước đây giải thích, tên Khoòng hàm ý giàu có và trước khi dòng họ Hà Công đến mường Khoòng, ở đây đã có dòng họ Lò Khăm. Ở mường Khoòng có truyện thơ Khăm Panh nổi tiếng kể về cuộc chiến của dòng họ Lò Khăm với giặc Khun Ha... Như vậy, trước khi dòng họ Hà Công di dân vào mường Khoòng thì người Thái đã có mặt ở mường Khoòng và dòng họ quý tộc là dòng họ Lò Khăm. Cuộc tranh giành quyền lực giữa hai dòng họ quý tộc Thái [Lò Khằm và Hà Công] đã được phản ánh trong truyện Khăm Panh [2]. - Người Thái ở mường Chiềng Vạn: “Người Thái ở mường Chiềng Vạn có dòng họ lớn là Cầm Bá và tổ tiên của dòng họ này trước kia ở Lai Châu vào ở rể cho một chi họ chuyên về tế lễ đền từ [gọi là chi ông Đăm]; còn một chi nữa chuyên lo lễ nghi thờ trời [gọi là ông Mường] đã sống ở đây từ trước. Hai chi ông Đăm và ông Mường thấy rể có chữ nghĩa lại tháo vát mới đoàn kết lại cùng nhau tổ chức mường Chiềng Vạn và để cho chi họ Cầm nắm quyền cai trị...[3]. - Về người Thái ở mường Đeng [Lang Chánh], kết quả khảo sát thực tế cho biết người Thái ở đây có nhiều dòng họ, được hình thành từ nhiều nguồn, trong đó có nguồn “Thái hóa” từ người Kinh[1]: + Ông Lò Văn Piềng [78 tuổi, ở bản Tứ Chiềng, xã Yên Khương] kể rằng tổ tiên ông là người Kinh ở huyện Thọ Xuân, do túng thiếu, đói ăn nên di cư đến mường Đeng sinh sống, rồi di cư sang nước bạn Lào và được tạo mường Quyên gả con gái, cho ở rể và hưởng toàn bộ tài sản [do ông này không có con trai], sau đó lại trở về sinh sống tại mường Đeng. Tạo mường Đeng chặt cây không may đè chết người nên bị phạt vạ rất nặng nhưng được tổ tiên của ông Lò Văn Piềng giúp đỡ tiền bạc, rượu thịt để nộp phạt. Vì việc này nên tổ tiên của ông được tạo mường Đeng cấp ruộng, đầy tớ và cho mang họ Lò của tạo. + Ông Ngân Văn Minh [bản Tứ Chiềng, xã Yên Khương] cho biết tổ tiên ông ở mường Ký [huyện Bá Thước] di cư đến mường Đeng. + Ông Lò Văn Thanh [bản Bôn, xã Yên Khương] nói rằng tổ tiên ông từ Quỳ Châu [Nghệ An] di cư đến mường Đeng. + Ông Hà Đức Thiện [xã Yên Khương] nói rằng tổ tiên ông là người Kinh ở huyện Tĩnh Gia di cư sang nước bạn Lào, sau đó mới đến mường Đeng và đã bị “Thái hóa”[2]. Trong sự hình thành cộng đồng người Thái ở Thanh Hóa nói trên, chúng ta có thể nhận thấy người Thái ở Quan Sơn được hình thành từ một số nguồn di cư, chuyển cư chính sau đây: Người Thái từ đầu nguồn sông Hồng xuôi theo sông Hồng đến vùng hạ lưu sau đó di chuyển qua sông Đà, sông Mã ngược sông Lò, sông Luồng đến vùng đất Quan Sơn cư trú. Người Thái từ Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình di cư qua Mường Lát, Quan Hóa sang Quan Sơn. Người Thái từ tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào di cư theo sông Lò, sông Luồng, các dòng suối lớn, các đường cửa khẩu, đường tiểu ngạch đến Quan Sơn. Người Thái từ các huyện Mường Lát, Quan Hóa, Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân trong tỉnh Thanh Hóa chuyển cư đến Quan Sơn. Người Thái từ các huyện Quế Phong, Con Cuông, Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An di cư đến Quan Sơn. Chứng tích của sự chuyển cư, di cư này được lưu giữ trong các bài khặp, bài mo của người Thái vùng mường Mìn, mường Xia,... ở Quan Sơn, khi mo đưa tiễn linh hồn người quá cố, phần nhiều là dẫn linh hồn người quá cố trở về thăm quê cũ mường Thanh, tỉnh Điện Biên, mường Lò, tỉnh Yên Bái, mường Xo, tỉnh Lai Châu, mường Do, tỉnh Lào Cai, mường Mộc [Mộc Châu], tỉnh Sơn La, mường Hạ - Mùn [Mai Châu], tỉnh Hòa Bình... đường đi thường là theo sông Lò, sông Luồng xuống sông Mã. Lời mo mô tả cảnh quan các địa danh, tên đất, tên mường làm khơi dậy một ký ức xa xưa mà ông cha của người quá cố đã đi qua. Sau đây là một đoạn trích trong mo người Thái ở Quan Sơn tiễn linh hồn về thăm quê cha đất tổ mường Thanh: ... Khứn mường Thanh, mường Lò dam pó Khứn áp nặm băng nhớ Rốm nứa Khứn mống nà tống quáng Thanh tớ mì bo cứa Thanh nứa mì bo kháu Mường pú páu mứ mợn té mớ dam hấng tán cháu ơi! Dịch: ... Lên mường Thanh, mường Lò thăm cha Lên tắm nặm Rốm quanh năm vụng lớn Lòng ung dung ngắm nhìn cánh đồng Thanh dưới có mỏ muối Thanh trên có mỏ thóc Mường ông cha từ xưa ta đó ngài ơi![ ] Bên cạnh dòng chuyển cư đến vùng đất Quan Sơn thì người Thái ở Quan Sơn trước đây cũng di cư lẻ tẻ đến các huyện Quan Hóa, Mường Lát, Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân và một số huyện trong tỉnh. Vào khoảng thế kỷ XVI - XVII, người Thái mường Xia, mường Mìn di cư vào các huyện Tương Dương, Con Cuông, tỉnh Nghệ An, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Vào cuối thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ XX, người Thái Quan Sơn di cư vào các tỉnh Tây Nguyên như Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông cư trú làm ăn lâu dài. Ngoài ra còn một số người Thái ở Quan Sơn [đi thoát ly] đã lấy vợ, lấy chồng và cư trú ở nhiều tỉnh trong cả nước. Từ các nguồn dữ liệu, nghiên cứu và điều tra khảo sát nêu trên, ta có thể thấy người Thái ở Quan Sơn có nhiều nguồn gốc khác nhau: di cư từ Tây Bắc vào, từ Nghệ An ra, từ Lào sang và còn được bổ sung nguồn “Thái hóa” từ người Mường, người Kinh [họ Mạc, họ Hoàng...]. Vì vậy, trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, văn hóa của người Thái ở Quan Sơn có nhiều nét đan xen, hình thành nên sắc thái địa phương. 6.1.2. Thiết chế bản mường và các mường của người Thái huyện Quan Sơn 6.1.2.1. Thiết chế bản mường Thiết chế bản mường là hình thức tổ chức xã hội cổ truyền của người Thái tồn tại suốt thời kỳ chế độ phong kiến. Mường có tạo mường cai quản trông nom công việc xã hội, dưới tạo mường có người giúp việc gọi là pằn quyền. Dưới tạo mường có bản, bản to hay nhỏ phụ thuộc vào ruộng. Nơi nào có nhiều ruộng đất sẽ có nhiều bản to, đông nhà, đông người hơn. Bản xưa được chia thành các loại bản: bản chiềng, nơi trung tâm tạo mường ở; bản nhỏ trực thuộc pọng, quan bản, chá bản. Pọng là đơn vị trực thuộc mường; bản nhỏ trực thuộc pọng chỉ có một quan bản, chá bản trông coi công việc giúp pọng. Ngoài ra ở một số vùng còn có bản thín [loại bản có vị thế thấp nhất lệ thuộc vào nhà tạo]. Người làm việc từ mường đến pọng xưa kia được dân ưu tiên cho phần ruộng tốt hơn, nhiều hơn bình quân. Bản: Trong hệ thống xã hội cổ truyền của người Thái, dưới mường là pọng, dưới pọng là bản. Nét phổ biến ở chế độ xã hội phong kiến là mường nào cũng có bản “chiềng”. Bản chiềng trước đây phải có các yếu tố sau: là nơi trung tâm của mường; có địa hình bằng phẳng, cảnh quan đẹp, sơn thủy hữu tình; có sức hấp dẫn và thu hút toàn mường như bản chiềng ở mường Mìn; có tiềm năng, vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội; có đủ khả năng chi phối cả mường; có những người giữ các chức trách được giao có khả năng điều hành giỏi, quản lý tốt, hoàn thành các công việc được giao [đặc biệt là về quân lương, thuế khóa]. Bản chiềng không thuộc pọng nào mà trực thuộc mường quản lí. Cơ sở để hình thành các bản là quan hệ láng giềng, là việc xác định quyền chiếm dụng đối với đất đai. Từ cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống chuyển sang cộng đồng theo nguyên tắc dân cư của các bản Thái lúc đầu rất nhỏ về mặt quy mô. Tuy nhiên, cùng với quá trình tăng dân số và xáo trộn cư dân, phạm vi bản mường ngày càng mở rộng. Ngày xưa, các bản trung bình thường có từ 15 - 20 nóc nhà, bản lớn lên tới 50 - 70 nóc nhà, đến nay một bản có hàng trăm nóc nhà. Các bản có ranh giới, khu vực ruộng đất riêng. Trên khu vực đất đai thiên nhiên ấy, các gia đình đều có quyền khai thác, trồng trọt để đảm bảo cuộc sống gia đình. Mỗi bản thường có một nơi thờ cúng riêng, có chung bến nước, bãi thả trâu, bãi tha ma và hệ thống thủy lợi. Các gia đình trong bản đều có nghĩa vụ đắp mương phai, bảo vệ, gìn giữ trị an cho bản. Các bản trong mường chia thành hai đẳng cấp: bản hàng mường và bản thín. Bản hàng mường là bản dân có quyền được tham gia bàn bạc các công việc của mường. Trong các bản hàng mường có bản chiềng là bản trung tâm, nơi có nhà tạo mường ở. Bản chiềng chuyên đảm nhiệm công việc truyền tin, loan báo. Một số mường có bản thín, là loại bản có vị thế thấp nhất lệ thuộc vào nhà tạo [thường là bản mới di cư đến]. Bản thín không có tạo bản, chỉ có quan bản, nên không được ngồi ngang hàng với các bản hàng mường. Dân bản thín phải phục dịch nhà tạo, làm các công việc đồng áng, tạp dịch, nộp biếu các sản phẩm, vật liệu theo quy định của tạo. Chức dịch cao nhất trong bản là tạo bản hay quan bản, người phụ trách chung mọi công việc của bản. Về danh nghĩa, chức vụ này do dân bầu ra trên cơ sở lựa chọn những người đàn ông có uy tín, gia đình khá giả, sau đó báo cáo tạo mường xem xét và quyết định. Riêng bản chiềng không có tạo bản mà do tạo mường trực tiếp cai quản. Tạo bản không được “cha truyền con nối”, nhưng trên thực tế chức vụ này do người trong dòng họ tạo mường nắm giữ. Về quyền lợi, tạo bản được cấp một số ruộng cấy 1.000 bó mạ [khoảng 10.000m2]. Tạo bản được cấp nhiều hơn quan bản. Số ruộng này tùy từng bản. Chức dịch thứ hai trong bản là chá bản - người giúp việc cho tạo bản. Có thể hiểu chá bản là người phổ biến, tuyên truyền mọi tin tức, công việc của bản, mường. Chá bản được cấp một số ruộng cấy 500 bó mạ [khoảng 5.000m2]. Tạo bản hay quan bản, chá bản phải trả lại số ruộng “lương” này khi không còn giữ chức vụ. Họ cũng được dân bản giúp việc không công một ngày khi mùa vụ đến hoặc được biếu phần khi trong bản có người mổ lợn, trâu bò, săn được thú, tìm thấy tổ ong... Ngược lại, tạo bản, chá bản cũng phải biếu tạo mường vào các dịp lễ, tết. Pọng: Pọng của người Thái ở miền núi Thanh Hóa nói chung tương đương với xổng của người Thái ở vùng Tây Bắc. Pọng là đơn vị hành chính trung gian giữa bản và mường, nhiều bản gần nhau [3 - 5 bản] lập thành pọng. Đứng đầu pọng là tạo pọng. Riêng chiềng không có tạo pọng vì pọng này do tạo mường trực tiếp cai quản. Tạo pọng thuộc dòng họ tạo mường và có toàn quyền trong pọng của mình. Tạo pọng được cấp một số ruộng cấy 2.500 bó mạ [25.000m2] và dân pọng phải làm không công cho tạo pọng từ cày cấy đến thu hoạch. Khi xong việc được tạo pọng làm cơm thết đãi. Nếu dân bản săn được thú hay làm thịt trâu bò... thì phải biếu tạo pọng một phần thịt ngon. Khi nhà tạo pọng có ma chay, cưới xin, làm nhà... thì dân cũng phải đóng góp một phần lương thực, thực phẩm, nguyên vật liệu [tùy khả năng]. Về nghĩa vụ, khi được tạo mường giao việc, tạo pọng truyền bảo tạo bản hay quan bản, chá bản và dân trong pọng thực hiện công việc được giao. Giúp việc cho tạo pọng có một số chức dịch sau: - Quan pọng: Là người trực tiếp truyền lệnh của tạo pọng xuống các bản, giao nhiệm vụ cho các tạo bản, chá bản thực hiện nhiệm vụ của pọng, mường. Quan pọng là người thuộc dòng họ dân, có uy tín, khá giả và được dân bầu. - Chá pọng: Là người giúp quan pọng lúc ốm đau hoặc bận việc. Chá pọng cũng thuộc họ dân và do dân bầu. Về quyền lợi, quan pọng được cấp một số ruộng cấy 1.500 bó mạ [15.000m2], chá pọng được cấp một số ruộng cấy 1.000 bó mạ [10.000m2]. Quan pọng và chá pọng đều phải tự cày cấy phần ruộng của mình. Số ruộng “lương” này phải giao lại cho người khác khi không còn giữ chức nữa. Mường: Mường là đơn vị hành chính cao nhất trong tổ chức xã hội cổ truyền của người Thái. Mường là một vùng lãnh thổ tương đối ổn định, tập hợp nhiều đơn vị dân cư quần tụ theo bản, do một dòng họ tạo cai quản. Mường mang tính chất hành chính, tự quản, chịu thần phục triều đình phong kiến tập quyền. Mường cũng là phạm vi không gian sinh hoạt văn hóa - xã hội của cộng đồng dân cư ở một vùng. Quy mô lớn nhỏ của một mường phụ thuộc vào lịch sử cộng đồng dân cư, thế lực của dòng họ tạo. Có mường lớn tương đương với vài ba xã hiện nay; có mường nhỏ, chỉ tương đương với một xã. Ranh giới giữa các mường thường là dông núi, dòng suối, dòng sông... Mường là một tổ chức xã hội truyền thống, song song tồn tại cùng bộ máy chính quyền nhà nước phong kiến. Tổ chức mường mang tính chất độc lập tương đối, gần giống như cát cứ của các tộc trưởng hoặc một vương quốc nhỏ trong chế độ phong kiến phân quyền, có bộ máy tổ chức, có luật tục mường, có quyền tự quyết về đối nội, đối ngoại. Lãnh thổ của một mường là không gian sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của cộng đồng dân cư trong mường. Các hoạt động hội họp, đóng góp, cúng tế, lễ hội đều diễn ra trong địa bàn của mường, do dân mường thực hiện, không có sự can thiệp từ bên ngoài và cũng không vượt ra khỏi phạm vi mường. Việc giao dịch, cống, biếu do tạo hoặc người thay mặt làm sứ giả. Muốn cho mường yên vui, giàu có thì phải có tạo khôn, dân khỏe. Để có tiếng nói đồng thuận, các mường phải đặt ra luật lệ gọi là hít khong. Hít khong được truyền qua nhiều đời và được hội nghị bô lão trong mường bổ sung, điều chỉnh. Luật lệ quy định biện pháp phạt vạ để điều chỉnh hành vi của các thành viên trong mường, kể cả tạo. Trên thực tế, toàn bộ đất đai trong phạm vi mường là của tạo mường, nhưng về danh nghĩa, gia đình tạo chỉ “ăn” một đám ruộng “lương” cấy 5.000 bó mạ [khoảng 50.000m2]. Vào mùa sản xuất, dân các bản thín [bản lệ thuộc] phải cử người tới cày cấy, làm cỏ, thu hoạch không công cho nhà tạo, giúp việc cho tạo mường bao gồm các chức dịch sau: - Tạo cai: Con thứ hoặc anh em dòng họ tạo, là người giúp việc đắc lực và được tạo mường phân cấp cho một số pọng, bản để hưởng lộc. - Mụ mường: Người làm mụ mường phải có uy tín, kinh tế khá giả và được dân mường bầu. Có trường hợp, mụ mường chính là vợ của tạo mường. Về nghĩa vụ, mụ mường quản lý các bà một, lo mọi việc nữ công gia chánh ở nhà tạo, dựng vợ gả chồng cho con cái tạo. Về quyền lợi, mụ mường được cấp một số ruộng cấy 2.000 bó mạ [khoảng 20.000m2] gọi là “nà mụ mường” [ruộng mụ mường]. Khi thôi chức thì phải giao lại cho người khác lên thay. Mụ mường còn được cấp một bản thín [dân lệ thuộc] để phục dịch. Dân bản thín này phải làm ruộng, rẫy cho nhà mụ mường, phải biếu các sản vật quý tìm thấy trong rừng và phần thịt gia súc khi gia đình có việc lớn như tang ma, cưới xin, làm nhà... - Ông pằn, ông quyền, ho luông, ho cang, ông đội, ông hé: Những người này là họ dân, có uy tín, kinh tế khá giả, được dân bầu và không được “cha truyền con nối”. Mỗi người được giao một số công việc, cụ thể như: ông pằn, ông quyền làm công việc hành pháp; ho luông, ho cang làm công việc về lương thực, thực phẩm và đóng góp của dân bản; ông đội làm công việc về nông nghiệp và ông hé làm công việc tuyên truyền. Về quyền lợi, mỗi người được cấp một số ruộng cấy 2.000 bó mạ [khoảng 20.000m2] và phải tự cày cấy. Số ruộng này phải trả lại khi không còn giữ chức vụ nữa. Họ cũng phải biếu tạo mường vào những dịp lễ, tết hoặc những lúc nhà tạo có việc cưới xin, tang ma. 6.1.2.2. Các mường của người Thái huyện Quan Sơn Vùng đất Quan Sơn gồm có các mường: mường Xia [thủ phủ của mường Chu Sàn, tên cũ thường gọi là mường Chu Sàn]; mường Mìn; mường Sại; mường Mò; mường Hạ; mường Chự.[ ] Mường Chự, nay gồm 4 xã là Trung Thượng, Trung Tiến, Trung Hạ và Trung Xuân. Xã Trung Xuân thuộc hai mường là: mường Chự [huyện Quan Sơn] và mường Ca Da [huyện Quan Hóa]. Mường Hạ gồm xã Sơn Lư, Sơn Hà và thị trấn Quan Sơn. Mường Mò là xã Tam Thanh. Mường Sại là xã Tam Lư. Mường Mìn gồm xã Mường Mìn và Sơn Điện. Mường Xia gồm xã Na Mèo và Sơn Thủy. Mường Xia: Mường Xia trước đây là thủ phủ của mường lớn Chu Sàn[ ]. Mường Chu Sàn bao gồm các mường thuộc phía nam sông Mã kể từ mường Chanh [huyện Mường Lát] xuống đến mường Chự [huyện Quan Sơn]. Theo thông lệ của người Thái ngày xưa, trong mường lớn có mường trong và mường ngoài. Mường trong là mường trung tâm được gọi đồng tên với mường lớn. Vì vậy mường Xia trước đây là thủ phủ [mường trong] của mường Chu Sàn nên cũng được gọi là mường Chu Sàn. Các mường ngoài thuộc mường Chu Sàn gồm: mường Chanh, mường Xim, mường Ai, mường Chiềng Cồng [Tén Tằn, huyện Mường Lát]; mường Khiết, mường Khằng, mường Tuồng [huyện Quan Hóa]; mường Chự, mường Mò, mường Hạ, mường Sại, mường Xia, mường Mìn [huyện Quan Sơn]. Phía bắc sông Mã từ mường Lát, mường Lý [huyện Mường Lát], xuống mường Páng, mường Lè, mường Ánh, mường Ca Da [huyện Quan Hóa] trước đây thuộc mường lớn Chu Gia. Năm Minh Mạng thứ 10 [1829] sáp nhập hai mường lớn là Chu Sàn và Chu Da thành lập chu Quan Da sau đổi tên là châu Quan Hóa. Lúc này, tên gọi hai mường Chu Sàn và Chu Da không còn nữa chỉ còn các tên gọi các mường nhỏ phụ thuộc chu Quan Da. Mường Xia có ranh giới: Phía đông giáp mường Mìn [tại Pha Dùa, xã Mường Mìn ngày nay]; phía tây giáp huyện Viêng Xay [tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào][ ]; phía nam giáp mường Mìn [xã Mường Mìn ngày nay]; phía bắc giáp mường Khiết [xã Hiền Kiệt và Hiền Chung ngày nay]. Mường Xia xưa kia đất đai phì nhiêu, có nhiều ruộng nước cấy hai vụ. Đất đai tự nhiên rộng, có sông Luồng chảy qua, đoạn qua vùng mường Xia dài khoảng 20km. Đất mường Xia có nhiều khe suối dồn nước về sông Luồng. Trong đó có các suối lớn là suối Cài, suối Cha Khót, suối Son, suối Xia. Rừng mường Xia có nhiều loài gỗ quý như: sa mu, lát, dổi, chò chỉ, vàng tâm, vù hương... Ngoài gỗ còn có vầu, nứa, bương ở rừng tự nhiên và luồng trồng ở các hộ dân. Chính nhờ nguồn tài nguyên này mà nhân dân có nguồn thu nhập ổn định. Hiện nay nhiều xưởng chế biến gỗ, đũa luồng, tăm mành, tăm hương từ nứa, vầu được hình thành tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân. Rừng nơi đây không chỉ có gỗ quý mà còn có nhiều động vật quý như: voi, tê giác, gấu, hổ, bò rừng, nai, hoẵng, lợn rừng, khỉ, vượn, voọc, tê tê... Vùng mường Xia có nhiều phong cảnh đẹp và điểm du lịch hấp dẫn, kỳ vĩ như Pha Dùa, động Bo Cúng [bản Chanh], đền thờ Tư Mã Hai Đào, thác 20 sải ở suối Sàng [Na Mèo], Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo. Mường Mìn: Mường Mìn trước thế kỷ XV gọi là mường Mì [có nghĩa là mường có] bởi vì vùng đất nơi đây trên rừng có nhiều cây lắm thú, dưới sông, suối có nhiều cá tôm, đồng ruộng nhiều, đất tốt. Thời ông Lò Khằm Yên [Tạo Lá Dốn] làm tạo mường Mì có hai chiềng là chiềng Nưa và chiềng Cang; phía trên cửa suối Cướm đổ ra sông Luồng trở lên do tạo mường cũ họ Vi Khăm cai quản, còn từ suối Cướm trở xuống gọi là chiềng Cang do Tạo Lá Dốn [Lò Khằm Yên] cai quản. Thời ông Phạm Bá Mìn [con ông Lò Khằm Yên] làm tạo mường thì chiềng Nưa, chiềng Cang được nhập làm một lấy tên là mường Mìn theo tên của ông tạo mường, trung tâm mường ở bản Ngước Làu [Luốc Làu]. Mường Mìn có ranh giới: Phía đông giáp mường Mò[ ]; phía tây giáp mường Xia; phía nam giáp huyện Viêng Xay, Sầm Tớ [tỉnh Hủa Phăn, nước Lào]; phía bắc giáp mường Khằng [xã Thiên Phủ, huyện Quan Hóa]. Mường Mìn là vùng núi non trùng điệp, sơn thủy hữu tình, có nhiều cảnh đẹp: núi Pha Dùa nổi tiếng trong vùng gắn với chứng tích chuyện tình Pha Dùa; dãy núi Pha Phanh gắn với những câu chuyện huyền thoại về thuồng luồng ở hồ nước [dưới chân núi Pha Phanh, đồng bào sống quần cư, nơi đây xưa kia còn là cứ địa kháng chiến chống thực dân Pháp của xã Sơn Điện [mường Mìn] trong những năm 1948 - 1953]; núi Pha Đón mây phủ quanh năm; thác cao 3 tầng ở suối Nhài, phía trong có dãy núi Pù Kỳ cao vút [nơi ở của người Khơ mú xưa kia]. Chính giữa mường có sông Luồng uốn khúc chảy qua và có nhiều khe suối vừa và nhỏ. Trên đất mường Mìn còn có núi Pom Giới [nơi đồn bốt của người Giới và sau là nơi đóng quân của quân Minh xâm lược, nay vẫn còn dấu tích nền nhà chiến hào][ ]. Mường Mìn xưa, nay đã chia thành hai xã là Mường Mìn và Sơn Điện. Đây là hai xã thuộc vùng cao biên giới của huyện Quan Sơn, nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hóa giáp với nước bạn Lào [có 85% dân số là dân tộc Thái]. Do đặc điểm này mà văn hóa vùng mường Mìn có những nét giao thoa với văn hóa Lào, mà biểu hiện dễ nhận thấy nhất là trang phục của phụ nữ ở mường Mìn. Mường Mìn, mường Xia là hai mường kề nhau nên có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên và phong tục tập quán. Ngày xưa, nhân dân đã có câu ca: Mường Xia tộc tá hín Mường Mìn tộc tá lạn Tộc tá hín bau dán xiếu nặm Tộc tá lạn áp luân xía khày Nàng dáng tàng páy cáy mắn teo dám dứ. Dịch: Mường Xia có bến đá cuội Mường Mìn có bến đá tảng Bến đá cuội không lo thiếu nước Bến đá tảng tắm rửa sạch người Nàng đi đường xa năng ghé thăm chơi. Hoặc: Mường Xia cặp mường Mìn cai lìn xóng nặm Lìn bá nọi tếm tống nà mường Mướng phai lí ty na lái tống Kháu du lạu báu xiếu chơ lơ. Dịch: Mường Xia và mường Mìn bắc máng hai sông Máng dù nhỏ cũng đủ tưới ruộng mường Máng phai dài tưới đồng ruộng mênh mông Lúa đầy kho năm tháng dồi dào[ ]. Lúa ở kho không khi nào hết, bởi đất của hai mường đều nhiều ruộng nước, có nhiều đất tốt có thể làm nương rẫy quanh năm. Do đất đai tốt tươi màu mỡ nên cơm nếp ở mường Xia, mường Mìn thường trắng, dẻo, thơm hơn; có khi cũng giống lúa ấy cấy ở mường khác lại không được như thế. Mường Xia còn có cá hai nước là sông Luồng và suối Xia, mường Mìn cũng có cá hai nước sông Luồng và suối Yên. Hai mường cùng chung Pha Hen và Pha Dùa, cùng có nhiều bãi rộng ven sông Luồng. Tuy nhiên hai mường cũng có đôi nét khác nhau: đất mường Xia không có cây cọ, cây kè, cây mác khẻn. Mường Mìn có rất nhiều cây cọ, cây kè và cây mác khẻn mọc tự nhiên. Vì thế mà trước đây [từ những năm 70 của thế kỉ XX] trở về trước, nhà của người mường Mìn thường lợp lá cọ, lá kè, còn nhà của người mường Xia thường lợp nứa, vầu hoặc lá tranh. Mường Mìn có sông Luồng chảy qua từ Pha Dùa đến hết phần đất bản Sủa, dài hơn 20 km. Đất đai mường Mìn rộng, có nhiều sông suối, đồi núi thoải, piềng bãi dọc sông Luồng và các suối khai hoang làm ruộng rất tốt. Mường Mìn có cánh đồng Chiềng Mìn, bản Yên, Tân Sơn, Nhài, Na Nghịu, nơi nào cũng rộng, cấy lúa hai vụ năng suất cao. Lúa nếp cay nọi là giống lúa thơm của người Thái, giống lúa này có ở nhiều vùng Thanh Hóa nhưng khi được cấy ở cánh đồng Nà Lè của bản Chiềng mường Mìn dẻo, thơm hơn các vùng khác[ ]. Mường Mò: Mường Mò ngày xưa bao gồm cả mường Sại [xã Tam Lư ngày nay], mường Hạ [xã Sơn Lư, Sơn Hà, thị trấn Quan Sơn ngày nay], mường Mò [xã Tam Thanh ngày nay]. Trung tâm mường Mò đặt ở bản Na Ấu. Địa giới mường Mò: Phía đông giáp mường Chự [tại cửa suối Cum - Km 25, đường 217]; phía tây giáp với mường Mìn; phía nam giáp huyện Sầm Tớ [tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào]; phía bắc giáp mường Tuồng [xã Nam Đông ngày nay][ ]. Mường Mò trước đây có 3 pọng: pọng Bôn Ngàm gồm các bản Bôn, Ngàm, Kham, Phe, Cha Lung, Pa. Pọng Dôi gồm các bản thuộc xã Tam Lư ngày nay là Piềng Khé [Khóe], Sai, Hậu, Tình, Muống, Hát. Pọng Tái gồm các bản: Sỏi, Bìn, Hẹ, Hao, Bon, Păng, Hiềng [thuộc xã Sơn Lư ngày nay]; bản Lấm [thuộc thị trấn Quan Sơn ngày nay]; bản Làng, Hạ, Na Ấu, Làu, Xum [thuộc xã Sơn Hạ ngày nay]. Sau này các pọng Dôi, pọng Cái thành lập mường mới không trực thuộc mường Mò nữa. Mường Mò chỉ còn lại phần đất từ bản Mò, bản Na Ấu, còn bản Hậu tuy nhập về mường Mò nhưng nay thuộc xã Tam Lư quản lý. Hiện nay, sau khi chia tách 3 mường [mường Mò, mường Sại, mường Hạ] thì mường Mò có địa giới như sau: phía đông giáp mường Sại; phía tây giáp mường Mìn; phía nam giáp mường Pao [huyện Sầm Tớ]; phía bắc giáp mường Sại. Mường Mò hiện tại là toàn bộ xã Tam Thanh và bản Hậu xã Tam Lư. Mường Mò là vùng dọc sông Lò, nơi có loại cây phèn để thả cánh kiến đỏ, trước đây rất phát triển. Cũng là cây phèn nhưng ở các vùng đất khác, cánh kiến không phát triển tốt. Do vậy mà mường Sại, mường Mò, nhất là mường Mò; trước đây cánh kiến đỏ có sản lượng lớn, chất lượng cao nổi tiếng cả vùng Quan Hóa cũ. Mường Mò có nhiều rừng vầu, nứa, gỗ, luồng, ruộng nước trải khắp các bản trong mường; trong đó có các cánh đồng nổi tiếng trong vùng như các cánh đồng bản Mò, Na Ấu, Ngàm, Bôn. Người Thái ở mường Mò có tiếng khéo tay, giỏi đan lát, dệt thổ cẩm. Trên địa bản mường Mò có thác 20 sải ở suối Khà - bản Ngàm, nước đổ trắng xóa quanh năm. Mường Mò còn có nhiều cây thuốc quý, nhiều thầy thuốc Nam giỏi. Mường Sại: Mường Sại trước đây là pọng Dôi thuộc mường Mò. Pọng Dôi lấy tên là mường Sại bao gồm các bản: Sại, Hậu, Muống, Tình, Hát. Có lẽ vì cảnh của bản Sại đẹp nên tạo và dân mường Sại đã lấy bản Sại làm trung tâm mường và đặt tên là mường Sại. Rừng ở mường Sại có nhiều gỗ, nứa, vầu. Đây là nguồn nguyên liệu cho các xưởng chế biến tại chỗ, góp phần nâng cao đời sống cho người dân. Bản nào của mường Sại cũng có ruộng nước cấy 2 vụ, trong đó nổi tiếng là cánh đồng bản Sại. Sông Lò chảy qua mường Sại từ bản Piềng Khóe [hay Piềng Khé] đến hết bản Hát dài trên 7 km. Suối Tình cung cấp nguồn nước tưới tiêu và nguồn thủy sản cho đồng bào. Địa giới mường Sại: Phía đông giáp mường Hạ [xã Sơn Lư và Sơn Hà hiện nay]; phía tây giáp mường Mò [xã Tam Thanh hiện nay]; phía nam giáp mường Pao [huyện Sầm Tớ - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào] và mường Hạ [xã Sơn Lư hiện nay]; phía bắc giáp mường Hạ [xã Sơn Lư hiện nay]. Mường Sại hiện nay là xã Tam Lư, gồm các bản: Sại, Piềng Khóe, Muống, Tình, Hát và bản Hậu. Mường Hạ: Mường Hạ trước đây là pọng Tái thuộc mường Mò. Trung tâm mường Hạ đặt tại bản Hạ [xã Sơn Hà ngày nay]. Tên gọi mường Hạ có lẽ bắt nguồn từ tên gọi suối Hạ, bản Hạ. Địa giới mường Hạ: Phía đông giáp mường Chự [tại ranh giới thị trấn Quan Sơn, xã Sơn Hà và Trung Thượng ngày nay]; phía tây giáp mường Mìn [tại ranh giới xã Sơn Lư và xã Sơn Điện ngày nay]; phía nam giáp mường Sại [xã Tam Lư - huyện Quan Sơn] và mường Pao [huyện Sầm Tớ - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào] và xã Lâm Phú [huyện Lang Chánh - tỉnh Thanh Hóa]; phía bắc giáp mường Tuồng [xã Nam Động, huyện Quan Hóa]. Mường Hạ có nhiều ruộng nước hai vụ, đất đai phì nhiêu, dòng suối Hạ trong xanh, có nhiều tôm cá, rừng mường Hạ trước đây có nhiều thú và cây rừng quý hiếm. Mường Hạ có sông Lò chảy qua dài 7 km, có nhiều suối nước chảy quanh năm, trong đó có hai suối lớn là suối Tuôm bắt nguồn từ bản Sỏi, bản Bìn chảy qua bản Hạ, bản Hao, bản Bon [dọc đường 217] đổ ra sông Lò tại bản Bon Km 40. Suối Hạ bắt nguồn từ biên giới Việt - Lào chảy qua bản Xum, Làu, Hạ, Piềng Làng đổ ra sông Lò tại Km 36. Rừng mường Hạ ở các bản Xum, Làu, Nà Ơi, Nà Sắng, Hạ, Piềng Làng trước đây nhiều gỗ, nứa và thú rừng. Mường Hạ bao gồm hai xã Sơn Lư, Sơn Hà và thị trấn huyện Quan Sơn ngày nay. Trên đất mường Hạ có động Nang Non [hang Pha Su Lú] - một danh thắng có tiềm năng phát triển du lịch ở Quan Sơn. Mường Chự: Địa phận mường Chự trước đây từ đầu Piềng Phố xã Trung Xuân lên đến cửa suối Cum. Trung tâm mường Chự ở bản Chiềng Xày. Trước thế kỷ XVIII, mường Chự có các bản: Cạn, La, Mòn[1] [xã Trung Xuân ngày nay], Cha Lang, Xanh, Bá, Chiềng Xày, Xày, Din, Lợi [xã Trung Hạ ngày nay] và Pọng, Lầm, Tong, Cum, Pa Chè [xã Trung Tiến ngày nay]. Sau khi cùng mường Mò phân chia lại ranh giới lên đến suối Lý Km 33 thì mường Chự có thêm các bản: Bách, Ngàm, Bôn, Pù Khạn, Mảy, Bàng [xã Trung Thượng]. Địa giới mường Chự: Phía đông giáp mường Ca Da [huyện Quan Hóa] và mường Ký [huyện Bá Thước]; phía tây giáp mường Mò, mường Hạ [huyện Quan Sơn]; phía nam giáp mường Đôn [xã Lâm Phú - huyện Lang Chánh]; phía bắc giáp mường Tuồng [xã Nam Xuân, Nam Tiến - huyện Quan Hóa]. Vùng đất mường Chự trước đây tài nguyên thiên nhiên ít, có nhiều núi đá nên hạn chế trong việc phát triển kinh tế. Vào khoảng thế kỷ XV, mường Chự có ông nghè gọi là nghè Chự [Chứ] là người đỗ đạt cao nhất các mường vùng dân tộc Thái ở Chu Sàn, Chu Gia lúc bấy giờ. Dân gian lưu truyền rằng: Thời đó mường Chự không có người làm tạo. Một ngày đẹp trời, dân mường Chự xuôi bè theo sông Mã buôn bán ở dưới xuôi. Khi về đến làng Đa Nê thuộc Yên Thọ [huyện Yên Định ngày nay] họ thấy trong đám trẻ chăn trâu bên bờ đê có một cậu bé rất khôi ngô, tuấn tú. Họ hỏi cậu bé con cái nhà ai. Cậu bé trả lời là trẻ mồ côi, không nhà không cửa, cũng không biết bố mẹ là ai. Nghe thấy như vậy họ rủ cậu bé về mường Chự và nói sẽ cho làm tạo mường; cậu bé ưng thuận. Khi đưa cậu bé về, cả mường tập trung đến mừng và nhất trí suy tôn cậu làm tạo mường Chự. Dân cả mường quyên góp tiền của cho tạo đi học. Tạo rất chăm học, học giỏi và đã đỗ ông nghè. Nhà vua đặt tên cho tạo là Hà Quý Công, tự là Phúc để tạo phúc và cho về làm tạo mường Chự theo nguyện vọng của dân mường Chự. Hiện nay, mộ ông nghè nằm ở nghĩa địa cổ của bản Din, xã Trung Hạ [Km 21] cách đường cái vào chừng 300m, mộ đá ghi chữ Nôm, nay bia đá bị vỡ, mộ chí không ai chăm sóc, xây cất lại nên ngày càng khó xác định vị trí. 6.1.3. Một số dòng họ của người Thái huyện Quan Sơn Người Thái gọi họ là “chao”. “Chao” bắt nguồn từ “cháo” nghĩa là mầm hạt mới nảy ra, có nghĩa là nòi giống. Người Thái ở Thanh Hóa khi hỏi thăm nguồn gốc của khách xem là con cháu nhà ai, thường dùng câu: “Tán tộc mưa ngốp lờ, cháo lờ?” [Ngài thuộc về tộc nào, mầm nào]. Tổ tiên dòng họ, người Thái gọi là “đẳm”, “đẳm chao”, “đẳm páng”. Họ người Thái theo huyết thống của dòng cha phản ánh quan hệ phụ quyền. Cho đến bây giờ vẫn chưa xác định chắc chắn được dòng họ nào ra đời trước. Nhưng hiện tại, trong cộng đồng người Thái, các họ Lò, Hà, Vi, Lương, Cầm là đông hơn cả. Các họ này phân bố rải rác khắp các vùng Tây Bắc Thanh Hóa, Nghệ An và trong một số tộc người thuộc họ ngôn ngữ Tày - Thái. Cách thông thường là lấy tên quê hương cũ đặt cho họ của mình. Chẳng hạn, chao Kha [họ Hà] liên quan đến quê hương cũ là mường Hước Kha [ở Lào Cai], họ Lò thì liên quan đến quê hương mường Lò [Yên Bái],... Một số dòng họ có nguồn gốc từ dân tộc khác như họ Bùi, Đinh, Lê, Hoàng, Phạm. Trong xã hội người Thái, đồng bào thường phân loại chất lượng dòng họ theo kim loại [vàng, bạc, đồng, sắt]. Có thể do vậy mà sinh ra tên gọi họ Cầm [tức là Vàng] họ Ngân [tức là Bạc], họ Tòng [tức là Đồng], họ Lệch, sau này đổi thành Lộc và Địch [tức là Sắt]. Một hiện tượng phổ biến khác trong xã hội người Thái là chia nhánh và xin vào họ, đổi họ. Ví dụ: Họ Lò chia thành Lò Khằm và Lò Văn. Từ Lò Khằm lại sinh ra họ Cầm, họ Lang. Họ Lò Khằm đổi thành họ Phạm [ở Quan Hóa, Quan Sơn]. Trong họ Hà có một dòng thuộc trường hợp những người không biết họ gốc hoặc tự giác bỏ họ của mình lấy họ Hà làm họ mới tên gọi là “Kha lặc”[ ]. Quan hệ dòng họ của người Thái hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở huyết thống và nhu cầu tập hợp sức mạnh để tồn tại và phát triển. Mối quan hệ dòng họ là chỗ dựa về tình cảm của cả cuộc đời. Tục ngữ Thái có câu: Cồn tộc nhăng mì họ Cồn khó nhăng mì mường. Dịch: Người bần cùng còn có họ Người nghèo khó còn có bản, có mường.[ ] Mặc dù quan hệ họ hàng của người Thái không vượt lên trên quan hệ cộng đồng mường, bản và không thay thế quan hệ “lung ta” [ông bà, cậu mợ bên ngoại] nhưng rất quan trọng. Người Kinh [Việt] nói “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, người Thái cũng nói: Cộc có lơ óc vớ có nặn Cộc có co bau óc no co páo. Dịch: Gốc cây nào ra lộc cây đó Gốc cây dẻ không mọc chồi cây nứa tép[ ]. Người Thái ở Quan Sơn có các dòng họ: Họ Phạm [trước đây là họ Lò Khằm], Lò Văn, Lương, Vi, Hà, Ngân, Lữ, Lục, Len, Lộc, Lang, Mạc và một số họ của dân tộc khác do quá trình “Thái hóa” tự nhận là người Thái, hoặc xin nhập vào dân tộc Thái như: Hoàng, Đỗ, Lê, Nguyễn, Mạc. Trong các họ người Thái ở Quan Sơn có một số họ lớn, có dân cư đông như: họ Lò Khằm [sau chuyển thành họ Phạm Bá, là họ lang đạo có hàng chục đời làm quan], họ Lương, họ Vi, họ Hà, họ Ngân, họ Lữ,... Sau đây là vài nét giới thiệu về một số dòng họ của người Thái ở Quan Sơn. Họ Phạm Bá: Dòng họ Phạm Bá ở Quan Sơn trước thế kỷ XV là dòng họ Lò Khằm. Ông Lò Khằm Yên người mường Vén [tỉnh Hủa Phăn, nước Lào] cầm quân sang Việt Nam giúp Lê Lợi chống quân Minh cùng thời với ông Lò Khằm Ban cũng từ Lào sang Hồi Xuân [Quan Hóa] giúp Lê Lợi đánh giặc Minh. Sau khi đánh thắng giặc Minh, hai ông được Lê Lợi thưởng đất đai cho ở lại Việt Nam và đổi họ từ họ Lò Khằm sang họ Phạm Bá. Đến nay con cháu dòng họ Phạm Bá ở Quan Sơn dùng nhiều tên lót khác nhau như: Phạm Bá, Phạm Xuân, Phạm Hồng, Phạm Văn... Một số bản ở phía hạ lưu sông Lò thuộc xã Trung Xuân [bên ngoài bản Piềng Phố] trở ra trước đây thuộc Ca Da, xã Hồi Xuân [Quan Hóa] thì dòng họ Phạm chủ yếu là hậu duệ của ông Lò Khằm Ban từ Hồi Xuân vào cư trú. Còn tập trung nhiều nhất ở Sơn Điện, Mường Mìn, Sơn Thủy, Na Mèo, Tam Lư, Tam Thanh, thị trấn Quan Sơn là hậu duệ của ông Lò Khằm Yên [Tạo Lá Dốn]. Các họ Phạm là người Mường, người Kinh ở nơi khác đến đây cư trú không phải nguồn gốc họ Lò Khằm. Họ Lò Khằm trước đây, Phạm Bá ngày nay là dòng họ lớn, nhiều đời đứng ra cai quản bản mường, hướng dẫn, tổ chức cho nhân dân làm ăn, xây dựng bảo vệ quê hương từ đời này qua đời khác. Nhiều thế hệ dòng họ Phạm Bá [Lò Khằm] ở Quan Sơn đã anh dũng đứng lên tập hợp nhân dân chống giặc ngoại xâm, giặc cỏ, chống thiên tai, thú dữ để giữ yên bản mường, xây dựng cuộc sống yên bình, ấm no cho dân. Có thể nêu lên một số nhân vật tiêu biểu sau đây: Ông Lò Khằm Yên, bí danh là Tạo Lá Dốn từ mường Vén đến giúp Lê Lợi chống quân Minh, đoàn quân của ông đã có công giải phóng đồn Pom Giới do giặc Minh chiếm đóng, giải phóng một vùng rộng lớn gồm mường Xia, mường Mìn, mường Mò cũ, mường Chự khỏi ách đô hộ của giặc Minh. Sau đó đoàn quân tiến xuống các huyện vùng trung du để đánh giặc. Ông đã lấy nàng Ba [con gái thứ 3] của tạo mường Khoòng [huyện Bá Thước ngày nay] làm vợ. Vào cuối thế kỷ XV, khi ông mất, con trai ông là Phạm Bá Mìn trở về cai quản bản mường đã đổi tên mường Mì thành mường Mìn cho đến ngày nay. Sau đời ông Phạm Bá Mìn còn nhiều người nữa tiếp tục làm tạo mường lãnh đạo nhân dân xây dựng, bảo vệ quê hương như: ông Phạm Lành [bản Chiềng, mường Mìn], ông Phạm Quế [bản Nhài, Sơn Điện] cầm quân đánh giặc cờ vàng ở thế kỷ XIX... Dòng họ Phạm Bá ở Quan Sơn là dòng họ lang đạo có nhiều đời làm tạo mường ở các mường trong huyện[ ]. Các thế hệ con cháu trong dòng họ Phạm cũng tham gia cách mạng từ rất sớm. Ông Phạm Bá Phúc là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu vực 3 xã Tam Lư; Sơn Điện; Sơn Thủy trước đây và là Bí thư Chi bộ đầu tiên của Chi bộ Tam Sơn [ba xã cùng một chi bộ]. Sau này ông là Phó Chủ tịch, quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Quan Hóa thời kỳ 1953 - 1957. Nhiều người dòng họ Phạm tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, được tặng huy hiệu 50 - 60 năm tuổi Đảng và đã từng giữ các cương vị chủ chốt của Đảng, chính quyền từ xã đến huyện. Đến nay, dòng họ Phạm có tỷ lệ hộ thoát nghèo khá cao so với dòng họ khác. Trong quá trình phát triển, xây dựng quê hương đất nước, dòng họ Phạm Bá ở Quan Sơn luôn phát huy truyền thống cách mạng, tham gia mọi lĩnh vực công tác ở địa phương, các ngành, các cấp từ xã đến tỉnh. Năm 2009 dòng họ Phạm ở Quan Sơn được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa công nhận danh hiệu “Dòng họ hiếu học tiêu biểu cấp tỉnh”. Theo dân gian lưu truyền, dòng họ Phạm Bá [Lò Khằm] kiêng ăn thịt chim nộc tắng lo [chim bắt cô trói cột]. Tương truyền rằng do ngày xưa có người mẹ vào rừng kiếm củi, hái măng, đào củ mài trong rừng chẳng may bị nạn chết biến thành chim tắng lo. Cứ vào tháng 3 - 4 hàng năm vì thương nhớ chồng con, dân làng mà chim kêu thảm thiết cả ngày lẫn đêm. Họ Lương: Dòng họ Lương cũng là dòng họ lớn có truyền thống xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước. Từ xa xưa dòng họ Lương đã được phân công làm mo chăm lo sức khỏe, lễ nghi cho nhân dân bản mường. Dòng họ Lương cư trú hầu khắp các bản, mường, xã trong huyện. Dòng họ Lương là lực lượng lao động dồi dào, có truyền thống cần cù lao động, giao tiếp xã hội tốt. Nhiều thế hệ con cháu, của dòng họ Lương ngày càng trưởng thành, nhiều người đỗ đạt, thông minh, tài trí. Đặc biệt, trong các người làm mo thì người họ Lương làm mo khéo nhất, được nhiều người mến mộ, rước mời khi có đám. Thời Pháp thuộc, thầy mo dòng họ Lương ở mường Mìn từng được Tri châu Quan Hóa mời xuống mo xướng đám tang nhiều người nhà quan, đã tạo thành danh tiếng. Dòng họ Lương thờ con cọp [hổ]. Tương truyền, ngày xưa có một bà mẹ trẻ bế con chưa đầy một tuổi [đang bú] vào rừng đào củ mài để nuôi sống gia đình, chẳng may đào hố củ mài sâu quá, khi cúi xuống lấy củ đã lao đầu mắc kẹt không lên được nữa, bỏ lại đứa con nhỏ trong rừng ngay bên cạnh xác người mẹ. Lúc đó có một con hổ cái đi qua, thấy người mẹ chết dúi đầu xuống hố củ mài, còn đứa con đang khóc lóc thảm thiết bên cạnh mẹ, hổ đến không những không ăn thịt hai người mà còn cho đứa bé bú no nê, dân làng, dòng họ đi tìm hai mẹ con, nhìn thấy cảnh đó liền khấn vái tôn thờ hổ từ đấy. Dòng họ Lương đến cư trú ở địa bàn Quan Sơn từ lâu đời nhưng đông nhất là thế kỷ XV, khi ông Lò Khằm Yên được Lê Lợi cho ở lại Việt Nam sau chiến thắng quân Minh. Ông đã về nước Lào đưa dân đến cùng xây dựng bản mường, trong đó đông nhất là họ Lương và họ Vi. Các dòng họ này ước thề với nhau, khi đến mường Mìn và các mường ở Quan Sơn là: Lương lông ệt mo Lò lông ệt tạo Vi lông ệt pó ệt mé. Dịch: Lương xuống làm mo Lò xuống làm tạo Vi xuống làm bố mẹ[ ]. Nghĩa là họ Lương xuống ở Quan Sơn để làm mo chuyên chăm sóc sức khoẻ, lễ đám và đời sống tinh thần cho người dân. Họ Lò xuống đây làm tạo để cai quản bản, mường, chuyên việc đối nội, đối ngoại, hướng dẫn nhân dân xây dựng, bảo vệ bản mường. Họ Vi làm bố mẹ, chuyên chăm lo việc phong tục tập quán, lễ hội bản mường và những phong tục lễ nghi khác trong các gia đình để các thế hệ cùng đoàn tụ, phấn đấu xây dựng gia đình hạnh phúc, bản, mường lớn mạnh. Họ Vi: Dòng họ Vi cũng là dòng họ lớn, cư trú hầu khắp các bản người Thái trong huyện. Dòng họ Vi có mặt ở địa bàn Quan Sơn từ lâu đời với nhiều dòng di cư đến. Trong đó có cuộc di cư đông vào thế kỷ XV cùng với dòng họ Lò, họ Lương từ nước Lào theo ông Lò Khằm Yên xuống đất Quan Sơn. Họ Vi ở Quan Sơn có 2 hệ: hệ Vi Khằm và hệ Vi Văn. Hệ Vi Khằm trước năm 1945 nhiều người làm tạo mường, tạo bản, quan bản. Ở mường Mì [nay là mường Mìn] trước thế kỷ XV họ Vi Khằm làm tạo mường. Khi ông Lò Khằm Yên được Lê Lợi cho đến làm tạo mường Mì, hai dòng họ đã phân chia mường Mì thành hai mường là mường Mì trên do họ Vi Khằm làm tạo, mường Mì dưới do họ Lò Khằm làm tạo. Đến thế kỷ XVI họ Vi Khằm cùng dân mường Mì trên bỏ đất mường Mì di cư vào Tương Dương, Con Cuông [Nghệ An] sinh cơ lập nghiệp chỉ còn vài hộ ở lại với mường Mì nhưng số hộ này đã đổi họ Vi Khằm thành Vi Văn. Dòng họ Vi làm “bố mẹ” nên dòng họ Lò Khằm [Phạm Bá] dù là dòng họ tạo [lang tạo] quyền thế trong pọng, trong mường, nhưng khi tạo mường, tạo pọng hay con cháu dòng họ nhà tạo lên nhà họ Vi thì không được yêu cầu gia chủ trải chiếu, rót nước cho mình. Tạo mường muốn ngồi chiếu phải tự trải lấy, muốn uống nước thì tự rót lấy vì gia chủ là “bố mẹ” của mình, không được sai khiến. Trước đây, nếu người họ Vi, Lương bị vạ thì phạt nhẹ hơn dòng họ khác. Do vậy mối quan hệ của ba dòng họ Lò Khằm, Lương, Vi rất thân thiết, bền chặt và cùng với các họ khác đoàn kết xây dựng bản, mường từ đời này qua đời khác[ ]. Trong lịch sử xây dựng bản mường, người họ Vi luôn cần cù lao động, dũng cảm trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai. Dòng họ Vi là lực lượng đông đảo trong mọi hoạt động ở địa phương, từ xa xưa đã có nhiều người thành đạt, nổi danh. Từ ngày có Đảng lãnh đạo, nhiều người trong dòng họ Vi trở thành đảng viên từ rất sớm và giữ cương vị chủ chốt trong các tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng từ cơ sở đến huyện. Phát huy truyền thống ông cha, hiện nay con cháu dòng họ Vi tích cực lao động sản xuất, học tập. Nhiều thế hệ con, cháu họ Vi tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trong lao động sản xuất, do dân số đông nên họ Vi cũng luôn là lực lượng mạnh, đông đảo trong mọi hoạt động ở địa phương từ thời xây dựng hợp tác xã nông nghiệp cho đến nay. Họ Vi luôn là lực lượng quan trọng góp phần xây dựng bản, mường ngày càng phát triển. Tương truyền trong dân gian, họ Vi kiêng lấy quạt quạt lửa. Họ Hà: Họ Hà phân bố ở hầu khắp các bản của huyện Quan Sơn, là dòng họ có dân số khá đông. Họ Hà có 2 nhánh: Hà Khún [Khà Khun] và Hà Văn [Khà Lặc]. Họ Hà Khún: Là họ có thế lực, được làm quan bản, tạo pọng. Hà Khún hiểu theo nghĩa khác là Hà Khằm - họ danh giá. Theo tiếng Thái, “khún” chỉ người danh giá hoặc người được xã hội tôn trọng; “khun” với “khằm” đồng nghĩa với quý trọng. Thời trước đây, khi khách đến nhà, chủ nhà chào mời khách vào nhà; sau khi hỏi thăm biết vị khách là họ Hà Khun, Lò Khằm [Phạm Bá] thì mời khách ngồi lên phía trên. Ăn uống trong lễ đám, hai họ này cũng được mời trước vào những mâm cỗ có vị trí quan trọng của gia chủ hay của bản, của mường. Dù nhà có nghèo đến mấy thì gia chủ cũng tìm một lá chiếu đẹp nhất để trải mời khách quý Hà Khun, Lò Khằm ngồi. Trường hợp không có chiếu đẹp thì mới ngồi lên đệm lau, ghế mây trong nhà, nhất thiết không để khách phải ngồi xuống mặt sàn. Họ Hà Văn[ ]: Là họ dân thường thời phong kiến ít khi được tham gia các chức sắc trong bản, trong mường. Tuy nhiên những người có tài, có đức, có tín nhiệm vẫn được dân bầu làm quan. Ví dụ, trước năm 1945 họ Hà Văn ở bản Ngàm, mường Mò làm quan Ngàm Mò. Cũng như các dòng họ khác, họ Hà có truyền thống yêu nước, cần cù lao động. Trải qua bao biến cố lịch sử, họ Hà vẫn bám bản, bám mường để sinh cơ lập nghiệp, từ đó phát triển đi lên. Con em dòng họ Hà các thế hệ có truyền thống hiếu học, nhiều người có chí vươn lên học hành thành đạt. Thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, dòng họ Hà có nhiều người thoát ly gia đình vào bộ đội, công an, thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện, dân công hoả tuyến trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu, nhiều người đã hy sinh vì Tổ quốc. Số khác ở hậu phương tích cực lao động sản xuất, công tác, nhiều người nắm giữ các chức vụ quan trọng của xã, của huyện, trở thành vị lãnh đạo địa phương được nhiều người quý trọng. Dòng họ Hà kiêng ăn thịt chim nộc cột khà [chim bìm bịp], tương truyền ngày xưa, trong lúc chuyển cư đi tìm nơi cư trú đoàn người, dòng họ Hà bị đói khát, không gặp được nguồn nước để uống, khi đi qua một bãi cỏ tranh, cỏ lau rộng bỗng nghe có tiếng bìm bịp kêu. Đoàn người đến đó tìm thì thấy một mó nước trong lành tuôn ra, cả đoàn người được cứu sống. Từ đó họ Hà tôn thờ chim bìm bịp để tưởng nhớ công ơn của nó. Họ Ngân: Dòng họ Ngân chuyển từ tỉnh Hòa Bình đến, tuy dân số không nhiều như họ Phạm, họ Vi, họ Lương, họ Hà nhưng cũng là dòng họ lâu đời ở Quan Sơn và phân bố ở khắp các xã, thị trấn trong huyện, phần đông ở xã Sơn Thủy, Sơn Điện, Sơn Lư, Sơn Hà, Trung Thượng, Trung Tiến, Trung Hạ, Trung Xuân. Dòng họ Ngân có truyền thống yêu nước, cần cù lao động, hăng hái xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ nhiều thế hệ con em dòng họ Ngân đã lên đường tòng quân chiến đấu, đi công an, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến. Số ở lại quê hương cũng tích cực tham gia lao động sản xuất, công tác, nhiều người trở thành cán bộ chủ chốt của huyện. Dòng họ Ngân hiện chiếm 5% dân số của huyện. Dòng họ Ngân thờ con rắn. Dân gian kể rằng: Ngày xưa, ở Hòa Bình có một bãi rộng lớn tên là Tống Nguống, đồng bào muốn khai hoang làm ruộng nhưng không có nguồn nước tưới. Một hôm trưởng họ tổ chức cúng tế để xin thổ địa giúp cho nguồn nước tưới tiêu thì tự nhiên có một con rắn màu bạc lượn đến nằm trước bàn thờ. Thấy vậy dòng họ mổ lợn, gà cầu khấn ngài rắn giúp đỡ để bãi rộng đó có nguồn nước mà làm ruộng. Cúng xong mọi người ai về nhà nấy, sáng mai ra thăm lại chỗ lập bàn thờ thì có một mó nước phun từ dưới lòng đất lên đủ tưới cho cả bãi. Cả dòng họ hồ hởi khai hoang bãi rộng đó làm ruộng. Từ đó, dòng họ Ngân tôn thờ thần rắn màu bạc[ ]. Màu bạc người Thái gọi là “ngân”. Ông rắn đó dòng họ gọi là Cháu Ngu Ngân. “Cháu” tiếng Thái có nghĩa là bề trên hoặc thể hiện sự tôn kính đối với vị siêu nhiên nào đó. Ví dụ như: cháu húa [chủ đầu], cháu mường [chủ mường], cháu nặm [chủ nước], cháu đín [chủ đất]. Họ Lữ: Dòng họ Lữ ở Quan Sơn phân bố khắp các xã trong huyện. Trong đó cư trú đông hơn ở các xã Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Tiến, Trung Thượng, thị trấn Quan Sơn, Sơn Lư, Sơn Hà, Tam Lư, Tam Thanh... Họ Lò Văn: Họ Lò Văn ở Quan Sơn gốc là họ Lò Khằm ở Hồi Xuân [Quan Hóa] di cư lên Quan Sơn cách đây khoảng 600 năm, tập trung nhiều ở bản Ka Nhăng, xã mường Mìn [nay là bản Ngàm, xã Sơn Điện]. Sau khi chuyển cư lên ở bản Ngàm, đồng bào đã khai là họ Lò Văn để tự cho mình là dân thường, không có ý lên tranh làm tạo, làm quan với dòng họ Lò Khằm ở mường Mìn và các mường khác thuộc Quan Sơn ngày nay. Dòng họ Lò Văn có dân số chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số dân của cả huyện. Đồng bào sống tập trung ở bản Ngàm [xã Sơn Điện], một số ở các bản Tân Sơn, Bun, Ban, Na Lộc, Na Hồ [xã Sơn Điện] và một số ít ở các xã Na Mèo, Sơn Thủy, Tam Thanh, Tam Lư, Trung Xuân. Họ Hoàng: Họ Hoàng ở Quan Sơn xưa kia là người Kinh. Do sinh sống xen kẽ với vùng có nhiều người Thái, họ Hoàng đã kết thân với dân tộc Thái, hòa đồng các phong tục tập quán của người Thái, dần dần tự hòa nhập và khai là người dân tộc Thái nhưng vẫn giữ họ gốc là họ Hoàng. Hiện nay, họ Hoàng ở Quan Sơn sống tập trung ở xã Sơn Thủy, Na Mèo, một số ở Trung Thượng, Trung Tiến, Tam Thanh, Tam Lư, thị trấn Quan Sơn. Họ Hoàng có truyền thống hiếu học, cần cù lao động, nhiều con em đỗ đạt giữ các cương vị lãnh đạo từ xã đến huyện. Họ Mạc: Gốc là dân tộc Kinh từ tỉnh Nam Định vào Quan Sơn cách đây trên 400 năm. Do cuộc sống xen kẽ hòa nhập với người Thái nên dần dần đồng bào tự khai là dân tộc Thái, nhưng vẫn giữ họ gốc của mình là họ Mạc. Họ Mạc ở Quan Sơn sống tập trung nhiều ở xã Trung Tiến, Trung Hạ, Trung Thượng. Người họ Mạc cũng như các dòng họ khác cần cù lao động, học hành thành đạt. Các dòng họ khác như họ: Lục, Len, Lộc, Lang tuy dân số ít, chỉ phân bố ở một vài địa phương trong huyện nhưng đồng bào cũng là cư dân đã sống ở Quan Sơn lâu đời và có nhiều cống hiến cho quê hương, đất nước. Họ Lục, Lộc, Len có một bộ phận trước đây là người Mường ở Mường Bi tỉnh Hòa Bình di cư đến Quan Sơn, sống xen kẽ với bản người Thái, dần dần mọi phong tục tập quán, tiếng nói hòa đồng với người Thái và tự nhận mình là người Thái. Tuy nhiên các dòng họ này vẫn còn lưu truyền lại cho con cháu một số nét văn hóa cổ truyền của dân tộc Mường. Họ Lang là người Thái từ huyện Thường Xuân chuyển cư lên Quan Sơn do đi bộ đội, công an, biên phòng hoặc công tác ở một số ngành được điều về công tác trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ rồi lấy vợ, sinh con ở lại Quan Sơn, nên dòng họ này chỉ khoảng vài chục người ở một số bản trong huyện. Các họ Đỗ, Lê, Nguyễn, Trần... gốc là người Kinh đến Quan Sơn làm cán bộ, giáo viên, công nhân giao thông, lâm trường,... Sau đó lấy vợ người Thái, khi sinh con khai dân tộc con theo mẹ, còn họ vẫn lấy họ của bố. 6.1.4. Văn hóa vật chất Đối với văn hóa vật chất, người ta thường chia thành các dạng thức như: ăn uống, nhà cửa, trang phục. Đây là những đặc điểm thể hiện các đặc trưng văn hóa vật chất của văn hóa tộc người rõ nhất. Khi nói đến văn hóa vật chất của người Thái ở Quan Sơn cũng như nói đến văn hóa tinh thần ở phần tiếp theo, chúng ta chỉ nói đến những khía cạnh đại diện có tính tiêu biểu, những nét đặc trưng mang tính vùng miền, do đó, không thể tách khỏi những đặc điểm chung về văn hóa cộng đồng của người Thái ở Thanh Hóa và Việt Nam nói chung. 6.1.4.1. Ăn uống Văn hóa chính là kết quả của quá trình con người tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội, ăn uống là một biểu hiện của văn hóa nên cũng thể hiện sự tương tác này. Ăn uống không chỉ đáp ứng nhu cầu tự nhiên của con người mà còn thể hiện cả nét văn hóa ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của các nhóm tộc người, cộng đồng người hay dân tộc ở từng vùng miền với những điều kiện địa lý tự nhiên cụ thể. Văn hóa ẩm thực cũng phản ánh tập quán của một cộng đồng biểu hiện trong việc ăn uống, và tập quán ấy chịu sự quy định của hoàn cảnh sống [đặc điểm của nền sản xuất, thiên nhiên, lối sống...], bên cạnh đó cũng thể hiện năng lực sáng tạo của cộng đồng trong những hoàn cảnh nhất định. Qua văn hóa ẩm thực, có thể nhận thấy dấu ấn nông nghiệp trồng lúa nước kết hợp với làm nương rẫy, chăn nuôi và khai thác tự nhiên [săn bắt, hái lượm] trên một vùng rừng núi điệp trùng và một lối sống gắn kết cộng đồng thể hiện rất đậm nét trong văn hóa ẩm thực của người Thái cũng như người Mường. Món ăn Nguồn lương thực làm nên bữa ăn truyền thống của người Thái là gạo nếp, nên cách chế biến các món ăn tinh bột cũng chủ yếu là gắn liền với gạo nếp như xôi và cơm lam. Trước kia lúa nếp là đặc sản thơm ngon, cơm ăn chủ yếu là nếp cái đồ xôi nên có câu thành ngữ “Cơm đồ cơm nắm”. Trước đây, người Thái thường đồ cơm [xôi nếp] để vào ép đến lúc ăn thì nắm thành nắm để ăn, ít khi dùng bát. Hiện nay, ăn cơm tẻ nên đồng bào đã dùng bát đũa như người Kinh. Nguồn thực phẩm chủ yếu là tự túc bằng sản phẩm chăn nuôi gia súc gia cầm và dựa vào hái lượm, săn bắt trong thiên nhiên như kiếm cá, rong rêu dưới sông suối, thịt các loại gia cầm nuôi và săn bắt, măng, nấm, rau tìm kiếm từ rừng. Thức ăn thường thiên về ăn các loài động vật thủy sinh và một số lượng khá nhiều rau trong bữa ăn. Nguồn cá làm thức ăn hoàn toàn do đánh bắt từ môi trường tự nhiên. Món ăn từ cá được chế biến thành nhiều món khác nhau, trong đó có nhiều món được nhiều người yêu thích như cá nướng gấp [pá pính tập], cá chua... Trước kia món cá chua đựng ống nứa là một sính lễ không thể thiếu trong phong tục hôn nhân của người Thái, giống như trầu cau trong ăn hỏi và cưới xin của người Kinh. Món ăn từ thịt, người Thái có các món như: lạp; nem thịt nai, hoẵng, lợn lòi; thịt gà rừng xào măng; canh uôi nấu với thịt sóc; trứng kiến đen đồ, nướng, nấu canh; tái nộm thịt nai, hoẵng, lợn lòi... Các món canh như: canh uôi cá nướng măng chua, canh măng, canh nấm, canh rêu, canh pịa đắng... Trong bữa ăn của người Thái thường có thêm món “chẻo” được chế biến từ cá nướng trộn với hạt tiêu, hành, tỏi, ớt. Trong các gia vị không thế thiếu hạt mác khẻn. Người Thái vẫn thích tra mác khẻn vào các món thức ăn cần có gia vị hơn là hạt tiêu. Có thể nhận thấy, các món ăn của người Thái mang dấu ấn tự nhiên rất đậm nét [rau rừng, củ rừng, măng rừng các loại, cá suối, rêu đá, hạt tiêu rừng...] và có thể khái quát công thức món ăn truyền thống của người Thái là “xôi - cá - rau”. Hiện nay, cây lúa nếp dần dần được thay thế bằng cây lúa tẻ, theo đó, nguồn lương thực trong bữa ăn cũng thay đổi, từ ăn xôi chuyển sang ăn cơm tẻ. Nguồn cá tự nhiên ngày càng khan hiếm, nguồn thịt do chăn nuôi ngày càng nhiều nên lượng thịt trong mỗi bữa ăn cũng được nhích dần lên. Nguồn cá bây giờ có thêm cá nuôi lồng từ các dòng sông hay các hồ tự nhiên, các ao thả cá do người dân tự đào. Từ đó, cơ cấu bữa ăn của người Thái hiện nay cũng chuyển đổi theo xu hướng chung là “cơm - cá/thịt - rau”. Tuy vậy, những món ăn đặc sắc của đồng bào Thái, Mường vẫn hiện diện trong đời sống hiện nay. Điều đó nói lên rằng tinh hoa ẩm thực Thái, Mường vẫn được bảo tồn, phát triển. Sau đây là cách chế biến một số món ăn. Xôi: Món ăn này được đồ từ gạo ngâm rồi đổ vào những chiếc chõ gỗ đặt lên cái miếng bằng đồng. Xôi đồ chín được dỡ ra mâm, quạt cho nguội rồi mới cho lại vào chõ hay các ép đan bằng tre, vầu, giang đậy kín lại cho cơm nóng dẻo, lúc ăn lấy ra mủng, hoặc vẫn để trong ép mở để ăn cả ngày. Mỗi mâm cơm từ hai đến ba mủng tuỳ theo lượng người ăn mà lấy dần ra cho đủ. Xôi đồ là món ăn chính của người Thái, nó luôn có mặt ở tất cả các bữa ăn to nhỏ của đồng bào. Ngày nay, mặc dù đã chuyển sang ăn cơm tẻ, nhưng người Thái, vẫn có thói quen đồ cơm. Có khi bà con thường trộn một ít sắn tươi vào gạo để đồ. Đồ với sắn tươi rất thơm, bùi, đậm đà hương vị núi rừng. Người Thái thường dùng xôi trắng, thỉnh thoảng mới làm xôi màu bằng các loại thuốc cỏ, hoặc quả gấc. Cơm lam: Cơm lam là loại cơm được lam chín trong một loại ống thuộc họ tre, thường là ống vầu thơm. Gạo để lam cơm là gạo nếp thơm, dẻo. Gạo được ngâm trước rồi cho vào ống vầu [bánh tẻ] mà thành ruột của nó có một lớp lụa mỏng, lành tính, có mùi thơm. Các ống cơm lam được đặt nghiêng trên ngọn lửa và phải xoay đều cho ống không bị cháy. Khi nước sôi và cạn thì dập lửa, nướng tiếp các ống cơm trên than hồng. Cơm chín lấy ra để nguội, chẻ bóc lóp vỏ cật ở ngoài. Cơm ăn rất dẻo, thơm mà không ngán. Món cơm lam này thường được làm cho sản phụ ăn. Ăn cơm lam chấm với chẻo thảo mộc, chẻo cá tươi có ớt và hạt mác khẻn rất ngon và bổ. Phụ nữ sau khi sinh, ăn khẩu lam trong vòng một tháng. Người Thái có tục đem một ống cơm lam treo ở ngoài rừng, báo cho Then Phắt biết đứa trẻ sinh ra đã thành người. Trong cúng hồn hàng năm đều phải có cơm lam. Ngoài hai món phổ biến là xôi, cơm lam, người Thái còn làm các loại bánh bằng nguyên liệu gạo, ngô. Bánh ú [kháu vén]: Bánh ú là loại bánh người Thái Quan Sơn hay làm để đi thăm thân, như thăm trẻ sơ sinh, thăm người ốm... Bánh ú được làm từ gạo nếp ngon, nếp cẩm, nếp hương dẻo thơm. Gạo nếp làm sạch. Lá chuối tươi [hoặc lá đót] tách thành 08 - 10cm cuốn hình phễu, cho gạo vào phễu lá; gấp phần phễu trên lại dùng lạt vầu [hoặc giang] buộc cuốn thắt, sau đó cho bánh vào ngâm trong nồi hoặc chậu khoảng 30 - 40 phút rồi đem luộc. Khi thấy bánh mềm và có mùi thơm là chín. Bánh chưng đơn [kháu tôm piêu]: Đây là loại bánh mà người Thái ở Quan Sơn hay làm để đi hỏi vợ; bánh chưng được làm từ gạo nếp ngon, nếp cẩm, nếp hương dẻo thơm. Gạo nếp làm sạch. Lá dong tươi rửa sạch, lau khô, sau đó lấy gạo đã ngâm cho vào giữa lá, gấp hai bên lại sao cho đường gân bánh ở giữa rồi gấp đầu bánh lại và dùng lạt vầu [hoặc giang] cuốn theo thân bánh như bánh ú, bánh phải đều tăm tắp. Cho bánh vào ngâm trong nồi hoặc chậu khoảng 30 - 40 phút mới đem luộc, khi thấy bánh mềm và có mùi thơm là chín. Lấy phần lạt để dài buộc lại từng chùm 10 cái. Khi đi ăn hỏi theo tục lệ mà mang cho đủ bánh [20, 40, 60 hay 100 cái]. Bánh trưng đôi [kháu tốm cộp]: là lấy bánh chưng đơn buộc lại từng cặp. Cá chua [pa xốm]. Món ăn này được người Thái sử dụng rất phổ biến. Cá tươi cắt lát, làm sạch lớp màng đen ở bụng cá, để ráo nước, trộn với muối, gạo tấm hoặc cơm nguội để làm chua sau đó cho vào ống, chĩnh hay bình tùy thuộc lượng cá và để từ 5 - 7 ngày. Có thể dùng cá chua để rim ăn với xôi đồ vừa tiết kiệm vừa ngon cơm. Đây cũng là lễ vật không thể thiếu trong phong tục hôn nhân của người Thái. Cá ướp muối nướng: Các món nướng, theo tập quán của người Thái, là món ăn cao cấp. Trước khi nướng thịt hoặc cá phải ướp gia vị cho đủ độ mới cho vào gắp ba que bằng cây nứa hoặc vầu bánh tẻ, gắp làm to bằng ba ngón tay. Loại gắp ba que có ưu thế là nướng thịt cá chín đều, thơm ngon. Khi nướng phải nướng cho cá khô và chín đều, không được để cá bị cháy sém hoặc chín ép. Đối với cá nướng có ba cách. Cách thứ nhất là mổ cá, ướp gia vị, lấy que nhỏ thọc vào miệng rồi xuyên hết thân cá để khi nướng cá không bị gãy, nếu cá to thì cắt miếng, lấy que xuyên theo sườn cá để cá không bị rơi rụng lúc chưa chín hẳn. Cách thứ hai là gói lá dong kẹp vào gắp để nướng. Cách thứ ba, cá mổ sau lưng, cho gia vị vào trong, sau đó gấp đôi theo chiều ngang con cá rồi cho vào gắp. Nướng kiểu này tiếng Thái gọi là “pa píng tập”. Cá chủm đồ: Nguyên liệu gồm cá con rửa sạch bỏ vào chậu nhỏ, hoa chuối rừng thái mỏng ngâm nước mẻ và muối rồi rửa sạch, rau dền đất rửa kỹ thái nhỏ, gạo nếp vừa đủ, thêm mác khẻn, muối và mì chính. Tất cả trộn đều, ướp khoảng 15 - 20 phút thì lấy lá dong đùm, dùng lạt để buộc sau đó bỏ vào hông đồ đến khi thấy gạo nếp chín dẻo là được. Đây là món ăn thơm ngon, thường được chế biến mỗi khi nhà có khách quý. Cá chua: Cá to nhỏ đều làm chua theo cách sau: Cá to mổ bụng rửa sạch, lược thịt ra rồi thái miếng [mỏng hoặc dày đều được], cho thính gạo hay thính ngô và các gia vị khác như muối [không bỏ mì chính], lá đinh lăng vào. Tất cả trộn đều cho vào ống nứa hay vại sành, rắc một lớp lá đinh lăng lên trên rồi lấy lá dong hay lá chuối bịt lại để trong khoảng 20 ngày trở lên là ăn được. Món ăn này ăn cùng với gừng lát, lá chanh, lá sung và các loại rau thích hợp. Cá trong ngày Tết: Cá là món ăn phổ biến trong bữa ăn hàng ngày của người Thái và trong những ngày Tết, cá là món ăn chính không thể thiếu. Thông thường, cứ đến ngày 28, 29 tháng Chạp là dân bản đổ ra sông, ra suối bắt cá. Tất cả những con cá bắt được không kể to hay nhỏ, đều được coi là thần suối và được mang về làm cỗ cúng. Con cá to nhất được chọn để riêng. Đó là con cá đầu mâm cỗ nên được nướng nguyên con. Số cá còn lại được chế biến thành các món ăn riêng của vùng này như: cá đồ, cá sấy, cá nướng, cá độn cơm, cá mọc, cá gói vùi tro bếp, cá lạp... Món cá lạp thường dùng để đãi khách quý mỗi khi Tết đến xuân về. Từ con cá người Thái có thể chế biến thành ba món: món lạp vừa béo vừa cay, vừa có vị chua chát của lá rừng, món chẻo để chấm xôi nóng và bát canh chua cá. Cá mọc: Món ăn này dùng làm nhân bánh bột gạo nếp. Thịt cá băm nhỏ giống như mọc thịt. Bột nếp được chuẩn bị kỹ như làm bánh dẻo. Mọc cá gói bên trong bột nếp, sau đó xếp từng lượt vào chõ xôi đồ từ 30 đến 40 phút. Có loại mọc 3 cá, 5 cá, 7 cá, 9 cá [số lượng cá dùng làm mọc nhân bánh]. Cá nướng được kẹp thành từng kẹp bằng que tre rồi đem nướng than củi gỗ. Mỗi kẹp cá từ 3 - 5 - 7 - 9 con cá. Sau khi nướng xong thì đem cá đồ lại. Cá lam ống vầu non: Cá tươi nhỏ [mỗi con không quá 0,5kg, thường là cá bắt ở sông, suối] trộn cùng với các gia vị như: mác khẻn, lá hành tươi, thì là, lá gừng, ớt, mì chính, muối. Nếu không có mác khẻn thì dùng bột hạt dổi thơm hoặc bột vỏ dổi thơm. Sau khi trộn với các gia vị thì cho cá vào ống vầu non tươi [chiều dài tùy ý] dưới đáy lót lá xịa [lá sả] sau đó lấy lá xịa nút ống lại [không cần cho nước vào ống] rồi đem hơ trên than hồng. Xoay ống nhiều lần để cá không bị cháy và chín đều. Hơ lửa khoảng 50 - 60 phút, khi thấy ống vầu mềm đều, hơi nước trong ống bay ra là món ăn đã hoàn tất. Chịn giáng [thịt sấy khô trên gác bếp]: Trước đây đồng bào có tập quán nếu có nhiều thịt sẽ để dành một phần treo dưới gác bếp. Đây là cách cất giữ thực phẩm độc đáo. Thịt vừa được khói bếp hun vô trùng vừa được hơi nóng sấy khô nên để bao lâu cũng được [có khi để 2 - 3 năm]. Chịn giáng khi đem ra ăn thường nướng lại trên than cho giòn, hoặc đồ trong chõ cho chín. Thịt khô được dùng trong ngày thường hoặc ngày lễ tết. Thịt trâu, bò khô là món thơm ngon và phổ biến. Thịt rửa sạch cắt thành miếng, dài khoảng 20cm, sau đó xâu vào que nứa gác trên bếp. Sau 2 - 3 tháng [có thể lâu hơn càng ngon] lấy những xiên thịt khô xuống rửa sạch, gói vào lá dong hoặc lá chuối rồi vùi vào tro nóng. Khi ăn chấm với món chẻo làm từ gừng, măng chua, khế... Thịt trâu, bò khô có thể nấu với các loại lá như lá lốt, gừng, sả, hẹ... Chỉ cần đun nước sôi, cho thịt vào đến khi chín nhừ thì cho rau, gia vị. Lạp: Món này ăn được chế biến từ thịt nạc ngon nhất của trâu, bò, dê, hươu, nai [da trâu, bò, nai, hoẵng... cũng có thể làm lạp] theo cách “ăn thịt sống” [Món lạp chín gọi là lạp xúc, được làm từ thịt băm nhỏ đã rang chín, món này dành cho những người không thích ăn sống, người già, trẻ nhỏ, phụ nữ]. Thịt nạc [không có mỡ, gân] được làm sạch, thái mỏng, ngâm nước muối hoặc nước lá ổi một lúc lâu rồi mang ra vắt kiệt nước, băm nhỏ, bóp với nước măng chua. Dùng các loại gia vị như: tỏi băm, rau răm, rau mùi tàu, rau mùi, rau húng... thái nhỏ trộn vào. Thịt sống đã được nước măng chua “làm chín” nên dậy mùi đặc trưng. Lạp được xem là một món ăn sang nên người ta thường thưởng thức món ăn này trong những dịp lễ, tiệc lớn. Chịn xổm [thịt chua]: Món ăn này được làm từ các loại thịt trâu, bò, hươu, nhím, nai, lợn. Cách chế biến thịt chua cũng giống như cá chua: Thái miếng nhỏ, trộn muối nhồi chặt vào ống nứa khô hoặc vại sành, sau đó phủ thính lên trên, bịt chặt miệng ống, để khoảng một tuần là có thể ăn được. Ngoài thịt là chính còn có các chất xúc tác cho quá trình lên men như thính gạo nếp và riềng giã nhỏ. Có thể muối trong vại, ăn dần trong vài tháng mà không lo hỏng. Trong các tiệc vui của người Thái, đây là món ăn khoái khẩu thường dùng để uống rượu. Thịt mỡ [lợn] thái nhỏ hoặc to tùy ý trộn với cơm nguội [cơm và thịt bằng nhau] để chừng 15 - 20 ngày trở lên cơm nguội hóa thành mẻ ngấm vào miếng thịt, có thể dùng để nấu, hoặc xào với rau dớn. Đây cũng là món ăn đặc trưng của người Thái. Canh uôi thịt gà với măng chua: Gà ri tơ khoảng 0,6 - 0,8kg làm thịt xong chặt miếng nhỏ như đầu ngón tay trỏ, tay út. Măng chua [tươi hoặc khô] khoảng nửa bát con và gia vị trộn vào với thịt rồi bắc lên bếp lửa xào cho săn thịt gà sau đó cho nước sôi vào với tỷ lệ 1 thịt 4 nước. Sau khi đổ nước thì cho khoảng 2/3 bát ăn cơm tấm gạo nếp vào đảo đều [nếu không có tấm gạo thì dùng gạo ngâm sơ rồi giã nhỏ [không giã thành bột]]. Canh uôi với thịt gà không có măng chua: Gà ri tơ khoảng 0,6 - 0,8kg chặt miếng nhỏ như đầu ngón tay trỏ, tay út. Trộn thịt gà với mác khẻn, mì chính, muối [hoặc hạt nêm] sau đó bắc lên bếp lửa xào cho săn thịt. Khi thịt đã săn, cho nước sôi vào với tỷ lệ 1 thịt 4 nước rồi cho tấm gạo vào đảo đều. Khi gạo và thịt đã chín thì cho lá hành tươi, lá thì là thái nhỏ vào. Canh uôi có thể nấu với thịt trâu, thịt bò khô, thịt sóc, thịt vịt, thịt dúi tươi, khô, cá tươi, cá khô treo bếp, thịt hoẵng, thịt nai, thịt lợn lòi khô, thịt chim... Các món ăn từ rau, măng: Người Thái khai thác được từ tự nhiên nguồn thực phẩm phong phú. Riêng về măng đã có măng nứa, măng tre, măng luồng, măng vầu, măng giang, măng đắng, trong đó măng nứa, măng tre, măng luồng, măng vầu phổ biến hơn cả. Đồng bào Thái chế biến măng thành món ăn theo nhiều cách khác nhau. Trong các món măng của người Thái, măng chua là một món ăn phổ biến. Măng chua có thể nấu canh với cá, ếch, nhái, thịt gà, thịt vịt, thịt lợn; hoặc xào với thịt vịt bầu, thịt trâu, thịt bò, thịt thú rừng [nai, hoẵng]. Ngoài măng ra, hoa chuối rừng, sau má, rau dớn, rau tàu bay, rau bợ, rau cải dại, lá chua rừng, lá môn nước... cũng thường góp mặt trong bữa ăn của người Thái. Không chỉ khai thác thực phẩm từ thiên nhiên, người Thái còn trồng ở vườn nhà, nương, rẫy nhiều loại rau, củ, quả để làm phong phú bữa ăn như: các loại rau cải, rau dền, bầu, bí, mướp đắng, này này... Người Thái chế biến món ăn từ rau, củ, quả đơn giản, thông thường được luộc [măng tre, măng vầu, rau tàu bay, rau dớn], nấu canh [măng mây, măng tre, măng vầu, hoa chuối rừng], muối chua [măng, rau], ăn sống [các loại rau], làm nộm [rau tàu bay, hoa chuối rừng, ngọn sắn]. Nộm rau, rau đồ là những món ăn đặc trưng của người Thái. Trong các món canh măng của người Thái, món măng nấu với nhái là một món ăn phổ biến. Nhái bắt trên rừng, ngoài rẫy, trong các bờ khe, dọc suối, trên đồi mía về mổ bụng, vứt ruột, rửa sạch. Măng củ thái mỏng; măng ống luộc chín xé nhỏ, hoặc măng chua... Đun nước đến lúc sôi thì bỏ măng và nhái vào nồi cùng với muối ớt, lá lốt, nước mắm... Khuấy đều cho nhái ôm măng, măng ôm nhái. Thức chấm: Thức chấm là thứ không thể thiếu trong cơ cấu bữa ăn của người Thái, món ăn ngon hay không phụ thuộc rất nhiều vào thức chấm. Trước đây, trong những lúc khó khăn, bữa ăn chỉ có xôi hoặc cơm tẻ, ngô với rau đồ, thế nhưng chỉ cần có một món chấm phù hợp bữa ăn trở nên ngon hơn. Người Thái tạo ra nhiều loại thức chấm có nguồn gốc từ nhiên nhiên khác nhau: Các món chẻo rất đa dạng, có thể dùng các loại gia vị để làm chẻo. Các gia vị: ớt giã muối, mì chính, củ kiệu, ớt, gừng, riềng, sả, rau răm, lá quất hôi, khế chua, măng chua, lạc rang, vừng rang, nấm... đều có thể làm chẻo để chấm rau, củ, thịt, cá, xôi hay ăn với cơm tẻ. Đôi khi thịt, cá cũng được băm, nghiền nát để làm chẻo như chẻo cá nướng, chẻo thịt nướng... Mỗi loại chẻo hợp với một số loại món ăn như chẻo cá nướng ăn với rau cải non; chẻo thịt nướng dùng để chấm măng luộc, rau đồ [hoặc luộc]; chẻo sả, kiệu chấm cà tươi hoặc cà luộc; chẻo làm từ thịt để chấm rau rừng. Người Thái rất thích ăn chẻo môn lá khô, chọn lá môn non từ những cây môn mọc ở bờ sông, suối, ao đem về phơi nắng khoảng 2 ngày, giã nhỏ, bỏ vào ống nứa lam cho chín [hoặc đồ] sau đó đem phơi khô cho vào ống cất lên gác bếp. Khi làm chẻo đem môn khô cho vào nước ngâm, vớt ráo nước bỏ vào giã nhỏ cùng hạt đu đủ đã nướng chín và gia vị vừa ăn. Chẻo môn lá khô dùng để ăn cho đậm miệng, khử tanh, hoặc chấm rau rừng. Thông thường người ta giã muối với ớt, óc quả mác kinh, mác ten, cá nướng, thịt gà, tương, hạt gấc, hạt mít khô... và hạt mác khẻn [hạt tiêu rừng] đã được rang hay nướng chín thành một thứ chẻo thông dụng nhất. Nói thông dụng nhất vì loại chẻo này có mặt thường xuyên trong các bữa ăn và các nguyên liệu chế biến ra nó rất sẵn, rất dễ tìm kiếm. Chẻo bao gồm nhiều loại: Chẻo sả gồm có sả, muối, ớt giã nhỏ, trộn đều. Chẻo gừng có gừng, muối, ớt. Chẻo măng chua cũng được chế biến theo kiểu như vậy. Chẻo cá nướng có cá nướng giã trộn với muối và ớt. Trong các loại chẻo thì chẻo khoai môn là được ưa thích nhất. Cây khoai môn thuộc họ khoai sọ thường mọc ở các dọc đất hẹp có nước đọng hay dọc các suối. Người ta chọn hái các lá xanh và non đem về phơi cho héo, rồi cho vào cối giã kỹ, sau đó cho vào chõ đồ chín và đem phơi khô. Để bảo quản được lâu người ta cho lá môn đã chế biến vào các ống nứa khô, các loại đồ đựng đan bằng nan tre, nứa hay gói trong các mo cau khô và gác lên gác bếp. Khi cần dùng, lấy lá môn khô ra ngâm với nước sôi vài phút rồi giã trộn với muối, ớt, hạt quả gấc và hạt mác khẻn. Món tổng hợp này mà thành phần chính là chẻo môn dùng chấm xôi, chấm cá, chấm thịt đều ngon. Đặc biệt chẻo môn lá thứ khử tanh rất công dụng. Người Thái khi nấu canh cá thường cho chẻo môn vào để khử mùi tanh. Đồ uống: Tập quán của người Thái xưa, khi có khách đến chơi nhà, trước tiên là mời khách uống nước chè, chào hỏi khách, sau đó là mở chĩnh rượu cần. Trước khi uống phải mời thần đi bảo vệ khách [người Thái quan niệm, khách quý, khách trên đi sẽ có thần đi theo nên phải mời thần uống trước] sau đó khách cùng chủ nhà và một số anh, em trong bản đến cùng tiếp khách với chủ nhà mới uống. Mọi người dù ở cấp bậc nào cũng phải tuân theo luật uống rượu đã có từ lâu, đó là nếu uống không cạn thì bị phạt từ 1 đến 2 còi liên tục. Tục ngữ có câu: “Nhằng láy pặt khún tó mứ kín láu, nhằng láy khắm cấu tó mứ tặt phốm” nghĩa là, còn được làm quan trên có ngày uống rượu, còn được sờ đầu có ngày cắt tóc. Sau khi uống rượu cần xong, chủ nhà mời khách bữa cơm thân mật. Mâm cơm có đủ cơm, canh, thịt, cá và rượu nước. Mọi người vừa ăn vừa chúc tụng nhau rất vui vẻ, thắm tình anh em, chủ khách. Hiện nay, tục uống rượu cần chiêu đãi khách hầu như không còn phổ biến như xưa.[ ] Rượu cần là món đồ uống vừa thiêng liêng vừa đời thường vừa sang trọng, hiện hữu trong đời sống văn hóa của nhiều tộc người thiểu số. Người Thái coi rượu cần là thứ đồ uống vừa mang tính chất lễ nghi vừa thể hiện tình cảm thân mật, chân thành. Trong các sự kiện quan trọng của đời sống như mừng nhà mới, cưới xin, hội hè, bạn bè gặp nhau... bao giờ cũng phải có rượu cần. Trong các cuộc rượu có tính chất nghi thức, mọi người phải tuân thủ những quy định chặt chẽ. Những người cao tuổi, những người có cương vị xã hội, khách quan nơi xa đến là các đối tượng được “ưu tiên” cầm cần uống lượt rượu đầu. Trong gia đình người Thái, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, đều có vài ba chiếc sừng trâu được gọt đẽo cẩn thận làm dụng cụ đong nước trong các cuộc rượu. Khi uống rượu cần [trừ lễ tang], người Thái thường hát mời rượu. Người ta có thể vừa uống rượu vừa hát đối đáp, thi tài bằng các lời hát có sẵn hay sáng tác ngẫu hứng. Rượu cần trước kia có mặt trong tất cả các nghi thức cúng lễ của người Thái: từ Tết Nguyên đán đến lễ cơm mới, đến lễ hợp vía, tác thành hạnh phúc cho đôi trai gái, từ việc cúng gọi hồn trẻ trở về đến các nghi lễ cúng ma ruộng, ma nương. Trong các sự kiện này, có thể không cần rượu siêu nhưng rượu cần thì nhất định phải có, trừ lễ tang. Rượu cần đón khách xa, rượu cần thờ cúng tổ tiên, rượu cần dùng trong đình đám: cưới xin, ma chay, mừng nhà mới, lễ hội... Nhìn vào số lượng cần hút [vòi hút trong ché rượu] là biết người Thái sử dụng chúng vào mục đích nào[ ]. Số cần lẻ [3 - 5 - 7 - 9] thường là cúng ma. Cần rượu sử dụng trong lễ hội, tiếp khách có số lượng chẵn [4 - 6 - 8 - 10 - 12]. Chỉnh rượu cần trong các lễ tục, lễ hội được dân bản chuẩn bị rất công phu. Chỉnh rượu cần to nhỏ, ngon ngọt thể hiện uy quyền và thế lực của bản, đồng thời trong thế giới tâm linh nó là một dự báo về tương lai - một năm mới phía trước may mắn, tốt lành hay thiên tai, trắc trở... Nếu là việc bản thì thông thường vào đầu tháng 11 âm lịch, công việc chuẩn bị làm rượu cần cho các lễ tục, lễ hội bắt đầu. Già bản chịu trách nhiệm phân công các gia đình chuẩn bị nếp cái, vỏ trấu, men lá [rượu cần ngon ngọt hay không phụ thuộc vào men lá]. Sau khi mọi thứ đã chuẩn bị đầy đủ, già bản chọn ngày, giờ tốt để tiến hành cho ngâm ủ. Nhất là ngày cho nguyên liệu vào chĩnh[ ] nén chặt. Trước đây, dân bản thường lấy nước ở mó nước hoặc ở khe suối để đổ vào chĩnh rượu. Dụng cụ lấy nước là vài ba cái ống bương để vác nước về; một cái chậu hay nồi để đựng nước đổ từ trong ống ra; một cái “còi” làm bằng sừng trâu hoặc sừng bò rừng. Sừng làm “còi” được đục một lỗ nhỏ ở phía đầu sừng để thả rượu; một cái gáo [nay là ca nhựa] để múc nước đổ vào “còi”. Thời gian uống rượu cần được tính bằng thời gian đổ nước đầy “còi” và thả nước chảy ra từ cái lỗ nhỏ đầu sừng. Đó cũng là lượng rượu cần khi uống từng cặp với nhau. Cần rượu làm bằng cây trúc, tre dài khoảng 1 - 1,5m được hơ lửa, vuốt thẳng, đục thông ruột sau đó uốn cong [vì vậy mới gọi là rượu cần]. Rượu cần cũng là lễ vật người Thái dùng để cầu cúng thần linh, cầu mong thần linh phù hộ giúp đỡ con người. Rượu là tinh hoa của trời đất ban tặng cho con người, người Thái rất nâng niu quý trọng. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng uống hết mình mà tùy khả năng của mỗi người để uống có chừng mực. Khi người uống không muốn uống nữa sẽ cất lời khặp từ chối khéo léo, vừa không làm mất lòng người mời, vừa thể hiện tình cảm, thái độ của mình. Đây là một nét văn hóa thể hiện mức độ “chừng mực” trong văn hóa rượu cần của người Thái[ ]. Nước uống hàng ngày: Đồng bào thường uống nước chè khô tự làm. Người Thái gọi là “chè ly”. Sau câu chào khách “Tán ma” khi khách đến nhà, đồng bào thường pha chè mời khách, vì vậy, một số người gọi vui là chè “Tán ma”. Cây chè được trồng ngay trong vườn nhà, bờ rào, trên đồi. Khi chè ra lộc thì hái về vò nhuyễn rồi ủ, phơi nắng để dùng dần. Ngày trước, nhiều bản làng còn duy trì tục uống chè cộng đồng. Các gia đình lần lượt thay nhau chuẩn bị nồi nước chè thật ngon; buổi tối, cơm nước xong, mọi người trong bản tới uống chè, hút thuốc, trò chuyện, ca hát... Ngay cả việc hút thuốc lào cũng mang tính cộng đồng rất đặc sắc. Khi một điếu thuốc lào được đốt lên, mọi người sẽ chuyền tay nhau ống điếu theo vòng tròn cùng hút, cùng chia sẻ. Uống trà, hút thuốc lào cũng là những sinh hoạt gắn kết con người với nhau trong một cộng đồng thân ái. Ngoài nước chè, đồng bào còn uống nước nấu từ vỏ, thân, rễ, lá của các loại cây rừng. Các loại nước này rất tốt cho sức khỏe, nhất là cho người ốm, người già, phụ nữ mới sinh và trẻ em. Hiện nay, loại nước uống nấu từ các loại cây rừng hiếm hơn trước vì rừng bị khai thác nhiều và cũng chỉ có một số người lớn tuổi mới biết rõ về chúng. Mặc dù vậy, loại nước uống này vẫn được chuộng nhất và là nước uống hàng ngày trong một số gia đình. 6.1.4.2. Trang phục truyền thống Mỗi một dân tộc đều có sự thể hiện trang phục khác nhau, do nếp sống và sinh hoạt văn hóa chi phối. Khi lên vùng Tây Bắc hay qua miền Tây Thanh Hóa, nét đặc trưng ở những bản mường của đồng bào dân tộc Thái là dựng nhà nằm dài theo các dòng suối, trên những gò đất cao, phía sau là núi và phía trước là cánh đồng lúa[ ]. Trong không gian cảnh quan văn hóa đó, nổi bật giữa màu xanh của cây cỏ núi rừng là sắc màu tươi tắn và gần gũi của những bộ trang phục. Có thể nói, tìm hiểu trang phục Thái là giải mã những thông tin về văn hóa Thái gắn liền với nó. Theo đó, trang phục của đồng bào Thái có vai trò quan trọng trong đời sống tộc người. Trước hết, trang phục Thái là sản phẩm của quá trình lao động, thể hiện sự cần cù, thông minh và sáng tạo. Nó được hình thành trong một môi trường tự nhiên, xã hội và bối cảnh lịch sử cụ thể. Đó là kỹ thuật tiểu thủ công tinh xảo gắn với xã hội tiểu nông và nền kinh tế tự cung tự cấp. Để có được sản phẩm đồ mặc, họ phải trải qua rất nhiều quá trình lao động miệt mài, trong đó hai khâu quan trọng nhất là trồng bông và dệt vải. Việc trồng bông của người Thái cũng phải tiến hành theo tập tục: chọn đất, chọn ngày lành tháng tốt để gieo hạt, thu hoạch. Khi có được bông rồi thì thực hiện các việc chọn, nhặt bông, cán bông bật bông, quấn bông, se sợi... Bên cạnh giá trị vật chất thì trang phục của người Thái còn thể hiện những giá trị của bản sắc văn hóa tộc người. Thông qua trang phục, đặc biệt là những hoa văn tinh xảo có được bằng nghề dệt thủ công cho thấy tri thức bản địa của người Thái về lĩnh vực này đã đạt đến trình độ cao[ ]. Như vậy, trang phục có vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của con người, từ sinh hoạt đời thường đến các dịp lễ hội, tết trong gia đình và toàn cộng đồng. Có thể nói, trang phục có ý nghĩa lớn đối với người Thái, nó không chỉ thể hiện nhu cầu đơn giản là “mặc” mà còn gắn bó trong các nghi lễ có ý nghĩa thiêng liêng và sâu sắc. Còn giữ được những nét hoa văn trên trang phục là còn giữ được những nét văn hóa của người Thái. Trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không thể không giữ gìn trang phục. Trang phục có từ lâu đời và gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người tạo nên những nét rất riêng, rất độc đáo. Có thể nói, việc làm ra những bộ trang phục không chỉ đáp ứng nhu cầu mặc của các thành viên trong gia đình mà rộng hơn còn góp phần phát triển kinh tế hộ. Hơn thế nữa, những bộ trang phục Thái ngày nay còn góp phần quảng bá văn hóa của dân tộc tới du khách và bạn bè trên thế giới. Trang phục là một nét bản sắc văn hóa tộc người cần phải giữ gìn và phát huy giá trị của nó trong bối cảnh hiện nay. Trong quan niệm chung của người Thái, vải vóc bao hàm nhiều ý nghĩa: tượng trưng cho phái nữ, cho cái đẹp; vật dụng dùng suốt cả đời người; tượng trưng cho sự giàu sang trong xã hội truyền thống; phản ánh trình độ kỹ thuật của nghề thủ công. Dó đó, các sản phẩm trang phục hay còn gọi là đồ mặc thể hiện đặc trưng văn hóa tộc người rõ nét nhất và biểu hiện đặc trưng nhất ở bộ nữ phục. Về phương diện giữ gìn các giá trị văn hóa tộc người thông qua trang phục thì phụ nữ là những người đại diện tiêu biểu. Đó là lý do mà giới nghiên cứu khi đề cập đến trang phục dân tộc Thái thường đề cập đến trang phục của phụ nữ. Với người Thái, bộ nữ phục Thái Tây Bắc khác biệt khá nhiều so với nữ phục Thái ở Thanh Hóa và Nghệ An. Nhìn vào bộ nữ phục Thái Tây Bắc người ta có thể phân biệt được đó có phải là người Thái hay không và họ thuộc về ngành Thái nào [Thái Đen hay Thái Trắng]. Trong bộ nữ phục Thái Tây Bắc, chiếc áo và chiếc khăn đội đầu thể hiện chức năng phản ánh đặc điểm văn hóa trang phục rõ nhất. Áo của phụ nữ Thái Tây Bắc bó sát người. Nổi bật trên nền áo sửa cóm là những hàng cúc bạc, cúc đồng. Cúc bạc là sang trọng nhất, bộ cúc này có tên là mác pém. Ở Tây Bắc, áo của phụ nữ Thái Đen có cổ cao, tròn bó khít lấy cổ, màu áo chủ yếu là đen, nâu. Áo của phụ nữ Thái Trắng có cổ liền với nẹp áo, để hở cổ, nẹp áo viền đen, màu áo chủ yếu là màu trắng, màu hồng, xanh lơ. Với người Thái ở Thanh Hóa, áo có hai kiểu cơ bản là kiểu xẻ ngực và kiểu chui đầu, kiểu chui đầu là kiểu cổ hơn. Từ đó cho thấy những chiếc áo của người Thái ở Thanh Hóa còn giữ được những yếu tố cổ xưa. Cúc áo của người Thái xứ Thanh thường đơm các loại cúc phổ thông, không dùng kiểu cúc mác pém như người Thái ở Tây Bắc. Phụ nữ Thái ở vùng Quan Sơn thường mặc áo cóm, chui đầu, thân ngắn ngang lưng, xẻ hai bên vai, chỉ có một khuy hoặc buộc dây vải, nền vải có thể màu đen, xanh chàm, nâu nhạt, nhưng kỵ màu trắng. Khăn đội đầu của phụ nữ Thái Tây Bắc gọi là piêu và chỉ có ở phụ nữ Thái Đen. Khăn piêu có nền màu đen, hai đầu khăn thêu các hình hoa văn, đặc biệt, những chiếc cút piêu được đính thành chùm ở mép đường viền của khăn. Phụ nữ Thái Trắng không đội piêu mà thường đội khăn làm từ các chất liệu như bông hoặc len để giữ tóc, cuốn tóc. Phụ nữ Thái ở Thanh Hóa cũng có khăn trùm đầu. Hai đầu khăn cũng thêu các hoa văn, nhưng không có các cút piêu và đây là một nét khác biệt. Khăn đen hai đầu thêu hoa, khi đội khăn đưa một đầu thêu về phía trước, một đầu thêu về phía sau. Váy của phụ nữ Thái Đen và Thái Trắng ở Tây Bắc đều là một màu đen không thêu dệt hoa văn và dài chấm gót. Còn váy của phụ nữ Thái ở Thanh Hóa được trang trí, thêu dệt hoa văn. Váy của phụ nữ Thái Thanh Hóa có thêm phần cạp váy, và đầu váy cao ngang nách, ôm lấy bộ ngực. Một bộ phận phụ nữ ở các huyện như Quan Hóa, Quan Sơn, Thường Xuân mặc váy dệt hoa văn toàn thân gọi là xỉn mục. Váy của phụ nữ nhóm Tày Dọ [ở Thường Xuân] có màu đen từ cạp váy xuống quá đầu gối còn phần dưới đầu gối là chân váy [tỉn xin] được thêu hoa văn rất công phu. Phần lớn phụ nữ Thái ở các huyện Bá Thước, Lang Chánh, Quan Hóa, Quan Sơn mặc giống phụ nữ Mường. Phụ nữ mặc áo cóm [áo khóm] [xứa còng] phổ biến là xanh xỉ, màu đen, xanh chàm. Váy mặc cao lên đến ngực, hầu hết là màu đen. Loại váy sang đẹp được thêu dệt, trang trí cầu kỳ, công phu thành các phần: chân váy thêu dệt hoa văn, thân váy đen, eo váy hoa đỏ, đầu váy hoa thổ cẩm. Phụ nữ Thái ở cả Tây Bắc, Thanh Hóa và Nghệ An đều thích mang theo bộ xà tích, nó như là một thứ trang sức làm cho bộ váy áo thêm duyên dáng, lịch lãm. Thắt lưng của phụ nữ Tây Bắc và Thanh Hóa đều làm bằng chất liệu tơ tằm hoặc vải dệt, điểm trang thêm chùm dây xà tích bạc trắng, quả đào, nhưng đuôi thắt lưng người Thái Thanh Hóa để vuông và dài hơn. Như vậy, váy áo của phụ nữ có nhiều điểm khác biệt giữa người Thái ở Thanh Hóa và Tây Bắc. Nhìn tổng thể, váy áo của phụ nữ Thái [nhóm Tày Mươi] ở Thanh Hóa có nhiều nét giống với phụ nữ Mường ở Thanh Hóa. Ở một số vùng như Lang Chánh, Quan Hóa, Quan Sơn, Bá Thước, nếu chỉ nhìn vào hình thức trang phục bề ngoài của phụ nữ, đôi khi rất khó phân biệt được đâu là người Thái, đâu là người Mường. Từ những nét tổng quan như trên về trang phục của phụ nữ Thái ta sẽ nhận thấy trang phục phụ nữ Thái ở Quan Sơn có cái chung của phụ nữ Thái ở Thanh Hóa và cũng có nét riêng. Người Thái ở Quan Sơn cư trú ở 6 mường, trong cái chung của cả 6 mường ấy, mỗi mường lại có những sắc thái riêng do những yếu tố về vị trí địa lý và mối quan hệ giao thoa văn hóa trong nội vùng và ngoại vùng chi phối. Trang phục của phụ nữ Thái ở mường Xia, mường Mìn thuộc vùng cao biên giới gần giống nhau và có nét giao thoa với trang phục phụ nữ nước Lào. Đồng bào thường dệt nhiều kiểu váy hoa văn sặc sỡ. Trong đó có váy “mục cọc” hay nói cách khác là váy “xín mục chệt”. Phụ nữ các mường này thường mặc chân váy trên mắt cá chân. Do vậy, nếu nhìn hình thức bên ngoài, khi gặp phụ nữ mặc váy “xín mục” và mặc cao trên mắt cá chân ta có thể nhận biết đó là người ở mường Xia, mường Mìn. Phục nữ Thái ở mường Mò, mường Sại ăn mặc cơ bản giống mường Xia, mường Mìn. Còn mường Hạ thì có một số bản của xã Sơn Hà cũng mặc “xín mục chệt” như phụ nữ ở mường Xia, mường Mìn, mường Mò nhưng chân váy họ mặc dài hơn, trùm mắt cá chân. Ở mường Chự, phụ nữ Thái ở các xã Trung Thượng, Trung Tiến, Trung Hạ, Trung Xuân rất ít khi mặc váy có hoa văn ở phần thân váy. Kiểu mặc này giống với phụ nữ ở mường Ca Da [Quan Hóa] và mường Khoòng [Bá Thước]. Như vậy, nhìn hình thức bên ngoài, trang phục của phụ nữ Thái ở Quan Sơn có nét riêng giữa với các vùng mường trong huyện, tạo nên sắc thái đa dạng của trang phục Thái. Bộ nữ phục Thái, về cơ bản gồm những yếu tố sau: áo, váy, khăn đội đầu, dải thắt lưng, bộ trang sức gồm: trâm cài tóc, hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích. Sau đây là phần khảo tả khái quát các yếu tố của nữ phục Thái. - Áo: Có nhiều loại như: áo xẻ ngực ngắn tay [xứa pha áng khen tến], áo xẻ ngực dài tay [xứa pha áng khen dào]; áo khóm [xứa còng]; áo dài dài tay [xứa luồm khén dào]; áo che ngực [xứa hốm áng, xứa nọi]; áo tang [xứa cằm],... Áo khóm cổ chui [xứa còng]: áo khóm cổ chui của phụ nữ Thái hơi giống áo phụ nữ Mường nhưng có nét khác ở hai vai, cổ tròn viền vải đỏ. Áo người Mường xẻ vai không có dây tua đỏ, cổ không viền đỏ. Áo khóm phụ nữ Thái có xẻ hai vai, mỗi bên 8 - 9cm, mỗi đường xẻ được bố trí 1 khuy tròn. Hai bên mép chỗ xẻ vai viền một đường vải đỏ để tua dài. Áo khóm có nhiều màu: đen, xanh, trắng, hồng... Tay áo bó sát tay người mặc, dài đến cổ tay. Áo dài dài tay [xứa luồm khén dào]: Áo dài xẻ ngực có 4 khuyết bằng vải hoặc làm 4 đôi dây đối xứng thắt lại khi mặc. Áo này dùng cho cả đàn ông và đàn bà về mùa đông. Áo thường nhuộm màu đen, màu xám. Nếu để tang thì màu trắng, thân áo dài đến gót chân hoặc nửa ống chân. Hai bên sườn xẻ tà từ dưới lên khoảng 15 - 20cm. Áo che ngực, áo lót [xứa hốm áng, xứa nọi]: Áo này may theo kiểu áo may ô quai rộng như đi lễ nhưng không xẻ ngực. Áo dài che rốn [đến eo] là áo mặc trong cùng của người phụ nữ như áo lót, mặc cả khi đi ngủ. Váy: Váy người Thái [nhóm Tày Mươi] ở Quan Sơn có nhiều loại. Nếu dựa theo trang trí hoa văn thân váy có các loại sau: - Xín tha lán: Váy dệt hoa văn đơn giản, màu đỏ được thể hiện nhiều hơn. - Xín mục: Váy dệt nhiều hoa văn cầu kỳ, đẹp hơn xín tha lán và xín ta lé. - Xín ta lé: Váy dệt hoa văn phức tạp hơn xín tha lán nhưng chưa đẹp bằng xín mục. Nếu dựa theo kiểu dáng váy có các các loại sau: - Váy hai tầng: Tầng trên đầu váy màu xanh cao khoảng 5 - 6cm có hai móc cài khi mặc. Tầng dưới thân váy màu đen cao từ 70 - 100cm [tuỳ người cao thấp mà cắt may tầng này]. Bên trong chân váy nẹp một dải vải đỏ rộng 2cm, tiếng Thái gọi là pạn xín [có nghĩa là nấp vào trong] khi bước đi, mỗi bước lúc ẩn lúc hiện màu đỏ ở phía trong chân váy, tạo nên vẻ đẹp duyên dáng cho người phụ nữ Thái. - Váy ba tầng gồm có hai cách may: Cách 1: Có đầu váy, thân váy, chân váy [không có eo váy]. Trong đó thân váy có thể là một tấm vải đen, tấm xín tha lán, xín ta lé hay xín mục 1, 2, 3, 4. Cách 2: Có đầu váy, eo váy, thân váy [không có chân váy]. Cách 2 áp dụng cho xín mục 6, 7 và một số thân váy khác. - Váy 4 tầng gồm: đầu váy [hua xín hoặc húa xín], giữa thân váy [cang xín], thân váy [xín] và chân váy [tin xín]. Mỗi loại tầng váy được dệt theo kĩ thuật trang trí hoa văn khác nhau. Nguyên liệu dệt váy là bông tự trồng, tơ tằm tự nuôi. Xe tơ to nhỏ theo loại vải tự dệt. Màu nhuộm lấy từ cây tự nhiên trong rừng hoặc cây trồng xung quanh vườn; cánh kiến đỏ và một số màu sắc thực vật cây trồng. Bây giờ có nơi dùng phẩm màu. Đầu váy [húa xín]: có các loại húa vuôn, húa hồng, húa en, húa dói... Đầu váy có nhiều hình hoa văn chim, thú, hoa, lá... khổ vải rộng 25 - 30cm. Đầu váy có 4 loại chính: húa hồng [đầu váy hình rồng, hình cầu vồng]; húa vuôn [đầu váy nhiều hoa văn]; húa én [đầu váy ít hoa văn]; húa dói [đầu váy có các đường sọc màu vàng] khổ rộng, vải đầu váy thường 25 - 30 cm]. Đặc biệt, húa hồng có 7 màu sắc nằm ngang song song như 7 sắc cầu vồng. Người Thái Quan Sơn gọi cầu vồng là tố hồng, ngước hồng, ngước lạnh. Cũng có khi dệt đầu rồng vào đầu váy. Có khi không có đầu rồng nhưng có 7 màu tựa cầu vồng nên gọi húa hồng. Giữa thân váy [cang xín] là tầng nối giữa đầu váy và thân váy, là chỗ để thắt dải thắt lưng [xai eo, xai ánh]... Cang xín [eo váy] dệt theo hoa văn dệt phá [dệt vỏ chăn], diềm màu đen, khổ rộng 6 - 10cm. Cang xín có nhiều loại: mi nác [có hình con rái cá]; mi ngước [hình con rồng]; mi cán cọ [hình bẹ cây cọ]; mi kho neo [hình móc câu]; mi xặng [hình cột dây leo]; mi khồm [hình hoa văn sọc, nhiều trang trí răng cưa]. Cang xín eo váy cũng nhiều màu sắc, hoa văn rực rỡ trong đó màu đỏ, màu vàng là màu chủ đạo. Thân váy là tầng nối giữa cang xín và tin xín. Đây là tầng chủ đạo, khổ rộng thường 60 - 70cm. Thân váy có nhiều loại: xín tha lán, xín mục... Xín mục có: xín mục 1, xín mục 2, xín mục 3, xín mục 4, xín mục 5, xín mục 6, xín mục 7. Trong đó, xín mục 7 là loại đẹp nhất và khó dệt nhất. Tuy xín mục 7 khó dệt nhưng đa số phụ nữ Thái Quan Sơn vùng mường Xia, mường Mìn, mường Sại, mường Mò, mường Hạ đều biết dệt. Phụ nữ Thái Quan Sơn khi về nhà chồng bao giờ cũng chuẩn bị cho mình vài chục chiếc váy xín mục để làm hành trang về nhà chồng cùng với các đồ dệt thổ cẩm khác. Từ đấy cho thấy, phụ nữ Thái ở Quan Sơn rất khéo tay, tài hoa. Thân váy được dệt bằng sợi bông, hoa văn là những họa tiết hình chữ nhật thẳng đứng, có các màu chạy quanh ngang bụng. Thân váy có tác dụng tạo cho eo của người phụ nữ thêm phần sinh động hơn. Chân váy [tin xín]: khổ rộng 15 - 35cm. Tin xín cũng có nhiều loại hoa văn rực rỡ. Màu đỏ cũng là màu được phụ nữ Thái ưa dệt vào chân váy. Có hai loại chân váy là dệt và thêu. Dệt thì gọi là ngước tấp, ngước nọi, tin khồm, tin hồng... Nếu không dệt riêng mà thêu vào chân váy thì gọi xeo ứa, xeo ho, xeo nộc... Xeo nộc có nhiều loại với nhiều hoa văn rực rỡ: Tin ngước tấp [chân váy hình rồng lớn] gồm hình rồng làm chủ đạo và các hình khác phụ họa; Tin ngước nọi [chân váy hình rồng nhỏ]: hình rồng mảnh hơn cùng các loại hình khác; Tin khồm [chân váy nhiều hoa văn] có răng cưa; Tin hồng [chân váy hình cầu vồng, nhiều hoa văn - 7 màu] và còn nhiều loại chân váy khác nữa. Ngoài việc dệt chân váy để khâu nối vào thân váy. Phụ nữ Thái Quan Sơn còn thêu trực tiếp vào chân váy. Các loại váy thường thêu vào chân là: xín tha lán, xín ta lé, cũng có người thêu vào cả chân xín mục. Riêng xín mục chệt không cần thêu chân váy vì khi dệt váy đã thiết kế hoa văn chân luôn. Nguyên liệu làm đầu váy, eo váy, chân váy cũng là vải sợi tự làm hoặc mua vải sợi về dệt. Đầu váy, eo váy, thân váy, chân váy đều do bàn tay khéo léo và đức tính chịu thương chịu khó của người phụ nữ Thái làm ra. Rất ít khi người phụ nữ Thái mua của người khác vì đồng bào cho rằng việc phải đi xin, đi mua là việc xấu hổ, là người lười nhác, kém cỏi không biết làm mới phải đi mua của người khác. Tuy nhiên, đến nay do nền kinh tế thị trường phát triển kèm theo đó nhiều thiếu nữ Thái bận học hành, làm công tác xã hội, thời gian công sức dành cho việc dệt vải ít nên vẫn phải mua để dùng. Những trường hợp này thì không bị chê, nhưng cũng tạo ra một lớp người không biết dệt vải, dệt thổ cẩm, từ đó mua quần áo để mặc như người Kinh. Có thể kể đến một số loại váy truyền thống của phụ nữ Thái sau đây: - Váy có hình hươu, nai [xín quáng]: Chất liệu của váy là bông vải sợi. Váy được làm từ một mảnh vải khổ 60cm chắp lại tạo thành váy kín hình ống. Váy chia làm ba phần: cạp váy, thân váy và chân váy [chân váy rời]. Về nghệ thuật trang trí trên váy: cạp váy có màu trắng; thân váy được nhuộm màu chàm đen hoặc thêu hoa văn hình chim, bướm, quả trám; chân váy dệt hình tám con hươu làm hoa văn chủ đạo, hoa văn phụ gồm có lá rau dớn [phặc cút] và hoa đào. - Váy rồng [xín ngước]: Chất liệu của váy là vải sợi bông, váy kín hình ống. Váy được làm từ một mảnh vải khổ 60cm chắp lại, váy dài trên dưới 90cm [tùy theo chiều cao của người mặc để may phù hợp]. Các đường ghép được khâu vắt cho mềm và không lộ đường giáp. Váy được chia làm ba phần: cạp váy, thân váy và chân váy. Cạp váy thường được làm bằng một mảnh vải hẹp hơn thân váy một chút và khác màu với váy rồi can vào thân váy, chiều cao của cạp váy trên 10cm. Người Thái gọi cạp váy là đầu váy để phân biệt với chân váy. Chân váy có chiều cao khoảng trên 20cm [chiếm 1/4 chiều dài của váy], chân váy bao giờ cũng rời với thân váy và chỉ khi chân váy được thêu, trang trí xong thì người ta mới may lại với thân váy. Về màu sắc và trang trí của váy thì cạp váy thường được trang trí bằng màu trắng hoặc màu đỏ, thân váy màu chàm đen còn chân váy được thêu bốn con rồng làm chủ đạo, các hoa văn phụ là các hình chữ thập đứt nét xen kẽ nhau hoặc hoa văn hình rau dớn. - Váy mặt trời [xín quăng vướn]: Chất liệu của váy là vải sợi bông. Váy được làm từ một mảnh vải chắp lại tạo thành chiếc váy kín hình ống. Váy được chia làm ba phần là cạp váy, thân váy và chân váy [chân váy rời]. Nghệ thuật trang trí trên váy được thể hiện đa dạng: cạp váy được dệt hình rồng; thân váy nhuộm màu chàm đen, hoặc thêu hình bướm ở phụ nữ trẻ, hình “mục van” ở người già; chân váy thêu tám hình mặt trời, mười hai tia tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Váy mặt trời có nét tương đồng với họa tiết mặt trời trong trống đồng Đông Sơn. Hoa văn phụ của váy là các hình tam giác nhỏ, hình quả trám. - Váy thá lán: Váy được tạo thành từ một mảnh vải chắp lại tạo nên váy kín hình ống. Gồm hai phần chính là cạp váy và thân váy. Cạp váy màu trắng, thân váy có nền là màu chàm, hoa văn chéo hình trám chạy dọc thân váy. Thân váy được dệt pha trộn giữa màu đen với các màu đỏ, xanh, sét [màu sét, màu xanh ít hơn] tạo thành tấm váy có 4 màu rải đều, trong đó màu đen là chủ đạo, màu đỏ ít hơn xín tha lán mí lay. Váy được dệt bằng sợi kim tuyến, chân váy được dệt bằng những họa tiết hình sọc chắp vá lại với nhau. Chất liệu của váy là vải sợi bông. - Váy nhiều hoa văn [xín mục]: Chất liệu của váy xín mục là vải sợi bông. Váy kín, hình ống và được tạo thành từ một mảnh vải chắp lại. Váy chia làm hai phần chính là cạp váy và thân váy. Cạp váy có màu trắng, thân váy nhuộm màu chàm đen. Hoa văn trên váy là hoa văn hình học, hoa nhỏ, cách điệu, nối tiếp nhau chạy vòng khắp thân váy. Xín mục có nhiều loại. Khổ rộng thân váy thường từ 60 - 70cm; trong đó xín mục chệt [váy hoa bảy màu sọc] là khó dệt nhất. Khi dệt xín mục chệt có hai tầng nền [xong chừa]. Một tầng sợi trắng. Một tầng nhiều loại sợi màu được bố trí theo mô típ định sẵn. Khi dệt sẽ cài giữa tầng trắng và tầng màu vào nhau, đan bởi chỉ bảy màu [chệt líu]. Đồng thời khi đưa thoi sợi ngang sẽ cài thêm những màu chỉ để tạo hoa văn theo ý muốn gọi là “cọc”. Do vậy, váy mục bảy còn gọi là váy mục cọc. Do phải làm nhiều động tác khó như vậy nên phụ nữ nào dệt được xín mục chệt hay xín mục cọc là người khéo tay và thuộc diện tài, đáng nể. Khăn đội đầu Khăn được chia thành các loại: khăn của phụ nữ trẻ có hoa văn sinh động, khăn của phụ nữ có tuổi thường có màu chàm đen hoặc xanh, ít thêu hoa văn. Khăn của phụ nữ Thái có một số loại sau: - Khăn lăm tến [khăn đen ngắn]: dài khoảng 60 - 70cm, rộng 25 - 30cm nhuộm màu đen. - Khăn xeo: Khăn hình chữ nhật, dài 1,2 - 1,5cm, rộng 25 - 30cm, nhuộm màu đen. Hai đầu khăn thêu nhiều hoa văn rực rỡ, thêu khoảng 20 - 25cm ở mỗi đầu. Tùy theo sở thích của từng người mà thêu hoa văn khác nhau. Hình nào làm chủ đạo ở phần giữa đám thêu thì đặt tên khăn theo hình đó. Ví dụ: khăn hồng [hình rồng làm chủ đạo] có phối hợp các hình khác; khăn lông vướn [hình mặt trăng làm chủ đạo]; khăn bóc mạy [hoa làm chủ đạo]; khăn tố quáng [hình con nai làm chủ đạo]; khăn tố chạng [hình con voi làm chủ đạo]; khăn tố ví [hình con bướm làm chủ đạo]; khăn xeo ứa [không có hình nào là chính, có nhiều hình tương đối đều nhau trên khăn]; khăn tô nộc [khăn hình con chim làm chủ đạo]... - Khăn cằm, mú cằm [khăn tang, mũ tang] làm bằng vải trắng đội trong đám tang. Khi đến nhà người khác phải bỏ khăn, mũ tang. Người chết, nếu là đàn ông thì trùm khăn đỏ, nếu là phụ nữ thì trùm khăn đen có thêu hoa văn [khăn xeo] lên đầu. Nếu nhà không có khăn xeo mới thì đội khăn đen [khăn lắm tến] lên đầu người chết. Dải thắt lưng Dải thắt lưng làm bằng tơ, vải dệt khổ 20cm. Tơ hoặc vải dệt mịn mỏng, nối lại thành vòng tròn đường kính tùy theo khổ người. Khi mặc gấp đôi hình tròn, luồn đầu kia vào nửa vòng tròn và thắt mối ở hông trái. Phần thừa ra để làm giải tua [háng ánh]. Các màu xanh, đen, trắng, tím được ưa dùng. Thông thường, con gái dùng màu xanh, còn tím, đen dùng cho người lớn tuổi. Đuôi thắt lưng thả xuống, khi đi đung đưa theo nhịp bước, tạo nét duyên dáng mềm mại. Trang sức Phụ nữ Thái Tây Bắc và Thanh Hóa thường đeo vòng tay, vòng cổ và hoa tai. Tuy nhiên, có đôi nét khác nhau về đặc điểm hình thức trong các loại trang sức này. Đồ trang sức của phụ nữ Thái được làm từ nhiều chất liệu, song phổ biến vẫn là vàng, bạc. Hoa văn được trang trí trên trang sức được tạo tùy hình dáng của từng loại đồ vật. Trâm cài tóc được làm từ bạc, đôi khi là gỗ mun. Trâm có hình thon nhọn ở một đầu, đầu kia là hình vuông, làm thành một cái hộp rỗng, có nắp đậy ở chân kim. Trâm là thứ trang sức không thể thiếu khi búi tóc, đội khăn, là vật dụng mà phụ nữ thường mang theo bên mình. Do đó, khi lấy vợ, gả chồng bên gái sắm sửa làm của hồi môn, bên nhà trai dùng làm quà đón cô dâu [cùng với váy, áo, vòng tay, vòng cổ...], nhà giàu thì làm trâm bằng bạc, nhà nghèo thì làm bằng nhôm đúc hoặc nhôm bọc gỗ. Trâm được sử dụng khi búi tóc, cài ở phía trái đỉnh đầu [2 cặp] và quàng khăn ra ngoài. Có khi trâm ngắn nằm gọn trong khăn, có khi trâm dài, lộ ra ngoài khoảng 10 - 15cm. Ngày thường các cô gái búi tóc mà không dùng trâm, chỉ có phụ nữ trung niên trở lên dùng trâm. Hoa tai: Người Tày Mươi dùng hoa tai giống như một cuộn chỉ hay một cái khuy áo tết đan gọi là chón hu. Chón hu gồm hai đồng tiền nhỏ như hai đồng xu có kích thước không giống nhau, cái ngoài có đường kính gấp đôi cái trong, trên mặt đồng tiền nhỏ gọi là chân, xỏ chân vào lỗ tai, nhiều khi còn dùng một sợi dây bằng bạc nhỏ quấn quanh lỗ suốt để giữ cho hoa tai khỏi bị rơi. Hoa tai Tày Dọ có phần chính được làm giống hình trăng lưỡi liềm, hai đầu hoa văn hình xoáy trôn ốc. Khi đeo, mắc một đầu xoáy ốc vào lỗ tai, hướng phần cong lồi ra phía trước. Vòng cổ là trang sức được làm bằng bạc, vàng đúc hình tròn mở, thon dẹt ở hai đầu, trên thân có hoặc không có trang trí hoa. Hai đầu vòng cổ được trang trí hình đuôi cá, đầu rồng, dây trầu, hoa đào. Mỗi chiếc vòng cổ được đúc từ 4 đến 5 nén bạc. Các cụ bà đeo vòng cổ để kỵ gió, kỵ ma, con gái đeo vòng cổ để tăng thêm sự duyên dáng. Vòng cổ còn là vật làm tin mà nhà trai thường tặng cho nhà gái trước lúc dạm hỏi. Vòng tay được đúc bằng bạc và trang trí nhiều kiểu khác nhau, có loại hình tròn, có loại hình dẹt. Phần thân thường có tiết diện lớn nhất, sau đó nhỏ dần và làm thon dẹt ở hai đầu. Vòng tay có hình tròn hở, hai đầu cách nhau khoảng 3 - 4cm. Khi đeo luồn cổ tay vào khe hở rồi xoay ngang, ôm gọn cổ tay người phụ nữ. Mặt ngoài có trang trí hoa văn như quả núi [phá], mắt con sâu [pók hén tả bông], hình xương sống [thường đeo từng đôi một]. Vòng tay bằng bạc cũng là vật làm tin mà chàng trai thường tặng cho cô gái. Xà tích là một chuỗi dây với hàng chục lượt sợi treo hai đầu vào hai vòng khuyên tròn, đường kính khoảng 3cm. Các sợi bạc đều dài từ 30 - 40cm, được gắn với một số thứ như hộp đào, khánh bạc, con cá... Mỗi bộ xà tích có một hoặc nhiều quả đào nhỏ để trang sức. Khi đeo xà tích người ta luồn hai vòng khuyên lớn ở hai đầu chuỗi dây vào dải dây lưng để những thứ trang trí lộ ra phía sườn bên phải. Xà tích đi cùng với bộ váy áo truyền thống làm tăng vẻ lịch lãm của người phụ nữ Thái. Bên cạnh bộ nữ phục, đối với phụ nữ Thái, cũng phải kể đến một nét mang dấu hiệu nhận biết các nhóm Thái địa phương là các kiểu để tóc của họ. Khi chưa có chồng, phụ nữ Thái Đen Tây Bắc búi tóc đằng sau gáy; khi có chồng thì búi tóc ngược lên đỉnh đầu hơi nghiêng về bên trái [tăng cẩu]. Khi chồng chết, trong thời gian để tang thì búi tóc khoảng giữa đỉnh đầu và gáy, hết tang lại búi như khi chồng còn sống. Đối với phụ nữ Thái Trắng, các kiểu tóc không mang tín hiệu thông tin rõ ràng như phụ nữ Thái Đen. Với người phụ nữ Thái ở Thanh Hóa, hầu như không có quy định chặt chẽ nào để thể hiện tình trạng hôn nhân hay kiêng kị có liên quan đến kiểu để tóc như phụ nữ Thái Đen ở Tây Bắc. * Một số nét biến đổi của trang phục hiện nay Có thể nói, phạm vi sử dụng trang phục của người Thái đang hẹp dần. Chỉ có người già là còn giữ được thói quen mặc trang phục truyền thống còn những người trẻ đều dùng các loại quần áo may sẵn từ các loại vải công nghiệp như người Kinh. Họ chỉ mặc trang phục truyền thống trong các dịp hội hè, lễ Tết. Ngày nay, chân váy của phụ nữ Thái không được thêu hoa văn và trang trí cầu kỳ như trước nữa mà đã được đơn giản hóa. Quần áo được cắt may từ vải sợi bông nhuộm chàm được thay thế bằng các loại vải công nghiệp, quần âu và áo sơ mi may sẵn giống như của người Kinh. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi về trang phục của người Thái, các nguyên nhân sau có vai trò nổi trội hơn cả: Thứ nhất, ảnh hưởng của phát triển kinh tế thị trường đến vùng và hộ gia đình. Do quá trình phát triển của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, nghề dệt truyền thống của dân tộc Thái đã dần bị mai một. Trước đây, những bộ trang phục truyền thống đòi hỏi người ta phải chế tác từ loại vải dệt thủ công với một loạt công việc của trồng bông, xe sợi, dệt may, thêu thùa tốn thời gian và công sức[ ]. Những năm gần đây, các loại vải công nghiệp đa màu sắc mà giá thành lại rẻ đã khiến cho nhiều khung dệt trở nên “lạnh lẽo” trong các gia đình người Thái. Trong quá trình phát triển, trang phục của người Thái đã có nhiều biến đổi và thời gian gần đây càng thay đổi mạnh mẽ trong xu thế ảnh hưởng của trang phục người Kinh. Đây là một xu thế tất yếu khi các hệ thống đường giao thông được mở rộng tạo điều kiện cho trao đổi, giao lưu và buôn bán hàng hóa giữa các vùng miền. Trong trang phục của người phụ nữ Thái ngày nay, thường thấy các loại áo không còn được may bằng vải dệt thủ công nữa mà chủ yếu được may bằng vải dệt công nghiệp. Còn nam giới thì hầu như mặc trang phục giống với người Kinh. Quá trình sống xen kẽ giữa dân tộc Thái với các dân tộc khác cùng với sự phát triển của kinh tế vùng, mức sống của các hộ gia đình cũng ngày càng được cải thiện. Nếu như trước đây người phụ nữ luôn phải “nỗ lực” bên các khung cửi dệt vải nhằm đáp ứng nhu cầu mặc của các thành viên trong gia đình thì ngày nay họ đã được giải phóng sức lao động đó để dành thời gian chăm lo cho con cái và gia đình nhiều hơn. Thứ hai, ảnh hưởng của văn hóa mới, đặc biệt là văn hóa người Kinh. Do quá trình giao lưu văn hóa với người Kinh, trang phục nam giới Thái đang phát triển theo con đường âu hóa mạnh. Nam giới Thái ngày nay thường mặc áo sơ mi và quần âu, rất ít đàn ông mặc quần áo thổ cẩm truyền thống. Trang phục nữ giới cũng bắt đầu có hiện tượng âu hóa thể hiện bằng việc bỏ áo cóm thay thế bằng áo sơ mi đang diễn ra khá mạnh và phổ biến, nhất là các trung tâm thị trấn, thành phố[ ]. Do tiếp thu âu phục người Kinh, áo cóm cũng được cải tiến. Các kỹ thuật cắt khâu vẫn được giữ nguyên, nhưng những người thợ đã thêm vào đó đôi vai bồng tăng độ bay của áo Thái cổ truyền. Chất liệu vải cũng sử dụng nhiều loại vải khác nhau, nhiều sắc màu hoa văn, chủ yếu được may bằng vải hoa, lụa công nghiệp. Váy thường được may bằng vải lụa, nhung thay bằng vải thổ cẩm như trước kia. - Trang phục truyền thống đàn ông Thái: Áo 3 túi ống rộng, xẻ tà 2 bên, quần ống rộng thắt dây rút, không có túi. Cả quần và áo nhuộm chàm [xám] hoặc nhuộm nâu. Đầu thắt khăn đưa múi về phía trán. 6.1.4.3. Nhà ở Nhà ở của người Thái ở Việt Nam là một lĩnh vực đã có nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Dân tộc Thái ở Việt Nam đều có truyền thống ở nhà sàn. Nhìn tổng quát, nhà sàn người Thái ở khắp các vùng đều giống nhau về những nét cơ bản. Song do điều kiện địa lí khác nhau, sự tiếp thu ảnh hưởng qua lại lẫn nhau về kiến trúc nhà ở giữa các dân tộc anh em cùng sinh sống xen kẽ trên một vùng, nên nhà sàn của người Thái ở từng vùng cũng có sự biến tấu khác nhau ở một số chi tiết kiến trúc. Từ Tây Bắc đến miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An, nhà sàn của người Thái là một nét văn hóa tiêu biểu, góp phần làm nên không gian văn hóa Thái. Nhìn vào cấu trúc của mái nhà chúng ta có thể nhận ra được nhà ở của các nhóm Thái địa phương. Ở Tây Bắc, nhà sàn của người Thái Đen có kết cấu dạng mai rùa và thường trang trí ở hai đầu hồi của nóc nhà đôi khau cút. Các khau cút này về sau được cách điệu hóa thành nhiều kiểu dạng với nhiều tên gọi khác nhau. Trong khi đó, nhà sàn của người Thái Trắng là nhà kiểu 4 mái và không có khau cút. Đó cũng là một điểm khác giữa nhà của người Thái Đen và Thái Trắng ở Tây Bắc. Ở miền núi Thanh Hóa, nhà sàn của người Thái phổ biến là dạng nhà 4 mái [2 mái chính và 2 chái] và hầu hết là không trang trí khau cút. Cũng có một số vùng, hai đầu hồi nhà có thể được trang trí bằng cách đan các tâm phên đè lên phần nóc để chống tốc phần tranh phía trên khi gió thổi mạnh, cái đó được gọi là đầu mèo [hủa meo] hay vòi voi [huống chạng] như ở vùng Bá Thước. Như vậy, mái nhà cũng là một chi tiết thể hiện sắc thái địa phương của các nhóm Thái. Về kiểu nhà, nhà sàn của người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam, nhìn tổng quát có các loại như: nhà cột chôn, nhà cột kê, nhà hai hàng cột, nhà 4 hàng. Loại nhà cổ từ xa xưa nhất truyền lại là nhà cột chôn. Nhà cột chôn tuy bộ khung đơn giản, ít tốn cây que, nhưng lại khổ công về lấy cột, bởi chỉ có các loại gỗ thật tốt thì phần chôn dưới đất mới không chóng bị mục. Càng về sau này, những loại gỗ tốt để lấy lõi đã cạn dần nên xuất hiện nhà cột kê. Làm nhà cột kê phải tốn nhiều công hơn, tốn nhiều cây làm bộ khung mới bảo đảm độ vững chắc. Thông thường, nhà càng ít hàng cột càng bé và ít gian, nhà càng nhiều hàng cột càng to và nhiều gian. Theo sách Tỉnh Thanh Hóa của Charles Robequain, Nxb Thanh Hóa, 2012, ngôi nhà của người Thái ở Thanh Hóa như sau: “... người Thái ở nhà sàn hình chữ nhật. Mặt trên sàn dùng để ở, gầm sàn dùng để nuôi, nhốt gia súc có rào kín xung quanh. Sàn ở cao khoảng 2m, sàn trước nhà để phơi phóng, rửa ráy. Tại đây có vại nước để rửa chân trước khi vào nhà. Bếp đặt ở giữa sàn ở, ban thờ tổ tiên, ông táo ở góc nhà. Mặt bằng sinh hoạt trên sàn nhà chia làm hai phần: gian sát cầu thang chính là nơi tiếp khách, dành cho đàn ông; gian phía trong, giáp cầu thang phụ là nơi dành cho nữ ở và nấu nướng...”. Những nét biến tấu trong kiến trúc và kiểu cách nhà ở của người Thái ở Quan Sơn sẽ góp thêm vào kho tàng kiến thức chung về văn hóa vật chất của người Thái ở Việt Nam, trong một khung cảnh văn hóa đang dần thay đổi. Người Thái ở Thanh Hóa nói chung, Quan Sơn nói riêng, nhà ở truyền thống là nhà sàn, nhưng không có khau cút nổi bật ở nóc nhà như người Thái Đen Tây Bắc. Kiểu cổ xưa là nhà sàn cột chôn nên người Thái có câu: “Cồn hườn hạn ván sau”, nghĩa là người ở nhà sàn bản cột - bản nhiều cột, nhà bốn mái bao hồi không có khau cút như nhà ở của người Thái Tây Bắc. Xà dọc chạy suốt, thang lên hai đầu hồi gọi là thang bên ngoài và thang bên trong. Người xưa thường nói làm nhà 4 gian dưới 3 gian trên, hoặc 5 gian dưới 4 gian trên... có nghĩa là ở trên có gian ngoài làm rộng, dưới sàn cho thêm một đôi cột ngắn vào gian rộng, nên khi nhìn dưới sàn là 4 - 5 gian nhưng khi lên trên nhà là 3 - 4 gian. Người ta thường ngăn ra một gian rộng hồi bên ngoài để nam giới ở và tiếp khách nam, số gian còn lại phía trong là nữ giới ở và tiếp khách nữ. Hướng nhà thường quay theo hướng đông nam và nằm gối đầu theo hướng xuôi dốc. Cấu trúc nhà có hai cửa chính. Hai hồi đầu thang phía ngoài, phía trong và cứ mỗi một gian một cửa sổ. Riêng gian khách bố trí 4 cửa sổ, 2 cửa hồi. Hai cửa phía trên để đảm bảo thoáng mát. Có thể nói, nhà sàn của người Thái thoáng mát, rộng rãi, ở được nhiều người. Khi có việc đông người không phải lo làm rạp như nhà đất. Trong nhà sàn, có hai cột nhà phải kiêng kị là cột giường thờ và cột bếp phía trong. Nhà của người Thái thông thường có hai bếp: một bếp gian ngoài, một bếp gian trong, nhà rộng, nhiều người còn có thêm một bếp giữa. Về nguyên liệu làm nhà, ngôi nhà truyền thống của dân tộc Thái ở Thanh Hóa nói chung được làm chủ yếu từ nguồn nguyên liệu tự nhiên. Người Thái trong môi trường sống của mình, cùng lịch sử sinh tụ đã tích lũy và phát triển một hệ thống tri thức địa phương liên quan đến việc khai thác các nguồn lực tự nhiên để làm nhà[ ]. Vật liệu để làm nhà sàn truyền thống của người Thái gồm: gỗ, tre, nứa, song, mây, tranh, kè, cọ... Những vật liệu này thường có sẵn trong tự nhiên và khai thác tương đối dễ dàng. Đồng bào ít khi sử dụng những nguồn vật liệu phải vận chuyển từ các địa phương khác đến. Ví dụ như lá tranh, cọ dùng để lợp mái nhà. Khi xưa, người Thái ở Thanh Hóa có những khu rừng có thể lấy lá tranh, cọ để lợp nhà, nhiều nhà còn trồng cây này quanh nhà, để đến khi làm nhà, họ tự túc được đủ lá lợp mái nhà, không cần vào rừng khai thác, xin hàng xóm hay đi mua[ ]. Đối với việc cất một ngôi nhà Thái truyền thống ở xứ Thanh, gỗ là khâu nguyên liệu cần có sự chuẩn bị lâu dài nhất. Gỗ có mặt trong hầu hết những kết cấu quan trọng nhất của nhà sàn Thái cổ truyền và được sử dụng để làm cột, kèo, quá giang, xà dọc, xà ngang. Gỗ làm cột nhà thường là cây gỗ to, được chặt vào mùa đông để tránh mối mọt. Với một hộ gia đình bình dân, việc chuẩn bị gỗ để cất một nóc nhà sàn phải mất vài ba năm. Sở dĩ mất thời gian trong khâu chuẩn bị này vì nhà sàn Thái yêu cầu chất lượng gỗ tốt, bền bỉ trong môi trường tự nhiên, đủ sức chịu lực. Cụ thể hơn, người Thái Thanh Hóa thích sử dụng nhóm gỗ tứ thiết vào các hạng mục chịu lực quan trọng nhất của ngôi nhà như cột nhà; đối với các hạng mục xà, quá giang thì có thể chọn các loại gỗ khác, nhẹ hơn, không cứng bằng, nhưng tuyệt đối không thể bị mối, mọt. Công việc khai thác và vận chuyển gỗ đòi hỏi sự liên kết của các cá nhân trong cộng đồng làng bản. Chính trong quá trình chuẩn bị ấy, tinh thần tương thân tương ái, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng người Thái được đặc biệt thể hiện rõ nét. Ít nhất người ta phải lập được một nhóm dăm ba người, cùng nhau đi khai thác gỗ và vận chuyển về nhà. Về kết cấu nhà, một nghiên cứu khảo sát cho biết, người Thái Thanh Hóa phân hạng ưu tiên trong khâu chuẩn bị, thường thì chuẩn bị đủ gỗ làm cột mới bước sang việc chuẩn bị gỗ cho các hạng mục khác. Một khi có đủ số lượng gỗ cần thiết để cất nhà, người Thái Thanh Hóa sẽ dựng nhà truyền thống theo một trong hai kết cấu là nhà có đà hay nhà quá giang cột chôn. Cả hai loại nhà sàn truyền thống của người Thái Thanh Hóa nói trên đều là loại nhà sàn cột chôn, tuy nhiên giữa chúng có những điểm khác biệt khá cơ bản. Loại hình nhà có đà, theo khảo sát thì thấy phổ biến ở một số huyện của Thanh Hóa như: Quan Sơn, Mường Lát, Lang Chánh, Thường Xuân... Dấu hiệu dễ nhận biết kiểu nhà này đó là cột chôn, dùng ngoãm tự nhiên hoặc được tác tạo, sử dụng lạt buộc. Ngược lại, loại hình nhà cột chôn cũng là mô hình nhà sàn cột chôn nhưng không sử dụng ngoãm hoặc rất ít khi thấy sử dụng. Bản thân tên gọi hai loại nhà này cũng xuất phát từ những đặc điểm loại hình chủ yếu dựa trên kỹ thuật kết cấu nhà. Mô tả kiểu nhà sàn có đà, một nhà nghiên cứu nhận xét: “Ưu điểm của nhà này rất là vững chãi, cột to, có ngoãm tự nhiên hay tự tạo để luồn chốt làm ping để gác đà dưới. Hàng cột giữa chỉ cao đến gầm sàn có tác dụng nâng đỡ phần giữa nhà sàn. Cột giữa của vì đầu tiên có thể cao quá mặt sàn 40 - 50cm để tiện kê lúc chặt đẽo các công cụ và đồ gia dụng trong gia đình. Các đỉnh cột nếu không có ngoãm tự nhiên thì dùng rìu vát tạo thành ngoãm để đặt đà trên, quá giang có thể xê dịch được. Kèo được gắn thêm một thanh gỗ con gọi là kim may để ngoắc vào đà trên..”[ ] [người Thái Quan Sơn gọi kim may là cút kèo]. Ở loại hình nhà cột chôn, một nghiên cứu khảo sát cũng chỉ ra rằng, đà trên và đà dưới đã mất, ở đỉnh các cột không còn ngoãm mà trở thành các cọc đặt quá giang, phần không thể xê dịch, liên kết cố định với hệ thống vì kèo bằng kỹ thuật chốt, mộng. Kỹ thuật kết cấu của hai loại hình nhà sàn truyền thống của người Thái Thanh Hóa khác nhau nên buộc chủ nhân ngôi nhà phải chuẩn bị các loại gỗ khác nhau. Nếu họ định làm nhà có đà, các cây gỗ dựng cột nhất thiết phải là loại gỗ tròn, cả cây; nhưng ở loại hình nhà sàn cột chôn, điều đó không phải là yêu cầu bắt buộc. Ngoài những khác biệt cơ bản về kỹ thuật kết cấu nhà sàn truyền thống của người Thái ở Thanh Hóa nói trên, kết cấu mái nhà, mặt sàn, vì kèo, vách của hai loại nhà sàn truyền thống nói trên không có nhiều sự khác biệt đáng kể. Trong kỹ thuật làm mái nhà sàn truyền thống của người Thái Thanh Hóa, họ sử dụng đòn tay chịu lực và phủ lớp rui bên trên. Cách bố trí đòn tay trên phần kết cấu mái, họ đặt chúng song song so với thanh đòn nóc, và phủ lớp rui chạy song song với vì kèo... Lợp mái nhà bằng lá cọ phủ trên hệ thống đòn tay, rui, mè để che mưa che nắng, cố định với nhau bằng lạt buộc. Đáng chú ý là, ở kỹ thuật kết cấu nhà sàn cổ truyền của người Thái Thanh Hóa, không sử dụng các thanh mè phụ trợ cho mái. Kết cấu nhà truyền thống của người Thái Thanh Hóa phổ biến có ba gian hoặc năm gian. Trong không gian nhà có những gian chính và có những vùng không gian phụ. Toàn bộ không gian nhà được mở thông ra môi trường ngoài bởi hai cửa chính bố trí phía trước và sau của ngôi nhà. Kèm thêm mỗi gian trong nhà, có hai cửa sổ. Kết cấu nhà sàn của người Thái ở Quan Sơn về cơ bản mang những nét chung của người Thái ở Thanh Hóa, chỉ có một vài nét biến tấu chi tiết như sau: Một là: nhà sàn cột tròn chôn có cựa để đặt đà dầm dọc. Tiếng Thái gọi là “hườn sáu phắng xơ ka lưa”, xà dọc trên vắt trên đầu cột, xà ngang vắt trên xà dọc. Kiểu nhà này thường là nhà tạm như: chòi rẫy, chòi ruộng, nhà vợ chồng mới ra ở riêng, nhà nghèo không có điều kiện làm nhà lớn, nhà đẹp. Về không gian, thường chỉ 1 - 3 gian. Tầng 1 cao dưới 2m không có người ở. Hai là: nhà sàn cột tròn chôn, đà dầm dọc luồn cột, cột bằng gỗ tốt chịu được ẩm. Chống được mối, mọt, xà dọc trên vắt trên đầu cột, xà ngang vắt trên xà dọc [tầng trên]. Kiểu nhà này là kiểu nhà cổ đến nay hầu như không còn. Tiếng Thái gọi là “hườn sáu phắng, khư pát”. Tầng 1 cao dưới 2m không có người ở. Ba là: nhà sàn cột tròn kê tảng, đà dầm dọc luồn cột, xà dọc tầng trên vắt qua đầu cột, xà ngang tầng trên vắt trên xà dọc. Tiếng Thái gọi là hườn kê khư pát. Kiểu nhà này thường phổ biến ở các huyện có người Thái kể cả Tày Mươi và Tày Dọ. Tầng 1 cao dưới 2m không có người ở. Bốn là: kiểu nhà xà dọc vắt đầu cột, xà ngang trên xà dọc: nhà sàn kê tảng cột tròn hoặc vuông, đà dầm dọc luồn cột, dầm ngang có 1 cái luồn 2 cột đối diện nhau, xà ngang tầng trên thắt vào đầu cột tạo thành từng vì khi dựng [trừ kèo]. Xà dọc tầng trên thắt trên xà ngang. Tiếng Thái gọi là “hườn kê khư hặt”. Kiểu nhà này xuất hiện từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX ở vùng mường Mìn [xã Sơn Điện và xã Mường Mìn]. Nay đã lan sang các vùng khác. Kiểu nhà này có ưu điểm là vững hơn kiểu nhà xà dọc vắt qua đầu cột. Tầng 1 cao dưới 2m không có người ở. Năm là: kiểu nhà xà ngang thắt đầu cột, xà dọc thắt trên xà ngang: nhà sàn cột vuông hoặc cột tròn kê tảng đá; dầm dọc luồn qua cột [pinh], đà dầm ngang có một cái xâu qua đôi cột, xà ngang tầng trên thắt vào đầu cột, kèo thắt vào đầu cột trên xà ngang, xà dọc từng đoạn [gỗ xẻ rộng 18 - 22 dày 8 - 10 cm] thắt vào đầu cột điểm dưới xà ngang. Nhà kiểu này gọi là hườn kèo nệp [kèo đặt vào đầu cột] tạo thành từng vì khi dựng cả kèo. Đây là nhà tân tiến mới xuất hiện cuối thế kỷ XX. Nhà sàn kiểu mới ở cả hai tầng, tầng 1 cao trên 2m. Như vậy, đến nay có 5 kiểu thiết kế nhà của người Thái ở Quan Sơn. Trong 5 kiểu nhà trên, thì có 3 kiểu có ba hàng cột là hai hàng cột cái hai bên từ tầng một đến tầng nóc, một hàng cột ngắn đỡ giữa sàn. Tiếng Thái gọi là xáu kháng tóng, xáu cóm. Hai kiểu nhà có vì, thường có bốn hoặc năm hàng cột gồm ba hàng cột như trên, ngoài ra thêm một hoặc hai hàng cột hiên theo sở thích của gia chủ. Riêng kiểu thứ 5 thường là có năm hàng cột [hai hàng cột hiên]. Cột hiên thường nhỏ hơn, thấp hơn cột cái, chỉ từ nền lên đỡ đuôi kèo. Nhà sàn người Thái cổ ít khi làm hè [thưng ra ngoài cột cái]. Trước đây chỉ có nhà tạo, nhà quan mới làm hè ở phía cầu thang lên. Đến nay, hầu như nhà nào cũng làm hè ở phía cầu thang lên. Có nhà còn làm hè đi lại xung quanh nhà. Về cách đặt xà dọc: Vùng mường Mìn, mường Xia xà dọc đặt trên xà ngang ở đầu cột [xà ngang ở dưới xà dọc thắt từng đôi cột với nhau]. Sau đó khi dựng các đôi cột lên người ta đưa xà dọc đặt vào các đầu cột tạo thế liên hoàn, trong đó các khớp cắt mớm xà dọc cho ăn xuống xà ngang tại vị trí tiếp giáp ở đầu cột. Do đó, làm nhà kiểu này sẽ vững chắc hơn kiểu đặt xà dọc ở đầu cột sau đó đặt xà ngang lên trên xà dọc. Vùng mường Mò, mường Sại, mường Hạ, mường Chự chủ yếu là đặt xà dọc trực tiếp vào đầu cột, sau đó đặt xà ngang lên trên xà dọc. Tuy nhiên, trong các vùng cũng có các kiểu đặt xà dọc, xà ngang khác nhau. Vùng mường Xia, mường Mìn vẫn có kiểu nhà đặt xà dọc trực tiếp vào đầu cột vì một số hộ ở các vùng dưới chuyển cư lên cư trú ở địa bàn họ vẫn giữ kiểu nhà cũ của quê hương nơi mình ra đi. Các vùng mường Chự, mường Hạ, mường Sại, mường Mò cũng có kiểu nhà như vùng mường Mìn, mường Xia vì có một số người mường Mìn, mường Xia chuyển cư về đó. Về cây dầm nhà: Nhà tạm thì đồng bào làm lẫy từng cột sau đó chọn cây gỗ thẳng, dài có đường kính 15 - 20cm đặt các lẫy liên tiếp tạo thành đà dầm dọc song song bên cột đối diện nhau. Sau đó đặt dầm ngang lên dầm dọc, gốc dầm ngang quay về phía đầu của người ngủ, gốc dầm dọc quay về gian ngoài [gian tiếp khách nam giới]. Nhà kiên cố: Hầu hết dầm dọc [pinh] đục cột luồn qua cột liên kết các cột với nhau. Đà dầm kiểu này hầu hết là dầm xẻ hoặc đẽo vuông cạnh dày cỡ 8 - 10cm, rộng 18 - 20cm, dài có thể xuyên suốt các cột hoặc nối từng đoạn ở hốc cột với nhau. Đà ngang cũng đặt như kiểu nhà tạm. Cấu trúc mái nhà sàn cổ: Mái nhà tạo thành bốn mái, nóc thẳng và ngắn. Hai mái chính [xóng pài] dài, nóc thẳng. Hai mái phụ [xóng túp] ngắn, dốc. Lợp lá cọ, lá kè, lá cỏ tranh, gỗ sa mu... Cột chôn làm bằng các loại cây gỗ tốt, chống được ẩm, mối. Ngày nay, phổ biến là đồng bào làm kê tảng. Về cầu thang: Có hai cầu thang [một cái ở gian ngoài cùng, một cái ở gian trong cùng]. Cầu thang có thể bắc lên hè ở phía ngọn xà ngang [nếu nhà không có hè]. Cầu thang thường làm lẻ bậc [3, 5, 7, 9], thang bên ngoài để đàn ông lên xuống, thang bên trong để đàn bà lên xuống nhà. Dọc cầu thang [mé lay] làm bằng luồng hoặc làm bằng gỗ. Nếu làm bằng gỗ thì tránh cây trường kén [có kẹn] vì theo tiếng Thái, “kẹn” có nghĩa khó làm ăn. Những cặp vợ chồng mới ra ăn riêng, khi làm nhà, cầu thang thường lấy cây dẻ gai [có co nám] làm cầu thang để trừ ma tà đến quấy nhiễu. Về mặt bằng sinh hoạt trong ngôi nhà sàn, các mảng không gian trong ngôi nhà truyền thống của người Thái ở Thanh Hóa có sự ngầm định phân chia theo giới, hay theo ngôi vị chủ khách. Cụ thể hơn, đối với một mái nhà năm gian, không gian chính yếu là hai gian nhà lớn nhất [gian khách và gian thờ]. Gian khách là gian ngay khi bước chân lên cầu thang đi vào nhà là khu vực của người đàn ông, thường là chủ nhà tiếp đón khách. Cũng như gian thờ, hai vùng không gian này, không mấy khi thấy người phụ nữ nấn ná ngồi lại. Gian nhà có cây cột chủ là phòng ngủ của vợ chồng chủ hộ, con cái. Một không gian không thể thiếu là gian bếp. Một vùng không gian khác, gọi là không gian phụ dùng để đặt ống nước, đồ gia dụng trong nhà, chạn bát. Thêm vào đó, qua quan sát còn thấy ở nhà sàn Thái cổ truyền có sàn phơi. Từ gian thứ ba, các phần không gian hẹp hơn, phân định theo giới khá rõ, đây là khu vực dành cho phụ nữ sinh hoạt. Người Thái ở Thanh Hóa tích trữ sản phẩm nông nghiệp sau thu hoạch ngay trong ngôi nhà của mình. Thóc lúa hay các sản phẩm nông nghiệp khác được cất trữ ở một sàn gác phía trên bếp lửa. Phần gầm sàn nhà truyền thống thường là khu vực nhốt gia súc. Ở vùng Quan Sơn, nếu là nhà sàn người Thái thì sẽ có ba gian trở lên, các gian đều nhau thì bố trí như sau: Gian trong cùng thưng vào sát cột, gian ngoài thưng ra ngoài cột khoảng 1,5m tạo cho gian ngoài rộng hơn các gian trong. Cũng có khi gian ngoài rộng gấp rưỡi hai gian trong, chưa kể phần thưng ra hè ngoài cột. Gian ngoài [phía gốc dầm dọc] là gian của đàn ông ở và tiếp khách. Gian tiếp theo là của bố mẹ hoặc anh chị nếu bố mẹ đã qua đời. Ngay gốc cây cột thứ hai từ ngoài vào là chỗ đặt bàn thờ tổ tiên, tiếng Thái gọi là “khọ hóng”. Các vùng mường Xia, mường Mìn thì đặt bàn thờ lên trên tường nhà; các vùng mường Mò, mường Hạ, mường Chự, mường Sại thì đặt bàn thờ xuống sàn nhà ngay phía trong gốc cột thuộc gian thứ hai. Thường thường tại đôi cột này đồng bào thưng ngăn nhà gọi là “pha khắn” để ngăn cách gian ngoài tiếp khách với gian trong. Trước đây khoảng cách từ gian ngoài cùng vào gian trong thường thưng vách ngăn xuống nửa chiều rộng hoặc thưng xuống suốt từ tường phía trên xuống tường phía dưới. Ở vách thưng [pha khắn] làm cửa đi vào các gian trong. Các gian trong được ngăn nửa phía đầu xà ngang, từng gian riêng biệt có cửa vào gọi là “xuốm”. Gian ngoài để tiếp khách nam và nam giới trong nhà ở. Gian thứ hai để bố mẹ ngủ hoặc vợ chồng anh chị cả ngủ. Góc phía trên để bàn thờ tổ tiên, nếu không có bàn thờ lớn thì làm bàn thờ nhỏ treo lên gần xà ngang giáp pha khắn. Cột thứ hai hàng đầu xà [tính từ gian ngoài vào] chính là cột sáu hóng [cột ma nhà]. Có dòng họ bao lại góc trên của gian thứ hai đặt đồ thờ cúng xuống sàn. Có nơi, có họ thì làm bàn thờ lên cao, thường là ở gần xà ngang của cột thứ hai tại góc đầu cạnh nơi nằm của bố mẹ hoặc vợ chồng anh cả gọi là kho lọ hóng, xáu hóng, xáu phí hườn, pàn thờ phí hườn. Chỗ này là chỗ linh thiêng không ai được tự tiện đến nếu không phải là đến thắp hương hoặc vái lạy tổ tiên. Tất cả mọi người trong nhà, kể cả khách khi nằm không được chỉ chân về phía bàn thờ, không được nằm theo chiều xà dọc trong nhà, không được nằm ngược đầu xà ngang, không được ngồi thả chân xuống cửa sổ [hu táng]. Từ gian thứ ba trở vào để cho con thứ, nếu bố mẹ còn thì để cho vợ chồng anh cả. Gian phía trong cùng nhất để cho con gái chưa chồng ở. Nhìn chung, cách bố trí không gian nhà sàn của người Thái ở Thanh Hóa tương đối giống nhau. Riêng người Thái [Táy Mươi] có vài điểm khác là: Về phần diện tích: gian ngoài [gian khách] thường làm rộng gấp rưỡi các gian trong. Ở dưới gầm sàn, gian ngoài có thêm một cột phụ xáu khang tóng hay xáu cóm chống đỡ vào dầm dọc nên ta nhìn dưới gầm tưởng nhà 5 gian nhưng khi lên sàn thì chỉ có 4 gian. Về ở: đàn ông ở phía ngoài căn nhà, lên xuống cầu thang bên ngoài. Phụ nữ ở phía trong căn nhà, lên xuống cầu thang phía trong căn nhà. Nhà đông người phải dọn nhiều mâm cơm thì ng¬ười già mâm riêng, đàn ông mâm riêng, phụ nữ mâm riêng. Đến bây giờ phụ nữ có thể ăn chung mâm với đàn ông nhưng nếu nhiều mâm thì bố mẹ, anh, chị ăn mâm gian ngoài, em út, trẻ con ăn mâm gian trong. Về ngủ: nhà sàn th¬ường nhiều gian, trong đó gian ngoài rộng hơn để tiếp khách và đàn ông sinh hoạt. Các gian còn lại đều nhau, gian tiếp với gian ngoài là ông bà. Nếu ông bà không còn sống thì phần bố mẹ, nếu bố mẹ không còn thì phần anh cả. Đồng thời đó là nơi tiếp giáp với gian ngoài đặt bàn thờ. Đa phần đặt bàn thờ ở tầm với, một số để xuống sàn nhà, một số lại để trên xà ngang của nhà. Việc để vị trí bàn thờ này tuỳ theo dòng họ và vùng quê ch¬a. Những gian tiếp theo là thứ tự các ngư¬ời con, người em còn lại. Gia đình càng nhiều anh em trai thì nhà càng phải nhiều gian. Trong đó, gian cuối cùng bên trong dành cho những cô con gái chư¬a có chồng, gian bên ngoài [gian khách] là những chàng trai chưa¬ có vợ ngủ. Nếu khách đến nhà là nữ thì khách của ai nằm với người đó, còn người chồng ra gian ngoài ngủ. Nếu khách là đàn ông thì ngủ ở gian ngoài. Đây là tục lệ mang tính truyền thống của người Thái nên trong gia đình ít xảy ra xung khắc. Bếp: Người Thái làm bếp trong nhà. Gian đầu, cách cửa khoảng 1,5 - 2m đặt một bếp lửa hình vuông, mỗi chiều rộng 1 - 1,5m để đun nước, nấu canh khi cần, bếp này là bếp của đàn ông. Gian thứ hai cách bờ vách lên khoảng 1 - 1,5m, ngay chỗ phía trong cột thứ hai kể từ ngoài vào đặt một bếp nấu hình vuông hoặc chữ nhật to hơn bếp gian ngoài để nấu cơm, canh hàng ngày. Trên bếp làm một gác bếp để sấy lúa, ngô, sắn và để một số vật dụng, thức ăn phục vụ cho nấu nướng. Bếp này là của phụ nữ, đàn ông không nên vào đó ngồi. Gác bếp có khi dòng dây từ xà nhà xuống, có khi làm bốn cột ở bốn góc bếp để đỡ. Về công cụ làm nhà, trong phương thức làm nhà truyền thống, người Thái Thanh Hóa chủ yếu sử dụng rìu và dao [dựng nhà có đà], hay bổ sung thêm các công cụ khác như cưa, đục [dựng nhà cột chôn]. Trước năm 1950, người Thái Thanh Hóa gần như sử dụng các phần gỗ không qua khâu xử lý bằng bào. Họ sử dụng các công cụ như dao, rìu để tạo mặt nhẵn bằng kỹ thuật đẽo, gọt. Trên thực tế, với người Thái Thanh Hóa, dao là một dụng cụ khá đa năng. Từ sau năm 1950, việc giao lưu văn hóa với nhiều tộc người cùng cộng cư trên địa bàn, người Thái tiếp nhận những công cụ dựng nhà mới, và sử dụng những công cụ này tạo ra những diện mạo mới hơn cho ngôi nhà truyền thống của mình. Đáng chú ý là việc cập nhật cách sử dụng bào từ người thợ mộc Kinh, theo đó nhiều bề mặt gỗ được làm nhẵn, đánh bóng nhờ kỹ thuật bào. Về thợ làm nhà, trong làng bản người Thái Thanh Hóa luôn có một vài người thợ dựng nhà, họ là những người sở hữu những tri thức dân gian nhất định liên quan đến kỹ thuật dựng nhà cửa. Họ là những cá nhân am hiểu nhất về cách đặt dây dựng nhà, cách đặt cột, lên kết cấu và phối hợp những hợp phần gỗ tự nhiên để dựng thành công một khung nhà chắc chắn nhất có thể. Nam giới trong làng người Thái ở Thanh Hóa ít nhiều đều nắm được những kỹ thuật dựng nhà cơ bản vì họ học được từ việc đổi công giúp nhau dựng nhà. Khi dựng một căn nhà mới, chủ nhà thường nhờ những người có kinh nghiệm làm người đứng đầu, mượn anh em làng xóm tới hỗ trợ đổi công. Người thợ Thái Thanh Hóa, khi dựng một ngôi nhà truyền thống, sử dụng chính một phần thân thể mình làm thước đo. Tuy nhiên, đối với mỗi mặt bằng khác nhau thì cách tính của người thợ cũng khác biệt chút ít. Khi tiến hành đo chiều rộng của ngôi nhà, họ sử dụng sải tay hoặc khuỷu tay. Ví dụ, một gian nhà rộng thường được tính bằng hai sải tay, tương đương 3m. Nhưng khi đo chiều cao của ngôi nhà, người thợ tính bằng cánh tay hay cùi tay. Những không gian cần độ chuẩn mặt bằng, người thợ tận dụng nguyên lý lấy thăng bằng. Theo đó, người thợ bổ đôi ống nứa bắc hai đầu qua hai cây cột và đổ nước để đánh thăng bằng[ ]. Về những tập tục tín ngưỡng, kiêng cữ liên quan đến xây dựng nhà, cách bố trí nhà truyền thống, người Thái Thanh Hóa dựa vào các yếu tố tự nhiên để dựng nhà, làm sao ngôi nhà đạt được vị thế vững chãi nhất. Phổ biến nhất là việc dựng nhà dựa theo dòng chảy tự nhiên hoặc đường lượn chân núi. Tức là, với ngôi nhà truyền thống của người Thái Thanh Hóa, người ta chọn sông suối hay thế đất thoáng đãng làm chuẩn. Theo đó, nếp nhà sàn quay chiều đòn nóc xuôi theo hướng dòng sông chảy tự nhiên. Như thế, quần thể các ngôi nhà nhìn từ trên cao là một sự trải dọc mềm mại thuận theo dòng chảy tự nhiên. Nếu nhà dựng gần vùng núi, hay lưng dựa núi, mặt nhìn ra khu vực thoáng đãng hay dòng sông, ngọn suối thì quay đòn nóc xuôi theo nét lượn của chân núi. Nếu ngôi nhà tồn tại trong một không gian độc lập không tựa núi, nhìn sông thì đặt đòn nóc theo hướng đông hoặc hướng tây tùy theo dòng họ. Trong cả ba cách đặt nhà trên, người Thái kiêng không đặt nóc nhà mình thẳng với nóc nhà khác. Người ta sợ rằng điều đó sẽ là nguyên nhân gây ra bất hòa giữa những người trong cùng làng bản. Mối quan hệ láng giềng trong làng bản người Thái Thanh Hóa có vai trò rất quan trọng. Tục ngữ của đồng bào có câu: Nọng pí tang cáy bau pớn tày huốm bán Tày huốm bán bau pớn ái khí chạn huốm hườn. Dịch nghĩa: Anh em xa không bằng người cùng bản Người cùng bản không bằng anh lười nhác trong nhà. Qua các cuộc điền dã ở các bản người Thái ở Thanh Hóa cho thấy, đối với ngôi nhà sàn truyền, cửa sổ và cầu thang được đặt trên các nguyên lý tín ngưỡng, thường là số lẻ. Với cầu thang lên nhà sàn, đo đếm bằng số lẻ bước chân người lên và xuống. Người Thái có những cầu thang chẵn số bậc nhưng đó là thiết kế dành cho khi nhà có người chết đưa xác đi mồ. Tương tự, số cửa sổ trong ngôi nhà người Thái Thanh Hóa cũng phải là số lẻ. Đối với người Thái, mái nhà là một phần quan trọng trong đời sống của mỗi gia đình. Họ có niềm tin ngôi nhà có liên hệ đến các vấn đề như sức khỏe, việc làm ăn, vận hạn của các thành viên trong gia đình, do đó họ có những phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà khá rõ nét. Những hoạt động và thực hành tín ngưỡng nghi lễ liên quan đến ngôi nhà, chủ yếu ở ba khâu: * Chọn đất, chọn cột, chọn ngày tháng làm nhà: Việc chọn đất làm nhà như đã nói ở trên, ưu tiên nhìn sông hoặc tựa núi nếu không thì dựng nhà ở những nơi quang đãng. Khi chọn đất dựng nhà, người Thái kiêng việc dựng nhà trên thế đất mà nhà nhìn vào ngọn núi nhô ra, nhà bị che khuất bởi các mỏm núi. Chọn đất làm nhà, người Thái hay viện nhờ thầy bói, họ sử dụng phép bói hạt thóc bỏ trong hố, úp chén, bỏ qua đêm để lựa mảnh đất phù hợp để dựng nhà. Khi chọn đất họ dùng một quả trứng ném xuống khu đất định chọn, nếu trứng vỡ thì chọn, trứng không vỡ thì đi tìm khu đất khác. Việc chọn cột nhà có một số kiêng cữ phổ biến như: không chọn cột gãy, cột có dây leo, cột đổ. Người Thái kiêng chặt những cây cổ thụ vì họ tin đó là nơi thần linh cư ngụ. * Dựng nhà: Ba thời điểm quan trọng trong quy trình dựng nhà có ít nhiều kiêng cữ là việc chọn ngày dựng nhà, ngày dựng cột chính và ngày cất nóc. Ngày dựng nhà theo lịch âm. Nói chung người Thái làm mọi việc đều theo ngày tháng âm lịch. Người Thái tổng hợp thành bài chọn ngày dựng nhà [trừ tháng 4, tháng 7 không làm nhà] như sau: Mự mốt xi xấu tộc [lý] Mự xong hộc xấu tắng [lý] Mự xám bóng nặm ún kin dến [lý] Mự xi ệt hườn pến pớ mạy [lý] Mự há chệp xáy pớ phí tò [hại] Mự hộc tắng mồn mo hặn khắm [hại]. Dịch: Ngày một 4 cây cột chôn [tốt] Ngày hai 6 cây cột dựng [tốt] Ngày ba ống nước nóng uống mát [tốt] Ngày bốn làm nên nhà nhờ gỗ nứa [tốt] Ngày năm đau ốm do ma xui [xấu] Ngày sáu đặt mâm cúng cả ngày [xấu][ ] Tuy nhiên phải tránh ngày kị [chư nhì]. Mỗi tháng có một ngày chư nhì. Theo âm lịch, ngày chư nhì các tháng như sau: tháng 1 ngày 6, tháng 2 ngày 1, tháng 3 ngày 8, tháng 4 ngày 3, tháng 5 ngày 10, tháng 6 ngày 5, tháng 7 ngày 12, tháng 8 ngày 7, tháng 9 ngày 2, tháng 10 ngày 9, tháng 11 ngày 4, tháng 12 ngày 11. Ngày tốt [mự toi đói] trong các tháng: tháng 1 ngày 8, tháng 2 ngày 6, tháng 3 ngày 4 và 28 ăn Tết tát nước, tháng 4 ngày 26, tháng 5 ngày 24, tháng 6 ngày 22, tháng 7 ngày 20, tháng 8 ngày 18, tháng 9 ngày 16, tháng 10 ngày 14, tháng 11 ngày 12, tháng 12 ngày 10. Do vậy, tuỳ từng tháng mà chọn ngày tốt dựng nhà, tránh các ngày chư nhì. Người Thái có câu: Xịp mự hại bau pớn mự chư mì Xịp mự lí bau pớn mự toi đói kháu ngàu vướn húng. Dịch: Mười ngày xấu không bằng ngày chư nhì Mười ngày đẹp không bằng ngày “toi đói” vào vầng trăng sáng[ ]. Từ ngày bảy đến ngày mười thường không làm nhà và những việc lớn. Người Thái làm nhà tránh tháng Giêng, tháng 7, 8 âm lịch hàng năm [tính ngày, tháng bắt đầu khởi công]. Từ ngày 11, 21 trở đi tính trở lại như chu kì đầu là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7... Chọn ngày lợp nhà: Ngày lợp nhà cũng là ngày hệ trọng nên người Thái thường chọn kỹ. Sau khi sắm đủ vật liệu hoặc làm khung mái xong [trừ đòn nóc chưa bỏ], gia chủ tự chọn hoặc nhờ thầy chọn giúp ngày đẹp để lợp nhà. Ngày lợp nhà cũng là ngày bỏ đòn nóc trước khi lợp. Người bỏ đòn nóc nhà là gia chủ, nếu có người thay gia chủ xin đất với ông thổ địa, thổ công thì người xin đất bỏ đòn nóc. Ngày hoàn thành về nhà mới thì bàn giao cho gia chủ chính thức. Cũng có nhà chọn ngày bỏ đòn nóc trước khi lợp. Bỏ đòn nóc, làm hoàn thiện khung mái nhà xong mới chọn ngày lợp nhà. Ngày lợp nhà có thể kết hợp làm lễ khánh thành nhà [mừa hườn mơ] luôn nếu mọi thứ đã được chuẩn bị đầy đủ. Cũng có gia chủ chọn ngày mừng nhà mới [ở nhà mới] riêng. Sau khi lợp xong, hoàn thiện thưng, cửa, cầu thang thì tổ chức chọn ngày về nhà mới. * Lễ lên nhà mới: Lễ này đánh dấu việc gia chủ được nhập gia và sử dụng không gian sống này cho gia đình. Trong nghi lễ này, người phụ nữ Thái Thanh Hóa có vai trò quan trọng đặc biệt. Bà chủ nhà, người vợ, là người đầu tiên được lên nhà mới. Bà chủ nhà phải chuẩn bị một số vật dụng có tính nghi lễ liên quan đến việc ăn [đốt bếp nấu xôi, đặt một hai ống nước], ngủ [đặt chăn chiếu vào buồng ngủ] tại ngôi nhà. Sau các lễ thức này, chủ nhà cúng ma nhà, thổ công và long mạch cầu yên, liên hoan cùng anh em, bà con, bạn bè mừng nhà mới. Tục cúng nhà mới thường chọn ngày đẹp “cân cong, cân xa” thường là ngày 2, 4, 12, 16 âm lịch. Người Thái có cách đếm nếu đến 10, 20 thì trừ hàng chục còn lại số cuối tính là 1, 2, 3, 4. Chọn ngày ở nhà mới: Người Thái chọn ngày lành tháng tốt để về ở nhà mới. Ngày bắt đầu về ở nhà mới phải cúng và đặt bàn thờ tổ tiên, mời bà con hàng xóm, họ hàng xa gần đến mừng nhà mới. Có nghĩa là báo với cả âm, dương việc gia chủ có nhà mới, về ở nhà mới, đồng thời mời tổ tiên cùng về ở nhà mới để phù hộ độ trì cho con cháu [xờ phi hườn]. Đồ lễ cúng: xôi 5 bát, 5 bát nước xuýt [thay canh], 1 con gà trống choai, 1 con lợn [to, nhỏ tuỳ theo mỗi gia đình] rượu, vải thổ cẩm [phá], vòng tay, vòng cổ bạc, tiền mặt đặt vào mâm, cúng xong gia chủ cất các đồ vật đi. Nếu họ hàng, anh em, làng xóm có tiền mừng nhà mới thì gia chủ cũng đặt một phần vào đó để báo với tổ tiên. Gà luộc chín chặt cả con đặt vào đĩa, thủ lợn, một chân trước của lợn xẻ từ vai; mông đuôi lợn luộc chín; lòng, xương sườn lợn nướng trần; thịt nướng cuốn lá bưởi đặt vào mâm, áo của các thành viên trong gia đình gia chủ và áo của người đứng tên thay gia chủ khi xin động thổ [nếu có] đặt cạnh mâm. Ngoài ra, không gian ngôi nhà còn có những điều quy ước, chẳng hạn như: Các dụng cụ sinh hoạt như chăn, màn, gối, đệm người Thái để ở vách phía đầu mình nằm. Còn quần áo để ở vách phía dưới chân mình nằm. Ghế mây để trong nhà không được để ngửa. Chỉ khi nào trong nhà có người chết mới được để ngửa ghế mây. Trải chiếu cho người sống không được trải ngược, chỉ có trải chiếu cho người chết, cho ma mới trải ngược. Khi nằm trong nhà không quay chân lên phía cột dầm ngang hoặc nằm dọc theo xà dọc. Nằm dọc theo xà dọc dành cho người chết hoặc quan tài. Người Thái đặt gốc xà ngang theo chiều dầm ngang [thống nhất cột và ngọn với nhau]. Đồng thời ngủ quay đầu về phía gốc cây với tâm niệm “đầu mình là gốc của con người”. Do vậy phía đầu người nằm thống nhất với gốc cây xà ngang và dầm ngang. Người Thái cũng duy trì một số tập quán kiêng áp dụng cho các thành viên trong gia đình và khách đến chơi nhà, cụ thể: không được ngồi ở đầu cầu thang, không buông chân xuống nơi cửa sổ, người trẻ không được ngồi phía trên người già, không được nằm quay ngược đầu sàn, không được lấy chân chỉ chỗ cho người khác, lúc người ta đang ngồi không được bước qua mặt, con gái không được mặc váy, áo mỏng đứng trước cửa, ngồi trên nhà phải khép chân... Nếu ai vi phạm thì sẽ bị ma nhà phạt. Thực tế, những kiêng cữ này góp phần điều chỉnh hành vi để người Thái thêm phần thanh lịch. * Một số biến đổi về nhà ở hiện nay Theo thông tin điền dã và khảo sát các nguồn tài liệu bổ trợ cho thấy, đến nay, ngôi nhà truyền thống của người Thái ở Thanh Hóa nói chung có ít nhiều biến đổi trên nhiều phương diện: loại hình nhà, yếu tố vật chất kỹ thuật, yếu tố xã hội và phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà. Biến đổi về loại hình nhà: Mô hình nhà truyền thống chủ yếu của người Thái ở Thanh Hóa là mô hình nhà cột chôn. Tuy nhiên, từ thập kỷ 50 của thế kỷ XX, trong cộng đồng người Thái, có thêm mô hình nhà sàn cột kê. Nhà cột kê vẫn kế thừa khá trọn vẹn hình thức và dáng dấp của nhà truyền thống Thái Thanh Hóa. Nhà cột kê chia thành hai loại gồm nhà hai hàng cột kê có quá giang và loại nhà bốn hàng cột kê khá giống với nhà người Mường. So với nhà cột chôn, nhà cột kê có ưu thế về tính di động. Tuy không thể so sánh về độ vững chãi, chắc chắn so với loại hình nhà cột chôn truyền thống, nhưng mô hình nhà cột kê rất tiện để di chuyển nhà từ vị trí này đến vị trí khác. Những biến đổi trong yếu tố vật chất: Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX, đời sống tộc người gắn với tiến trình đổi mới của đất nước, trong đó nhiều giao thương giữa các tộc người đã diễn ra. Theo đó, các yếu tố vật chất trong việc làm nhà cũng được người Thái học hỏi tiếp thu từ những cộng đồng người khác. Việc thích ứng, thay đổi và vận dụng các yếu tố vật chất mới, kèm theo đó là áp dụng các kỹ thuật làm nhà mới xuất phát trước tiên từ việc cạn kiệt dần nguồn tài nguyên tự nhiên để dựng nhà. Một vấn đề lớn là việc suy giảm diện tích và chất lượng rừng, kèm theo đó là việc thiếu hụt những dòng gỗ quý phù hợp để làm nhà truyền thống. Mô hình quản lý rừng theo quy hoạch nông - lâm trường trong thập niên 80 của thế kỷ XX cũng tách dần tộc người khỏi quy trình khai thác các nguồn lợi lâm thổ sản, nhất là cây gỗ quý để làm nhà. Chính sự khan hiếm gỗ làm nhà mà số lượng nhà cột chôn trong cộng đồng người Thái Thanh Hóa ngày càng thu hẹp, thay vào đó là sự phát triển mạnh của các mô hình nhà đất, nhà gỗ, nhà xây gạch. Ban đầu, đây là những kiểu dạng nhà được những người cán bộ thoát ly [giáo viên, bác sĩ, cán bộ huyện] học hỏi và xây dựng. Dần dần, chúng trở nên phổ biến và đại trà hóa trước sự cạn kiệt dần các nguồn tài nguyên. Chẳng hạn, cây gỗ lim Thanh Hóa vốn rất nổi tiếng, là một trong những dòng gỗ quý điển hình ở Việt Nam, đặc dụng trong việc dựng cột, hay làm cửa nhà. Thân gỗ lim Thanh Hóa có sức bền, chịu được mưa nắng, chôn sâu dưới đất không mục ruỗng, mối mọt, có niên hạn sử dụng đến cả vài trăm năm. Tuy nhiên, lim Thanh Hóa và những dòng gỗ quý khác đã gần như biến mất trước nhu cầu sử dụng ồ ạt của thị trường xây dựng vùng xuôi. [Hiện nay trên địa bàn Quan Sơn chỉ còn đồi lim bản Tân Sơn, xã Sơn Điện trồng năm 1964, rộng khoảng 2ha]. Những yếu tố vật chất khác thay đổi cùng thời gian, có thể thấy được là các vật liệu lợp nhà. Mái cọ truyền thống vẫn tồn tại bên cạnh những vật liệu mới như mái ngói, mái phi pro-xi măng, mái tôn hay nhựa. Khung nhiều căn nhà sàn mới hiện nay vẫn ưu tiên sử dụng gỗ, nhưng thay vì các dòng gỗ quý hiếm truyền thống, các loại gỗ tạp, gỗ từ rừng trồng có chất lượng kém hơn được thay thế hoặc người dân lựa chọn sử dụng khung cột bê tông chịu lực. Những người thợ làm nhà ở các vùng người Thái Thanh Hóa đa dạng và chuyên môn hóa hơn so với truyền thống. Từ thập kỷ 90 về sau này, hình thành nên những đội thợ chuyên làm nhà. Nhóm thi công có thể là người Thái hoặc gồm cả người Kinh hoặc cơ cấu lẫn Kinh - Thái. Tiếp sau sự đa dạng hóa về đội ngũ thợ, nhiều kỹ thuật dựng nhà, làm nhà đã được triển khai và áp dụng để việc dựng một ngôi nhà được thuận tiện và nhanh chóng hơn. Nếu như trong thập niên 50, người Thái mới chỉ cập nhật những công cụ thủ công để hoàn thiện các chi tiết của ngôi nhà như bào và kỹ thuật bào nhẵn mặt gỗ thì ngày nay, đồng bào sử dụng nhiều loại trang thiết bị công nghiệp như cưa máy, khoan máy, bào máy, thước đo các loại, công cụ lấy thăng bằng lito, máy đầm dũi... hay những dụng cụ xây dựng như bay, xoa để làm nhà. Đương nhiên, các công cụ làm nhà truyền thống như búa, rìu, dao vẫn góp phần quan trọng trong việc dựng nhà của người Thái. Về kỹ thuật dựng nhà: Nhà người Thái Thanh Hóa từ truyền thống đến hiện tại phản ánh một quy trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp[ ]. Một nghiên cứu khảo sát lập luận rằng, chính việc kiện toàn các kỹ thuật dựng nhà cùng thời gian, qua các mô hình nhà khác nhau thể hiện điều này, cụ thể như việc dùng dây lạt buộc tới sử dụng con xỏ, từ dùng ngoãm tự nhiên, hay tác tạo đến việc dùng mộng hay phối kết hợp các hình thức với nhau... để rồi việc sử dụng dây và ngoãm dần dần biến mất. Trong truyền thống, người Thái không thích việc cưa xẻ và ưu tiên sử dụng các thân gỗ tròn nguyên khối, nhưng hiện nay đồng bào cũng phải chấp nhận việc xẻ mỏng khối gỗ để có đủ gỗ gia công các hạng mục trong nhà như hệ vát lát, bậc cầu thang... Thực tế, việc thay đổi và tích hợp nhiều yếu tố kỹ thuật dựng nhà của người Thái không hẳn là một lũy tiến cho sự phát triển về mặt kỹ thuật mà thực tế, trong những hoàn cảnh cụ thể, trước những đòi hỏi cụ thể mà đồng bào có sự cân nhắc phối hợp hay lựa chọn sử dụng những biện pháp kỹ thuật phù hợp hơn. Cầu thang là kết cấu kỹ thuật có nhiều thay đổi khá rõ. Nhà sàn truyền thống cột chôn của người Thái ưa thích lối cầu thang đơn giản, bằng các cây gỗ tròn, đẽo lõm đặt bậc buộc dây mây. Vài thập kỷ gần đây, cầu thang được chăm chút hơn, với các họa tiết trang trí giản dị, đẹp mắt như mô típ đầu rồng. Các bậc thang làm bằng gỗ được bào nhẵn, ghép bậc, chốt mộng rất chắc chắn. Một số loại hình cầu thang có thiết kế lối đi cho xe máy lên xuống được thuận lợi. Biến đổi trong quy cách dựng nhà: Một trong những thay đổi khá triệt để là việc chính xác hóa công cụ đo lường. Với mô hình nhà truyền thống, người thợ sử dụng một phần thân thể [cánh tay, sải tay, khuỷu tay] để ước định khoảng cách và chiều cao ngôi nhà nhưng đã từ lâu, người Thái quen với việc sử dụng thước thợ, hay thước mét để đo chuẩn khi tiến hành dựng nhà. Nguyên tắc chọn đất làm nhà cũng có những thay đổi nhất định. Ngoài những vị trí truyền thống, nhà của người Thái ở các vùng thị tứ, thị trấn, gần các lộ giao thông có khuynh hướng bám đường. Các ngôi nhà bố trí rải rác dọc theo lộ hoặc tập trung tại một điểm thuận lợi cho giao thương. Biến đổi mặt bằng sinh hoạt: Thay đổi rõ nét nhất đối với mặt bằng sinh hoạt của ngôi nhà sàn Thái là từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX đến nay, không gian gầm sàn từ chỗ dành để nuôi giữ gia súc đã chuyển dần thành một không gian khác. Phổ biến, người ta chuyển đổi gầm sàn thành nơi để một số nông cụ và công cụ sản xuất, để xe máy hay các vật dụng khác. Một số hộ gia đình chuyển đổi không gian này thành khu vực có vách ngăn, lát gạch tạo thêm một phần không gian cho căn nhà, phù hợp với nhiều mục đích sử dụng, để ở, để tiếp khách hay lưu trữ vật dụng như lúa mùa vụ mới thu hoạch về. Biến đổi trong quan hệ xã hội và phong tục tập quán liên quan diễn ra trong ngôi nhà: Cùng với sự thay đổi các mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội trong thời kỳ đổi mới, theo sau những thay đổi các yếu tố vật chất, các yếu tố xã hội và phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà của người Thái cũng dần thay đổi, chậm hơn những thay đổi thấy rõ ở các yếu tố vật chất hay kỹ thuật. Những phong tục liên quan đến việc chọn ngày, chọn đất, dựng cột, cất nóc vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, trong khi thực hiện những thủ tục này, người Thái thường có xu hướng đơn giản hóa nghi lễ mà vẫn đảm bảo đúng tiến trình. Những kiêng cữ trong việc chọn gỗ làm nhà dần mai một vì hiện nay người ta không còn điều kiện để áp dụng hay đúng hơn là môi trường phù hợp để thực hành những kiêng cữ này đã gần như biến mất. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của nhà người Thái nói chung. Dựa vào khảo cứu, chúng tôi cho rằng, các nguyên nhân sau có vai trò nổi trội hơn cả: Thứ nhất, sự tác động của điều kiện tự nhiên, môi trường sống của tộc người. Những thay đổi về môi sinh và điều kiện tự nhiên, cùng với sự suy giảm và cạn kiệt nguồn nguyên vật liệu khiến cho việc xây dựng những ngôi nhà Thái truyền thống không thể thuận lợi được như trước. Với tốc độ phát triển nhanh của cư dân, nhu cầu về gỗ làm nhà đã vượt trên mức cung cho phép của rừng và ngay cả hình thức rừng trồng cũng chưa thể cung ứng đủ gỗ xây dựng nhà sàn trong bối cảnh hiện tại. Thứ hai, quá trình giao lưu văn hóa: Trong nhu cầu gia tăng về nhà ở, cùng sự khan hiếm các nguồn lực tự nhiên như gỗ để làm nhà, dĩ nhiên, cộng đồng tộc người sẽ lưu ý tới những giải pháp thay thế phù hợp và khả dụng. Người Thái cho thấy, họ từng bước năng động áp dụng và chuyển đổi từng phần hoặc toàn phần những giải pháp làm nhà của các tộc người xung quanh như mô hình nhà của người Mường và người Kinh. Tiến xa hơn, họ học hỏi, thuê mướn và trau dồi kỹ thuật dựng nhà từ các tộc người láng giềng để đa dạng hóa ngôi nhà Thái với nhiều kiểu loại, chi tiết mới nhưng vẫn đan xen những yếu tố văn hóa Thái của tộc người mình. Thứ ba, tác động của chính sách nhà nước: Ngoài những nguyên nhân kể trên, chính sách nhà nước về sử dụng đất đai [đặc biệt là giao đất, giao rừng], chăm sóc và bảo vệ rừng, quản lý vùng nguyên liệu, quản lý nông - lâm trường... cũng có tác động nhất định đến việc hình thành và phát triển các mô hình nhà ở của người Thái. Những hình thức quản lý thuộc khuôn khổ chính sách nhà nước đã trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế người Thái tiếp tục khai thác nguồn lâm thổ sản, nguồn tài nguyên gỗ để xây dựng nhà. Trong nếp nhà sàn cổ của người Thái chứa đựng bao điều đáng được tôn trọng, chẳng hạn về kiến trúc, tâm lý, tình cảm, phong tục, tập quán, nề nếp sinh hoạt tốt đẹp thường ngày cũng như ý niệm về tín ngưỡng tôn giáo của người Thái cổ... Ngày nay nó đang được nhanh chóng biến tấu các nét kiến trúc tạo hình và mất đi một số nội dung chứa đựng trong nếp nhà sàn để phù hợp với sự biến chuyển nhanh chóng của xã hội. Vì thế nhà sàn cổ của người Thái cần được nghiên cứu, khảo tả, bảo tồn. Nhà ở là một trong những vấn đề có lịch sử nghiên cứu lâu dài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà dân tộc học, nhân học. Nhiều nhà dân tộc học đã phát hiện ra rằng, nơi cư trú - những ngôi nhà của con người khắp nơi trên thế giới có những điểm tương đồng và khác biệt thú vị, để có thể xem xét phân loại, nhóm chung các mẫu hình nhà cửa với nhau. Với các nhà dân tộc học, nhà ở của các tộc người, không đơn giản chỉ là một mô hình kiến trúc hay kết cấu vật chất mà nó là một dạng thức văn hóa vật chất đáng chú ý, qua đó giúp các nhà nghiên cứu hiểu được nhiều khía cạnh văn hóa, xã hội và thẩm mỹ cũng như quá trình trao đổi, giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các tộc người. Trong tương quan cấu hình xã hội gồm nhà - làng - nước, ta có thể hiểu một ngôi nhà tương ứng với một thành tố góp phần tạo nên làng và rộng hơn là một phần của văn hóa cộng động. Ngôi nhà, chính là phần cơ hữu gắn bó mật thiết với hộ gia đình, một khía cạnh nào đó, được xem như các tế bào của xã hội. Do đó, trong dân tộc học, góp phần nghiên cứu tìm hiểu về ngôi nhà và những khía cạnh văn hóa liên quan, sẽ mở ra những chiều cạnh, chẳng hạn hướng vào con người cụ thể hay hướng ra cộng đồng [gia đình - làng bản] hoặc liên thế hệ [tổ tiên đã khuất núi]... Như thế, ngôi nhà là “một phức hợp văn hóa tộc người” ngoài chức năng kỹ thuật, còn đảm nhận các chức năng xã hội, chức năng tín ngưỡng và chức năng thẩm mĩ. Hiện nay đã xuất hiện ở các vùng của người Thái những ngôi nhà ống, nhà xây cao tầng, hay kiểu nhà biệt thự sang trọng. Đây là xu hướng chung và nó được các chủ thể văn hóa chấp nhận. Như vậy, có nghĩa là người ta có thể thay đổi cái vỏ văn hóa của nhà cửa nhưng các tập tục tốt đẹp vẫn cần được duy trì theo truyền thống tộc người. 6.1.5. Văn hóa tinh thần 6.1.5.1. Ngôn ngữ

  1. Đặc điểm tiếng nói: Ngôn ngữ bao gồm cả tiếng nói và chữ viết. Tiếng nói của người Thái ở Quan Sơn cơ bản giống người Thái các huyện trong tỉnh Thanh Hóa, người Thái ở Việt Nam. Tuy nhiên do địa hình phân dị khá phức tạp cùng với lịch sử cư dân nên trong mỗi vùng trên địa bàn Quan Sơn cũng có nét khác nhau về phát âm. - Vùng mường Mìn, mường Xia: Người Thái Xia, Mìn có tiếng nói cơ bản giống người Thái ở trong huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát tỉnh Thanh Hóa và cư dân Thái ở tỉnh Hủa Phăn [Sầm Nưa] nước bạn Lào. Ví dụ: Người Thái Tây Bắc nói rìu là “mác khoan”, con dao “mác mịt hay pạ”. Người Thái ở đây nói rìu “mác khoan”, con dao “mác mít”... Tuy nhiên, giọng nói thường nhẹ, ngân dài[ ]. Về xưng hô: Vùng mường Mìn, mường Xia phân theo các dòng họ và chức danh dòng tộc để xưng hô: Dòng dõi tạo mường gọi cha [bố] là “ống”, Dòng dõi tạo quán gọi bố là “chá” Dòng dõi các họ dân gọi bố là “ái” Các dòng họ đều gọi chung mẹ là “ệ” Các dòng họ đều gọi chung ông nội là “pu” Các dòng họ đều gọi chung bà nội là “ệ áu” hoặc “ệ héo” Các dòng họ đều gọi chung ông ngoại là “ộng” Các dòng họ đều gọi chung bà ngoài là “ệ nài” hoặc “nài” - Vùng mường Mò, mường Sại, mường Hạ: Giọng nói nhanh, cứng hơn vùng mường Xia, mường Mìn. Về xưng hô: Dòng dõi tạo mường gọi cha [bố] là “ống” Dòng dõi tạo quán gọi bố là “chá” Dòng dõi các họ dân gọi bố là “ó” hoặc “ái” Các dòng họ đều gọi chung mẹ là “ệ” Các dòng họ đều gọi chung ông nội là “pu” Các dòng họ đều gọi chung bà nội là “áu” hoặc “ệ héo”, “ệ áu” Các dòng họ đều gọi chung ông ngoại là “ộng”, hoặc “ông ộng, chá ộng, ái ộng” Các dòng họ đều gọi chung bà ngoại là “nài” hoặc “ệ nài”. - Vùng mường Chự: Giọng nói vùng này nhanh và cứng hơn vùng mường Mò, mường Sại, mường Hạ, mường Mìn, mường Xia. Về xưng hô: Tất cả các dòng họ [tạo mường, tạo quán, dân thường] đều gọi bố là “cha” Tất cả các dòng họ gọi mẹ là “mệ” Tất cả các dòng họ đều gọi ông nội là “ống”; bà nội là “áu” hoặc “ệ áu” Tất cả các dòng họ đều gọi ông ngoại là “chá ộng” hoặc “ộng”; bà ngoại là “nai” hoặc “mệ nai”. Tất cả các dòng họ của các mường [các xã] ở Quan Sơn đều gọi anh của bố là “lung” hoặc “chá lung, ông lung, ái lung”; chị của bố là “pá” hoặc “ệ pá, mệ pá”. Các em trai của bố [cả em ruột và em họ] đều được gọi là “ao”, em gái của bố [cả em ruột và em họ vùng các bản thuộc mường Ca Da] đều được gọi là “á”, các bản khác gọi là “cụa”. Tất cả các dòng họ đều gọi em ruột của mẹ [cả trai và gái] là “nạ”. Tất cả các dòng họ đều gọi em dâu của bố là “lua”, riêng các bản thuộc mường Ca Da [xã Trung Xuân] gọi là “á pợ”; em rể của bố được gọi là “ao khưới”. Về thứ tự các con của mình: Tùy theo vùng và dòng họ mà có cách xưng hô khác nhau. + Ở vùng mường Xia, mường Mìn, mường Chự, con cả là con trai dòng tạo mường, tạo quán, tạo pọng gọi là “tạo tiêu”; người thứ hai gọi là “tạo hái”; người thứ ba gọi “tạo bá”. Nếu con đầu là con gái gọi là “nàng a”, người thứ hai gọi là “nàng ót”, người thứ ba gọi là “nàng lá”, rồi đến “nàng lá tớp”, “nàng lá nọi”... Các dòng họ dân thường, gọi anh cả, chị cả là “ông” [cha ông, ới ông], người thứ hai gọi là “cang”, người thứ ba gọi là “ót”, người thứ tư trở đi gọi là “lá”. Dòng họ tạo kiêng đặt bí danh Tạo Ót, Nàng Cang do hai người thứ này đều bị cọp [hổ] bắt ăn thịt. + Ở mường Mò, mường Sại, mường Hạ, dòng họ tạo gọi anh cả là “hiến” - “tạo hiến”, anh hai là “tiêu” - “tạo tiêu”; anh thứ ba trở đi gọi là “tạo lá” [lá tớp, lá nọi]. Đồng thời cũng kiêng đặt tên Tạo Ót, Nàng Cang như các mường khác ở Quan Sơn. Còn các họ dân thường thì con trai con gái cả gọi là “ông”; con thứ hai gọi là “cang”, con thứ ba gọi là “ót”, từ con thứ tư thì gọi là “lá” [lá tớp, lá nọi]. Riêng tạo mường Mìn, anh hay chị nhưng sinh con sau em thì con của mình vẫn là em. Dù là em nhưng sinh con trước thì người con của em vẫn là anh hoặc chị của con bác [Cùng cành ai thấy mặt trời trước thì làm anh chị][ ].
  2. Chữ viết Bên cạnh chữ Thái Tây Bắc, người Thái ở Quan Sơn chủ yếu sử dụng chữ Thái cổ Thanh Hóa. Đây là kết quả nghiên cứu khoa học cấp tỉnh do tác giả Hà Văn Thương làm chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được UBND tỉnh Thanh Hóa phê duyệt tại Quyết định số 199/QĐ-UBTH ngày 20/01/2015. Theo đó, bộ chữ Thái cổ Thanh Hóa có 43 chữ cái [phụ âm] và 23 nguyên âm. Phong trào truyền dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Thái ở Quan Sơn đang được khơi dậy. Từ năm 2013 đến nay, mỗi năm Trường THPT Quan Sơn đều tổ chức dạy cho hàng trăm học sinh biết đọc, biết viết chữ Thái. Trên cơ sở đó, học sinh và nhiều người tâm huyết với chữ Thái ở các lứa tuổi khác nhau trên địa bàn huyện có dịp được tiếp cận với chữ Thái Thanh Hóa. Hiện nay trên địa bàn huyện Quan Sơn đang dấy lên phong trào học chữ Thái cổ và chữ Thái thống nhất do Hội Dân tộc học và Nhân học huyện phối hợp với Phòng Giáo dục và Đào tạo và các trường trên địa bàn thực hiện. Chữ Thái Thanh Hóa có nguồn gốc chung từ bộ chữ Thái hình thành trong khu vực Đông Nam Á, cách đây hàng nghìn năm. Người Thái Thanh Hóa sử dụng hai bộ chữ. Một là chữ Tày Đeng, hai là chữ Tày Dọ. Chữ Tày Dọ tương tự như chữ người Tày Dọ ở Phủ Quỳ [Nghệ An] và chỉ có người Tày Dọ ở Trịnh Vạn sử dụng. Chữ Tày Đeng phổ biến ở tất cả các vùng người Thái ở Thanh Hóa, kể cả trong vùng người Tày Dọ. Do vậy, có thể xem chữ Tày Đeng đại diện cho chữ Thái vùng Thanh Hóa. Chữ Thái Thanh Hóa và các bộ chữ Thái ở Tây Bắc đều mang đặc điểm chung của chữ Thái cổ là loại chữ ghi âm, ghép vần, dùng chữ thay dấu thanh, nét chữ uốn cong, đuôi dài mềm mại, viết theo hàng ngang, từ trái sang phải. So với chữ Thái Đen, đã được dùng làm chữ Thái chung khu vực Tây Bắc, thì chữ Thái Thanh Hóa còn giữ được đặc trưng chữ Thái cổ là chữ cái mang tính hình tượng. Chữ Thái Thanh Hóa còn chú ý tuân thủ các quy tắc ban đầu như: hình dạng chữ cái giống như hình ảnh cách điệu của sự vật hiện tượng cùng tên. Ví dụ: mai ca lấy hình tượng con quạ, mai kia lấy hình tượng con dơi, tô to lấy hình tượng con vật chuẩn bị tư thế húc nhau, tô xo giống hình người ngửa tay xin... Đặc điểm này giúp cho người học dễ nhớ vì gắn với tư duy hình tượng, người viết không phóng tay lệch xa quy ước ban đầu. Mặt khác chữ cái ghi một âm có quy tắc kết hợp với tên gọi, có giá trị ghép vần như chữ Quốc ngữ. Nhìn vào hình thức, chữ Thái Thanh Hóa vừa mang tính tượng hình vừa tượng thanh. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bất cứ ở mường nào của người Thái ở Thanh Hóa cũng đều có nhiều người thông thạo chữ Thái và lưu giữ các loại sách viết tay trên giấy bản. Kiểu chữ Thái Thanh Hóa hiện nay vẫn phải ghi chép bằng tay trên giấy. Khi viết, đặt nét bút từ bên trái kéo sang phải theo chiều quay của kim đồng hồ. Chữ viết liền, không cách âm tiết, chữ đuôi dài, mềm mại, kết hợp với các ký tự hoa mỹ, tạo ra trang viết như một tấm thảm thêu dệt hoa văn. Trong khi đó, ở Tây Bắc, những quy tắc này không còn được quan tâm nhiều, chỉ tập trung vào việc sử dụng làm công cụ ghi chép tiếng nói. Trong thực tế, chữ Thái được truyền dạy chủ yếu theo phương pháp dân gian, ai biết thì dạy, ai thích thì học. Người ta cũng khuyến khích, đề cao giá trị của chữ nghĩa. Tục ngữ có câu: “Tháu xứ nắng nứa, tháu phứa tháy nắng tớ.” [Nghĩa là: Già chữ nghĩa ngồi trên, già cày bừa ngồi dưới]; “Bau hụ xứ, khoăn lóc bau pên xư có bau hụ” [Nghĩa là: Không biết chữ, bản thân mình hư cũng không tự biết]. Xưa kia, bản nào của người Thái cũng có người biết chữ Thái. Thậm chí, trong các mường, còn có người làm nghề viết chuyên nghiệp gọi là tư xư, người làm thư ký cho tạo hoặc lý trưởng, chánh tổng gọi là tư chía. Cả người Mường ở mường Mìn cũng học và dùng chữ Thái, bởi vì chính quyền thời Pháp thuộc tuyển chọn công chức yêu cầu phải biết chữ Thái. Chữ Thái được sử dụng rộng rãi, vì nó mang tính khoa học và tiện ích. Chữ Thái mà người Thái ở Quan Sơn dùng là bộ chữ Thái Thanh Hóa [còn có thể gọi là chữ Thái Tày Đanh]. Bộ chữ này có các đặc điểm chính như sau: Mang đặc điểm chung của chữ Thái Việt Nam. Đó là loại chữ ghi âm, ghép vần [tượng thanh]. Bộ chữ cái gồm có tô và mai. Tô là phụ âm. Mai là nguyên âm và vần. Chữ viết hàng ngang, từ trái sang phải, viết liền, không cách âm tiết. Nét chữ cong, uốn lượn, đuôi dài, trông như hình hoa văn, cho nên người Thái gọi chữ là lai. Lai nghĩa là hoa văn. Sau này nói rõ hơn là lai xư. Dùng chữ thay dấu thanh. Mỗi phụ âm dùng hai chữ cái để ghi. Một chữ ghi thanh thấp, một chữ ghi thanh cao. Hình dạng chữ cái và tên gọi chữ mang tính hình tượng. Khi viết đặt nét bút từ trái kéo sang phải theo chiều quấn dây cù [chiều kim đồng hồ]; đuôi chữ dài, ôm lấy các chữ khác trong âm tiết; hình dạng con chữ giống hình tượng của sự vật hiện tượng cùng tên. Văn bản chữ Thái ở Quan Sơn: Văn bản chữ Thái ở Quan Sơn viết trên giấy dó còn lưu lại gồm nhiều loại, như: ghi chép lịch sử gia đình, dòng họ, bản mường. Bên cạnh đó là các văn tự vay mượn, cầm cố đất đai, ghi chép địa giới bản mường, nhân khẩu, ruộng đất, kê biên các khoản đóng góp, biên bản cam kết, thư từ, trình tấu... Về sách chữ Thái ở Quan Sơn, có ba loại sách được nhân bản nhiều nhất là thơ trữ tình, truyện thơ và các bài mo. Thơ trữ tình [xư bặc] có nhiều thể dạng, bày tỏ trực tiếp tình cảm của tác giả, trong đó có xư pói nhan [dạng viết thư], xắng chụ [tiễn dặn người yêu]. Truyện thơ có ba loại chính, bao gồm: truyện thơ Thái cổ, truyện thơ dịch và truyện thơ sáng tác. Truyện thơ Thái cổ phổ biến ở Quan Sơn là các tác phẩm: U Thềm, Xi Thuần, Tạo Khun Lù Nàng Úa Tiềm. Truyện thơ sáng tác theo cốt truyện của Trung Hoa như: Xư Thánh [cốt truyện Tam quốc diễn nghĩa], Xan Lương [cốt truyện Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài]. Dịch truyện Nôm khuyết danh của người Việt ra thơ Thái, gồm có: Chàng Nguyên [Tống Trân - Cúc Hoa], Chàng Cung [Phạm Công - Cúc Hoa], Chàng Tư [Hoàng Trìu]. Truyện thơ sáng tác gắn với cốt truyện của địa phương, tiêu biểu là Tư Mã Hai Đào, truyện Pha Dùa. Sách mo có tên là Xư khoam gồm có các loại mo đám tang [khoảng 30 bài], các bài tế thần, cúng cơm mới, cầu vía, bùa chú, xem ngày giờ, số tử vi... Điều đặc biệt trong các sách mo ở Quan Sơn [bản của cụ Phạm Xuân Liêm ở bản Nhài, xã Sơn Điện, bản của ông Phạm Bá Thược ở mường Mìn và một số bản khác còn lưu giữ] đều có dấu [triện] và chữ kí của quan bản và chính quyền. Theo cụ Phạm Xuân Liêm, ở Quan Sơn các thầy mo thời phong kiến muốn mo cho người chết chỉ được mo những văn bản có chữ kí xác nhận và dấu triện của chính quyền các cấp. Nhìn chung, văn bản chữ Thái ở Quan Sơn bị tiêu hủy và mất mát nhiều vào nửa cuối thế kỷ XX. Lý do chủ yếu là do nhận thức chưa đúng về di sản văn hóa nên cho rằng, sách vở cũ là tàn tích phong kiến và mê tín dị đoan. Mặt khác, do không duy trì việc dạy và học chữ Thái, chỉ còn ít người đọc được, viết được, nên sách chữ Thái ít được sử dụng phổ thông. Vì vậy, người ta có thể chôn theo người chết hoặc dùng để gói thuốc lào... Những nơi người ta truyền tụng là nhiều sách như nhà lang đạo, chức sắc cũ, những người hâm mộ văn học hầu như không còn giữ được sách cổ. Từ năm 1996, một số người đã sưu tầm được văn bản cổ ở các vùng mường Mìn và mường Xia, những văn bản này chủ yếu đang nằm ở một số gia đình nhà thầy cúng, thầy mo, gia đình người giúp việc nhà tạo. Có một số gia đình còn giữ được trên một chục đầu sách như nhà ông Phạm Xuân Liêm ở bản Nhài, Sơn Điện, nhà ông Phạm Bá Thược ở mường Mìn... Ngoài ra, còn các văn bản hiện nằm rải rác các nơi, trong các gia đình, các nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc, Bảo tàng tổng hợp Thanh Hóa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, trong các sách của thầy mo, thầy cúng, thông qua các bài mo ma, làm vía, khặp một, khặp mùn, thờ thần, cúng khấn,... Những văn bản này, chứa đựng nhiều kiến thức văn học, lịch sử, địa lý... Sách ghi chép về kiến thức, gọi là xư khoam, gồm có các loại giống trồng trên nương rẫy, chọn giống trâu bò, các loại thuốc Nam... Có thể nói rằng, sách chữ Thái cổ ở Quan Sơn đã từng có thời kỳ phát triển và có giá trị nhất định chi phối đời sống tinh thần, vật chất của cộng đồng dân cư. Đó là một di sản cần được tiếp tục sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, khái thác và phát huy các giá trị tích cực. 6.1.5.2. Phong tục, tập quán
  3. Phong tục vòng đời Phong tục vòng đời là các nghi lễ, nghi thức diễn ra liên quan, gắn liền với vòng quay cuộc đời của mỗi con người. Chu trình này bắt đầu từ khi con người sinh ra và kết thúc bằng cái chết [dù đó là lý do gì]. Người Việt [người Kinh] nói chung, người Thái, người Mường và một số dân tộc khác còn lưu giữ và thực hành khá nhiều những phong tục tập quán liên quan đến chu kỳ vòng đời người. Có thể chia các phong tục, tập quán này thành các nhóm sau: * Các phong tục, tập quán liên quan đến việc mang thai và sinh đẻ Cũng giống như phụ nữ các dân tộc khác, việc sinh đẻ của người phụ nữ dân tộc Thái ở Quan Sơn cũng theo đúng với quy luật phát sinh - phát triển của tự nhiên, nhưng nó lại gắn với rất nhiều những phong tục, tập quán tích cực có và hạn chế, lạc hậu cũng không phải là ít[ ]. Đối với họ, mỗi đứa trẻ ra đời là một sự kiện trọng đại không chỉ của một gia đình mà còn là niềm vui của cả dòng họ. Sự ra đời của đứa trẻ, nhất là trẻ trai sẽ đáp ứng mong muốn của họ về việc nối dõi tông đường và tăng thêm số người trong họ tộc. Người Thái ở đây quan niệm “đông con lắm phúc, nhiều lộc”; cặp vợ chồng nào không sinh được con thì bị coi là vô phúc, là do kiếp trước ăn ở không tốt hay đã phạm vào điều cấm kị nào đó. Quan niệm này của người Thái cũng là quan niệm chung của đa số các dân tộc mưu sinh bằng nghề nông nghiệp truyền thống, có nhu cầu cao về sức lao động của mỗi gia đình. Tuy nhiên trong thời gian gần đây dưới tác động của sự phát triển giáo dục dân số, cùng với công tác tuyên truyền về kế hoạch hóa gia đình, người Thái đã có những nhận thức tốt về việc sinh con thứ ba, tình trạng sinh nhiều con đã giảm rõ rệt so với trước đây. Ngoài ra, đời sống ngày một nâng cao, nhu cầu hưởng thụ, học tập và tham gia các công tác xã hội cũng như phát triển cá nhân, gia đình, tương lai ngày càng lớn cũng là nguyên nhân làm giảm tỉ lệ sinh trong cộng đồng người Thái ở Quan Sơn. Bước đầu họ đã có được những thay đổi về ý thức chăm sóc và nuôi dạy con, đặc biệt là đầu tư cho chăm lo sức khỏe và việc giáo dục con cái. Một số kiêng kỵ của người phụ nữ Thái khi mang thai: Trong quá trình mang thai, người mẹ luôn luôn thận trọng giữ gìn, tránh mọi sự tác động có hại cho sức khỏe và tình cảm ảnh hưởng đến thai nhi. Chẳng hạn không mang vác nặng, không đi đưa đám, không xem mổ trâu mổ bò, tránh nghe những chuyện hãi hùng, không chọc tiết súc vật, không đội lá xanh lên đầu, tránh cáu gắt, nói tục... Nơi sinh đẻ và ở cữ: Ngày nay do sự phát triển về mọi mặt, trong đó có nhận thức về sức khỏe cũng như kinh tế, đa số phụ nữ của các dân tộc cũng như phụ nữ Thái thường đến các cơ sở y tế để sinh con. Tuy nhiên trước đây còn một bộ phận nhỏ những gia đình không đưa sản phụ đến các cơ sở y tế khi đau đẻ. Một phần nguyên nhân là do điều kiện kinh tế của một số gia đình còn khó khăn, mặt khác do đường sá ở miền núi còn quá khó khăn. Nhưng một phần đáng kể trong nguyên nhân của việc sinh con tại nhà là do thói quen và tập quán của đồng bào, trong đó có đồng bào dân tộc Thái ở Quan Sơn. Theo tập quán của người Thái, khi phụ nữ sắp sinh sẽ được gia đình chuyển đến ở gian bếp. Việc sinh đẻ được thực hiện ngay ở gian bếp này. Bà con giải thích rằng, họ kiêng đẻ ở nhà trên vì sợ máu đẻ bẩn làm ô uế bàn thờ tổ tiên, sẽ gây điều xấu cho gia đình và gia đình đó sẽ làm ăn không được may mắn. Mặt khác, việc sinh ngay cạnh bếp lửa sẽ giúp cho sản phụ cũng như đứa trẻ được sưởi ấm ngay sau cuộc vượt cạn. Nhưng quan trọng hơn cả là do quan niệm của người Thái, lửa sẽ giúp xua đuổi những ma quỷ có thể đến làm hại sinh linh bé nhỏ vừa ra đời. Cũng theo phong tục của người Thái, phụ nữ sau khi sinh nở được “mẹ tròn con vuông” phải nằm bên bếp lửa 4 - 5 ngày, sau đó mới được gọi là “tạm sạch sẽ”, mới được chuyển lên nằm buồng cũ của hai vợ chồng, nhưng ban ngày vẫn phải xuống ngồi sưởi bên bếp lửa cho hết một tháng. Chuẩn bị chỗ nằm cho sản phụ và bếp sưởi: Khi trong nhà có người chuẩn bị đẻ, người nhà kê sạp, trải đệm, chuẩn bị gối kê đầu, chăn đắp và để hai sọt mới phía cuối giường, một sọt để đựng tả sạch cho trẻ, một sọt để tả bẩn. Người chồng mang củi to vào nhóm lửa ở bếp sản phụ [bếp đã được chuẩn bị trước]. Chồng không phải đi làm gì ngoài việc chăm lo cho vợ ăn uống, đun nước thuốc cho vợ tắm. Sau khi đẻ xong, sản phụ được vệ sinh sạch sẽ, rồi được các bà trong nhà dìu đến ngồi cạnh bếp lửa. Việc ngồi hơ lửa sẽ có tác dụng làm cho máu bẩn dồn xuống và ra hết, như thế mới mau “sạch người”. Người Thái cho rằng nếu để sản phụ vào nằm ngay thì sẽ không được tốt vì máu sẽ dồn lên phía đầu, sẽ đau đầu và choáng, máu bẩn sẽ lâu sạch. Khi sản phụ ngồi vào ghế rồi, trước tiên là cho sản phụ uống bát nước lá cây thuốc “phang” nóng, vừa uống vừa thổi [pấu sọt] để chóng lấy lại sức. Khi nằm, phải chú ý cho đầu sản phụ và cả đứa bé đều quay vào hướng trong nhà, chân quay ra ngoài cửa. Sản phụ chủ yếu ngồi ghế mây [tắng căm bươn], trên mặt ghế lót váy cũ, dưới gầm ghế cho than nóng, lá thuốc phủ lên trên than để hơi thuốc bốc lên tỏa vào người sản phụ. Từ trên cao lấy khăn piêu buộc thành dây thả thẳng xuống chỗ ngồi để sản phụ vịn giữ khi ngồi cho thăng bằng. Ngồi mỏi lại vào nằm, nhưng dù nằm hay ngồi vẫn phải quay lưng để hơ lửa, sưởi cho ấm đều khắp người, kết hợp xông lá thuốc và uống nước thuốc để khí huyết lưu thông, nhanh chóng bình phục sức khỏe. Đặc biệt phải chú ý, bếp lửa của sản phụ không được ai giẫm lên, nhất là khi đang sắc thuốc. Khi đứa con ra đời được đón mừng bằng cuộc ở cữ [con trai 5 ngày, con gái 3 ngày] cạnh bếp lửa bên trong. Suốt thời gian ở cữ người ta làm rất nhiều cơm lam mừng bé. Một tục lệ rất đẹp là các gia đình trong bản ai cũng mang cho mấy bát gạo nếp chọn làm cơm lam và ai đã đến cũng đều ăn ít cơm lam mừng bé. Điều này mang ý nghĩa: bé mới là chủ những ống cơm lam, có được nhiều người ăn, sau này bé lớn lên mới có lòng rộng mở, bao dung, yêu quý mọi người. Các cô gái trong bản đến chơi vui giúp đun củi lửa và đốt những ống cơm lam ăn uống vui vẻ. Người ta mang ra đặt đầu nằm cữ bên bếp lửa của mẹ con những hòm, bem trong đó đựng các loại thổ cẩm, vải, tơ, khăn piêu, mặt gối... và các quyển sách hát. Đêm nào người bố cũng đem sách ra bên bếp ngâm ngợi tận khuya. Người Thái quan niệm làm như thế, bé lớn lên mới siêng làm, giỏi các nghề canh cửi, thêu thùa và khôn ngoan, giỏi hát... Đặc biệt, khi làm cơm, phải chọn những ống đều đặn, tiện hai đầu thật bằng, bởi có làm những ống cơm lam xinh xắn thì bé lớn lên mới xinh đẹp. Các vỏ ống cơm lam được giữ lại tất cả. Sau khi mãn cữ, người bố xếp các vỏ ống cơm lam cùng đít miệng, bó chặt, mang đi mắc trên chạc cây nào đó cạnh đường, quay miệng ra phía ngoài bản. Nhiều người qua đường nhìn thấy vỏ ống cơm lam thì bé lớn lên đời mới sáng sủa, được thiên hạ yêu mến. Miệng ống quay ra ngoài để tiếng nói của bé được vang xa, được nhiều người gần xa ưa thích lắng nghe. Ăn uống của sản phụ: Trong hai ngày đầu, sản phụ chủ yếu ăn cơm lam chấm muối và uống nước thuốc. Đến ngày thứ ba sản phụ mới được ăn thêm xôi nếp [khẩu nửng]. Thức ăn của sản phụ chủ yếu là rau rừng, vả, sung, rau ngót, rau mần trầu, và tất cả các loại rau có hoa màu trắng để giải nhiệt, không hại bụng [pay tọng], lại cho nhiều sữa. Ăn cá thì chủ yếu ăn cá trôi, pa mọm, pa khính... riêng cá mè, cá chép không được ăn vì có chất tanh. Ăn thịt lợn thì chỉ ăn thịt nạc của lợn đực [đã thiến]. Tất cả các loại thịt và cá cho sản phụ ăn đều được xát ít muối, sấy khô, khi ăn đem ra rửa rồi cho vào gắp tre nướng kĩ [pỉng sang] cho thơm, hay là hấp trên chõ xôi sau đó cho vào gắp tre nướng cho thơm. Ăn gà thì phải bỏ hết ruột, đập củ gừng và một nhánh nghệ [hản pháy], thêm một chén rượu, cho ít muối rồi hầm nhừ, khi ăn bỏ da, ăn nóng. Tóm lại, thức ăn, đồ uống có liên quan trực tiếp đến sữa mẹ và ảnh hưởng tốt hay xấu đến đứa con nên người mẹ ăn, uống hết sức cẩn thận. Những kiêng kỵ thời kì sản phụ ở cữ: Tháng sản phụ ở cữ còn gọi là bươn phày [tháng lửa] hay cằm bươn [tháng kiêng]. Tháng này sản phụ chưa được sạch sẽ, người còn yếu [khình ón] nên phải kiêng một số thứ như: không được đi lại phía gian có bàn thờ [cọ lọ hóng[3]], chỉ được đi lại và sinh hoạt từ phạm vi ở cữ hất về phía chán [gian ngoài phơi phóng]; không đến nhà người khác, kể cả nhà bố mẹ đẻ, anh chị em ruột thịt; không được sinh hoạt chung với gia đình: ăn uống riêng, dùng ghế riêng, chậu giặt riêng, sào phơi tả lót, váy áo riêng. Đặc biệt ghế ngồi của sản phụ khi hết ở cữ không ngồi nữa thì phải cất hoặc vứt đi, sợ khách, nhất là khách đàn ông ngồi phải [vì đây là ghế bẩn]. Mọi người phải kiêng không được đi qua nơi sản phụ ngồi sưởi. Nếu ai không biết mà phạm phải điều kiêng kỵ này sẽ làm cho đứa trẻ khóc hờn không chịu bú. Phụ nữ mang thai và ở cữ không được với cao, sợ tụt dây tia sữa [lụt xai nồm] ảnh hưởng đến thai nhi và sức khỏe người mẹ. Sản phụ đang ở cữ đang ngồi nếu muốn đứng lên phải từ từ, nhẹ nhàng, kể cả đi lại quanh chỗ ở cữ cũng thế, vì cơ thể người phụ nữ lúc mới đẻ còn rất yếu, không cẩn thận sẽ bị sa dạ con. Chưa đầy tháng sản phụ tuyệt đối không được sàng, sảy gạo, thóc vì khi làm những việc này toàn thân phải vận động khiến người phụ nữ mới đẻ dễ bị băng huyết. Một số loại lá, cây thuốc như: bậu chạp; lá sả thơm; lá cản đíp cản đók; lá dọng dạnh, lá lẹ; lá bók chúc; lá mớt é; lá en chứa, cây xét lấu; lá cây chó đẻ... được dùng để nấu nước tắm cho sản phụ cũng như bé mới sinh giúp cho cơ thể sản phụ mau chóng được hồi phục khỏe lại, cơ thể cứng cáp [kinh khanh], giúp cho tinh thần được sảng khoái, vết thương mau lành, đồng thời chữa trị và chống lại được rất nhiều loại bệnh ngoài da thường gặp. Các loại cây như: cây phang; cây sản chứa; chứa núm tổ [dây sữa đặc]; hứa xảy tăn; cây lưu sại; cây lấu phạ; dây náng đết; cây phả nọi; cây ta xâng, rễ cỏ mần trầu; cây mía đen; cây vông [lá xanh]... được người Thái kết hợp với một số vị thuốc sắc thành nước uống cho sản phụ, có tác dụng giúp cơ thể mau chóng bình phục, lại sức nhanh, da dẻ hồng hào, đồng thời còn giúp sản phụ lợi sữa, có nhiều sữa hơn và chất lượng sữa thơm ngon hơn. Tuy nhiên, theo người Thái, vị thuốc quý và bổ nhất sử dụng cho sản phụ chính là dạ dày nhím. Vị thuốc dạ dày nhím bất cứ sản phụ nào cũng nên dùng bởi nó có thể phòng tránh được nhiều bệnh đường ruột cho đứa bé và tốt cho sức khỏe của người mẹ sau khi sinh. Họ giải thích rằng loài nhím sống trong rừng ăn những thức ăn là các loại củ, quả và các loại rễ cây rừng nên dạ dày tích tụ rất nhiều vị thuốc nam tổng hợp có giá trị cao. Nó giúp cho cơ thể phụ nữ mau chóng khỏe mạnh và ăn khỏe, ngon miệng lại làm tăng chất dinh dưỡng trong sữa. Sản phụ sinh con lần đầu càng nên uống vị thuốc này để cơ thể mau chóng bình phục. Chăm sóc trẻ sơ sinh: Ngay khi đứa bé lọt lòng [tộc phạk] bà đỡ phải nhanh chóng dùng ngón tay “móc miệng” - cho tay vào lấy chất nhờn trong miệng của bé ra. Sau đó lại nhanh tay cắt rốn cho bé, lấy chỉ buộc thật chặt rốn chỗ cách bụng trẻ hai đốt ngón tay, rồi lấy thanh cật nứa đã được vót sắc hơ lửa hay nhúng vào nước sôi để cắt rốn [họ cho rằng nứa không gây nhiễm trùng, cho đến mãi sau này họ mới biết dùng kéo cắt rốn.] Sau khi cắt rốn, bà đỡ lấy nước ấm lau cho trẻ sạch sẽ rồi mới đưa cho bà đón trẻ [me hặp]. Bà đón quấn tã cẩn thận cho bé rồi đặt bé nằm vào một cái mẹt đặt vào trong nhà, cạnh cửa phía chán. [Việc đặt cho trẻ nằm vào mẹt có ý nghĩa mong cho đứa trẻ sẽ mau khôn lớn, sống lâu, thông minh và thọ đến lúc lưng cong “cái mẹt” như các cụ ông, cụ bà]. Để đầu đứa bé nằm quay ra hướng ngoài cửa, chân quay vào trong nhà. Người Thái ở đây quan niệm, nhau trong bụng mẹ chưa ra thì việc xấu vẫn có thể xảy ra đe dọa đến tính mạng sản phụ. Đặt bé nằm như vậy có nghĩa là bé lọt lòng chân vẫn quay về hướng mẹ để đợi nhau thai trong bụng mẹ ra hết. Mặt khác còn là để ma nhà nhận biết và cầu mong tổ tiên phù hộ cho người mẹ thoát khỏi tai ương. Sau khi nhau thai đã ra hết bà đỡ gọi bà đón xoay cái mẹt để đầu đứa bé quay vào trong nhà, chân quay ra cửa với ý báo cho ma nhà, tổ tiên biết là sản phụ đã sinh nở “mẹ tròn con vuông”, mọi việc tốt đẹp. Thường trong hai ngày đầu người mẹ chưa có sữa nên phải mượn vú nuôi cho trẻ bú. Người vú nuôi là chị em trong nhà và cũng có thể là người trong bản đang có con nhỏ, sữa không tanh, con cái cứng cáp khỏe mạnh. Khi đưa đứa trẻ vào đặt nằm cạnh mẹ bên bếp lửa, bà nội sẽ phải đọc to bài bùa mang tính chất giáo huấn, dạy bảo con cái ngay từ thưở lọt lòng những điều hay lẽ phải và đạo đức làm người để sau này lớn lên trở thành người có ích cho gia đình, làng bản và xã hội. Đối với trẻ trai thì bà nội lấy chân chài và chuôi kiếm đi đến đầu giường bé ngủ; tay cầm chuôi kiếm, chân bà đạp mạnh xuống sàn và đọc to bài bùa ý dạy cháu phải biết lo việc lớn, làm những việc của đàn ông và làm sao cho được bằng anh bằng em, đại ý là: Dậy thật sớm và phải chăm chỉ/ Dậy để làm tạo làm quan/ Đi gần được bạc trắng, đi xa được bạc thẻ/ Đi loanh quanh được bạc lạng/ Muốn biết bản mường làm gì phải lo học phai hiên/ Lo nhìn cho bằng anh bằng em. Còn đối với trẻ gái thì bà đọc một bài bùa ý dạy cháu gái phải biết làm và lo lắng những công việc của người phụ nữ, muốn có phải làm và muốn có thì phải siêng năng, cần cù, chăm lo công việc gia đình, đại ý là: Dậy sớm chăm chỉ mà đi rẫy đi ruộng trước cô, trước cha và mẹ/ Đi rẫy mà lấy củi, đi ruộng mà lấy thóc, lấy ngô/ Việc ruộng rẫy đừng lười nhác/ Việc khâu vá không ai làm thay được/ Muốn được phải làm/ Muốn có phải siêng năng. Cách gội đầu cho trẻ sơ sinh: Đối với trẻ sơ sinh, người Thái luôn sử dụng các loại lá thuốc Nam có sẵn trong rừng đun sôi để nguội để gội đầu cho trẻ. Trong lúc tắm gội cho con, bà mẹ bao giờ cũng đọc thành bài có nội dung gạt bỏ những xấu xa bẩn thỉu, hôi tanh cho con mau lớn khôn: Gội nước gạo gạt bỏ điều xấu/ Nước hương để xóa bỏ đi những hôi tanh dính ở trên đầu/ Gạt bỏ những điều xấu xa, bẩn thỉu/ Để con mau lớn, mau khôn. Tắm gội xong, mẹ lấy tã lót quấn vào cho bé rồi lấy lược chải đầu, vừa chải lại vừa hát cho con nghe những bài hát ru quen thuộc của dân tộc mình. Đánh dấu vào trán trẻ: Lấy miếng trầu cau giã thật kĩ rồi vắt lấy nước [có màu đỏ] vào một cái đĩa; lấy lạt nhỏ dài bằng ba ngón tay, bẻ gấp chiếc lạt đó thành hai khúc bằng nhau, nhúng vào nước trầu cau rồi đánh dấu vào trán trẻ hai nét tạo thành hình chữ V. Người Thái quan niệm rằng việc đánh dấu đỏ vào trán đứa trẻ thể hiện cái phúc của hai vợ chồng, đồng thời để ghi nhớ cái ngày sinh con vất vả và một tháng ở cữ bên bếp lửa. Ngoài ra đánh dấu vào trán trẻ để mọi người khi nhìn vào trán trẻ như luôn thấy ánh lên ánh hào quang, sau này khi lớn lên sẽ có nhiều người để ý đến. Tục cắm ta leo: Từ lúc trong gia đình có người sinh nở, người Thái cắm ta leo. Ta leo do ông nội, ông ngoại đứa bé làm. Có các loại ta leo như sau: - Ta leo một lớp cài thêm lá từ bi người Thái buộc vào cầu thang phía chán nhằm xua đuổi, ngăn chặn không cho ma quỷ và vía khách lạ vào quấy rối và làm hại đến sản phụ và đứa trẻ. - Ta leo gồm chín lớp được đan trùng lên nhau, cài thêm lá từ bi buộc trên phía chán để ma không dám vào nhà. - Ta leo chín lớp cài lá từ bi buộc thêm tờ giấy, cái bút, vải vụn xanh đỏ, kim, chỉ thành một chùm rồi buộc vào chỗ đầu dây thòng lọng phía trên, chỗ sản phụ ngồi hơ lửa. Ta leo dùng để chặn ma quỷ, còn sách, bút, kim, chỉ, vải vụn xanh đỏ để cầu mong cho con cái thông minh, giỏi giang mọi công việc: Là con gái phải thông thạo dệt cửi thêu thùa/ Là con trai viết chữ vào bàn tay nắm chặt. Ngay từ ngày đầu sinh ra đứa trẻ đã được bố viết vào lòng bàn tay những nét chữ với ý nghĩa mong con lớn lên được bản mường chú ý, học hành chăm chỉ, thông minh, thành đạt. Nội dung bài bùa cắm ta leo đại ý là: Cắm ta leo, nếu ma muốn qua thành hố hay định nhảy xuống vực, hoặc thò chân xuống mắc ta đâm, ta leo chọc, lời ta chặn, mồm ta thiêng. Lễ rời bếp lửa: Sản phụ sau 5, 6 ngày ăn, nằm, sinh hoạt cạnh bếp lửa nay được rời bếp lửa. Người Thái quan niệm chỗ nào cũng có thần linh cai quản và phù trợ cho mình, do vậy trước khi rời bếp lửa, sản phụ làm mâm lễ nhỏ để tạ ơn. Lễ nơi đẻ: Lấy đĩa rau đồ, ống cơm lam, ống nước thuốc cho vào một cái mâm nhỏ đến nơi đẻ làm lễ rồi đọc bài xướng lễ [trích]: Hôm nay có nước thuốc, cơm lam đến biếu ông, biếu bà/ Ông bà ăn xong hãy bay lên tận trời cao, bay đến mây mù/ Hãy phù hộ cho bé nhỏ chóng lớn khôn thành quả không héo, thành cây thành bụi không lụi/ Cho thành người mường bản cùng biết/ Để có tiếng mường bản cùng hay. Lễ nơi bếp sản phụ: Lấy một đĩa rau, một ống nước thuốc, một ống cơm lam cho vào mâm đặt xuống góc bếp sản phụ làm lễ rồi đọc bài xướng lễ, đại ý là: Bây giờ ta không kiêng được nữa/ Bốn năm ngày ta sẽ lên ngủ trên gác trên sạp/ Bây giờ ta có mâm lễ nhỏ đến biếu/ Ăn xong hãy phù hộ cho bé luôn ngủ ngon nơi gối/ Luôn ngủ say nơi đệm/ Đừng phật ý giận hờn. Cúng vía võng, vía địu: Ngay sau khi sản phụ sinh nở được mẹ tròn con vuông, ông nội, ông ngoại chuẩn bị võng tre, còn địu đã được chuẩn bị từ trước để đón bé nằm “võng ru địu cõng”. Song, trước khi cho bé tiếp xúc với võng, với địu [nơi mới lạ chưa quen], người Thái thường làm thủ tục cúng vía võng, vía địu cầu mong sự tốt lành để bé khỏe, bé ngoan, không khóc, không hờn, không giật mình... Cách thức làm như sau: Cho cái địu và bé nằm vào trong võng. Lấy nắm xôi, một quả trứng gà luộc bóc vỏ, một con cá nướng, tất cả cho vào một cái mâm con đưa đến cạnh võng làm lễ. Bài ca xướng lễ có nội dung như sau: Bé nhỏ mới sinh/ Trai nhỏ mới lọt/ Bé vừa được ngày cữ qua đi đưa bé vào nằm võng/ Dây võng chắc đu đưa cho bé ngủ đừng để bé rơi rừng tranh rừng già/ Để người mường bản cùng biết cùng hay. Từ nay trở đi ngoài nằm cạnh mẹ, bé còn được nằm trong nôi ru ngủ. Câu hát, câu ru thiết tha, tình cảm lắng đọng vào giấc ngủ cho đến khi đứa trẻ 2 - 3 tuổi. Lớn lên mỗi khi xa nhà, nhớ đến mẹ, nhớ đến quê hương là nhớ đến tiếng ru. Cúng ma nhà: Đây là lễ tạ lỗi với tổ tiên [phi hườn] vì thời gian qua trong gia đình đã xảy ra những chuyện bất thường làm ồn ào ảnh hưởng đến tổ tiên. Lễ này làm vừa phải và đơn giản, lễ vật gồm: một con lợn mổ luộc, một chai rượu, đĩa trầu cau, hai gói xôi và ít hoa quả dâng lên nơi thờ tổ tiên [cọ lọ hóng]. Lễ tụ hồn cho sản phụ: Đây là lễ mừng cho sản phụ thoát khỏi giai đoạn hiểm nghèo. Ngày xưa chưa có y, bác sĩ nên người phụ nữ sinh đẻ được ví như đi đánh trận, việc sống chết phó mặc cho số phận. Chỗ dựa đáng tin cậy nhất để họ vượt qua giai đoạn này chính là các ông mo, bà mo. Vì vậy khi đã mẹ tròn con vuông khỏe mạnh, vững vàng, thầy mo sẽ gọi hồn lạc bốn phương trở về. Để mừng các hồn của sản phụ đã quay trở về, gia đình làm lễ “nhập hồn, gom hồn” cho sản phụ và cầu mong cho họ luôn được khỏe mạnh, làm ăn gặp nhiều may mắn. Vật làm lễ bao gồm: một con lợn, luộc chín vớt ra cắt lấy mỗi bên hai dẻ xương sườn, 1/3 ruột non làm sạch rồi kẹp tre nướng cho thơm. Sắp mâm lễ: Lợn, sườn nướng, ruột non nướng, hai bát canh luộc thịt, hai ép khẩu [ép đựng xôi], một chai rượu... sắp xong dâng mâm lễ lên đặt ở giường ngủ của sản phụ. Sản phụ ngồi phía đầu mâm, thầy mo ngồi phía cuối mâm đối diện sản phụ, người trong gia đình ngồi cùng vào mâm để làm lễ. Cúng vía cho trẻ nhỏ: Lễ vật để cúng vía cho trẻ nhỏ rất đơn giản, chỉ gồm: một quả trứng gà luộc chín bóc vỏ, một gói xôi, một con cá nướng. Tất cả cho vào một cái mâm nhỏ đặt xuống cạnh đứa trẻ cho thầy mo cúng. Lễ đặt tên: Tên của đứa trẻ thường do bố mẹ, ông bà, cô bác quyết định và được đặt khi vừa sinh ra. Người Thái thường dùng các tên: Éng, Péng, Xêm, Khụt, Xeng... để đặt cho con. Những đứa trẻ khó nuôi thì thường được đặt tên thật xấu xí như: Khỏ, Khôm, Hít, Hây, Pê, Pa... Tên này gọi là chư nọi [tên nhỏ] dùng để gọi hằng ngày, cũng như dùng trong các văn bản giấy tờ. Ngoài ra, do ngày xưa người Thái quan niệm mỗi một con người đều do các mé Báu mé Nàng nặn ra và ban xuống, hơn nữa đứa trẻ tuy là con mình nhưng lại là cháu của các cụ, kị, tổ tiên. Để tỏ lòng biết ơn, kính trọng bề trên, cầu mong đứa trẻ lớn khôn khỏe mạnh đến đầu bạc răng long phải mời mo đến làm lễ xin mé Báu mé Nàng, tổ tiên và các then trên trời ban cho đứa trẻ cái tên và tên đó gọi là chư Một. Tên này dùng khi cúng, cầu hôn, cầu phúc, cầu sức khỏe, cầu cho con cái thành đạt hạnh phúc. Khi có họ tên đứa trẻ mới có đủ tư cách để xưng danh với tổ tiên, thiên hạ. Cũng từ đấy vía đứa trẻ mới được ăn mâm lễ gà chứ không phải trứng luộc như trước. Để mừng đứa cháu ngoại ra đời, nhân dịp lễ đặt tên ông bà ngoại cho cháu vòng bạc, địu, vải trắng [người Thái tự dệt để làm tã cho trẻ]. Thầy mo, ông bà nội ngoại, anh em, cô bác ruột lấy chỉ buộc cổ tay cho bé, buộc linh hồn bé luôn gắn với thể xác và tên tuổi của mình. Lễ vật đặt tên bao gồm: Các con vật làm lễ: Vài con dế mèn, châu chấu sống thả vào chậu nước lã trong vắt. Một con lợn; một con gà mái và một con gà trống cho vào lồng, gọi là tìm hồn. Năm con gà để thịt. * Các phong tục liên quan đến việc chăm sóc, nuôi dạy con Người Thái quan niệm gia đình như một cái cây, cha mẹ là phần gốc, con cái là phần ngọn. Gốc có vững, ngọn có sum suê thì cây mới tốt. Thành ngữ Thái có câu: “Đáy kháu hốm cọ cán công vớ puồng” [được vào bóng cây cọ cuống cong lá nhiều - ý nói là được nhờ cậy gia đình có bề thế vững vàng]. Xã hội bản mường Thái hình thành từ rất xa xưa và rất coi trọng giáo dục tự giác. Các hình thức dạy dỗ con cái phổ biến nhất là thuyết lý, giảng giải, tục ngữ Thái có câu: Tạy lúc áu tá, tạy má áu khọn [Dạy con nhìn bằng mắt, dạy chó dùng roi vọt] và đặc biệt là hướng dẫn, sử dụng trò chơi, hát đồng dao, lời ru, tục ngữ, thành ngữ, ca dao, câu đố, truyện kể dân gian, truyện thơ hoặc thông qua sinh hoạt tín ngưỡng, lễ tục như làm vía, thờ cúng ma nhà, thờ thần, tang lễ, kin chiêng, phấn chá, cưới xin... Các hình thức trên được các thế hệ cha mẹ vận dụng phù hợp với từng giai đoạn phát triển theo lứa tuổi và giới tính của trẻ. - Chăm sóc dạy bảo con trong giai đoạn trẻ thơ: Tiếng Thái gọi giai đoạn này là ”mạnh páy ín bán” nghĩa là thích đi chơi với bạn trong bản, khoảng từ 4 - 5 đến 7 - 8 tuổi. Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu thoát ra ngoài bóng che của người thân và mái nhà quen thuộc để đến với thế giới xung quanh, gồm cả thiên nhiên và con người. Mọi thứ đều mới lạ với trẻ thơ và để lại dấu ấn ban đầu rất khó phai mờ. Người Thái chú ý hình thành cho con tình bạn trong sáng, yêu điều thiện, ghét điều ác, quý mến người thân, cảnh vật xung quanh mình, tạo ra trí tưởng tượng về thế giới bao la, hình thành các tố chất: dẻo, khéo, phát triển trí tưởng tượng, trí thông minh và ngôn ngữ. Các hình thức dạy dỗ chủ yếu thời kỳ này là kết bạn, trò chơi và kể chuyện cổ tích. Điều đầu tiên cha mẹ quan tâm là tạo điều kiện để con tiếp xúc với bạn bè cùng lứa. Lúc nhỏ chưa cần phân biệt giới tính. Trong số đó, trẻ sẽ tự nhiên kết thành đôi bạn thân. Người lớn cố ý tạo ra trong con mắt trẻ thơ cái gì cũng có bạn, có đôi. Trong những đêm mùa hè trong trẻo, trên chàn [sàn phơi], đầu sàn nhà, ngồi ngắm trăng sao, ông bà, cha mẹ dạy con tập nói bi bô: Ống áng, ống áng ơi! Ống áng ời bướn đáo Xóng mé sáo tắm kháu, Xóng cha tháu lông lang cứa mú, Xóng mé ngu phắn chước, Xóng mé ngước khò lèn Tặc tén hụ pau pi, Chi hó hụ phứa nà, Mènh lá hụ phặc kdắng páy háy, Cay cúm hụ lệt phặc, Nộc vặc hụ úm lúc úm lán mưa non, Cay còn xay ná tang, Mé bang chặp húa đáy, Mènh dáy chặp xói táng, Ống áng ời bướn đáo. Dịch: Ông trăng, ông trăng ơi! Ông trăng ơi ông sao, Hai cô gái xuống sân giã gạo, Hai bà già xuống sàn cho lợn ăn, Hai con rắn bện thừng, Hai con thuồng luồng cổ vằn, Châu chấu biết thổi kèn, Dế mèn biết bừa ruộng, Cà cuống biết đeo giỏ đi rẫy, Gà cồ biết hái rau, Chim cuốc biết bế con, bế cháu về ngủ, Gà tơ đẻ trước nhà, Cầy bay đậu cầu thang, Tò vò dậu tua cây táng sao, Ông trăng, ông trăng ơi![ ]. Trong bài tập đếm trên đây, tất cả mọi vật nói đến đều có hai, nghĩa là có đôi, có bạn. Ai cũng làm việc. Bài ca có ý dạy con phải siêng năng, cần cù lao động. Các trò chơi của trẻ nhỏ thường nhẹ nhàng, diễn ra trên sàn nhà, sử dụng chân tay làm đạo cụ, kèm theo lời hát hoặc lời nói vần, thích nghe, dễ nhớ, như: bẻ ngón tay làm củ gừng, củ riềng [póm khính, póm kha], bấu mu bàn tay chồng lên nhau [dặc dú dặc dày]. Lớn thêm, trẻ có thể sử dụng đến các vật xung quanh làm dụng cụ, như: trò cưỡi ngựa thì dùng tàu cau, trò dệt vải dùng lá chuối, trò săn bắn dùng tàu chuối, trò đánh chắt dùng que tre,... Các trò chơi ở lứa tuổi nhỏ chủ yếu mang tính mô phỏng, dựa vào tưởng tượng hơn là động tác, chưa thể gây chấn thương, nguy hiểm. Trẻ chơi cũng vô tư, lành tính, chưa xảy ra xung đột bằng vũ lực. Một số trò chơi mang tính mô phỏng công việc của người lớn như: địu con, ru em, dắt trâu, trang điểm cô dâu... Trong truyện thơ Thái Tiễn dặn người yêu có những câu nhắc tới kỷ niệm thời thơ ấu: Nhớ khi mải chơi giữa bản quên ăn Ta lấy quả bưởi làm trâu, lấy dưa gang làm em bé Lấy lạt tre làm vòng bạc, vòng vàng... Lớn thêm, cha mẹ buộc dây đu dưới gầm sàn, anh chị dạy cho chơi đu, chơi trò rồng rắn. Trong các trò chơi, người lớn dạy cho trẻ em vừa vận động cơ thể, vừa hát đồng dao, có tác dụng làm cho người chơi say sưa, vừa rèn luyện thân thể vừa rèn luyện ngôn ngữ. Ví dụ, trò chơi đu dây, trẻ ngồi lên dây đu [làm bằng vỏ cây hu, cây sa], giơ thẳng chân về phía trước, vừa nhún vừa hát: Đu bồng bềnh, dây cây sa, dóng cây nứa, vợ nhà dưới, chị nhà trên, quả cà đỏ, quả bưởi chua, bánh chưng ngọt, nếp cái thơm, lật đật lên nhà ông, đeo túi lên nhà quan, nhà quan có ang vàng ang bạc ngâm gạo, nhà tớ chẳng có gì để ăn... Trò chơi thường kèm theo lời nói, lời hát. Chẳng hạn, khi chọn người đuổi bắt, một bạn đứng giữa vòng tròn ngồi vây xung quanh, lần lượt chỉ vào từng người, đếm theo lời xướng: um pút, ùm pong, manh dong, xiếm cá, há phấn, há lum, ùm bạy, khày óc, xóc kín, mìn thung, mìn thia, lia páp, xáp lức. Người ứng với lời xướng cuối cùng được chọn đi lùa bắt người khác. Làm trò rồng rắn đã sử dụng đến lời đối thoại: Mưng xớ cân đờ? - Mé ngu cán póng! Mưng dú tí đớ? - Dú tớ khăn na! Mưng ma ệt lơ? - Ma kín khuyết tạng na! Mưng ma ệt lơ? - Ma kín pá long xón! - Ma kín xáy đinh nọi! [Mày là ai? - Là rắn sọc dưa!/ Mày từ đâu đến? - Từ dưới chân bờ ruộng!/ - Mày đến đây làm chi? - Đến ăn nhái vạt thoát nước bờ ruộng!/ - Mày đến đây làm chi? - Đến ăn cá mắc đơm! Đến ăn ruột trẻ con!]. Dạy nói chính xác, nói nhanh, người ta cũng có nhiều cách. Trong đó có một số câu đố nói như kiểu “Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch” của người Kinh. Ví dụ: “Nắng tăng xúng tăm chắng, nắng tăng tăm, tăm tắng” [Ngồi ghế cao giã cánh kiến, ngồi ghế thấp giã nhựa bẫy chim]. Giai đoạn này trẻ em còn rất vô tư, chưa biết xấu hổ và thích nói, thích hát, cho nên các bà, các chị thường tập cho con em các bài ru em, hát khặp, từ những bài ngộ nghĩnh dần dần đến các làn điệu gần với người lớn. Luyện giọng ở giai đoạn này rất quan trọng, tạo tiền đề phát triển năng khiếu sau này. Câu đố cũng là một loại trò chơi trí tuệ được người Thái sử dụng dạy trẻ con theo từng lứa tuổi. Nội dung chủ yếu là đố về các sự vật, hiện tượng xung quanh cuộc sống hàng ngày. Nghệ thuật chủ yếu là miêu tả đặc điểm bằng ngôn ngữ hình ảnh, câu đố có vần, dùng lối nói lái, nói lật ngược, dùng toán số, đòi hỏi người trả lời phải có vốn hiểu biết và suy luận thông minh. Trong câu đố người Thái, có một số bài ghép nhiều câu vừa hỏi, vừa đáp lại với nhau thành một bài văn vần rất liền mạch, rất hay. Ví dụ, đố và giải về các loại dây, có đoạn: Xái tắc mưa lăng, xái xang Xái pín ngoạng ngoạng mưa ná, xái con Xái chon đống chon đón, xái hẹo Xái xót xéo lông nặm, xái vệt. Dịch: Dây giật về sau, dây cù Dây quay tít về trước, dây còn Dây luồn rừng luồn núi, dây bẫy Dây mỏng mảnh xuống nước, dây câu... Bài đố về các loại quả [mác]: Mác sục lướng mác cuối Mác kháu huối mác phày Mác pến khày mác cọ Mác kho lo, khe le mác khám Mác pến nám mác nghiều Mác pái thiếu mác lót Mác nhót nhọi mác quýn Mác pến ín mác sán Mác quá bán mác phương. Dịch: Quả vàng ươm quả chuối Quả theo suối dâu da Quả phấn xanh quả cọ Quả thắt đoạn quả me Quả có lông xù xì chôm chôm Quả nhọn hai đầu quả nhót Quả chót vót bồ quân Quả lắm xơ quả xổ Quả quanh làng quả khế. Kể chuyện ngày xưa vừa là một hình thức sinh hoạt văn nghệ trên nhà sàn trong những đêm con cháu vui vầy xúm quanh, vừa là một hình thức giáo dục, giáo dưỡng bổ ích. Trong kho tàng văn học dân gian, người Thái có đủ các loại chuyện kể: truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, giai thoại, dã sử. Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thế giới tự nhiên, ông, bà thường kể về quá trình hình thành trời đất, muôn vật trần gian, từ thời sinh trời đẻ đất rồi tách ra thành tầng trời, tầng đất, tầng người lùn dưới mặt đất, tầng dưới nước đến các sự cố về nạn hồng thủy, hạn hán, loạn thú; các nhân vật chinh phục trời đất như Then Thúm, Then Thóng, Ý Cặp - Bá Ke,... Các sự tích về núi non, khe suối, ao hồ, mó nước... gắn với các câu chuyện về người khổng lồ: Ải Lậc Cậc, Lung Quan Khà, Ải Pu Té. Hầu như tất cả các hiện tượng thiên nhiên xung quanh đều được người Thái giải thích bằng những câu chuyện sinh động. Chẳng hạn, núi đá mồ côi mọc giữa cánh đồng là do Lung Quan Khà hay Ải Pu Té ném trâu ăn lúa mà thành... Sự tích các con vật hay gắn với các câu chuyện xúc động hoặc dí dỏm phản ánh đời sống, sinh hoạt của con người ở nơi rừng núi, như chuyện: bìm bịp ăn phân trâu, chuột ăn lúa, ve không có ruột, con khảm khác kêu cả đêm, con ốc cốn pún cụt đuôi... Các câu chuyện này chứa đựng nội dung khuyên bảo những điều về đạo lý, đôi khi ngầm phê phán, khơi gợi trí thông minh. Các câu chuyện về sinh hoạt xã hội có nhiều lĩnh vực về quan hệ gia đình. Chuyện về làng nước, vua quan, tạo mường lại thiên về chuyện cười như: Ao Thoi [Chú Cuội], Púa Chu Chổm [Vua Chu Chổm], Tạo mường páy chợ [Tạo mường đi chợ]... Tóm lại ở giai đoạn trẻ thơ, các bậc cha mẹ sử dụng các hình thức dạy dỗ nhẹ nhàng, vui vẻ, chơi để học. Đồng thời người lớn luôn luôn công tâm, công bằng, yêu quý con cháu người khác như con cháu mình. - Chăm sóc, nuôi dạy con giai đoạn chăn trâu, câu cá Giai đoạn này tương ứng với tuổi thiếu niên [từ 8 - 9 đến 12 - 13 tuổi]. Người Thái quan niệm đây là giai đoạn trẻ con đang dần trở thành người lớn. Trong vòng 1 giáp [tròn 12 năm] trở lại, trẻ em chưa đủ tư cách của một con người hoàn chỉnh. Nếu không may bị chết, trẻ em không được bỏ vào quan tài và chôn ở nghĩa địa chung của bản, không được làm đám tang, mà chỉ được bó chiếu hoặc vỏ cây, chôn ở nơi dành cho trẻ con, gọi là “héo mác nánh”, không làm nhà mồ và không chôn đá xung quanh. Từ 13 tuổi trở lên, mỗi cá thể người mới có vai trò xã hội, có thể tham gia một số công việc chung của bản xóm. Giai đoạn này, cơ thể đang phát triển mạnh, nhất là về chiều cao, rất hiếu động. Đầu óc cũng đã phát triển gần như người lớn, khả năng suy nghĩ, ghi nhớ và diễn đạt không kém gì người lớn. Phạm vi hoạt động đã rộng hơn trước, vươn ra khỏi bản, đến với thiên nhiên và tiếp xúc với người hàng mường. Thời gian cha mẹ, gia đình quán xuyến ngày càng ít hơn, hoạt động cùng bạn bè ngày càng nhiều hơn. Trẻ có nhu cầu nhiều về vận động cơ thể và ham hiểu biết, khám phá cái mới. Để đạt được mục đích dạy bảo cho con những điều hay, lẽ phải, biết lễ phép, tôn trọng mọi người, nhất là người trên, biết làm những công việc thông thường như mọi người trong làng bản, biết học chữ hoặc một nghề đặc biệt nào đó, đồng thời kiềm chế các hành vi nghịch ngợm gây hại cho người khác và bản thân, tránh gây xích mích, đánh chửi bạn bè, bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, danh dự, các bậc cha mẹ phải tìm cách vừa đáp ứng nhu cầu vận động của trẻ, vừa đạt được mong muốn của người lớn. Biện pháp hướng dẫn, đặt ra yêu cầu phải đi kèm với việc tăng cường kiểm tra, phân tích đúng - sai, khen, chê đúng mức. Biện pháp xử lý lỗi lầm cũng nghiêm khắc hơn. Trong trường hợp cần thiết cũng phải dùng roi vọt. Việc tỏ thái độ khen chê cũng cần cân nhắc. Người Thái nói: Hặc tang lắng, chăng tang ná, nghĩa là: Thương để sau lưng, không ưng nói trước mặt. Người Kinh nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, “Làm bạn phải nên chọn người”. Người Thái rất quan tâm đến việc kết bạn của con trong lứa tuổi này. Họ cũng rút ra kết luận: Ệt cú nóm cân đí mằn pín đí/ Ệt cú nóm phí mằn pến phí [Làm bạn với người tốt nên tốt, làm bạn với ma hóa ma], Huốm hươn nóm phú chạ măn chạ/ Huốm tá nóm phú lặc măn lặc [Chung nhà với người dốt thì dốt, chung bến nước với người khôn thì khôn], Huốm hươn nóm phú chạn mằn chạn/ Huốm bán đóm phú măn mằn măn [Chung nhà với người lười thành lười, chung bản với người siêng thành siêng]. Ở lứa tuổi này, ngoài thời gian đi làm các công việc vừa sức như: chăn trâu, bắt cá, trông em, canh ruộng, canh rẫy... và giờ ăn, giờ ngủ, trẻ em thường ra sân chung của bản gọi là khuống hoặc đến nhà sàn của bạn để cùng chơi. Buổi tối, mỗi nhóm bạn tập trung tại một gian nhà sàn quen thuộc. Chủ nhà thường rất vui tính, rộng rãi với mọi người, có năng khiếu kể chuyện, nhớ nhiều thơ văn, ưa thích văn nghệ. Những người đó có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm và hình thành nhân cách của trẻ. Vì vậy cha mẹ không cấm đoán con cái đi chơi, nhưng phải có địa chỉ cụ thể và hướng cho con chọn nhà để chơi. Người lớn vẫn tiếp tục sử dụng các hình thức văn nghệ như: kể chuyện, câu đố, hát đồng dao để giáo dục con cái, nhưng ở mức độ cao hơn, khó hơn và nội dung phong phú hơn. Ví dụ, trước đó người ta sử dụng các câu tục ngữ đơn lẻ để dạy bảo từng điều, nay sử dụng cả một bài liên kết các điều lại thành một chuỗi, gọi là “xư xon côn”, ví dụ như bài dưới đây: Pí nọng áp tớ nha láy cái nưa Chua ngua chua khoai nha láy kháu khớ Pợ pí nọng nha hiêc ánh thau Hươn tớ kín kháu nha thốm nặm lai Hươn nừa kìn ngai nha xắng nặm múc Hụa pí nọng nha hặc Phặc pí nọng nha váy Kẹo pu nha láy khụt hác Kẹo mác nha láy thác có Hến khoai nhớ cáng tống nha phới tặt xắn Hến chịn mu mằn nha phới tặt tón Hến lá ón nọi nha phới cót khò Nha bóng lánh kháu pá mạy phái xớ khúm mền Táng nghền khứn cá va nhà táo pái páy tó... Dịch: ... Người ta tắm dưới đừng lội phía trên Mổ trâu, mổ bò không nên đến ngó Vợ anh, em chớ gọi mình, ta Nhà dưới đang ăn, không được nhổ nước miếng Nhà trên dùng bữa không được xì nước mũi Rào nhà dưới chớ bẻ Rau nhà trên không hái Ăn trầu không đào rễ Bẻ cau không đẽo cây Thấy trâu to ngoài đồng không được ước nướng thịt thăn Thấy lợn béo căng chớ có ý chặt băm thịt mỡ Gặp em gái nhỏ không được ôm cổ Không được rón rén vào rừng đi bậy vào hố củ mài Mặt trời lên ngang vai không được vạch quần tiểu về phía đó...[ ] Chuyện kể sử dụng kể cho trẻ trong thời kỳ này đã giảm tính hoang đường, tưởng tượng, xích lại gần với cuộc sống thực của con người hơn. Nhân vật chính chủ yếu là con người, không còn là con vật như các giai đoạn trước đó nữa. Các ông bà thường hay kể các truyện thơ: Xi Thuần, U Thềm, Khun Lù Nàng Úa, Khăm Panh, lối kể chuyện xen viện dẫn thơ hấp dẫn, tạo ra sự đam mê đối với người nghe. Đặc biệt, các trò chơi có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn này. Phần lớn trò chơi mang tính tập thể, phân định thắng thua và có quy ước rõ ràng. Trò chơi không chỉ thỏa mãn nhu cầu vận động và rèn luyện thể lực, mà còn góp phần hình thành các tố chất: nhanh, mạnh, bền, dẻo, giáo dục tính tập thể, trung thực, ý chí quyết tâm và lòng dũng cảm. Trong nhóm bạn chơi đã phân biệt theo giới tính nam, nữ, do đó các trò chơi cũng phân chia theo giới tính. Trò chơi của các cháu gái bao giờ cũng nhẹ nhàng hơn, có tác dụng rèn luyện tính chính xác, khéo léo, mềm dẻo, đẹp mắt. Các trò chơi phổ biến nhất là: đánh đồng mắng [mác lẹ], đánh chắt, chơi ô đếm hạt [ô ăn quan], tập ném còn, tập khua lóng. Nói chung trẻ em gái ít được chơi hơn trẻ trai vì trẻ em gái phải tập làm các công việc sản xuất cùng với các mẹ, các chị như việc đồng áng, nương rẫy, bông vải, chăn nuôi, đi xúc cá, hái rau... Trong khi đi làm trên nương, đi xúc cá, vớt rêu theo suối, trẻ em gái lại có dịp bắt chước, học hát khặp, học may vá, thêu thùa với người lớn. Trẻ em trai [con trai], ở độ tuổi 9 - 10, 12 - 13 rất ham chơi, thích mạo hiểm. Địa bàn hoạt động cũng rộng, bao gồm cả môi trường tự nhiên: rừng núi, sông suối, đồng ruộng và môi trường xã hội [trên sàn, ngoài bãi, trong bản, ngoài mường]. Người lớn vừa phải hướng dẫn trẻ em chọn trò chơi lành mạnh, vừa phải hạn chế những hành vi tự phát gây hại đến sức khỏe, mải chơi quên việc, gây xích mích, mất đoàn kết. Có thể phân thành các loại trò chơi như: Trò chơi không có dụng cụ, thường là những trò chơi tập thể, có quy tắc và tính thành tích, như các trò: thi chạy, nhảy vòng, đánh vật, thi bơi, thi lặn, trèo cây... Trò chơi có dụng cụ gồm: ném đá [ném đá có dây quấn và không có dây quấn], đi cà kheo, kéo co, cưỡi “ngựa” ném khăn, bám đu dây, súng phốc, bắn nỏ, ném lao, chơi cù, đánh ky, nhảy sào... Trò chơi sử dụng con vật có: chọi gà, thả trâu húc nhau, thi cưỡi trâu. Chơi các trò này nhằm rèn luyện khả năng chuẩn bị bước vào đời của một con người thuộc phái mạnh để thích ứng với điều kiện sống lao động sản xuất, hòa nhập với thiên nhiên, chiến đấu với thú dữ và giặc giã xâm nhập lãnh thổ. Các trò chơi đều có tác dụng rèn luyện thể lực, bồi dưỡng tố chất, hình thành đức tính can đảm. Tuy nhiên, mức độ thiếu an toàn cũng cần phải chú ý, nếu chơi không khéo dễ bị chấn thương, thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng. Do vậy, người chơi phải lựa xem sức khỏe, kinh nghiệm của mình khi tham gia trò chơi. Ví dụ: Chơi đu dây, người chơi nắm chắc đầu một sợi dây rừng, treo trên cành cây cao hàng chục mét, tung mình qua một khoảng trống thấp, rồi nhảy xuống bờ bên kia. Chơi đánh ky, là hình thức rèn luyện các tố chất: nhanh nhẹn, mạnh mẽ, chính xác để chuẩn bị luyện tập đánh kiếm chiến đấu. Dụng cụ chơi là mỗi người một đoạn cây cứng, tròn, vót nhọn một đầu, dài khoảng gần một cẳng tay gọi là ky, một quả bưởi tượng trưng là chó. Sân chơi, chọn một khoảng đất bằng, đào một lỗ tròn rộng hơn quả bưởi. Thành phần chơi, gồm một người dùng ky đẩy quả bưởi đi, gọi là lùa chó. Người lùa chó có vị trí thấp hèn nhất và khó nhọc nhất trong cuộc chơi. Người lùa chó ban đầu là người thua cuộc trong việc thi phóng ky xuống mặt đất, phần cắm vào đất ngắn hơn người khác. Người lùa chó phải dùng ky lùa quả bưởi qua các cửa giữa hai người canh giữ, để dẫn vào lỗ ở giữa vòng người, dùng chân chận lại. Người canh cửa không cố định về số lượng [từ 4 - 5 đến 7 - 8 người], ngồi xổm thành vòng tròn, quay mặt vào giữa, tay nắm chắc một đầu ky, đút vào một cái lỗ cố định trước mặt. Khi người lùa quả bưởi qua cửa nào thì người canh giữ cửa đó phải rút ky ra khỏi lỗ để gạt quả bưởi trở lại. Nhân lúc đó người lùa quả bưởi nhanh tay đút ky của mình vào lỗ người kia. Nếu thành công, hai người đổi vị trí cho nhau. Người canh cửa lại ra đi lùa bưởi. Nếu người canh cửa nhanh tay hơn, đút ky vào được trước thì người kia lại tiếp tục đi lùa bưởi. Nếu lùa được quả bưởi vào lỗ đất ở giữa thì người lùa bưởi có quyền đứng ở giữa, bảo mọi người nhổ ky ra khỏi lỗ, đứng thẳng lên, nhằm sẵn một lỗ thuận lợi, bất ngờ ra hiệu lệnh chọc ky vào lỗ. Kết quả cuộc tranh giành, người nào không chọc được ky vào lỗ thì phải ra đuổi chó. - Chăm sóc, nuôi dạy con giai đoạn con trai, con gái tương ứng với tuổi thanh niên [từ khoảng 13 - 14 tuổi cho đến khi lấy vợ, lấy chồng]. Ở vào độ tuổi này, việc dạy bảo con cái tập trung vào nội dung dạy làm việc và làm người. Phương pháp chủ yếu là hướng dẫn, giảng giải. Cha mẹ phải biết tôn trọng con cái, hạn chế sử dụng các biện pháp ức chế. Tục ngữ có câu: Lúc piềng hính cài đá/ Lúc piềng xá cái tí [Con cao ngang chạn hết thời chửi mắng/ Cao ngang gác bếp hết thời đòn roi]. Con trai, con gái phải học các công việc lao động phổ thông theo giới tính. Trong cuộc sống hằng ngày, người Thái đã hình thành phân công lao động theo giới tính. Có những công việc chỉ có phụ nữ làm như: chăn nuôi gà, vịt, lợn, trồng bông, nuôi tằm, dệt vải, may vá, thêu thùa, vò lúa, giã gạo, đồ xôi, nấu ăn, làm rượu, xúc cá, hái rau... Một số công việc chỉ có nam giới làm như: chặt gỗ, làm nhà, đan lát, đi buôn, nuôi trâu, săn bắn... Trong viêc làm ruộng, làm rẫy, người Thái cũng phân công đàn ông, đàn bà chuyên làm một số công việc khác nhau. Nam giới đảm nhiệm việc cày, bừa, đắp bờ, nhổ mạ, dẫn nước, gánh lúa; nữ giới cấy lúa, làm cỏ, gặt hái. Để kịp thời hoàn thành các công việc theo thời gian đã định, người ta hay tổ chức làm giúp nhau, luân phiên hết việc nhà này đến việc nhà khác theo kiểu đổi công, gọi là “au háu”. Đến thời kỳ hợp tác xã nông nghiệp thì mới có một số viêc cả nam và nữ cùng làm. Con trai, con gái khi tập làm việc, trước hết phải học thành thạo các công việc theo giới tính. Trong bài “Tiễn dặn người yêu” [văn bản sưu tầm ở Thanh Hóa] có câu: ... Mớn hớ vún nọng nó khú nhinh chai Mi lúc nhinh cháng tắm húc lai Lúc chai hụ váng thống lông Kéo táng pó. Dịch: ... Mong cho em có đủ con gái, con trai Con gái khéo ngồi dệt vải hoa Con trai biết đeo túi xuống Kinh thay bố. Tập làm việc ở giai đoạn này đã yêu cầu biết làm thành thạo đến làm tốt, làm đẹp, tạo ra sản phẩm thực tế phục vụ đời sống. Một số nghề đòi hỏi trình độ tinh xảo, sản phẩm đa dạng thì phải học suốt đời, đặc biệt là nghề đan lát đối với nam giới và nghề thêu dệt đối với phụ nữ. Việc học và sáng tạo ra các hình hoa văn trên mặt vải dệt, các sản phẩm đan lát đánh giá trình độ khéo léo, hiểu biết của con trai, con gái. Căn cứ vào họa tiết hoa văn dệt, thêu, đan trên nền thân váy, cạp váy, chân váy, đầu váy, vỏ chăn, vỏ đệm, diềm màn, khăn trùm đầu, liếp nứa, thúng mủng, ép cơm, lồng gà chọi, mâm mây, ghế mây, giỏ đeo, gùi bế,... thì biết mức độ tài giỏi của con gái, con trai. Phương thức truyền dạy chủ yếu là do cha mẹ chỉ dẫn cho con cái. Do vậy bố mẹ khéo nghề gì thì con cái cũng giỏi nghề đó. Đồng thời, bạn bè và người thân cũng đóng góp một phần quan trọng trong việc truyền thụ nghề phụ gia đình. Vào tuổi 16 - 17, con trai, con gái trong bản đều có phường bạn. Con gái thường tập trung trên nhà sàn để cùng nhau quay sa kéo sợi, trao đổi với nhau về các mẫu hoa văn. Nhiều khi một người mắc khung cửi, cả nhóm bạn cùng đến học kệp lai [kết hoa]. Bạn trai thường tụ tập ban ngày vào lúc đi chăn trâu hoặc trên sàn lúc trưa hè để cùng học đan lá, kết hoa. Bên cạnh yêu cầu biết làm việc, các bậc cha mẹ còn giáo dục cho con cái đức tính siêng năng, cần cù chịu khó, chống ham chơi, lười làm. Tục ngữ Thái có câu: Lúc chai páu pí tang nghin, xớ chạn Lúc nhinh quá bán dam khắm, xớ hứ. Dịch: Con trai thổi khèn ban ngày, thì nhác, Con gái chơi đêm trong bản, thì hư. Ngoài công việc mang tính phổ thông, các gia đình còn bố trí cho con mình học một số môn chuyên biệt như học chữ, nghề thầy mo, thầy cúng [mùn, một, mo], nghề rèn, nghề bạc... tìm được thầy dạy nghề gì thì học nghề đó. Trong các mường bản có một số người giỏi chữ Thái, ham mê các truyện thơ trở thành thầy dạy cho con cháu trong bản. Con cái các gia đình có truyền thống tham gia công việc chung của bản mường như làm tạo, làm mụ, làm mo và các chức sắc hương lý... thì bắt buộc phải học chữ Thái. Thời kỳ Pháp thuộc, có quy định tuyển chọn công chức làm việc trong bộ máy chính quyền ở vùng người Thái phải biết 3 thứ chữ là chữ Quốc ngữ, chữ Pháp và chữ Thái. Những gia đình có điều kiện, gửi con xuống xuôi, theo học các trường công hoặc các trường do chính quyền mở, bất đắc dĩ, có người phải vào học chữ trong nhà thờ đạo Thiên Chúa. Trước đây, việc bồi dưỡng kiến thức thông qua con đường học chữ chỉ là một phần nhỏ, con em trong bản hiểu biết về xã hội chủ yếu bằng các hình thức sinh hoạt dân gian truyền thống. Đó là các hình thức: Nghe người lớn kể chuyện thực tế, nhất là những người đã đi nhiều nơi, làm nhiều việc, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Họ có rất nhiều chuyện để kể, nhất là về địa lý và phong tục tập quán. Thường thì những đêm trăng mát mẻ, các chàng trai tập trung về một nhà sàn nào đó có người hay kể chuyện. Các ông [bà] bạn cũ hay người có quan hệ anh em đến ngủ thăm nhau, thường hay kể nhiều chuyện lý thú. Những lúc ấy, con cháu nằm bên cạnh cũng bị các câu chuyện cuốn hút. Các câu chuyện tựa như vô tình đã mang lại cho người nghe nhiều điều mới mẻ và gợi cho họ trí tò mò muốn được trực tiếp đi khám phá thế giới. Những người thuộc nhiều truyện thơ được coi như các trí thức địa phương thì kể chuyện theo lối “nói có sách, mách có chứng”, vừa kể cốt truyện vừa viện dẫn thơ văn, nghe rất hấp dẫn. Ngoài các truyện thơ có xuất xứ Thái, còn thịnh hành các truyện thơ Nôm khuyết danh của người Kinh được dịch ra thơ Thái như: Phạm Công - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa,... Từ những đêm nghe kể truyện thơ, nhiều chàng trai đam mê đã cắp sách mài mực đến xin học với thầy. Một số người không học được chữ, nhưng nhập tâm tốt đã thuộc lòng cả truyện thơ hoặc những đoạn hay nhất. Những kiến thức xã hội do tác phẩm mang lại và cảm xúc văn học đã góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và mở rộng tầm nhìn ra ngoài rừng núi, bản mường, nuôi dưỡng những ước mơ hoài bão của con người. Người lớn thường chọn thời cơ, lúc con cháu ngồi lại đông đủ sau bữa ăn hoặc lúc có bạn bè đến rủ đi chơi để phân tích, giảng giải về các mối quan hệ anh em, gia đình, láng giềng, bản làng, người thân, người dưng... cách xử sự từng mối quan hệ. Trong khi giảng giải, người lớn sử dụng nhiều tục ngữ, ca dao thành bài “Lời dặn dò con gái, con trai”: ... Nghe chưa hết câu đã vội cười chê, Chưa hết ý đã vểnh môi chực đáp, Người đang nói, ngoảnh mặt đi chỗ khác, Loại người ấy không hay, thiên hạ chê cười. Người cầm dao chém đất, chọc trời, Chê trời đất không biết phân mưa nắng, Loại người ấy không sống lâu, ở đặng. Trời cho đầu thai xuống làm con gái, Không được lười việc dệt vải, kéo sợi, quay sa. Trời cho xuống làm con trai, Không được phàm tục, chửi cày bừa giữa ruộng, Mắc ách cho trâu thoải mái bước đi, Về nhà không càu nhàu thành người khó tính. Vợ chồng thành duyên từ khi ở trên trời, Dù đần, điếc, đen cũng phải bên nhau trọn kiếp, Không phải rắn đâu thay xác đổi da... Đối với con gái sắp đến tuổi đi lấy chồng, các mẹ, các bác, các thím phải chỉ dẫn cách ăn ở bên nhà chồng, cách chăm sóc con cái. Người ta hay vận dụng bài khặp Tiễn dặn người yêu đi lấy chồng để viện dẫn. Ví dụ, khi nhắc con cần lưu ý những điều kiêng kỵ: Tắng pí pá nha ính/ Khinh kháo báng pí lung nha ứa/ Xứa lé cọm pó pú nha danh... [Nghĩa là: Ghế chị chồng không ngồi; thân trắng trẻo anh chồng không nhìn; áo xanh đẹp bố chồng không ngắm]. Hoặc là vận dụng câu tục ngữ: Pí lung pớn pó phạ, pí pá pớn pó then [Anh chồng bằng ông trời, chị chồng bằng ông then]. Trong sinh hoạt cộng đồng, người Thái luôn tạo điều kiện cho con cái tự học thông qua tiếp xúc với thực tế, để con cái học thêm nhiều điều từ bạn bè và xã hội, đồng thời tập cho con cái thực hành những điều đã học, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hòa nhập với mọi người. Mỗi khi láng giềng hoặc anh em có công việc cần đông người làm, cha mẹ thường cho con đi tham gia trong các việc đám [đám ma, đám cưới, đám vía...], các đám phấn chá, kin chiêng boóc mạy,... Trong những dịp này, con trai, con gái học được nhiều điều từ bạn bè, người lớn. Nội dung và cách thức tổ chức các đám việc cũng mang lại nhiều hiểu biết, nhất là lịch sử cộng đồng, phong tục tập quán, truyền thống nhớ về cội nguồn. Các bài mo, cúng, khấn, hát, trò cũng hàm chứa ngôn ngữ hình tượng, tình cảm thiết tha, đạo đức hướng thiện, tư tưởng nhân nghĩa. Ví dụ, một đoạn trong mo ma diễn đạt lời nhắn nhủ của người chết, trước lúc chia tay đi theo tiên tổ [đắm chao], mang ý nghĩa như một bài học luân lý: ... Con quý con yêu ơi! Mặt trời lặn đến kỳ lại mọc Bố [mẹ] ra đi không trở lại bao giờ Phải nói lời chia tay vĩnh biệt Dặn dò con lời ăn ở làm người Con ở lại muốn cửa cao nhà rộng Phải có tấm lòng thương mến bao dung Có nghĩa, có tình, anh em nhất trí Tránh lời khó nghe, kỵ điều cay nghiệt Ăn cơm sáng các con phải để canh Ăn cơm chiều phải để phần cơm phần cá Để canh phòng anh em về tới Để cá phòng con cháu đến thăm Không mắng chửi con lúc đang ăn Để bà ngoại ăn cơm chan nước mắt Không chửi vợ con lúc còn đang ngủ Để giấc mơ đau xót lòng con... Vết thương do dao, do rìu còn có phương cứu chữa Vết thương lòng hết cách, vô phương...[ ] Trong đám cưới, người ta hay thể hiện phong cách giao tiếp khiêm tốn, lịch sự, bộc lộ tài năng ứng xử, đặc biệt thể hiện những bài hát khặp hay như bài: Xin mở cổng mường, Cảm ơn thông gia, Tiễn dặn người yêu đi lấy chồng, Giữ nhà trai ở lại... Con trai, con gái có dịp học hỏi, thể nghiệm bản thân. Riêng kỹ năng hát khặp, con trai, con gái học được nhiều trong các cuộc rượu cần, hát giao duyên khi có con trai, con gái đến bản. Ở lứa tuổi 17 - 18, bạn bè thường rủ nhau tổ chức các cuộc đi chơi bản xa nhân dịp đi lễ hội đi chợ, đi tìm mua bán hàng thổ cẩm, đi thăm nhà anh em... các bậc cha mẹ tạo điều kiện cho đi, không ngăn cấm. - Giáo dục con cái sau khi lập gia đình Từ giữa thế kỷ XX trở về trước, hầu hết các gia đình người Thái Thanh Hóa là gia đình lớn, gồm nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng sinh sống trong một nhà. Những người anh em trai, thậm chí cả anh em con chú, con bác, dù đã có vợ con riêng vẫn sống chung trong một gia đình lớn, cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng chung tài sản. Theo truyền thống, anh cả làm chủ gia đình, cha mẹ [có thể đã trở thành ông bà], mặc dù không còn đứng ở vị trí chủ chốt, nhưng các bậc ông [bà] vẫn có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ đối nội, đối ngoại của gia đình. Bằng nhiều hình thức, ông bà chú tâm truyền đạt những quy định mang tính gia pháp, điều chỉnh hành vi của các thành viên trong gia đình, xử lý, giải hòa khi có vấn đề. Nhưng dù động thái gì cũng phải nhẹ nhàng, không được gay gắt. Tục ngữ Thái có câu: Mé nai đá lúc khười xớ cớ/ Pó pú chưới lúc pợ xớ kằm [Mẹ vợ mắng con rể thì gở/ Bố chồng chửi con dâu thì kiêng]. Do vậy, trong gia đình người Thái trước đây luôn luôn hòa thuận, người nào việc nấy, không to tiếng bao giờ. Như vậy, qua phong tục tập quán người Thái trong nuôi dạy con cái, chúng ta thấy rằng trong các gia đình, dòng họ người Thái có một vấn đề quan trọng là gia giáo đối với con cái. Với phương châm không dùng roi, song cũng không chiều chuộng, buông thả, lấy sự yêu thương quý trọng làm nền để nghiêm khắc, kiên trì và nhẫn nại giáo dục, rèn luyện, tạo cho con cái có được ý thức tự trọng cũng như tự lập. Với phương pháp rất cụ thể là tùy theo từng độ tuổi và trí tiếp thu để có thái độ dạy bảo cũng như giao việc tập làm phù hợp. Kiên trì dạy tỉ mỉ từng li từng tí, từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp... Chẳng hạn, công việc khó đối với con gái là nghề vải tơ, kim chỉ. Mẹ phải dạy từ hái bông, chọn bông, cán bông, cuốn đọt bông, kéo sợi, dạy hái dâu, nuôi tằm, ươm kén kéo tơ dệt thành vải. Cao hơn, mẹ dạy kỹ thuật dệt các loại thổ cẩm, từ loại hoa văn đơn giản đến hoa văn phức tạp. Từ khâu vá đơn giản nâng dần đến nghệ thuật thêu thùa. Khi đến tuổi lấy chồng cô gái phải thông thạo cắt may các thứ quần áo, làm chăn, đệm, gối, màn, rèm... Con trai được bố rèn dạy nhiều hơn từ việc tập chẻ lạt, vót nan, làm lồng chim, làm các bẫy đơn giản để bẫy chim, bẫy thú rừng nhỏ; dần dần đến việc khó hơn như làm nỏ, làm sáo, đan lát các đồ dùng đơn giản; tiến tới làm những việc yêu cầu kỹ thuật phức tạp như bện thừng, xe gai, đan chài, đan vó, đan ếp, đan bung, ép dựng xôi, làm bừa, làm cày... Nói chung cả con trai lẫn con gái, đến tuổi thành niên đều phải biết làm những thứ cơ bản phục vụ cuộc sống hàng ngày theo chức năng của giới mình. Song song với dạy việc làm, người Thái cũng chăm chút dạy con về luân thường, đạo lý làm người. Nó đòi hỏi người lớn làm gương cho trẻ em noi theo, cốt yếu là tình cảm. Ông bà thực lòng yêu thương dạy bảo cháu, cha mẹ thực lòng yêu thương dạy bảo con, anh chị thực lòng yêu thương dạy bảo em thì những tình cảm tốt đẹp sẽ có tác động trở lại: em nghe lời và quý trọng anh chị, con nghe lời và quý trọng cha mẹ, cháu nghe lời và quý trọng ông bà. Khách đến nhà lịch sự chào hỏi, chiếu trải, đặt bầu nước, ống điếu mời khách. Người Thái có câu: “Chào khách nhà hống cáng” và “Chào khách nhà dứn mằn hại”, nghĩa là: Chào khách đứng chào khúc giữa [nói nửa lời không rõ]. Chào khách đừng đứng chào [phải ngồi xuống cho lịch thiệp]. Mọi người trong gia đình không được có hành động và lời ăn tiếng nói bất nhã trước mặt khách, như câu phương ngôn đã dạy: “Anh em lên nhà chớ chửi chó, bên ngoại lên nhà đừng mắng con”. Với khách xa chưa quen biết thì cứ nhìn mặt, người đáng em đáng cháu thì gọi em gọi cháu, đáng anh chị, chú thím, bác bá, ông bà thì gọi anh chị, chú thím, bác bá, ông bà... Trên đây chỉ là những điều cơ bản trong vô vàn điều giáo dục, rèn luyện con cái trong gia đình người Thái. Mọi sự chăm sóc, giáo dục và rèn luyện cũng đều nhằm chuẩn bị cho con cái bước vào đời với hành trang: thông thạo, kiên trì, nhẫn nại trong mọi mặt lao động sản xuất; đức độ, thông minh, hiểu biết trong xây dựng cuộc sống gia đình và xã hội. * Các nghi lễ liên quan đến hôn nhân Cưới xin trong tâm thức của đồng bào các dân tộc là một sự kiện trọng đại, thiêng liêng của mỗi đời người, của gia đình và cộng đồng. Bởi vậy, để một đôi trai gái nên vợ nên chồng, phong tục cưới xin trong văn hóa Thái, Mường cổ truyền phải tiến hành qua nhiều bước, với một khoảng cách thời gian khá dài. Ở đây chỉ nêu vắn tắt trình tự các bước để dẫn đến hôn nhân sau khi đôi trai gái đã chính thức báo cáo với hai bên cha mẹ như sau: - Lễ thăm dò, ướm hỏi - Lễ bỏ trầu, ăn hỏi - Lễ cưới dâu, đi làm dâu, đón dâu [hoặc lễ cưới rể, đi làm rể]. Trong các bước trên, nhà trai đều phải mang đủ lễ vật theo quy định, và các lễ vật trong lễ cưới phải có mấy ống cá chua [2 - 4 ống cá chua]. Lễ cưới của người Thái, người Mường thường diễn ra ở hai bên. Đầu tiên nhà trai mang đồ cưới và chàng rể đến nhà gái tổ chức cưới. Sau đó, đón dâu và cưới tại nhà trai [cùng ngày, hoặc sau vài ngày nếu nhà gái ở xa]. Người Thái Quan Sơn chỉ đi ở rể trong trường hợp nhà gái không có con trai và có lời lễ vật sang nói chuyện với nhà trai. Việc đi ở rể chỉ có thể xảy ra với nhà trai có nhiều còn trai và người đi ở rể chỉ là con thứ, con cả không được đi ở rể[*]. Lễ đón dâu: Đoàn nhà trai sang nhà gái đón dâu; về nhà chồng, cô dâu mang theo gối, chăn, vải, đệm tự làm để dùng và biếu tặng ông bà, cha mẹ, anh em bên chồng. Sau các nghi lễ trước bàn thờ tổ tiên, tiệc cưới sẽ diễn ra vui vẻ với đủ mặt hai họ và bà con trong làng. Nhà trai nhờ một bà phúc hậu dễ nuôi con tới trải chiếu, căng màn cho đôi vợ chồng. Sau ba ngày bố mẹ chồng dẫn đôi vợ chồng mới cưới sang thăm bên nhà gái, người Thái gọi lễ này là “khưn hòi” tựa như lễ lại mặt của người Kinh. Vị trí ông mối, bà mối trong phong tục xưa rất quan trọng trong toàn bộ các lễ thức của tục cưới. Họ phải là những người hát hay, giỏi ứng đối bằng câu hát, nhiều khi phải ngẫu hứng đặt lời, là người nắm vững thủ tục, lễ nghi việc cưới xin, trước đây còn thêm biết cúng nữa. Các lễ thức trong đám cưới người Thái theo phong tục xưa nhìn chung cũng có những quy định chặt chẽ, song cái nét đẹp cơ bản có ý nghĩa ở đây là việc xem hôn nhân là sự kiện thiêng liêng của một đời người, tôn trọng tình yêu tự do của cả đôi bên, nhất là phía người con gái; đề cao giá trị bền vững của hôn nhân. Hôn nhân không chỉ là việc riêng của mỗi cá nhân mà còn là sự kiện của cả cộng đồng gia đình, làng bản; lễ thức hôn nhân thể hiện rõ sự gắn kết cá nhân và cộng đồng. Hôn nhân gắn với yêu cầu rèn giũa tài năng, đạo đức đối với các chàng trai, cô gái đến tuổi trưởng thành. Lễ cưới là một môi trường nuôi dưỡng, phát triển vốn văn hóa dân gian cổ truyền lâu đời của mỗi dân tộc. Ngày nay, cùng với sự thay đổi của đời sống kinh tế - văn hóa trong thời đại mở cửa, bùng nổ thông tin và đô thị hóa, đám cưới của người Thái, người Mường cũng có nhiều biến đổi, khoảng cách thời gian của các lễ thức được rút ngắn, thậm chí thực hiện trong một ngày dưới hình thức lễ đón dâu và lễ đưa dâu trong ngày cưới, đồng thời từ ngày đó họ cũng chính thức nên vợ nên chồng. Những chiếc chăn, gối đậm bản sắc dân tộc vẫn được các cô dâu chuẩn bị mang theo khi về nhà chồng để tặng ông bà, cha mẹ bên chồng như một cách bày tỏ lòng kính trọng và thể hiện sự cần cù, khéo tay của mình. Đặc biệt, khi đến tham dự lễ cưới, người thân và bạn bè cũng thường gửi tiền mừng cho cô dâu chú rể, một hình thức góp vốn để cô dâu chú rể bắt đầu một cuộc sống mới. Cô dâu ít mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới, họ thường chọn áo dài theo lễ phục của phụ nữ Kinh. * Nghi lễ tang ma Người Thái ở Quan Sơn cũng như người Thái ở địa phương khác, khi có người từ 10 tuổi trở lên chết thì tổ chức mo trong lễ tang. Người ở độ tuổi dưới 10 thì chỉ cúng đưa ra nghĩa địa, không tổ chức mo trong lễ tang. Ở huyện Quan Sơn có 6 mường và nhiều dòng họ khác nhau nên ngoài cái chung thì từng địa phương, dòng họ cũng có cách hành lễ và nội dung lời mo khác nhau. Trong đó vùng mường Xia, mường Mìn căn bản giống nhau, vùng mường Mò, mường Sại, mường Hạ giống nhau, vùng mường Chự có những điểm khác biệt. Khi có người chết, tùy theo lứa tuổi và hoàn cảnh kinh tế gia đình và thân thế sự nghiệp, uy tín của người quá cố mà người Thái tổ chức lễ tang ma đơn giản hay phức tạp khác nhau. Có thể phân chia lễ tang ma của người Thái Quan Sơn theo các hình thức sau: - Người chết ở độ tuổi dưới 10 tuổi [chết trẻ] tiếng Thái gọi là “lệch nọi” hay “anh on”: Khi có người chết ở lứa tuổi này, người Thái không tổ chức mời ông mo mà chỉ mời thầy cúng đến cúng đưa linh hồn người chết ra nghĩa địa, không phải mo tiễn lên trời, thủ tục tang lễ tổ chức đơn giản. Khi trong nhà có người lớn chết thì mới mổ một con lợn [to nhỏ tùy ý] mời linh hồn của đứa trẻ cùng lên trời luôn. Những trường hợp là người lớn chết nhưng chưa tổ chức mo lên trời được thì khi nào gia chủ có điều kiện, tổ chức đám tang mo gọi hồn từ nghĩa địa về để mo tiễn lên trời. Người vị thành niên chết có nghĩa địa riêng, không được chôn chung với nghĩa địa người lớn. Nghĩa địa chôn trẻ con [dưới 10 tuổi] người Thái gọi là “héo anh on”. Do trẻ em nghịch ngợm nên khi có việc đi qua bãi nghĩa địa này, nhất là lúc trời nhá nhem tối hay bị chúng bắt nạt, trêu trọc, người yếu bóng vía thường khiếp sợ. - Người chết trên 10 tuổi thì chôn vào nghĩa địa người lớn và tổ chức đám tang ma theo nghi lễ người lớn. Theo quan điểm của người Thái Quan Sơn, con người là từ trên trời xuống trần gian để sinh sống, làm ăn. Khi chết linh hồn mọi người đều phải trở lại mường trời. Do vậy trong đám tang ma phải mo tiễn linh hồn người quá cố lên trời thì mới xong việc của đám. Chỉ có trẻ em chết chưa mang lên trời ngay được phải gửi về nghĩa địa, khi nào có người lớn trong nhà chết thì mới cùng lên. Lý do là lên trên ấy trẻ con một mình không nơi nương tựa sẽ bơ vơ, quấy phá mường trời, then sẽ trừng phạt hạ giới. Nghĩa địa người lớn [trên 10 tuổi] chia ra 2 loại: + Nghĩa địa người lớn chết bình thường do ốm đau, bệnh tật, chôn ở phía trong. Người hy sinh vì quê hương, Tổ quốc được chôn vòng ngoài. + Nghĩa địa người chết do tai nạn, tự vẫn, chết trôi, chết cháy, chết do sinh nở và các loại chết không bình thường khác... thì đưa vào nghĩa địa này. Tất cả người trên 10 tuổi chết đều phải mời ông mo đến lo tang lễ. * Về tổ chức đám tang: - Đám tang trẻ nhỏ [dưới 10 tuổi]: chưa cần mổ lợn và trâu, bò. Chỉ cần có gà, vịt, chó để lo tang lễ. Trường hợp có lợn thì cũng chỉ cúng đưa xác và hồn ra nghĩa địa, chưa đưa lên trời. - Đám tang người lớn [từ 10 tuổi trở lên] nhất thiết phải có gà, vịt, chó, lợn hoặc trâu, bò tùy gia chủ lo liệu. Đám tang chỉ mổ lợn, gà, vịt, chó gọi là đám tang nhỏ. Đám tang có mổ trâu, bò gọi là đám tang to. Những đám này ngày xưa chỉ áp dụng cho người có chức sắc, địa vị xã hội và kinh tế gia đình vững vàng. * Về trang phục trong đám tang: Khi người chết là chồng, anh, chị ruột, bố mẹ đẻ thì vợ, em, con, cháu bên nội phải mặc áo trắng để tua và đội mũ rơm. Khi người chết là bố mẹ vợ, bố mẹ chồng, anh chị bên vợ, bên chồng, chị dâu, anh rể thì bậc em, con, cháu mặc áo nhuộm chàm, đội mũ vải trắng. Người Thái có câu: Pí pợ, pí khưới tư mú phái Pí ưới, pí ái tư mú dù. Dịch: Chị dâu, anh rể đội mũ vải Chị gái, anh trai đội mũ rơm. Riêng các cháu bên nội, khi có thím hoặc bác dâu [vợ của bác trai] chết thì bậc con, cháu phải đội mũ rơm và mặc áo tang trắng vì những người này như thể mẹ mình. Bố mẹ chết con cái mặc áo tang trắng, đội mũ rơm; riêng con dâu, chàng rể đội mũ vải trắng, mặc áo nhuộm chàm. Vợ chết chồng không phải mặc đồ tang. Chồng chết, dù chồng ít tuổi hơn thì vợ vẫn phải mặc đồ tang. * Việc để tang: Người trong dòng họ của người chết để tang từ 3 tháng đến 6 tháng [tùy từng dòng họ]. Vợ, con, cháu, em ruột của người chết để tang 1 năm. Con cháu bên ngoại không phải chịu tang cậu mợ, chỉ chịu tang ông bà ngoại và các bác [bậc anh, chị] của mẹ nhưng thời gian ngắn hơn bên nội, chỉ từ 3 - 6 tháng là hết tang. * Thủ tục khi có người chết: 1. Vuốt mắt, nấu nước lá thơm tắm rửa cho tử thi. 2. Liệm tử thi [đeo vòng bạc vào trán và tay trái]. - Mặc các bộ quần áo mới, đẹp cho tử thi, bịt hậu môn, mũi, tai, miệng, buộc 2 ngón tay cái và 2 ngón chân cái lại với nhau. Để tử thi nằm ngửa theo tư thế thoải mái duỗi thẳng. 3. Báo tang [một hồi một tiếng trống hoặc chiêng]. 4. Bàn việc tổ chức lễ tang [mời họ hàng, con cháu, trưởng họ và trưởng bản]. Cử người đi báo chính quyền xã, các bản lân cận, thông báo cho con cháu, anh em, bạn bè, thông gia biết... 5. Sửa quan tài [làm thịt 1 con chó, 1 con vịt để cúng]. 6. Đưa thi hài vào quan tài [sau chết không quá 24 giờ, không nhanh quá 6 giờ]. 7. Đào huyệt. 8. Cử người đi mời ông mo. 9. Tổ chức mo. 10. Chuẩn bị chôn thi hài. 11. Chôn thi hài [không chậm quá 48 giờ sau khi chết]. Ngày xưa có khi để hàng tháng mới chôn. 12. Làm nhà mồ. 13. Trong hai ngày mời linh hồn người chết về ăn cơm với gia đình [đặt 1 thúng tro ở cửa chính để theo dõi dấu chân]. Sau 2 ngày [sáng ngày thứ ba] đưa cơm ra nghĩa địa cho người chết và thông báo cho người chết không được về nhà ăn cơm nữa. Đồng thời làm vườn, trồng cây cho người chết. Tiếng Thái gọi là “xông ngài” [đưa cơm]. * Các bước tiến hành mo người chết. 1. Đi mời thầy mo: Gồm có 10 lá trầu, 1 chai rượu trắng. - Thầy mo nhận lời và báo cáo với thần mo của mình [phi tạy], mời thần mo cùng đi mo cho đám tang. Ông mo mang các dụng cụ hành nghề đi với người mời mình đến nhà có tang lễ để tổ chức đám mo theo quy định. 2. Khi đến nhà có tang lễ thầy mo phải làm như sau: - Trước khi vào nhà hoặc lên nhà sàn phải khấn đuổi ma tà, quỷ quái đang ở trong nhà có người chết. - Vào nhà, đến chỗ quan tài hoặc chỗ người chết đang nằm [trường hợp chưa đưa thi hài vào quan] làm động tác giải xui. Dùng gươm quét một vòng xung quanh quan tài hoặc thi hài người chết. - Trải chiếu mo Trước khi trải chiếu, ông mo phải khấn giải xui để bảo vệ mình thực hiện đám mo trong chiếc chiếu của mình. Dùng gươm chọc bốn góc chiếu để đánh dấu lãnh địa, không cho ma tà, quỷ quái đến gây nhiễu. - Gia chủ đặt 1 con gà trống choai luộc, 1 chai rượu, 4 cái chén, trầu cau, 1 cuộn vải trắng, 1 vòng cổ bạc, 1 đôi vòng tay bạc vào mâm cơm đưa đến đặt giữa chiếu mo để mo cúng thần mo, mời thần mo dùng bữa và khao số vải, vòng cổ, vòng tay bạc cho thần mo [chỉ lấy tượng trưng, xong việc trả lại gia chủ]. - Mo lên ngai [tắng khài] + Có 1 ghế mây chỗ ông mo ngồi, 1 mâm mới đan bằng vầu 2 tầng để ông mo đặt các dụng cụ hành nghề của mình vào, chỗ gần ông mo ngồi có 1 cây đèn, buộc 1 cây mía tươi có lá. + Ông mo làm các động tác hành lễ và bắt đầu mo. Mo ca của người Thái rất đồ sộ. Nếu ghi chép đầy đủ lời mo của gia đình khá giả, quyền quý có thể dày hàng nghìn trang bởi vì mo có nhiều bậc khác nhau. Trước đây: - Nhà quyền quý, giàu sang mo từ 7 - 9 ngày đêm. - Nhà khá giả, chức thấp hơn 5 - 7 ngày đêm. - Dân thường 3 ngày đêm. Đến nay: - Nhà nào mo dài nhất 3 ngày 2 đêm. - Nhà bình thường 2 ngày 1 đêm. Lời mo dài ngắn khác nhau do mô tả gia cảnh người chết và dẫn người chết đi chơi đi thăm đây đó trước khi lên trời. Nhà càng giàu càng kể nhiều của cải nộp cho người chết, đưa người chết đi thăm nhiều nơi nên thời gian kéo dài. Nhà nghèo hơn thì của cải, tài sản giao cho người chết ít hơn, dẫn người chết đi thăm ít hơn, lời mo ít hơn. Lễ tang của người Thái, người Mường cổ truyền là một hệ thống hoàn chỉnh gồm hai phần chính là phần lễ thức và phần tang ca. Hai phần này song hành và đan xen với nhau. Cả hai phần này đều vô cùng phức tạp, hàm chứa nhiều ý nghĩa tâm linh và giá trị đặc sắc, nhất là phần tang ca [mo]. Phần tang ca chính là các đêm mo do các thầy mo thực hiện, theo những quy định chung và còn có thể theo tục lệ riêng của mỗi dòng họ. Chương trình làm việc của mo ở Quan Sơn khái quát như sau: 1. Lễ ca đánh thức người chết [khộn lục, pục tứn]: 1 con lợn. 2. Lễ ca kể nguyên nhân, lý do dẫn đến cái chết của người quá cố. Lý do sự việc con cháu tổ chức đám tang. 3. Lễ ca mời ăn cơm, thịt lợn mâm đánh thức [khộn lục, pục tưn]. 4. Lễ ca kể thân thế sự nghiệp khi còn sống của người chết. 5. Lễ ca chuẩn bị quan tài. 6. Lễ ca kể về hương hoa thắp cúng. 7. Lễ ca gọi hồn người chết vào nhập quan. 8. Lễ ca xin đất, xin ruộng, xin vật liệu làm nhà mồ, mời cơm mừng nhà mới [nhà mồ]. 9. Lễ ca mời cơm tối [pống pàu] có lợn hoặc trâu, bò. - Lễ ca kể về trâu, bò [nếu có] phục vụ đám tang [tay ắm óc ngùa, khoài]. - Mo dẫn hồn người chết đi chơi [nếu có thời gian]. Việc đi chơi và đi nhiều đi ít không bắt buộc. 10. Mời tổ tiên [tằn lắm chào] về ăn mâm công đức [pàn công khùn], có lợn, gà, cá, hoa quả, ốc, ếch... 11. Lễ ca dẫn hồn người chết chào thần bản, thần mường, họ hàng, làng xóm, con cháu, gia đình. Giao của cải, vật dụng, dụng cụ sản xuất... cho người chết. [Giáo chướng hườn tô giáo, xăng bán xăng mường họ hàng hườn giáo]. 12. Lễ ca mời ăn cơm mâm cỗ lớn [kín kháu pàn luống], thịt lợn hoặc trâu bò. 13. Lễ ca tiễn hồn người chết về nghĩa địa, tiễn hồn lên trời, vào nhà then. 14. Lễ ca giao hồn người chết cho tổ tiên [lắm chào] và trời [phạ, then]. 15. Lễ ca dặn dò người chết [xăng nòn xón du]. 16. Lễ ca gọi vía ông mo, vía con cháu, người thân, bạn bè và mọi người tham gia tiễn đưa người chết ra nghĩa địa và lên trời. Hết việc mo tại nhà có tang lễ, gia chủ trả tiền công cho ông mo như đã thỏa thuận khi đi mời. 17. Gia chủ mang 1 con gà, 1 chai rượu trắng, trầu cau và các đồ lễ, vật dụng cho mo như: đôi gói thịt lợn hoặc trâu bò có đủ thịt, da, nội tạng đã luộc chín [cắt thành miếng] như món ăn tại mâm cỗ lớn [pàn luông], 1 đùi trước của lợn và trâu hoặc bò làm thịt, các vật dụng của mo trong đám tang. Cử người đưa tiễn mo về nhà. Về đến nhà, ông mo đặt các đồ lễ và tiền công vào mâm cúng báo cho tổ tiên nhà mình và thần mo biết, mời họ ăn. Họ dùng xong lễ cúng đó, mọi lễ vật mới được sử dụng. Đồng thời mời thần mo lên ban thờ chờ khi có người mời lại đi tiếp[ ]. Như vậy, lễ tang cũng là một môi trường bảo tồn văn hóa cổ truyền. Lễ tang cổ truyền của người Thái, hay người Mường hiện nay đã có nhiều thay đổi theo xu hướng bớt đi các lễ thức, rút ngắn phần tang ca, loại bỏ hủ tục, thực hiện theo quy định nếp sống mới.
  4. Phong tục tập quán và nghi lễ làm vía * Quan niệm của người Thái về hồn vía Con người ta tồn tại được là nhờ có linh hồn. Linh hồn người nào khỏe mạnh, thoải mái thì người đó mới được mạnh khỏe và hoạt động bình thường.[ ] Ngược lại, linh hồn của người nào không khoẻ mạnh thì người đó không bình thường, không minh mẫn để làm ăn, cho nên người Thái rất quan tâm đến phần hồn, ngay cả khi còn sống. Mỗi khi có sự việc liên quan đến tinh thần, tình cảm là đồng bào tổ chức lễ nhằm động viên, hoặc tìm gọi linh hồn về. Việc tổ chức làm lễ như vậy đều được gọi là làm vía [ệt khoắn]. Lễ làm vía là một tập quán từ ngàn xưa của người Thái. Họ quan niệm, trong con người, có hai phần: phần xác và phần hồn, hồn lìa khỏi xác thì con người sẽ ốm yếu dẫn đến tử vong vì vậy phải làm vía để hồn vía được ăn mà gắn bó với con người; có như vậy người mới khỏe mạnh, sống lâu. * Các loại làm vía và nghi lễ trong tục làm vía Người Thái quan niệm, con người có rất nhiều hồn vía: “Sam síp khuôn mang nả, hả síp khuôn mang lăng” [Ba mươi vía đằng trước, năm mươi vía đằng sau: vía tóc, vía lông mày, vía mắt, vía ngón chân ngón tay, vía thóp thở, vía bàn tay, vía xương sườn...]. Nếu đau ốm hoặc một bộ phận nào đó trên thân thể bị đau là do vía ấy bị lạc lối, bởi thế phải cúng để gọi vía về, cầu cho nó khỏe mạnh. Chính vì quan niệm như vậy, người Thái nói chung, người Thái Quan Sơn nói riêng có rất nhiều lần làm vía trong cuộc đời của mình: làm vía trẻ con mới ra đời, làm vía trẻ con mất vía, làm vía trẻ con mới ốm dậy, làm vía đặt tên, làm vía hàng năm [ông bà ngoại làm vía cho cháu từ lúc sơ sinh đến khi cháu đi lấy chồng thì thôi], vía thượng thọ, vía trả ơn, vía đóng hòm... Mỗi loại vía có một mục đích khác nhau, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là cách thể hiện những tình cảm cho nhau và cầu mong những điều tốt lành đến với gia đình, cha mẹ và con cháu. Tập tục làm vía có hai loại chính: Loại thứ nhất con trai, gái, dâu, rể làm vía cho bố mẹ [còn được gọi là báo hiếu]. Tục lệ thường có 1 con lợn, 1 con gà để xem chân, các con khác làm thịt để chế biến các món cúng. Mâm cúng có đủ thịt, rượu và đôi vợ chồng, con cái có một bộ quần áo cho bố mẹ, vòng tay vía cho lên mâm cúng vía. Khi cúng xong các con quàng quần áo, váy cho bố mẹ và mời bố mẹ vào ăn gọi là “tóm khoắn”, ăn xong lấy chỉ trắng buộc cổ tay để giữ vía cho bố mẹ mạnh khỏe, sống lâu. Loại thứ hai là ông bà ngoại, cậu, mợ làm vía cho các cháu ngoại. Thủ tục cũng gồm lợn, gà; mỗi cháu một bộ quần áo, hai bát, hai đôi đũa. Khi sắp xong mâm ông bà, cậu phải đích thân gắp cho các cháu ăn cỗ trước gọi là “tóm khoắn”, như vậy các cháu mới khỏe mạnh và thể hiện được tình cảm cậu, mợ dành cho các cháu ngoại. Tục lệ này đến nay vẫn còn được bảo lưu. Về tục làm vía vòng đời của con người: - Lần 1: Lần làm vía đầu tiên là khi đứa trẻ ra đời được 3 ngày tuổi. Lễ này gọi là lễ “oóc phày” - ra khỏi lửa. Theo tục người Thái ở Quan Sơn, khi sản phụ đã sinh nở thì phải ngồi trên lá thuốc đặt ở cạnh bếp bên trong của bếp dành cho nữ giới trong nhà để hơ lửa trong thời gian 3 -7 ngày [tùy từng nơi và tùy sức khỏe của sản phụ]. Thời gian đó cháu bé được đặt trong thúng 4 cạnh [lúng xi ché] dùng để nuôi tằm đã được rửa sạch sẽ, phơi khô. Trong thúng đặt tã lót. Trên miệng thúng che tấm vải màn để ngăn bụi và ruồi muỗi. Thúng đặt cháu bé được để dưới sàn nhà, sát nơi mẹ cháu ngồi hơ lửa trên bếp. Sau 3 ngày hoặc 7 ngày, khi thấy người đã ráo, mẹ cháu bé ra khỏi nơi hơ lửa cùng con lên nằm ở gian ngủ của mình. Ngày đó gia đình làm lễ oóc phày cho cháu bé và mẹ cháu. Đồng thời đặt tên cho cháu luôn. Lễ này mời ông bà ngoại đến dự. Nếu không còn ông bà ngoại thì cậu mợ hoặc bác trai bên ngoại cùng dòng tộc của bé. Cũng có dòng họ hoặc gia đình khi cháu bé đầy tháng mới đặt tên. Nhưng phần lớn là đặt tên bé trong lễ oóc phày. - Lần hai: Khi cháu bé tròn một tháng [30 ngày] bố mẹ hoặc ông bà nội cháu bế ngửa cháu ra khỏi nhà [phải ra khỏi bóng ngôi nhà] đi xung quanh nhà ở dưới sân một vòng khép kín gọi là lễ “quá khôộng” hoặc “oóc khoọc”. Lễ này để cho cháu bé tiếp xúc với bên ngoài, với thiên nhiên trời đất cũng là để cháu biết xung quanh nhà mình mà gắn bó lớn lên, trưởng thành. Lễ này chỉ riêng trong gia đình. Nghi lễ chỉ có con gà hoặc quả trứng gà luộc để làm lễ. Sau lễ này cháu bé có thể được bố mẹ đưa ra khỏi nhà để thăm bên ngoại. - Lần ba: Khi cháu bé đã gần qua tuổi thiếu niên [14 - 15 tuổi] gia đình làm lễ “tặt sai u, sái lá” cho bé. Lễ này nhằm gọi vía cho bé đã sắp trở thành người lớn bước vào đời không nằm nôi nữa. Lễ tổ chức khá lớn, có mời bà một về cúng, làm thịt một con lợn và nhiều gà để cúng và tiếp đãi họ hàng nội ngoại, bà con trong bản. Đến nay, người Thái Quan Sơn học tập theo người Kinh làm lễ đầy tháng, ba tháng, đầy năm cho bé. Trước đây, lễ ba tháng và đầy năm mừng sinh nhật người Thái không làm. - Lần 4: Trước khi con gái đi lấy chồng, bố mẹ cũng làm vía động viên con đi xây dựng gia đình, xa cách người thân, vía hãy đi theo chủ đừng ở lại nhà bố mẹ nữa. Lễ này gọi là gọi vía gái [khoăn xáo]. - Lần thứ 5: Khi con người đã trở về già, có con trai, con gái cưới vợ, lấy chồng sinh con cái thì làm vía cho bố mẹ. Lễ này gọi là “ệt khoắn hớ pó mé” - làm vía cho bố mẹ. Mục đích nhằm tạ ơn bố mẹ đã sinh thành nuôi mình khôn lớn, trưởng thành, có gia đình riêng [có vợ, có chồng, có con]. Chỉ những người con đã có gia đình riêng thì mới làm vía cho bố mẹ. Còn một loại vía không thể thiếu được là bên ngoại làm vía cho cháu ngoại [khoăn lung tá]. Vía này không hạn định thời gian. Những khi cháu ngoại bị ốm đau thì ông bà ngoại, bác ngoại, cậu mợ sẽ làm vía cho cháu. Trong đó, có một kì làm vía chính không thể thiếu được là khi cháu ngoại đã đến tuổi trưởng thành. Lễ này là lễ lớn, mổ lợn, gà và chia tài sản cho cháu. Trong mâm cơm đặt cho cháu ngoại ăn thì cả mâm, bát, đũa, thìa, môi... đều cho cháu luôn. Ngoài ra còn cho cháu tiền bạc, vòng cổ, vòng tay. Những nhà giàu có cho cả trâu, bò, lợn gà giống để cháu làm vốn liếng riêng. Do vậy, người Thái rất quý trọng, tôn sùng bên ngoại, đồng bào có câu: “Lung tá a nha nọi” [Bên ngoại là ông vua con]. Ngoài ra, khi ốm đau, gặp nạn, bị giật mình do sự cố nguy hiểm nào đó thì người nhà hoặc bên ngoại cũng làm vía [gọi vía gọi hồn] cho mình. Tùy theo sự kiện mà lễ vật có thể là quả trứng luộc, con gà, con lợn, tiền, vải, quần áo... Trong làm vía, có một vật không thể thiếu là áo đã mặc của người được làm vía. Sau mâm cơm vía, bao giờ cũng buộc chỉ vào cổ tay hay cho tiền hoặc hiện vật để vía và người được vui vẻ, hết đi sự sợ hãi mất hồn, mất vía. Những lúc có người chuẩn bị đi xa, hoặc đi xa về gặp người thân thì gia đình cũng làm vía cho người đó, như: thanh niên đi bộ đội, thoát li gia đình, gái đi lấy chồng, người thân ở xa lâu ngày đến thăm. Mục đích những cuộc làm vía này là dặn dò vía hãy bám theo chủ chớ rời xa. Nếu vía lạc chủ thì chủ sẽ ốm đau. Làm vía khi người thân đến nhà là để gọi vía của họ về. Chủ đã về rồi thì vía cũng phải về theo, đừng la cà, lưu lạc nơi khác, nhà khác. Hai nước bạn là Lào và Thái Lan - hai quốc gia có nhiều người Thái - khi có người đến thăm ngoài công việc, hội nghị, tọa đàm, thăm thân ra, thế nào họ cũng tổ chức một buổi lễ làm vía cho khách. Buổi lễ đó rất long trọng mà tình cảm thắm thiết, thân thương. Dù làm vía ở đâu, cho ai, hình thức nào, thể thức cũng như lễ vật to hay nhỏ... khi kết thúc tất cả các cuộc làm vía người được làm vía đều được cột chỉ ở cổ tay để buộc lại cho cháu dấu hiệu của làm vía. Nếu là nam thì cột ở tay sợi chỉ đen. Nếu là nữ thì cột sợi chỉ trắng hoặc bằng sợi đay [cây cọ pan]. Cũng có khi cháu ngoại bị đứt chỉ cổ tay, cậu hoặc ông ngoại đến nhà buộc lại cho cháu thì không cần tổ chức làm vía mà buộc lại vẫn được. Nay người ta buộc cổ tay bằng sợi chỉ trắng cho cả nam và nữ. 6.1.5.3. Tín ngưỡng cổ truyền Tín ngưỡng là một lĩnh vực văn hóa có sức sống âm thầm mà mãnh liệt trong sinh hoạt tinh thần của các cộng đồng dân cư. Với đồng bào các dân tộc ở Quan Sơn cũng vậy, tín ngưỡng dân gian từ ngàn xưa đã ăn sâu bắt rễ trong tư tưởng, tình cảm, được lưu truyền qua nhiều thế hệ và vẫn hiện diện trong đời sống hôm nay như một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của mỗi gia đình, cộng đồng bản làng. Trong phần này, cuốn địa chí chỉ nêu khái quát về tín ngưỡng dân gian Thái.
  5. Quan niệm về thế giới Theo quan niệm người Thái, thế giới chia làm bốn tầng theo trục dọc. Tầng con người đang sống trên mặt đất gọi là mường lúm [mường thấp], hay mường piềng [mường bằng]. Phía trên mường lúm là mường vun. Phía trên mường vun là mường phạ [mường trời]. Phía dưới mường lúm là mường lúm linh [người lùn bằng bình vôi]. Mỗi tầng lại chia ra các vùng. Tầng phạ bắt đầu từ “Ba mươi con đường tới, chín mươi con đường chụm” [xám xịp lăm tang hậu, cáu xịp lăm tang tóm], đi qua khu vực vòng ngoài là mường vun, vào đến vòng trong là mường then. Mường vun là thế giới mà linh hồn con người lên hưởng hạnh phúc vĩnh hằng sau khi hoàn thành tốt đẹp kiếp sống làm người. Các thế hệ linh hồn quần tụ theo đắm, nghĩa là theo tổ tiên, dòng họ. Mường then được miêu tả như kinh đô, có nhà cao, cửa rộng, nhiều loại chức dịch xã hội, đứng đầu là pó then, còn gọi là pó phạ hay then luông, tức vua trời. Pó phạ là vị thần cao cả nhất, biết hết mọi thứ trên trời, dưới đất, có quyền phán quyết mọi việc trong thiên nhiên và đời sống con người. Quan niệm về pó phạ, pó then, then luông được phản ánh trong tất cả các hoạt động liên quan đến đời sống tâm linh, tục lệ kiêng kỵ, đặc biệt là trong mo lễ tang và trong tục thờ trời. Làm người phải biết kính trọng và sợ phép trời. Người Thái quan niệm, trời sẽ xử phạt những hành vi bất kính. Người Tày Dọ rất coi trọng thờ trời nên đã xây dựng đền thờ trời gọi là đền Chín Gian. Ở Nghệ An có đền Chín Gian nổi tiếng, xây dựng trên núi Pu Quai thuộc mường Tôn, huyện Quế Phong. Tại Thường Xuân, người ta tổ chức thờ trời [lễ sớ phạ] trên núi Pu Pen thuộc bản Lùm Nưa, phía trước là cánh đồng nằm trong thung lũng Trịnh Vạn và nơi gặp nhau giữa hai con suối nặm Ác và nặm Lẹ. Lễ thờ trời là lễ hội lớn của mường Trịnh Vạn, diễn ra vào tháng chín âm lịch, kéo dài 5 ngày, tất cả mọi người dân trong 9 pọng tham gia. Lễ vật do dân các pọng đóng góp, trong đó có một con trâu làm thịt cúng trời. Tục thờ trời của người Tày Mươi [Thái Đen ở Quan Sơn] thể hiện trong các hình thức cầu nguyện và trình báo như thờ áo trên đỉnh núi hồn mường, treo áo trên cành cây thiêng đầu bản, treo nhau trẻ sơ sinh trên thân cây, cầu mưa, cầu mùa màng, cầu sức khỏe, thờ cúng các thần trên trời, lễ tục kin chiêng, phấn chá, cúng bản, cúng mường...
  6. Tín ngưỡng đa thần hay tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” Tín ngưỡng đa thần hay tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” là quan niệm phổ biến trong các cộng đồng cư dân các dân tộc. Tín ngưỡng này đặc biệt đậm nét trong lịch sử và hiện hữu đậm nhạt khác nhau ở các cộng đồng người. Cư dân Thái nói chung cũng giống nhiều nơi khác có tục thờ đa thần, gồm cả nhiên thần và nhân thần. Nhiên thần gồm có thần núi, thần sông, thổ công, thổ địa, hang động, rừng thiêng, thần cây, thần nhà, thần bếp. Mỗi nhà ở khu đất riêng đều dựng một cái lều thờ thần thổ công ở dưới sân hay ngoài vườn. Khi có khách đến thăm, sắm sửa được bữa ăn thịnh soạn, hay trước khi uống chỉnh rượu cần, người Thái có thói quen cầu khấn mời các thần ăn trước. Ngay cả khi đi rừng, đi sông, lúc giở gói cơm ra ăn, người ta không quên có lời khấn mời thần núi, thần sông. Lễ cúng mái nhà và thần bếp của mỗi gia đình thường bố trí vào trung tuần tháng Giêng âm lịch. Nhân thần được người Thái thờ cúng gồm có nhân vật truyền thuyết, người có công với nước, với cộng đồng và tổ tiên, dòng họ. Nhân vật truyền thuyết được người Thái ở Quan Sơn thờ cúng điển hình nhất là Tư Mã Hai Đào.
  7. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Cũng như người Kinh [Việt] và các dân tộc khác, người Thái coi trọng việc thờ cúng tổ tiên. Với mỗi gia đình người Thái, dù sống trong ngôi nhà cổ hay ngôi nhà hiện đại,... vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà là nơi đặt bàn thờ tổ tiên [còn gọi là bàn thờ gia tiên]. Khác với ngư¬ời Việt, thờ cúng tổ tiên nhiều đời trên cùng một bàn thờ và làm giỗ chạp theo ngày mất của ông bà tổ tiên, ng¬ười Thái trong thờ cúng tổ tiên, không làm định kỳ theo ngày kỵ [ngày mất của tổ tiên]. Hàng năm đồng bào chỉ cúng vào ba dịp cố định, đó là vào dịp năm mới, lễ cơm mới, về nhà mới [nếu có]. Thờ cúng tổ tiên trong dịp năm mới: Vào dịp cuối năm, khi mùa vụ thu hoạch đã xong là khoảng thời gian mọi người nghỉ ngơi sau một chu kỳ sản xuất, lao động vất vả và cũng là để lo tính cho mùa vụ tới. Do vậy, mọi người mọi nhà đều h¬ướng vào việc tổ chức lễ tết - nghi lễ mà ông bà tổ tiên họ bao đời tuân thủ. Trong các bản, các mư¬ờng không khí trở nên nhộn nhịp hơn, ng¬ười ta lo đánh cá, săn bắn, giã gạo, làm r¬ượu trấu... phát vư¬ờn, dọn dẹp nhà cửa. Khi Tết đến, mọi nhà đã chuẩn bị đầy đủ các thứ cần thiết. Sáng mùng 1 Tết [âm lịch] mọi ngư¬ời, mọi nhà tập trung làm các mâm lễ Tết, trong đó mâm cúng tổ tiên là quan trọng nhất. Cùng với mâm lễ này gia đình còn phải làm một số mâm lễ nữa tuỳ theo vai trò, vị trí của gia đình đó trong dòng họ. Lễ vật trong mâm cúng tổ tiên gồm các món ăn bình thư¬ờng, vốn có như: các món cá, thịt lợn luộc, gà luộc, xôi, canh măng, các loại bánh truyền thống. Ngoài ra, còn có các món chế biến từ cá. Thờ cúng tổ tiên trong dịp lễ cơm mới: Lễ thờ cúng tổ tiên trong ngày này không đ¬ược ấn định tr¬ước. Tr¬ước đây ng¬ười Thái chỉ làm một vụ lúa là vụ mùa. Do vậy, lúc đầu họ chỉ làm cơm mới vào dịp mùa thu hoạch đã hoàn tất. Lễ này diễn ra vào ngày nào là tuỳ thuộc vào quan niệm chọn ngày và điều kiện, hoàn cảnh của các gia đình. Thông th¬ường, lễ cơm mới đư¬ợc tổ chức vào khoảng tháng 11 [âm lịch]. Đây là nghi lễ mang tính truyền thống nên bắt buộc mọi nhà phải tiến hành. Trong ngày này, mâm cúng và nội dung thờ cúng tổ tiên là quan trọng nhất. Đồng bào quan niệm rằng để có hạt lúa mang về nhà là sự lao động vất vả quanh năm, đồng thời đó cũng là một phần đóng góp của ông bà tổ tiên - đã phù hộ cho gia đình. Do vậy, làm lễ cơm mới, mời ông bà tổ tiên đầu mùa là tỏ lòng biết ơn tổ tiên, đồng thời cầu mong ông bà phù hộ cho mùa vụ mới được tươi tốt hơn.
  8. Lễ ăn Tết năm mới Trước đây, người Thái Quan Sơn ăn Tết năm mới vào tháng 3 âm lịch, thời gian gần giống như Tết té nước của người Lào. Người Thái quan niệm rằng khi nào trời có tiếng sấm, gà rừng gáy, bìm bịp kêu, ếch, nhái kêu... thì mới gọi là năm mới. Trời sống lại, vạn vật sinh sôi, nảy nở thì con cháu làm Tết mời ông bà, ông vải ở trên trời xuống ăn Tết. Đồ cúng chủ yếu là cá đồ, cá nướng, tôm, cua đồ, thịt lợn, gà luộc, cơm mới, rượu cần, rượu nước. Sau đó, thầy cúng mời ma nhà, linh hồn ông bà quá cố trên trời xuống ăn Tết, cầu mong ông bà phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. Văn cúng có đoạn: “Mú, má, hớ tếm lang; chạng, mạ hớ pến pừng; kháu nặm hớ tếm xá, tếm thán”, có nghĩa là: Lợn, chó, gà, vịt cho đầy gầm sàn; voi, ngựa cho thành đàn, thành lũ; lúa thóc cho đầy gác nhỏ, gác to. Lễ này to nhỏ tùy theo từng gia đình. Gia đình khá giả, có chức sắc như tạo mường thì cúng to, có trống, chiêng, khua lóng, có đại diện các bản chúc Tết, hứa hẹn sang năm mới xây dựng bản mường giàu đẹp hơn. Lễ Tết này hiện nay không còn như trước, bà con chuyển sang ăn tết Nguyên đán như vùng miền xuôi[ ]. Nhìn chung, nét khác biệt giữa tín ngưỡng của người Thái, người Mường, người Kinh hay người Mông hiện nay không phải ở bản chất của tín ngưỡng mà là ở nghi thức và tục thờ. Xu hướng duy trì và phục hồi những yếu tố tích cực trong tín ngưỡng cổ truyền được thể hiện khá rõ. Xu hướng này thể hiện rõ đạo lý uống nước nhớ nguồn như một phẩm chất quý giá ẩn trong mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng các dân tộc. Hiện nay, khi đời sống kinh tế đã có nhiều khởi sắc, việc thờ cúng tổ tiên trong các ngày lễ tết, lễ cưới, mừng nhà mới, thanh minh càng được đồng bào chú ý hơn, tổ chức lớn hơn, bàn thờ tổ tiên được trưng bày nhiều đồ thờ trang trọng, thay cho sự đơn sơ, mộc mạc trước kia. Đó là những đổi thay tích cực, góp phần bảo vệ giá trị gia đình, xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong thời đại hiện nay. 6.1.5.4. Lễ tục, lễ hội Lễ cúng vía lúa: Hằng năm, vào đầu tháng 9 âm lịch, khi lúa đã chín vàng trên nương, người Thái bước vào mùa thu hoạch. Khi lúa đã được chở về chứa đầy nhà dân trong bản, già bản cùng trưởng bản họp cả làng để chuẩn bị tổ chức lễ mừng được mùa. Lúa là loại lương thực cơ bản cho sự sinh tồn nên rất được quý trọng. Họ quan niệm hạt lúa và ngô có hồn nên phải làm lễ cúng tế, như vậy mùa sau mới gặp may mắn, tiếp tục được mùa. Lễ mừng được mùa được tổ chức ngoài trời, ngay tại nương rẫy với thời gian khoảng 2 tiếng. Đối với mỗi mùa vụ, sẽ cúng vía trước và sau khi thu hoạch. Trước khi cấy trỉa làm rẫy, làm nương, người Thái chuẩn bị lễ vật gồm một con gà luộc chín chặt ra, rượu, xôi đồ mời hồn lúa về dùng cơm cúng thần địa, mời thần ăn và bảo vệ cho cây lúa được phát triển tốt tươi, không bị sâu bọ phá hoại, đồng thời mời ma nhà chứng kiến để bảo vệ. Khi thu hoạch, dân bản cũng làm một lễ tương tự, họ đem tất cả những sản vật quý nhất của bản như: con gà luộc chín, đĩa thịt, bánh các loại và không thể thiếu một mâm cơm gạo mới để dâng lên các vị thần và tổ tiên. Sau khi các lễ vật được sắp xếp đầy đủ, chủ lễ là thầy mo của bản sẽ thay mặt bà con dân bản làm lễ cúng trời đất, tổ tiên phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, có sức lao động để sản xuất, cảm ơn ma nhà chứng kiến, các vị thần phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia súc sinh sôi nảy nở từng đàn, gà rừng, chim, chuột không phá hại ruộng, rẫy... Đại ý lời khấn như sau: Thưa thần đất, thần nước Tháng hai chúng con gieo hạt Tháng ba trời cho sấm sét Tháng chín thu hoạch có thóc ăn Nhớ ơn các thần Hôm nay ngày lành tháng tốt Chúng con dâng lên các thần Loại thóc đỏ, thóc đen vàng óng Mong các thần hãy nhận lễ vật và phù hộ Cho chúng con vụ mùa sau bội thu hơn vụ mùa trước. Buổi lễ cúng vía kết thúc trong niềm vui hân hoan của bà con dân bản, mọi người cùng nhau quây quần bên đống lửa, uống rượu cần, ăn uống, hát hò tới tối. Ai cũng hi vọng các ma nhà, các thần đất, thần nước sẽ nghe thấu những lời cầu mong của họ và tin tưởng vào vụ mùa sau sẽ có nhiều thóc hơn và cuộc sống sẽ sung túc hơn. Lễ cúng cơm mới: Sau khi đã thu hoạch lúa về nhà, mỗi gia đình sẽ làm lễ cúng cơm mới. Lễ vật là một con gà, cá sông hay cá ao đã nướng hoặc kho, rượu và không thể thiếu một mâm cơm đồ. Người trong gia đình hoặc mời thầy mo về báo cáo với tổ tiên, ma nhà năm nay được mùa hay không, hôm nay con cháu có lễ vật mời ông bà tổ tiên ăn trước để phù hộ cho con cháu làm mùa sau được tươi tốt hơn. Lời cúng như sau: Hôm nay là ngày bao nhiêu..., con cháu có cơm mới mời ông bà tổ tiên về ăn trước để phù hộ cho gia đình. Hàng năm vào vụ thu hoạch phải cúng cơm mới mời thần linh sau đó gia chủ mới được ăn cơm vụ thu hoạch đó. Lễ cầu mưa: Lễ tục này không phải năm nào cũng diễn ra và ở bản nào cũng có. Khoảng tháng 4, 5 âm lịch nếu thời tiết hạn hán, người ta sẽ tiến hành lễ cầu mưa. Lễ vật cũng đơn giản chỉ là một con lợn, rượu và xôi. Già bản cử thầy mo, thầy cúng đứng ra làm lễ. Người được cử sẽ đọc lời cầu để con cháu làm theo. Người ta lấy cây cỏ, dây ven bờ ruộng, bẹ tre, sau đó buộc vào miệng lóng giã gạo giẫm lên cho kêu [tạo tiếng kêu to để ông trời nghe thấy và biết trần gian đang còn khô hạn]. Họ đi vào từng nhà lấy nước, té vào đoàn đi cầu mưa gồm 30 đến 40 người [con trai, con gái chưa lập gia đình] và nói to “mưa rồi, mưa rồi”. Đoàn cứ tiếp tục đi cho tới đêm khuya. Cũng có lễ cầu mưa làm vào những đêm trời sáng trăng. Thời gian làm từ 20 giờ đến 23 giờ. Nếu ngày hôm sau có mưa sẽ dừng lại, nếu chưa mưa sẽ tiếp tục cầu. Hiện nay do hệ thống cấp nước đã hình thành, vì thế lễ cầu mưa chỉ diễn ra vào những năm hạn hán kéo dài. Lễ tục thờ thần: Tương truyền trong các vị thần của mường Mìn có ông Lò Khằm Yên [Tạo Lá Dốn] từ Lào sang giúp Lê Lợi đánh quân Minh. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Lê Lợi ban thưởng cho ông đất đai. Ông chọn đất mường Mìn để ở và mất ở đó. Đền thờ của ông làm bằng gỗ tại Pom Giới thuộc bản Luốc Làu, xã Mường Mìn. Năm 1948 Pháp ở đồn mường Xia xuống càn đã đốt cháy, đến nay chưa được khôi phục lại. Ngoài ra ở mường Mìn còn có hai vị thần có công với nước cầm quân đi đánh giặc cờ vàng [quân Thái Bình Thiên Quốc thế kỷ XIX] hy sinh vì nước là thần Tiều Lành ở bản Chiềng và thần Tiều Quế ở bản Nhài[ ] [hai vị thần này là đời thứ 6 hậu duệ của ông Lò Khằm Yên]. Dân bản mường coi thần là một vị linh thiêng, trông coi phù hộ sức khỏe, an lành cho dân vì thế khi người dân gặp phải rủi ro, hoạn nạn, mùa màng thất bát họ thường đi tế thần nhờ thần phù hộ cho tai qua nạn khỏi. Mỗi vị thần được họ xây dựng nhà thờ riêng bằng gỗ, nứa thô sơ để thờ cúng hàng năm nhằm bày tỏ lòng biết ơn người có công và xin thần phù hộ cho bản mường mạnh khỏe, mùa màng xanh tốt, chăn nuôi phát triển, cá sông suối lên nhiều. Mỗi năm một lần cúng tế thì cúng tế lợn, gà; năm thứ ba hoặc thứ năm cúng to thì cúng tế trâu, bò. Ngày lễ được tổ chức vào đầu tháng tư dương lịch. Trước khi vào lễ, nhà thờ được sửa sang; nhân dân vệ sinh bản làng, nhà cửa, xay lúa, giã gạo đủ ăn trong 3 ngày, sau đó đón ngày lành tháng tốt để làm lễ tế. Đồ tế gồm có lợn, gà; năm nào to thì có trâu, bò. Ngoài cỗ còn có vải vóc, bạc nén, vòng cổ, vòng tay dâng lên lễ tế thần. Trong dịp lễ, dân bản mường được nghỉ 3 ngày [cằm xần] cũng là 3 ngày vui chơi giải trí, giao lưu văn nghệ và các trò chơi dân gian như trống, chiêng, khua lóng, chơi cù, to lẹ, ném còn... Hiện nay, lễ tế thần chưa được khôi phục[ ]. Lễ hội mường Xia Lễ hội là hình thức sinh hoạt cộng đồng thể hiện lòng thành kính đối với những người có công với bản làng, với nước, ý thức cộng đồng và khát vọng về một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trên vùng đất Quan Sơn, tiêu biểu nhất là lễ hội mường Xia [xã Sơn Thủy]. Hiện nay, ở bản Chung Sơn, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn vẫn còn nền móng nhà ở của gia đình Tư Mã Hai Đào và thủ phủ - nơi ông làm việc thuở xưa [nay trên nền đất ấy là Trường THCS xã Sơn Thủy]. Nhớ ơn người đã có công gìn giữ biên cương, mang lại ấm no cho bản mường và đặc biệt là làm nên sự phồn vinh cho một vùng đất trù phú, xanh tươi, sau khi ông mất, bà con lập đền thờ để hàng năm tiện việc hương khói thờ phụng và coi ông như người giữ vía cho cả mường. Theo tục lệ truyền thống, toàn bộ người dân mường Xia gửi vía vào một hòn đá gọi là hòn đá vía [tiếng Thái gọi là lặc mắn] để cầu ông giữ vía cho cả mường. Cũng từ đó, mỗi lần tổ chức lễ hội mường Xia là mỗi lần hòn đá vía được đào lên tắm rửa sạch sẽ, sau đó bọc vải đỏ trân trọng rước về làm lễ. Xong lễ hội, người ta thận trọng rước về nơi quy định, và hòn đá vía tiếp tục được chôn xuống chỗ của nó, sau đó rào cây xương rồng trấn giữ. Hiện nay, hòn đá vía ở mường Xia vẫn còn nguyên tại vị trí cũ, ngay giữa bản Chung Sơn, gần sát nền móng nhà ở của Tư Mã Hai Đào xưa kia. Hằng năm, vào những ngày giữa tháng 3 âm lịch, bà con mường Xia tổ chức lễ hội mường Xia để tri ân Tư Mã Hai Đào và mong cầu ông phù hộ cho bản làng no ấm, cuộc sống an lành, mùa màng tốt tươi, con người và vạn vật sinh sôi, nảy nở. Khi mở hội mường Xia, trai thanh gái tú trong mường và các mường khác như: mường Mìn, mường Khiết, mường Ly, mường Lò,... và cả mường Bén, mường Sôi [nước Lào] cũng về tham dự ngày hội. Lễ hội mường Xia gồm hai phần là phần lễ và phần hội. Phần tế lễ được tổ chức tại 5 điểm trên địa bàn của đất mường Xia. Đó là: cúng thần mường [tại đền thờ tướng quân Tư Mã Hai Đào], cúng vía chung cho cả đất mường Xia [tại nơi chôn hòn đá vía và đền thờ tướng quân Tư Mã Hai Đào], cúng Sần Cuống ở Sộp Xia [tại nơi giao hòa của suối Xia và sông Luồng], cúng Sần Phiềng Phay [bên bờ sông Luồng, gần thủ phủ của Tư Mã Hai Đào], cúng Sứa Tú Nặm [tại hang Dùa, dưới chân núi Pha Dùa]. Lễ vật gồm: 1 con trâu trắng, 1 con bò, 3 con lợn, 1 con chó, 1 con vịt, rượu cần, rượu siêu và vài chục con gà. Theo quan niệm của người Thái, những vị thần đó đều là những vị khách quý, đo đó đồ lễ phải thực sự như một mâm mời khách quý. Nhạc cụ cho phần rước của lễ hội mường Xia là cồng chiêng. Nhạc cụ dùng trong việc tế lễ tại đền tướng quân Hai Đào là sáo trúc. Phần hội được thể hiện qua các trò chơi, trò diễn của lễ hội như: múa cá sa, trống chiêng, đánh mắc lẹ, bắn nỏ, đẩy gánh, kéo co, khua lóng. Lễ hội mường Xia đã từng bị lãng quên một thời gian. Vào năm 2010, huyện Quan Sơn đã khôi phục và tổ chức lễ hội mường Xia lần thứ nhất và năm 2015 tổ chức lễ hội mường Xia lần thứ hai. Lễ hội đã thể hiện được văn hóa truyền thống của tộc người Thái vùng biên cương Quan Sơn. Lễ hội mường Xia thể hiện xu thế khôi phục, làm sống dậy những giá trị văn hóa, tạo điều kiện cho lễ hội này tìm lại vị thế của mình trong đời sống tinh thần của cộng đồng. Sơ đồ mâm lễ tại điểm cúng hòn đá vía [lặc mắn]

6.1.5.5. Văn học dân gian

  1. Truyện kể dân gian: Lưu truyền trên vùng đất Quan Sơn phổ biến nhất là những truyện kể về sự tích địa danh, sự tích lập bản mường, truyện kể về những người có công xây dựng, bảo vệ quê hương bản mường. Những truyện kể này dẫu mới ở dạng sưu tầm, nhưng vẫn có giá trị cung cấp tư liệu để người đọc biết tới, có thể sẽ là những cứ liệu để tìm hiểu sâu hơn những trầm tích văn hóa, lịch sử của vùng đất Quan Sơn. Truyện kể về ông Phạm Hai [Hai Xim], người đầu tiên khai lập bản Nhài Theo những câu chuyện truyền miệng qua nhiều đời ở địa phương, vào thế kỷ XVII, bản Nhài là một đám đất hoang, rậm rạp, piềng [bãi] màu mỡ, có thể khai hoang thành ruộng đồng, nên đã có một số ít cư dân đến làm ăn sinh sống nhưng chưa có cánh đồng rộng và bản làng hoàn chỉnh. Đến khoảng mùa đông năm 1688, ông Mường Mìn tên là Phạm Bá Nọi, bí danh Tiều Nọi phân cho bốn con trai đi các nơi để mở mang diện tích, sáng lập bản làng [ông thứ hai, tức ông Hai Xim xuống bản Nhài, ông anh cả lên bản Bơn, hai ông em còn lại ở lại bản Chiềng]. Về sau ông thứ ba tên là Đông làm tạo mường nối nghiệp bố. Ông Hai Xim được phân công như vậy không hài lòng nhưng vẫn đi. Ông nghĩ đến đó ở dông dài một thời gian rồi quay về bản Chiềng. Theo đó mà có các tên gọi: bản Dài, suối Dài... Khi chính thức đến nơi ở mới làm tạo bản ông lại rất nhiệt tình, sốt sắng với công việc. Ông chiêu dụng thêm dân đến ở, lãnh đạo, hướng dẫn dân bản đắp đập khơi mương, dẫn nước suối Dài ra khai hoang các piềng bãi dọc theo hai bờ suối và cạnh sông Luồng thành hai cánh đồng rộng trên mười héc-ta ở giáp nhau mà dân bản Dài thường gọi bằng cái tên trìu mến là Tống Cuống, Tống Noóc [cánh đồng trong, cánh đồng ngoài]. Trong đó, có một thửa ruộng to nhất mường, cấy hết 1.200 bó mạ trên một héc-ta gọi là Hơi Luống [thửa to]. Đây là cánh đồng rộng, đứng vào bậc thứ hai của mường Mìn thời xưa và là cánh đồng tốt nhất của mường cả về phong cảnh và độ màu mỡ. Dân bản rất phấn khởi, tự hào với thành quả lao động của mình, an tâm làm ăn, cày cấy các loại lúa nếp đặc sản của địa phương. Đến mùa lúa chín, khắp đồng thơm ngát như hoa nhài, do đó bản đổi tên thành bản Nhài. Bản Nhài là cái tên đầy ý nghĩa, vừa hợp cảnh, vừa hợp tiếng; từ đó cái tên bản Nhài được dùng chính thức [từ năm 1996, khi thành lập hợp tác xã nông nghiệp cấp cao]. Về sau, lớp con cháu của ông còn tiếp tục khai hoang mở rộng thêm diện tích như: Ná Lách bên kia sông Luồng đối diện với bản gọi là Ná Phác Nơ [ruộng bên kia sông], mở rộng tiếp vào phía trong suối Nhài cạnh làng gọi là Na Có Lâu Luốc Pông [ruộng cây sến, đồng lầy], mở tiếp xuống dưới làng như Na Bát, Na Nghịu, Đông Khuông và cuối cùng là Na Lộc, Na Khá, Pháng Khá. Do diện tích được mở rộng, dân cư cũng được du nhập thêm nên bản làng ngày càng rộng lớn, đông vui và dần dần hình thành ba nhóm dân cư nằm cách nhau trên dưới 1km dọc theo đường cái ven sông Luồng ngày xưa, nay là quốc lộ 217 xuyên suốt sang Lào. Bản chạy dài trên 3km gồm Nhài Trên, Na Nghịu [Nhài Dưới], Na Lộc. Ba bản nhỏ hợp lại thành một bản lớn hoàn chỉnh, xưa gọi là Pọng Dài có tạo pọng, quan bản, chá bản và Na Lộc được phân làm bản thín chuyên phục dịch tạo bản, tức tạo pọng. Nhân dân bản Nhài rất mến phục ông Hai Xim, vì vậy khi ông qua đời dân bản làm quan tài bằng cây bi, tiếng Thái gọi là khón vín cho ông. Ông em ở bản Chiềng cũng làm một quan tài bằng cây mang, tiếng Thái gọi là khón xím đắp trùm lên phía ngoài cho ông. Vậy là ông Hai được đắp hai quan tài gọi là trùm kép; từ đó dân bản mường gọi ông là ông Khón Vến Khón Xím. Đây là một trường hợp đặc biệt. Dân bản Nhài nhớ đến công lao của ông với tư cách là người đầu tiên khai lập nên bản Nhài, nên đã tôn linh hồn ông lên làm thần bản, gọi là thần Khón Vến Khón Xím, rồi lập đền thờ cúng hàng năm từ thời đó đến ngày khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám mới thôi[ ]. Truyện kể về hai vị thần ở mường Mìn Ở mường Mìn có hai ông là Tiều Lành tức Phạm Lành ở bản Chiềng Mìn [nay là xã Mường Mìn] và ông Tiều Quế tức Phạm Quế ở bản Nhài, Mường Mìn xưa [nay là xã Sơn Điện], đã đứng lên tập hợp nhân dân vùng mường Mìn, mường Xia thành lập một đội quân đánh giặc cờ vàng bảo vệ quê hương, đất nước. Đội quân người Thái do hai ông chỉ huy đã tiến về phía tây bắc sông Mã cùng với đội quân của huyện Quan Hóa ngày xưa đóng đồn trấn ải ở Quán Pế sông Mã thuộc bản Đỏ, xã Phú Lệ [nay là xã Phú Thanh, huyện Quan Hóa, giáp ranh với huyện Mai Châu - Hòa Bình] để chặn đường tiến quân của giặc cờ vàng xuống Quan Hóa - Thanh Hóa. Quân cờ vàng được bọn tay sai dẫn đường đã từ Mai Châu tiến quân ra tập kích đánh đồn Quán Pế. Đội quân do hai ông chỉ huy đã cùng với đội quân của huyện đánh trả quyết liệt, bẻ gãy đợt tiến quân của giặc xuống Quan Hóa. Trong trận giao chiến ác liệt này, quân giặc bị tổn thất nặng nề, nghĩa quân cũng bị hi sinh một số tại đây, số còn lại đánh truy kích quân địch lui vào phía Mai Châu, đến cánh đồng bản Bó - Chiềng Chu [mường Mùn] thì gặp quân chi viện của giặc ập tới. Nghĩa quân ở vào thế bất lợi về tương quan lực lượng, lúc này quân ta ít hơn quân địch nhiều lần, để đánh trả quân thù, hai ông cùng với quân của mình dựa vào gò đất và gốc cây thị ở cánh đồng bản Bó - Chiềng Chu đánh cầm cự với quân địch đến cùng và anh dũng hi sinh. Ông Tiều Quế được nhân dân bản Nhài quê ông rước về làm thần bản, lập đền thờ cúng hàng năm. Linh hồn của các ông còn được các ông mo cúng đưa lên làm thần mường Dùa [tức thần núi Pha Dùa] để trông nom, cai quản bản mường. Ngoài việc lập đền thờ cúng, người Thái vùng Quan Hóa, Quan Sơn nói chung và Mường Mìn - Sơn Điện nói riêng nhà nào cũng cúng ma nóc nhà [tiếng Thái gọi là “phí đăng kha”, tức ma trên nóc nhà]. Trên đường từ mường trời xuống đến bản “Cum Làng”, các thần đi thuyền theo bờ biển đến cửa sông Mã, Thanh Hóa rồi ngược lên theo dòng sông Mã đến bến Hồi Xuân, Quan Hóa rồi tiếp tục lên đến đồn Quán Pế làng Đỏ và gốc cây thị ở cánh đồng bản Bó - Chiềng Chu mời linh hồn những tử sĩ ở hai nơi này cùng về ăn cỗ với họ hàng, con cháu ở quê nhà. Nguyên văn lời cúng như sau: “Dá dá này, mời lấy linh hồn ông cha tử trận ở Quán Pế đồn xưa này, mời lấy linh hồn các tử sĩ ở gốc cây thị cánh đồng bản Bó [Chiềng Chu] này về ăn cơm với họ này, về ăn cỗ với con này”. [Tiếng Thái là: “Dá dá này, mới ấu đắm dú Quán Pế tí đôn luống này, mời ấu đắm đú cộc có hướng bán Bó này, khăn na tó Chiềng Chu này, mưa kín kháu nóm hàng này, mưa kín páng nóm lúc này”]. Truyện kể sự tích phân chia ranh giới mường Mò, mường Chự Chuyện dân gian kể lại rằng ngày xưa mường Mò rất rộng nhưng tạo mường Mò nghiện hút thuốc phiện, ít quan tâm đến dân chúng nên dân mường Mò đói, khổ hơn các mường khác lân cận. Nhân dân một số bản kề với mường Chự muốn về với mường Chự sinh sống làm ăn, nhưng tạo mường Chự nói nếu về thì lấy cả đất cùng về mới cho, nếu chỉ di cư về mường Chự thì không đồng ý. Từ nguyện vọng đó của nhân dân nên tạo mường Mò và mường Chự tổ chức các cuộc thi, ai thắng thì được đất, được dân. Cuộc thi thứ nhất: Thi xuôi bè kéo bè theo sông Lò, hai bên gặp nhau ở đâu thì chia ranh giới ở đó. Theo đó tạo mường Chự phải đóng bè kéo từ Chiềng Xày [cửa suối Xày Km 19, đường 217 ngày nay]. Đồng thời giao kèo với người giám sát của mường Mò là do phải kéo bè ngược nên người giám sát không được lên bè mà đi theo đường bộ để giám sát. Lợi dụng tình thế này, khi vào chỗ khuất thì bè cũ bỏ lại cho bè trạm trên xuất hành theo kiểu chạy tiếp sức. Vì vậy mà cùng thời gian như nhau nhưng bè của mường Chự đi được nhiều quãng đường hơn bè mường Mò xuôi từ bản Mò, Tam Thanh xuống. Mường Mò thấy lạ không nhất trí cho kiểm tra lại thì quả nhiên mường Chự có ba bè ở ba trạm cách xa nhau để tiếp ứng. Hai bên lại tổ chức cuộc thi thứ 2: Mổ một con trâu đực to giã làm chẻo rồi chia đều cho hai đoàn của hai mường với số người bằng nhau lấy cơm nếp đồ và chấm chẻo ăn. Đội nào ăn xong trước thì đội đó thắng. Đội của mường Chự ranh ma hơn, vừa lấy cơm chấm vừa dùng ba đầu ngón tay bốc chẻo trâu kèm vào một ít cơm mỗi lần chấm nên chẻo mau hết, đội mường Chự lại thắng. Đội mường Mò chưa nhất trí đòi kiểm tra lại thì thấy cơm ở mường Chự còn nhiều mà chẻo thịt trâu mường Chự thì hết, thấy không hợp lý, nên cuộc thi không thành. Hai bên tổ chức cuộc thi thứ ba là thi cưỡi ngựa: Mỗi đoàn chuẩn bị một con ngựa khỏe, một người giỏi cưỡi ngựa cùng xuất phát tại trung tâm mường có sự giám sát chéo lẫn nhau, hai ngựa xuất phát cùng một giờ, chúng gặp nhau ở đâu thì chia ranh giới hai mường ở đó. Chạy đến cửa suối Lý [cầu sông Lò bây giờ] ngựa mường Mò không chịu qua sông Lò. Ngựa của mường Chự lên gặp ở đó nên hai mường thống nhất lấy điểm này làm ranh giới. Từ đó, mường Mò không còn bản Ngàm và bản Bôn do phải giao lại cho mường Chự cùng các bản khác, nên đặt thêm bản Ngàm, bản Bôn mới cho mình, do đó hiện nay hai mường đều có bản Ngàm, bản Bôn.[ ] Truyện kể về sự tích núi Lá Hoa [pha Bóc Mạy] Ngày xửa ngày xưa, xuất phát từ tình cảm bang giao thắm thiết giữa hai nước Việt - Lào, vua nước Việt đã gả công chúa cho hoàng tử, con vua Lào. Chẳng may gần đến ngày đi đón dâu thì chàng rể là hoàng tử anh bị ốm không sang Việt Nam đón dâu được. Theo tục lệ cho phép, vua Lào cử hoàng tử em đi đón dâu thay anh. Khi sang đến Việt Nam, nhìn thấy chị dâu xinh đẹp quá, hoàng tử em chợt có ý định cướp chị dâu làm vợ. Từ ý định đó, chàng cùng đoàn rước dâu cố tình kéo dài thời gian rước dâu bằng cách cho đoàn rước dâu nghỉ ngơi dài ngày ở nhiều nơi[ ]. Tại địa danh bản Khà[ ] chàng hoàng tử em đã tổ chức lễ cưới với chị dâu và định cùng nhau sống ẩn dật lâu dài ở nơi xa xôi hẻo lánh này. Vua Lào chờ mãi không thấy đoàn rước dâu về liền cho người đi dò la tin tức thì mới biết hoàng tử em đã lập bản ở lại đất Việt Nam, nơi sơn cùng ngõ tận heo hút mà cả vua Lào và vua Việt đều không biết. Biết đây là một tội nặng sẽ bị vua cha trừng phạt nghiêm khắc nên hoàng tử em của nước Lào và chị dâu [công chúa Việt] đã lên đỉnh núi đá tự vẫn. Hồn vía cùng thể xác của họ biến thành các cây có lá đủ các loại màu sắc rực rỡ trên núi cao. Từ đó người dân địa phương đặt tên cho núi này theo tiếng Thái là Bóc Mạy [núi Lá Hoa].
  2. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao Tục ngữ, ca dao của người Thái rất phong phú. Những câu tục ngữ, thành ngữ được người Thái sử dụng trong cuộc sống rồi lưu truyền từ bao đời nay là một phần không thể thiếu trong di sản văn hóa truyền miệng của người Thái ở Thanh Hóa, Việt Nam nói chung và ở Quan Sơn nói riêng. Chiếm một số lượng đáng kể trong tục ngữ của người Thái là những câu tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất. Tuy trình độ kinh tế chưa phát triển, nền sản xuất còn ở dạng tự cung tự cấp nhưng người Thái đã sớm có nền văn minh lúa nước. Từ xa xưa ông cha đã biết đến kỹ thuật đắp đập đào mương dẫn nước vào piềng [bãi] để khai hoang làm ruộng nước. Bằng mắt thường họ quan trắc dây thừng, dây rừng hoặc bằng kéo máng nước, rồi đào mương, đắp đập bằng gỗ, nứa [tài nguyên sẵn có tại chỗ], ngăn sông, suối, đào thành con mương dài hàng cây số như mương Luông bản Chiềng Mìn, khai hoang hàng chục héc ta ruộng nước làm gốc, nếu không đủ lương thực mới làm thêm rẫy. Do đó, người Thái có câu: “Háy tếm tá vau pan nà huối nọi”, nghĩa là: Rẫy đầy mắt không bằng ruộng thửa nhỏ”[ ]. Họ khuyến khích phát triển ruộng nước, hạn chế phát nương làm rẫy. Bởi vì, làm nương rẫy phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nếu năm nào mưa gió thuận hòa thì năm đó được mùa, còn nếu năm nào thời tiết khắc nghiệt thì mất mùa, cuộc sống bấp bênh. Mặt khác làm nương rẫy là phá rừng, hủy hoại môi sinh, môi trường ảnh hưởng đến đời sống con người. Do vậy, trong nhận thức của người Thái, họ cho rằng dù nương rẫy rộng bao nhiêu cũng không chắc ăn bằng một thửa ruộng con. Ý thức về ruộng nước đã được người Thái xác định cùng với quá trình lập bản, dựng mường: Mì nặm kin, chăng mì lín du. Dịch: Có nước uống mới có đất ở[1]. Người Thái thường chọn sống quần cư ở các thung lũng lòng chảo, chân núi, nơi có địa hình rộng thấp gần sông suối, có điều kiện làm mương, đập đưa nước vào các piềng bãi để khai hoang làm ruộng nước. Làng và ruộng luôn gắn với nhau, làng trên ruộng dưới nên người Thái có câu: “Háy tín phá, nà tín ván”, nghĩa là: “Rẫy chân núi đá ruộng dưới làng” là tốt nhất. Đơn vị hành chính xưa lấy mường làm gốc: “Quần mì mường, phường mì kháu”, nghĩa là: Người có mường như cây lúa có bông. Kinh nghiệm xem thời tiết chọn ngày tháng gieo trồng xưa dựa vào một số hiện tượng để dự báo thời tiết như nghe sấm động đầu năm, người Thái có câu: Pha họng húa Sằm pánh xá Pha họng húa Má pánh xiếm. Nghĩa là: Sấm động đầu sông Chu sửa gác lúa [Tức năm đó mưa thuận, gió hòa được mùa] Sấm động đầu sông Mã sửa thuổng đi đào củ mài [Tức năm đó sẽ hạn hán, mất mùa, đói kém] Người Thái cũng có kinh nghiệm chọn ngày, tháng gieo trồng từng vụ mùa. Họ thường chọn theo kiểu bấm đốt ngón tay, chia thành 8 loại ngày nằm trong 2 vòng trong và ngoài ứng với những điều may, rủi, đó là những ngày “cấn cóng, xướm cóng, kim cóng - vòng trong; cấn xá, xướm xá, kín vá - vòng ngoài”, còn “khóa ngàng, khóa ho” - ở giữa. Người ta thường chọn cấy, trỉa ruộng rẫy vào ngày cấn cóng, xướm cóng là ngày tốt lúa, hoa màu củ nhiều, bông chắc, ma nhà bảo vệ không bị tà ma khác ăn cắp, quấy nhiễu. Tục ngữ có câu: “Hươn lơ hách háy hách nà mén mự cấn xá, xướm xá đắm hươn nhằng khúm/ Hươn lơ hách háy mén mự hại phí chứ páy áu” [Nghĩa là nhà nào trỉa rẫy, cấy ruộng vào ngày “cấn xá, xướm xá” thì ma nhà bảo vệ, nhà nào trỉa, cấy vào ngày xấu ma nhớ ngày đi lấy]. Trong 8 ngày, người ta kiêng nhất là ngày “khóa ho” là ngày rủi ro nhất, cấy, trỉa, dựng nhà, đi đường, cưới xin không bao giờ làm vào ngày này. Người Thái xưa có tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, họ coi anh, em trong làng như anh, em một nhà, sớm tối, vui, buồn có nhau. Họ có câu: “Nọng pí dù cáy vau pớn tày huốm ván”, nghĩa là: Anh em nhưng ở xa thì không bằng người cùng làng bản. Có miếng ăn họ cùng chia nhau, biếu nhau, ai cũng được ăn. Ví dụ người thợ săn bắn được nai, hoẵng, lợn lòi đều đưa ra một nửa con để biếu làng, chia đủ cho đầu hộ, nửa còn lại làm bữa mừng may mời anh em trong làng đến ăn và ngược lại khi thợ săn hoặc bất cứ ai người trong làng gặp phải rủi ro mọi người đều đến thăm hỏi và xúm tay giúp đỡ. Trước đây thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày và đồ dùng ngày Tết [chủ yếu là thịt chim, thú rừng, cá và các loại măng, nấm...] đều được tìm kiếm trong thiên nhiên. Ở mường Mìn, sông Luồng, suối Yên, suối Bun có tiếng nhiều cá. Xưa kia người Thái trong vùng có câu ca: “Pá khinh lướm tớ nặm dong vóc láo sau”, nghĩa là: Cá chạy ăn dưới nước như sao trên trời. Đến mùa xuân, hè cũng là mùa ăn Tết tháng 3 âm lịch trùng với Tết Bunpimay của người Lào, bà con thường rủ nhau đi đánh bắt cá tập thể, phổ biến có mấy cách: thứ nhất gọi là “hặp còn”, bà con rủ nhau đi cả làng, tìm đoạn sông chỗ nào có hai nhánh nước chảy họ đắp kín một nhánh cho nước chảy sang nhánh thứ hai để cạn nước và bắt cá; cách thứ hai dùng thuốc từ vỏ cây, lá cây, hạt cây giã ra hòa vào nước cho cá say để bắt gọi là “vưa pá”; cách thứ ba dùng phên nứa chặn ngang dòng sông rồi dùng phên nứa làm sàn cho nước chảy vào sàn cá, nhất là mùa mưa lụt gọi là “lý”; cách thứ tư gọi là “pha bằng”, cách này xua đuổi cá chạy vào một vùng rồi bao vây đánh bắt bằng các phương tiện như chài, lưới, vó, xúc [Đây là cách đánh bắt cá đông vui nhất có cả đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ tham gia]. Cá bắt được đem chia đều cho mọi người theo quy định của lệ làng. Tập quán săn bắt và đánh bắt cá tập thể hiện nay không còn duy trì vì thú rừng và cá không còn nhiều như trước. Sống gần rừng, nhờ rừng, xem rừng là chỗ nương tựa cả về vật chất và tinh thần của con người: “Tái pa phắng, nhằng pa liệng” [Chết rừng chôn, còn rừng nuôi] nên người Thái có nhiều kinh nghiệm về khai thác và bảo vệ rừng: Mì lín chăng mì dá Mì pa chăng mì nặm. Dịch: Có đất mới có cỏ Có rừng mới có nước. Hay: Dóm pa bạy lùn lăng chăng má Bạy hớ nặm chú bo láy lồng Phớ chứ láy khoăm nặn mằn chăng pến cồn. Dịch: Giữ rừng cho muôn đời rừng xanh phát triển Để cho muôn mó nước tuôn trào Ai nhớ được câu nói ấy thì mới nên người. Phần lớn những câu tục ngữ về lao động sản xuất của người Thái cho thấy họ là những người yêu lao động, trân trọng những người cần cù, siêng năng: Căm kháu dú tớ lín Căm kín dú tềnh pa Phớ cháng xóc láy kín. Dịch: Hạt cơm dưới đất Miếng ăn trên rừng Ai khôn khéo tìm được ăn. Về việc học hành, người Thái luôn khẳng định vai trò của người thầy dạy chữ, giá trị của sách vở cho chữ để tu thân: Dác lặc pành xày Dác páy pành mạ. Dịch: Muốn biết quý thầy Muốn đi quý ngựa. Hay: Bau hụ xứ mềnh bau pến xư có bau hụ. Dịch: Không biết chữ mình hư cũng không nhận ra. Xã hội bản mường Thái xưa rất coi trọng giáo dục tự giác, chú trọng giáo dục đến từng lứa tuổi. Đối với người già, họ luôn tôn trọng và coi người cao tuổi là chỗ dựa, là trụ cột cho làng, cho gia đình về mặt tinh thần. Khi có công có việc trong nhà, trong bản, người Thái thường dọn mâm riêng cho người cao tuổi và sắp đặt ở vị trí trang trọng nhất trong nhà, sau đó mới đến các mâm đại trà của con cháu. Mâm của người cao tuổi thường là những thức ăn ngon nhất. Về mùa đông, họ dành chăn, áo ấm cho người già, lấy củi tốt đốt cho người già sưởi ấm... Lời nói của người cao tuổi được con cháu tôn trọng tuân theo: Phu tháu sớ ệt cốt lạu sáu kéo hớ ván hớ hườn. Dịch: Người già làm cột trụ cho bản, cho nhà. Hay: Hớ phu tháu kín con, nắng nứa. Dịch: Cho người già ăn trước, ngồi trên. Hay: Khoàm phú tháu pớn páu ngần, khằm. Dịch: Lời người già quý như đống bạc, vàng. Đối với thanh niên, lứa tuổi con trai, con gái sắp đến tuổi trưởng thành [khoảng 13 - 15 tuổi trở lên], người nhà [bố, mẹ] tổ chức làm lễ cắt dây nôi, dây võng. Ýnghĩa của lễ này là công nhận con mình đã lớn khôn, không còn nằm nôi, nằm võng như trẻ nhỏ nữa, cầu mong con được khoẻ mạnh xinh tươi, cường tráng như bao trai tài gái giỏi khác. Người Thái cho rằng người đến tuổi thanh niên là nhuệ khí của gia đình, làng bản; là sức mạnh tinh thần, vật chất của xã hội, cho nên đồng bào đã có câu: Phú khá khánh hành lít Việc hại pến việc lí pớ mi phú núm. Dịch: Người khỏe chân cường tráng Việc xấu thành việc tốt bởi có lớp trẻ. Người Thái coi trẻ em là mầm sống tương lai nên thường dành sự ưu ái, tình cảm tốt đẹp nhất cho con trẻ. Tục ngữ Thái có câu: Lình nọi ói hặc. Dịch: Trẻ em là vốn quý. Hay: Pành lúc tay mớ púm màn Pành lán tay chờ hiếng cớt. Dịch: Yêu con từ khi mới chửa Yêu cháu từ lúc mới nở, mới sinh. Trong thái độ đối nhân xử thế, người Thái nhắc nhở nhau: Nha úp lái mằn ca Nha bá lái mằn ngau Nha cáu lài mằn pớn. Dịch: Đừng nói nhiều nó quá Đừng nhắc nhiều nó buồn Đừng gãi lâu nó trớt. Hay: Ngắm hại hớ pí, mằn chệp tọng Ngắm hại hớ nọong mằn chệp tặp. Dịch: Nghĩ xấu cho anh nó đau lòng Nghĩ xấu cho em nó đau gan. Đối với khách đến nhà, hoặc với người thân đến nhà, phải biết phép tắc “khách đến cắm cần rượu” và “con cháu đến nhà cho nắm cơm, ông bà đến nhà đơm miếng trầu”. Khách đến nhà lúc nào cũng được quý trọng: Mà dàm chạu kin ngài Mà dàm xai kin láu Tấu dàm khắm nòn xưa, hôm phà. Dịch: Đến buổi sáng ăn cơm Đến buổi tr¬ưa uống r¬ượu Đến buổi tối ngủ đệm, đắp chăn. Đối với mường bản, hàng xóm, cần phải lấy tinh thần cộng đồng làm trọng: Căm pạ pó dọn phạ Căm pạ bán dọn húa chớ. Dịch: Mồ côi bố tại trời Mồ côi bản tại mình. Hay: Kháu mương lơ áu mạy mương nặn ệt tóc Óc mương lơ áu vơ mương nặn hó kháu bén. Dịch: Đến mường nào lấy cây mường ấy làm lạt Ra đến mường nào lấy lá mường ấy gói bánh ú. Người Thái quan niệm, sống lẻ loi không bạn bè dù có tài giỏi đến mấy cũng không thể xây dựng nên làng, nên bản. Muốn xây dựng nên làng nên bản cần phải đoàn kết, tập hợp nhiều người, có già, có trẻ. Trong quan hệ với cộng đồng, quan niệm của người Thái là vỗ tay cần nhiều ngón, bàn kĩ cần đông người, nhiều cây làm nhà mới đẹp, mới may mắn, nhiều cột chống vững sàn, nhiều anh em nhà mới vui vẻ, làm người phải trông rộng nghe xa, biết luật, biết lý mới là người tinh, rõ đường phải trái phân minh, sống có nghĩa có tình mới nên người. Tóm lại, kho tàng tục ngữ, ca dao của người Thái lưu truyền trên vùng đất Quan Sơn rất phong phú. Đó là những tri thức, kinh nghiệm quý báu, là những đúc kết của dân gian về lao động sản xuất, giao tiếp ứng xử trong gia đình và cộng đồng, là những phương châm đối nhân xử thế, những luân lý về đạo đức, làm người. Hệ thống ca dao, tục ngữ đa dạng ấy đã phản ánh vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất, tính cánh, những nét đẹp văn hóa của con người trên vùng đất Quan Sơn.
  3. Dân ca [khặp] Dân ca của dân tộc Thái có hai tiểu loại chính là dân ca sinh hoạt và dân ca nghi lễ. Dân ca nghi lễ là những bài mo, khấn, cúng,... Dân ca sinh hoạt là các lời hát nhằm thực hiện chức năng sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày như ru con, vui chơi, bày tỏ tình cảm đối với quê hương đất nước, bày tỏ tình yêu lứa đôi hoặc trong những sinh hoạt tập thể có tính chất giao lưu đối đãi phong tục như uống rượu cần. Dân ca sinh hoạt của người Thái có tên gọi chung là khặp, có nơi gọi là khắp. Khặp không chỉ có nghĩa là hát, mà còn có nghĩa là thơ ca, cách trình diễn thơ ca. Những lời khặp có vần vè như thơ nhưng nó còn có nhạc điệu và tiết tấu. Trong các thể loại văn học dân gian Thái, khặp phát triển mạnh và xâm nhập vào cả thể loại chuyện kể dân gian [diễn ca các tác phẩm văn học dân gian bằng khặp]. Khặp có nhiều loại khác nhau, cách phân loại có khi tùy thuộc vào ngữ cảnh người khặp, tùy từng địa phương. Hiện nay, phổ biến có ba cách chính để phân loại khặp. Cách thứ nhất phân loại theo địa phương. Mỗi địa phương có giọng nói, âm vực khác nhau sẽ có các điệu khặp khác nhau. Cách thứ hai là phân loại theo nội dung. Tùy theo nội dung mà người hát có thể có hình thức khặp khác nhau. Chẳng hạn, nếu là sử thi như “Quắm tô mương” hay “Táy pú xấc” thì không khặp mà chỉ đọc có làn điệu. Nếu là anh hùng ca thì khặp xư nghĩa là ngâm, tương tự như ngâm thơ. Còn các tác phẩm như Xống chụ xon xao, Khun Lù Nàng Úa thì khặp theo điệu “bao xao”... Cách thứ ba phân loại theo làn điệu khặp. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể mà người khặp có thể khặp những làn điệu khác nhau. Trong bữa tiệc liên hoan, đón khách quý, đám cưới thì khặp theo làn điệu “pàn lấu, pàn khấu”, điệu khặp chậm, thiết tha, giọng vừa phải. Khi đang trên rừng kiếm củi hay hái măng,... thì khặp theo làn điệu “khăm pá qua đông” [hát qua rừng qua núi]. Khi trên đường, trên nương thì khặp theo làn điệu “long tong”. Khi đang xuôi bè thì khặp theo làn điệu “lóng pè”, điệu khặp thiết tha, khoẻ mạnh, giọng ngân cao vang vọng núi rừng, sông nước. Khi ru con ngủ thì khặp theo làn điệu “ứt ừ lúc”, giọng ngân dài, thiết tha trầm bổng. Những tác phẩm thuộc thể loại sử thi thì có thể khặp làn điệu khặp xư, tương tự như ngâm. Các truyện thơ như Khun Lù Nàng Úa, Xống chụ xon xao thì khặp theo làn điệu “bao xao”. Kho tàng khặp của người Thái ở Thanh Hóa nói chung, Quan Sơn nói riêng rất phong phú. Nếu ở Tây Bắc phổ biến là khặp hạn khuống - khặp bao xao thì ở Thanh Hóa nhiều nhất là loại khặp tự do, khặp yêu đu năm ne,... Đó là những điệu khặp ngọt ngào trên đường đi, trên nương rẫy, hay vắt ngang hai bờ núi. Nội dung trữ tình phản ánh quan niệm về lẽ sống, cách ứng xử, tình cảm đối với quê hương xứ sở, về những đức tính cơ bản của con người như: lòng nhân ái, sự vị tha, đức kính già, yêu trẻ được thể hiện trong cách ứng xử, trong quan hệ giữa các thành viên trong bản, trong mường; trở thành những giá trị truyền thống, được người Thái và tất cả mọi người dân, dù ở tộc người nào cũng thừa nhận, xem đó là những giá trị chuẩn mực trong quan hệ giữa người với người và với cộng đồng. Sau đây là một số làn điệu khặp của người Thái huyện Quan Sơn: Khặp xư là làn điệu phổ thông nhất. “Khặp xư” có nghĩa là hát thơ nhưng nhạc điệu trong khặp xư đã có một vị trí cao hơn so với phần nhạc trong các thể ngâm thơ. Khặp xư gồm nhiều điệu khác nhau tuỳ theo nội dung của tác phẩm hay theo ngữ cảnh khi hát. Ví dụ: Khặp chôm hươn mơ [hát thơ lên nhà mới]. Chủ nhà hát xin với tổ tiên, các đấng siêu nhiên để lên nhà mới, đại ý: Nhà lành hay là dữ. Nếu là dữ thì hãy lành ngay, nếu nhà lành thì ta sẽ lên ở. Lên ở để sinh sôi nảy nở, để khoẻ mạnh sống lâu. Các cụ ông, cụ bà, tổ tiên; các ngài thổ công, thổ địa hãy chấp thuận và phù hộ cho gia đình bình yên. Sau đó chủ nhà mới bước lên nhà. Khặp chôm ái, chôm nọng là điệu hát ứng tác hay hát gọi. Nó được sử dụng trong các dịp gặp gỡ, khi giã gạo, trong vòng xoè tập thể, trong tiệc tùng, đôi khi còn dùng trong cả nghi lễ... Nhạc điệu của khặp chôm ai, chôm nọng cũng gần giống khặp xư [vui, trong sáng] nhưng có cấu trúc: mở đầu mỗi khổ hát có đoạn “ai đu” [đoạn mở đầu], tiếp sau là hát ngân nga từ 1 đến 3 câu và kết thúc mỗi khổ hát lại có đoạn “au hang” [đoạn nhạc đóng]. Người hát hát hết một khổ, tập thể sẽ hát nhắc lại đoạn “au hang” để hưởng ứng gọi là “xướng”, sau đó người hát mới hát sang khổ tiếp theo. Khặp pàn láu, pàn kháu [hát trong mâm rượu, mâm cơm]. Hát trong mâm cơm cũng có nhiều loại, mục này chỉ nói đến điệu hát đối đáp thông thường như: thăm hỏi, khen chủ hiếu khách... Một số nội dung khác cũng hát trên mâm cơm nhưng sẽ hát theo điệu khác như: khặp bao xao, khặp tón pợ... Khặp tón pợ [hát đón dâu] gia đình nhà trai, sau những lời “khặp” chào hỏi sẽ “khặp” xin đón dâu, lời hát khiêm nhường và có thể kéo dài suốt ngày đêm. Mỗi bên thường tìm cho mình người tài giỏi để đối đáp. Khặp bao xáo [hát trai gái giao duyên] là điệu khặp đặc biệt nhất của khặp Thái. Loại khặp này được dùng trong các dịp gặp gỡ giao duyên, lễ hội, ngày tết, đám cưới xa. Điệu khặp còn được xem như thay cho lời muốn nói, khi vui người ta cũng khặp, lúc buồn người ta cũng khặp; khi khặp người ta thường kết hợp với pì khúi [sáo dọc]; giọng khặp trầm bổng cùng với điệu pì ngân nga tạo nên một thứ âm thanh tha thiết. Khặp bao xáo thường chỉ dành cho trai gái giao lưu, gặp gỡ để tìm hiểu, giãi bày, tỏ tình, đôi khi để kể lể, than vãn với nhau khi gặp phải những khổ đau, oan trái, chia ly. Vì vậy, khặp bao xáo trở nên đa dạng, độc đáo, được giới trẻ yêu thích nhất. Khặp bao xáo cũng có nhiều làn điệu, tùy nội dung, hoàn cảnh, sự việc cần tâm sự, tỏ bày cùng bạn tình mà vận dụng. Khặp ứt ư [à ơi] lực nói là điệu hát ru. Đây cũng là làn điệu có nhiều bài khác nhau nhưng khi hát phải đúng bài bản, không được thay đổi cả âm điệu và nhịp điệu. Khi hát người ta có thể co hoặc thả dây nôi cho dài hay ngắn để có nhịp hát nhanh hay chậm. Khặp ồi thường được những người trung tuổi, người già khặp chúc tụng nhau trong các dịp cầm vía, mừng nhà mới, đám cưới... Khặp Thái ở Thanh Hóa thường được mở đầu bằng câu “Yêu đu năm ne... ót ơi, lá ơi...!”, ý của câu hát là: Thương yêu lắm út ơi...! Khặp Thái từ lâu trở thành nét sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của người Thái. Trong dòng sông cuộc sống đang trôi chảy hàng ngày, hàng mùa, hàng năm, trong những cuộc vui, ngày lễ,... các làn điệu khặp như một món ăn tinh thần hòa vào trong đó, thể hiện đời sống văn hóa phong phú của người Thái.
  4. Truyện thơ Nguồn truyện thơ của người Thái khá phong phú. Tất cả các truyện thơ Thái đều được người Thái ở các vùng biết đến và lưu truyền trong dân gian. Truyện thơ Thái được diễn xướng trong sinh hoạt văn nghệ dân gian bằng hình thức hát - kể. Tuy nhiên, do quá trình hình thành mà có những truyện thơ được lưu truyền phổ biến ở vùng này nhưng lại nhạt ở vùng khác. Các tác phẩm: Tiễn dặn người yêu, Khun Lù - Nàng Úa, Khăm Panh,... là những truyện thơ đặc sắc của người Thái. Truyện thơ Tiễn dặn người yêu được công bố sớm nhất là vào năm 1957, lưu truyền phổ biến ở vùng Tây Bắc. Truyện thơ Khăm Panh được công bố vào năm 1973. Hình tượng nhân vật Khăm Panh và nàng Mứn có nhiều chi tiết gắn với thực tế xã hội, lịch sử của vùng mường Khoòng [huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa]. Ở Quan Sơn truyện thơ phổ biến là Tư Mã Hai Đào. Truyện Tư Mã Hai Đào gắn liền với lịch sử vùng đất mường Xia của huyện Quan Sơn. Văn bản truyện thơ Tư Mã Hai Đào phổ biến ở vùng Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát; hiện đã được sưu tầm và biên dịch nhưng chưa được xuất bản[ ]. Trong cuốn địa chí này, xin được giới thiệu truyện Tư Mã Hai Đào như một đóng góp riêng của văn học dân gian Thái trên vùng đất Quan Sơn vào kho tàng văn học dân gian Thái, trong đó có thể loại truyện thơ. Đây được xem như một bước khởi đầu cho những nghiên cứu, tìm hiểu tiếp theo về truyện thơ này. Mường Xia[ ] là vùng cao biên giới Thanh Hóa, cách trung tâm huyện Quan Sơn khoảng 38km về phía tây, trước đây thuộc mường Chu Sàn bao gồm các mường như sau: mường Sại[ ], mường Mò[ ], mường Chự[ ], mường Tuồng[ ], mường Khằng[ ], mường Khiết[ ], mường Ly, Pùng Xim, mường Chanh[ ], mường Na Hàm[ ], mường Mìn, mường Cha[ ]. Ngoài ra, còn có hai mường kết chạ là mường Bén và mường Sôi[ ]. Lịch sử hình thành và phát triển của mường Xia gắn liền với tên tuổi của Tư Mã Hai Đào. Theo tài liệu dịch từ sách cổ của người Thái [dịch từ chữ Thái] và lời kể của các vị cao niên, truyện thơ được tóm lược như sau: Hai Đào là người ở mường Đào - mường Khô xưa [nay thuộc huyện Bá Thước]. Ngay từ nhỏ, Hai Đào đã nổi tiếng thông minh, nhanh nhẹn, có những phẩm chất hơn người như võ thuật, múa kiếm, chơi đu, chơi cù rất giỏi. Lớn lên có dáng người cao lớn, tướng mạo phi phàm và tinh thông võ nghệ. Quê quán ông ở đất Điền Lư Lúc còn nhỏ chăn trâu nuôi miệng Áo rách, lưng trần nhiều bữa nhịn ăn Xin vào làm đầy tớ lang Khô Siêng học mót, biết ít nhiều văn võ Lại thông minh, hoạt bát, đáng yêu Lúc lên kinh tạo cũng cho theo Vua trông thấy cho hỏi han căn vặn Giữ lại kinh học văn võ, thành tài Phong cho ngài thành Tư Mã, Nghè Nam[ ]. Hai Đào trở thành phò mã. Tên gọi Tư Mã Hai Đào của chàng có từ đấy. Từ một kẻ nghèo, mồ côi ở chốn núi rừng xa xăm nay trở thành phò mã, lại được vua truyền cho thầy giỏi dạy học, chẳng bao lâu Hai Đào nổi tiếng là một bậc văn võ song toàn, chàng nguyện đem hết tài năng của mình phục vụ giang sơn, đất nước. Chính vào lúc này, vùng biên giới nước ta bị giặc ngoại xâm rình rập, đánh cướp liên miên, cuộc sống của nhân dân vô cùng khốn khổ. Trước họa xâm lăng, phò mã Hai Đào lập tức xin phép vua cha cho được cầm quân diệt giặc, giữ yên vùng biên giới. Vua đồng ý sắc phong Hai Đào làm Tướng quân, cấp quân lương, vũ khí, voi, ngựa đầy đủ cho chàng tiến quân. Hai Đào vui mừng trở về triệu tập thêm binh mường, rèn luyện vũ khí, chọn ngày tốt xuất quân lên biên giới để trấn ải biên cương [vùng Tén Tằn, Mường Lát ngày nay]. Đoàn quân của Hai Đào đánh thắng nhiều trận giòn giã. Đánh trận đầu giặc đã thua lớn, đánh hai trận giặc càng thua đau. Thừa thắng quân ta đuổi lũ giặc ra khỏi biên cương. Để cứu nguy, quân giặc liền mang ra cái coọng thần - một loại nhạc cụ giống như cái chiêng, chờ quân ta xông trận chúng đánh coọng làm quân sĩ bủn rủn chân tay, đầu óc quay cuồng. Trước tình thế đó, Hai Đào liền phái hai tướng có võ nghệ tinh thông đột nhập vào đồn giặc dùng mưu kế đánh tráo coọng thần. Bằng sự mưu trí, gan dạ và dũng cảm, hai tướng Ót Đanh, Ót Đọ [hai tướng giỏi trong quân của Hai Đào cũng là hai anh em ruột] đã lấy được coọng thần của giặc mang về doanh trại. Hôm sau, Hai Đào lại dẫn quân xông lên đánh giặc. Lũ giặc cậy có coọng thần nên vẫn ung dung chờ quân ta lên gần đến nơi mới đem coọng thần ra đánh, nhưng do đã bị đánh tráo nên coọng thần không còn phát huy tác dụng, chúng thua chạy tan tác. Quân giặc xin đầu hàng, rút lui về đồi Phân Mao - núi phân chia ranh giới, mãi mãi không quay lại nữa. Đất nước từ đó trở lại thanh bình, Hai Đào ban thưởng cho Ót Đọ về làm đạo mường Chanh, Ót Đanh về làm đạo Pùng, Xim, Lý, Lát và đặt tên cho bản người Thái nơi phát lệnh đánh coọng thần thắng giặc là bản Chiềng Cồng. Tư Mã Hai Đào được vua phong tước Tư mã Biên phòng. Trong thời gian trấn ải biên cương, Hai Đào đã qua lại nhiều lần trên đất mường Xia, thấy cảnh đẹp hữu tình, đất đai trù phù nên ông đã chọn mường Xia làm thủ phủ. Ông cũng xin nhà vua cho lập Chu Sàn. Từ đó mường Xia lại tấp nập, cư dân bỏ mường ra đi nay lại kéo nhau về ngày càng đông hơn, số hộ di cư sang mường Bén, mường Sôi [nước Lào] sinh sống cũng lần lượt quay về. Mường Xia lại sầm uất hơn xưa. Vua giao cho ngài trở lại biên cương Coi giữ đất giáp hai bên Lào - Việt Ót Đọ cho quản đất mường Chanh Ót Đanh đất Pùng, Xim, Lý, Lát Ngài Tư Mã đóng ở Chiềng Cồng, Xốp Xim, Tén Tằn đất rộng Ngài dựng đồn bên cạnh bờ sông Ngài dời đến ở cạnh mường này gây dựng mường Chu Mở ra mường Chu Sàn từ khi ấy! Khi về già, ông mất tại mường Xia. Người dân mường Xia an táng ông tại một trong những hang động của núi Pha Dùa. Cũng từ đó, người dân mường Xia thường gọi ông là thần Tư Mã ở Pha Dùa. Tuy nhiên, hang động nào được an táng Hai Đào đến nay vẫn còn là điều bí ẩn. Tại Tén Tằn, bà con cũng lập đền thờ để thờ vọng Hai Đào tại rừng cây Mát, bên bờ suối Xim và thượng nguồn sông Mã. Nơi đây được gọi là đền thờ Tén Tằn. Như vậy, xét trên nhiều phương diện, truyện thơ Tư Mã Hai Đào có thể ra đời trên cơ sở một thực tế xã hội - lịch sử, là hiện tượng văn hóa phản ánh những vấn đề về lịch sử - xã hội của người Thái ở Thanh Hóa trên một vùng đất cụ thể. Và trong tâm thức dân gian, Tư Mã Hai Đào là vị thần thiêng, người có công diệt trừ quân xâm lược nơi biên giới và khi đất nước thanh bình lại cai quản yên lành cửa ải biên cương, giữ mãi cho mường Xia vía yên, vía khỏe. Ngoài truyện thơ Tư Mã Hai Đào, người Thái ở Quan Sơn còn có truyện tình Pha Dùa, được coi là “đặc sản” trong truyện thơ ở Quan Sơn. Tương truyền rằng, xưa kia có đôi trai gái tài sắc yêu nhau tha thiết. Cô gái là nàng Lá Nọi - con gái của một nhà lang đạo mường Mìn giàu có nổi tiếng khắp vùng mường Xia, mường Mìn [Quan Sơn, Thanh Hóa]. Chàng trai dòng dõi con nhà quan [tạo] đạo mường Xia, nhưng gia đình khốn khó, không tương xứng với ông tạo mường Mìn gia thất đề huề, kẻ hầu người hạ, giàu sang phú quý. Mối tình của họ không được cha mẹ cô gái chấp nhận. Cha cô gái quyết gả cô cho một nhà tạo giàu sang làm rể. Không chấp nhận hôn nhân không có tình yêu, bất chấp sự ngăn cấm của cha mẹ, anh em họ hàng, đôi trai tài gái sắc vẫn yêu nhau tha thiết, thề nguyền mãi mãi bên nhau. Trai gái thương nhau không rời nhau được. Ta cắt ngón trỏ uống hết nhựa đời Cắt ngón giữa đặt máng uống máu Về mường Vun, mường trên thành ma xứ lạ Vào ở dưới gầm trời thành ma rừng sâu Bắc thang sắt mường trời xuống đón Kéo thanh đồng mường Vun thả xuống lấy bạn Ta sẽ chết biến vào núi đá sương giăng tứ mùa Về ở núi Pha Dùa thành thần hai bên[1]. Đúng ngày “Ông mường Mìn ngăn con, liền dùng gia phép ép cho con lấy kẻ giàu sang”, hai người đã thực hiện: Quyết làm như hai đứa đã thề... Viết thư để lại, đề bên vạt áo Rồi hai người ngã xuống, hồn lìa thân Vào Pha Dùa để biến thành thần Vào Pha Dùa thành “chuống” linh thiêng Đón rước mọi người sum họp vây quanh Ai đến đó hồn không trở lại Chuyện khởi đầu Pha Dùa từ đó. Ngày ấy, dân hai mường thấy mây trắng vờn quanh mây hồng bay cuồn cuộn dâng cao trên ngang đỉnh Pha Dùa, họ thấy vầng sáng tỏa ra lời ca [Ing lá ơi, Chài hặc ơi!] nghe tiếng ca hát yêu đu tha thiết hòa quyện nhau trên đỉnh mây mờ, tiếng khặp vang lên từ xa xăm đến ro rõ, da diết, về sau chỉ còn nghe tiếng vi vu khi qua hang Dùa, núi họa núi, núi họa tiếng rập rình của sông, ngân râm ran họa nhau không dứt, như tiếng lòng của đôi trai gái thầm thì yêu nhau. Để trai Chu Sàn mường Xia - mường Mìn chơi cát, tắm sông, vào hang vui xuân cũng từ ngày đó. Chuyện tình mường Dùa không chỉ là câu chuyện bi ai của đôi trai tài gái sắc mà thông qua câu chuyện người đọc còn thấy hiện lên phong cảnh núi non hùng vĩ, thơ mộng của mường Xia, mường Mìn nơi miền biên ải. Người Thái đã vẽ lên bức tranh núi rừng tươi đẹp như một thành phố lộng lẫy, có đường cái quan, có cầu bắc ngang lèn đá, có hoa thơm cỏ lạ ngút ngàn: Giờ đây nói đến Pha Hen, Bên Pha Dùa nên bạn Đôi chúng mình cách giữa cầu quan, Bắc qua sông, qua đường cái lớn; Dân khắp miền xuôi ngược chui qua. Ta cùng bước tới Pha Hen, Đi trên thềm đá hoa đá xếp, Chân bước tới cùng chiềng Dùa, Đường mường Dùa rộng hơn ba sại, Trên đường nện bao dấu chân voi ngựa, Voi ngà, ngựa vằn, ngựa tía, Hàng ngàn rồng quý bay về tìm hồn lạc. Ta cùng bước tới gò cao ngắm bản, Ta cùng bước lên gò rộng ngắm ruộng nương, Nghiêng tay nâng che nắng mặt trời, Ta thấy mường Dùa luồn trong sương, Sáng lấp lánh hào quang mường người, Nhìn thấy hàng ngàn nhà ngói, mái tranh ẩn hiện. Trong mường ta nghe tiếng ca, tiếng khặp, Tiếng hát văn, ngâm thơ, ca cẩm, Tiếng thơ giục giã mời anh lấy em, Ta thấy bao chàng trai, Bao cô gái đến bên mường, Mến yêu mường không rời nửa bước. Trai nghe nói mường Dùa, Thì xách đồ chạy tới. Gái nghe nói mường Dùa, Xách túi hoa chạy theo. Người còn sống theo nên thần khằm văng, Hồn phách tự về với chiềng Dùa. Người Thái Quan Sơn đã xây dựng nên một mường Dùa sầm uất, giàu có, lâu đài nguy nga tráng lệ, người bán buôn tấp nập. Mường Dùa đẹp tiếng vọng bay xa, Mường Dùa sang tiếng vang khắp chốn, Đĩa vàng khắc hình rồng phượng, Nhiều hoa thơm lắm trái, Tự tay chọn quả, Lá trầu xanh to bằng lá vả, Trầu núi thơm, lắm ngọn cay, Lắm mía đen lóng to, lóng nhỏ, Ngọt đượm tình đi dễ khó về, Nhiều cau non vừa bổ đôi ba, Lắm me xanh, Nê, na chín ngọt, Chuối ngự, chuối tiêu, Chín thơm cả buồng. Hoa quả thơm ở mường em, Mía đen mắt Ta trồng từng luống, Cây mía đường ta trồng hàng đôi, Trước sân sau nhà đón gió. Dây trầu thơm cuốn cây cau lá tía, Hương vị trầu càng đậm vị ngọt cay. Có trường đua ngựa hí vang, Nhiều tú mã song phi nước đại. Ở trường đua người, ngựa sẵn sàng Ta thấy chợ búa bán hàng, Chợ hoa, chợ bánh, chợ dừa, Đường trong chợ lắm ngả chia giao. Mường Dùa là trung tâm của cả vùng, khắp nơi từ mường Thanh, mường Lào [nước Lào] đến Nghệ An và các vùng dưới xuôi “sông Mã, bể muối” cũng phải đến chầu lạy: Nơi cửa sáu họ đặt cờ liễu Nơi cửa năm họ đặt cờ vàng Trong khu vực có quân quan đến ở Trong phủ lắm nhà ngói liền hàng Có các quan đến chầu tấp nập Ngài cống hiến nhiều hơn thiên hạ Phía trên từ Thanh, Lò về chầu việc Phía sông Mã đến ngã ba Bông Bên sông Đà lấy Pha Luông mường Mạ Cạnh bên tay trái thẳng đến Nghệ An Phần phật lắm cờ hồng phấp phới Người ngập sông đầy bến, đầy bờ Phía bên trong có chợ bán cau Hai bờ sông người ở bán cá Pha Hen cho bắc cầu nhịp đá Pha Cáu là đất thín mường Dùa. Có thể nói truyện tình Pha Dùa là bài ca, ca ngợi tình yêu trong sáng, thủy chung của người Thái ở Quan Sơn nói riêng, người Thái ở Thanh Hóa, Việt Nam nói chung. Một tình yêu không phân biệt giàu sang hay nghèo khó, đến với nhau bằng tấm lòng son sắt, sống chết có nhau. Ngoài ra, truyện tình Pha Dùa còn cho chúng ta thấy một không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn, tươi đẹp của núi rừng vùng biên ải Quan Sơn. 6.1.5.6. Âm nhạc dân gian Người Thái vốn có một đời sống văn hóa tinh thần phong phú, trong đó các hoạt động âm nhạc dân gian có thể xem là một trong các hoạt động tiêu biểu và được biểu hiện sinh động, cụ thể qua các loại nhạc cụ truyền thống. Người Thái ở Quan Sơn cũng sử dụng các loại nhạc cụ truyền thống của người Thái ở Thanh Hóa, tuy mức độ đậm nhạt, tần suất sử dụng các loại có thể có nét khác nhau giữa các vùng Thái. Nhìn chung, có thể chia các loại nhạc cụ của người Thái Thanh Hóa thành hai nhóm chính, đó là bộ hơi và bộ gõ[ ].
  5. Bộ nhạc cụ hơi Khèn bè [Ken pe][ ] Về hình dáng, sở dĩ người Thái gọi nhạc cụ này là ken pe bởi hình dáng của nó trông giống như một cái bè, gồm những ống pao xếp sát nhau. Chiều dài các ống pao vào khoảng từ 80 - 100cm. Phần ngọn của khèn được xếp chéo theo độ dài giảm dần của các ống pao; phần gốc khèn được cắt gọt bằng phẳng, vuông vắn. Để giữ cho các ống pao chắc chắn, phần thân khèn thường được buộc chặt bằng dây mây; đoạn thân cây múc khà được tỉa tót rất đẹp có hình như quả bầu dài. Khèn bè được làm từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau: - Cây pao: là một loài cây họ nứa nhưng thân nhỏ, thành rất mỏng, đốt dài khoảng 20 - 25cm. Loài cây này hầu như không có cành, khi vào rừng chặt, người ta thường chỉ việc chặt gốc và phát ngọn. Tuy nhiên, phải chọn những cây già để khi phơi nắng cây không bị héo và khi chế tạo âm thanh sẽ chuẩn hơn. Đặc biệt, muốn chế tạo chiếc khèn bè chỉ dùng được duy nhất loại cây này; còn vầu, nứa thì thân to, thành dày, khi chế tạo âm thanh không chuẩn. Song ống pao có nhược điểm là dễ vỡ, dễ gãy. Vì vậy, khi chế tạo khèn đòi hỏi sự khéo léo và cẩn trọng. - Cây múc khà: là một loại cây thân mềm, lõi không đặc. Người ta phải lựa chọn những khúc cây thẳng, kích thước to hơn cán dao và phải là loại già. Sau đó dùng dao đẽo thành khúc dài khoảng 20 - 25cm, đem phơi khô rồi sử dụng. - Thanh đồng hoặc bạc: dùng để chế tạo lưỡi khèn. - Vỏ hến hoặc trai: nghiền thành bột để làm chất kết dính. - Sừng trâu: gọt thành thanh nhỏ, hình chữ nhật, tiếng Thái gọi là “na tắng”. - Sáp ong đen [khí sút]: dùng để làm chất kết dính. - Dây mây [sái vái]: dùng để buộc giữ cho khèn chắc chắn. Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ những loại nguyên liệu trên, người ta phải làm theo trình tự các bước chủ yếu sau: Bước 1: Chặt những thân pao thành từng đoạn, hơ lửa nắn thẳng đem phơi khô rồi lấy dao thật sắc gọt tỉa thành từng cặp. Thông thường một chiếc khèn có 14 ống pao tạo thành 7 cặp. Cặp dài nhất khoảng 100cm, ngắn nhất khoảng 70cm. Tiếp theo phải dùi những lỗ tạo âm ở khoảng giữa và hai đầu ống pao để tra lưỡi đồng hoặc bạc. Có duy nhất một ống pao không dùi lỗ, vì ống này chỉ đưa vào cho đủ cặp. Bước 2: Khi đoạn thân múc khà đã được phơi khô, sẽ gọt đẽo sao cho bề ngoài thon gọn, hình dáng của nó trông giống như một quả bầu dài. Sau đó, phải đục lỗ trên đoạn múc khà để sắp xếp những ống pao. Lỗ đục thường có hình chữ nhật, đủ rộng và dài để xếp 7 cặp ống pao vào. Người ta phải dùi một lỗ thông theo lõi của cây múc khà để tạo lỗ thổi, thông với tất cả những lỗ được dùi trên ống pao và lỗ đục ở đoạn cây múc khà. Bước 3: Tra những lưỡi đồng hoặc bạc vào lỗ tạo âm, rồi tra lưỡi đồng na tắng vào vị trí. Sau đó lấy sáp ong làm chất kết dính gắn kết các bộ phận lại với nhau. Thông thường, lưỡi của chiếc khèn bè được người Thái chế tác bằng đồng. Bạc hiếm và đắt hơn chỉ được sử dụng trong những trường hợp đặc biệt. Bước 4: Giã nhỏ vỏ hến hoặc vỏ trai trộn với sáp ong bịt kín các lỗ hở giữa ống pao và đoạn thân cây múc khà [nhưng phải để hở các lỗ nhỏ ở đoạn giữa ống pao để tạo và truyền âm]. Cuối cùng, dùng dây mây buộc ken các ống pao cho chặt khít với nhau. Chế tạo khèn bè việc khó nhất là tạo âm sao cho chuẩn. Muốn âm chuẩn người ta phải chọn được những ống pao thật thẳng, già và mỏng. Trong quá trình thử âm, nếu cây nào không hợp lập tức loại bỏ ra. Âm thanh phải theo tuần tự “lăm một”, “lăm sóng”, “lăm sám” [theo 1, theo 2, theo 3]... Các cặp ống phải hợp âm với nhau. Chất lượng âm thanh của khèn còn phụ thuộc vào các lưỡi đồng, chúng phải thật mỏng và dẻo. Ngoài ra, việc đục, dùi tạo lỗ cũng cần vừa phải, lỗ rộng quá âm sẽ tù, người thổi lấy hơi rất khó; nếu lỗ nhỏ quá âm sẽ rè, người thổi hít hơi có cảm giác bị tắc. Vì vậy, không phải ai cũng có thể chế tạo được nhạc cụ này. Muốn chế tác được nhạc cụ này phải là người có vốn hiểu biết về âm nhạc, có đôi tai thẩm âm tốt, thuộc các làn điệu dân ca Thái, như các điệu khặp, điệu xường... ngoài ra còn cần sự cẩn trọng và khéo léo. Khèn bè là loại nhạc cụ có kết cấu khá phức tạp, cách thổi cũng khó nên đòi hỏi sự khổ luyện và hoàn thiện từng bước của người chơi. Người Thái có câu “Ken sịp si, pi sịp soóng” tức là “khèn có 14 điệu, sáo có 12 điệu”. Để thể hiện được hết 14 điệu khèn là cả một quá trình học hỏi và khổ luyện nhiều năm. Cụ Phạm Bá Quan ở bản Bo, xã Na Mèo, huyện Quan Sơn cho biết, trong 14 điệu khèn cổ truyền, hiện nay chỉ còn phổ biến 12 điệu, đó là: - Điệu “Lóng khổng” [Dạo sân]: Điệu này chủ yếu được dùng để thể hiện tình cảm nam nữ. Không phân biệt lứa tuổi, già trẻ, miễn là có tình cảm với nhau thì có thể sử dụng điệu khèn này để thể hiện tâm sự của mình. - Điệu “Sối tớ và sối nứa” [Sối dưới và sối trên]: Hai điệu khèn này thường dùng cho những người cao tuổi, âm điệu chậm rãi, thong thả. - Điệu “Tặt tọi”: Điệu này cũng thường được thổi trong dịp hát giao duyên nam nữ. Các chàng trai thường thổi điệu này vào ban đêm để thể hiện tình cảm của mình với người mình thầm yêu. - Điệu “Long ét”: Chủ yếu là ca ngợi nặm Ét [sông Ét], nhạc điệu êm đềm, du dương. - Điệu “Lăm phuôn so kháu”: Điệu xin lúa, xin thóc. - Điệu “Me hạng bang mia”: Có nghĩa là điệu ông góa, bà góa. - Điệu “Manh giang”: Một làn điệu buồn da diết, thường chỉ được thể hiện trong lúc có tâm sự. - Điệu “Lăm tặt” [điệp khúc]: Đây là làn điệu có tiết tấu nhanh, phổ biến nhất ở nhóm người Thái ở Lào. - Điệu “Phòn se”[nhạc đệm]: Điệu này thường được thể hiện để làm nhạc nền cho những điệu múa trong các lễ hội. - Điệu “Loóng má”: Điệu này giai điệu có tiết tấu nhanh, thường được thổi phụ họa cho các điệu khặp. - Điệu “Lăm Săm Nưa” [điệp khúc]: Điệu này cũng phổ biến ở bộ phận người Thái ở tỉnh Sầm Nưa [Lào]. Khèn bè là loại nhạc cụ có thể độc tấu hay làm nhạc đệm cho các làn điệu khặp. Vì vậy, nó có nhiều không gian thể hiện như trong các lễ hội cũng như trong cuộc sống thường ngày. Trong các lễ hội “Kin chiêng boóc may”, “Chá chiêng” hay trong các ngày lễ tết, cưới xin,... khèn bè thường được sử dụng làm nhạc đệm cho các điệu khặp, như khặp “Con mương” [hát mời vào mường, bản], khặp “Mơi láu” [hát mời rượu], khặp “To de” [hát đối đáp]... Một bài khặp có thể kéo dài 30 phút hoặc lâu hơn, thậm chí kéo dài thâu đêm. Những lúc này người thổi khèn phải điêu luyện, phải thuộc các làn điệu; các động tác phải uyển chuyển, dẻo dai, âm thanh lúc trầm lúc bổng tạo nên cảm giác mê say đối với người thưởng thức. Trong những cuộc vui, ban tổ chức thường phân vai ra để khặp, có thể khặp vây quanh chĩnh rượu cần, hoặc khặp quanh mâm cơm, mâm rượu... Trong mỗi dịp lễ hội, người Thái thường sử dụng nhiều loại nhạc cụ như: cồng chiêng, khua lóng, khèn bè... Khèn bè cũng luôn là người bạn thân thiết với người Thái trong cuộc sống hàng ngày. Những lúc thảnh thơi, khi nghỉ ngơi trên nương rẫy,... người Thái thường mang khèn ra thổi. Chiếc khèn lúc này đem lại tinh thần phấn khởi, làm vơi bớt mệt nhọc cho con người tin yêu hơn với cuộc sống. Đặc biệt, đối với những chàng trai, cô gái Thái đang yêu, chiếc khèn trở thành cầu nối giúp họ thể hiện tình cảm với nhau. Những lúc này chàng trai thường thể hiện tài năng, tình cảm của mình qua giai điệu “Lộng không”. Tóm lại, trong số những nhạc cụ truyền thống của người Thái Thanh Hóa thì khèn bè là loại nhạc cụ độc đáo và phức tạp nhất. Mức độ phức tạp của nó không dừng lại ở khâu chế tạo mà còn thể hiện ở cách chơi, cách thể hiện tình cảm, trạng thái tâm lý... Âm thanh của khèn bè Thái trầm bổng biến hóa rất khéo léo tùy theo cảm hứng của nhạc công và theo tiết tấu người hát. Chính sự linh hoạt như vậy nên nó rất được ưa chuộng. Sáo ôi [Pi khui] Về nguyên liệu, pi khui được làm từ nứa, vầu hay thân pao nhưng phổ biến nhất là nứa và pao, vì những loại cây này ống dài, thân mỏng, kích cỡ vừa phải. Người ta chọn cây già, cắt lấy hai ống, ống đầu tiên chỉ lấy khoảng 1/4 đốt, ống thứ hai thì lấy cả đốt đem về phơi khô. Về chế tạo, đầu tiên người ta phải lấy dao sắc tiện bằng hai đầu ống, phần phía gốc được tính từ lỗ thổi đến mắt dài khoảng 8cm. Tại điểm mắt, dùi một lỗ thông giữa hai ống, lỗ này không quá rộng chỉ đủ để tạo hơi thông nhau giữa hai ống; ngay chỗ này người ta sẽ lấy lá chuối thắt lại chỉ để hở khe nhỏ để tạo âm; lúc thổi nếu người chơi thấy âm chưa như ý thì có thể điều chỉnh âm ở chỗ lá chuối thắt này. Bước tiếp theo là dùi các lỗ tạo thanh, thông thường một cây pi khui có 4 hoặc 6 lỗ, nhưng phổ biến nhất là 4 lỗ. 4 lỗ này tạo thành một đường thẳng so với lỗ thông nhau ở điểm mắt, lỗ đầu tiên được dùi cách điểm mắt 5 “khiêu” [khiêu có kích thước bằng chu vi của chính ống nứa tạo cây pi khui đó]. Những lỗ tiếp theo cách lỗ đầu tiên một khiêu. Phần đuôi pi khui, tính từ lỗ thứ 4 thường có chiều dài 3 khiêu. Về cách thổi, pi khui được thổi ở tư thế hướng về phía trước người thổi, đầu ngọn hơi chếch xuống đất, đầu gốc, nơi có lỗ thổi, hướng lên miệng người thổi. Người thổi có thể điều chỉnh âm thanh trầm bổng, du dương ở chỗ thắt lá chuối, đồng thời đóng mở 4 lỗ để điều chỉnh âm thanh theo bản nhạc hay theo cảm hứng của mình. Về không gian thể hiện, pi khui có âm hưởng chủ đạo là thiết tha, tình cảm nên thường được thổi vào ban đêm. Sau một ngày làm việc vất vả trên nương rẫy, khi màn đêm buông xuống các chàng trai lại háo hức đợi đến giờ hẹn với người thương. Khi bước xuống cầu thang đi đến điểm hẹn, các chàng trai không quên giắt bên người chiếc pi khui. Đến nơi, chàng dùng pi khui thổi điệu “Khụn sao” [Thức gái]. Tiếng sáo réo rắt, mời gọi. Cô gái đang ngồi bên khung cửi hay bên bếp lửa, nghe tiếng pi khui không thể cầm lòng, theo tiếng pi khui bước xuống sàn đến chỗ hẹn với bạn tình để cùng tâm tình, nghe tiếng sáo du dương của người yêu. Pi khui còn là nhạc cụ để mọi người thư giãn sau mỗi ngày làm việc. Lúc này người thổi không chỉ là những chàng trai mà có thể là những người đàn ông cao tuổi hay là một cậu bé còn ít tuổi, họ có thể theo cảm hứng mà thổi các bản nhạc, như “Úi mộc sang” hay “Manh giang”. Pi khui có thể được thổi cả ban ngày lẫn ban đêm nhưng thường là về đêm, vì ban đêm là lúc rảnh rỗi nhất, yên tĩnh nhất làm cho tiếng sáo trở nên thanh trong và tình cảm hơn. Cụ Hà Văn Hiêm, bản Chung Sơn, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa cho biết pi khui thường có 5 điệu sau: - Điệu “Chuôn sao, chuôn bao” [Rủ gái, rủ trai] thường được các chàng trai, cô gái thổi khi đi chơi vào ban đêm. - Điệu “Khụn sao” [Thức gái] dành cho các chàng trai đang bước vào tuổi yêu. Các chàng trai dùng tiếng “pi” của mình để “đánh thức tình cảm” cô gái ở trên nhà sàn. Nghe tiếng pi cô gái biết ngay là người thương đang gọi và nhanh chóng bước xuống sàn đến với người thổi sáo. - Điệu “Úi mộc sang” là điệu sáo của người mường Mộc, mường Sang [Mộc Châu, Sơn La]. - Điệu “Manh giang” cũng giống như điệu “Manh giang” của khèn bè, điệu manh giang của pi khui cũng có âm hưởng buồn, tha thiết. Để thể hiện điệu này cần có hai ống pi khui, một ống mẹ, một ống con. Đặc biệt, pi khui thể hiện điệu này phải có 6 lỗ. - Điệu “Ma hao” [Chó sủa] là một điệu nhạc vui, tiết tấu như tiếng chó sủa. Nhìn chung, pi khui là loại nhạc cụ đơn giản không cầu kỳ, cách chế tạo và thể hiện loại nhạc cụ này cũng không phức tạp. Vì vậy, đối tượng sử dụng pi khui rộng hơn khèn bè. Nhạc điệu của pi khui thiết tha, tình cảm, nó đặc biệt được các chàng trai Thái xưa ưa chuộng. Sáo cho bà một [Pi một] Pi một có hình dáng và kết cấu gần giống như pi khui, nhưng âm điệu và cách thể hiện lại hoàn toàn khác nhau. Về hình dáng, pi một là một ống nứa, hoặc ống pao, dài khoảng 40 - 50cm. Gọi là ống nhưng thực tế khi chế tạo nhạc cụ này người nghệ nhân phải lấy cả phần mắt của một đốt cây nứa hoặc cây pao [tính từ phía gốc]. Người ta thường chọn cây già, bằng ngón tay cái người lớn mang về phơi khô hoặc để trên gác bếp. Ngoài ra, họ cũng phải chuẩn bị lưỡi đồng hoặc bạc để tra vào lỗ thổi. Về cách chế tác, ống nứa sau khi được chọn và khơi khô sẽ được nghệ nhân gọt tỉa cho đẹp mắt, phần gốc [lấy cả mắt ống] dùng dao sắc tỉa cho thon, gọn; phần ngọn [không lấy mắt] phải gọt, tiện sao cho miệng ống bằng phẳng. Sau đó, nghệ nhân sẽ lấy dao sắc tạo một lỗ tại điểm mắt của ống, lỗ này phải vừa để tra lưỡi đồng. Người ta thường lấy sáp ong đen làm chất kết đính giữa lưỡi đồng và thành pi. Tiếp theo sáo được dùi các lỗ tạo âm. Thông thường chiếc pi một có 8 lỗ, 7 lỗ trên và 1 lỗ dưới. Cách dùi lỗ tạo nhạc điệu của pi một cũng giống như cách tạo lỗ của pi khui, lỗ đầu tiên cách lỗ thổi khoảng 15cm. Lỗ này khá đặc biệt vì nó được bọc bởi một lớp “xia” [lớp giấy rất mỏng, người Thái thường sử dụng lớp xia bằng lá tướng quân]. Các lỗ tiếp theo cũng cách nhau một khiêu, lỗ phía dưới đối diện với lỗ thứ 7. Ở phần cuối [thường cách lỗ thứ 7 hai khiêu]. Người ta còn tạo một lỗ nữa gọi là “hu cáy”, nghĩa là lỗ xa. Chức năng của lỗ này là điều chỉnh âm thanh trầm, bổng, vang xa... Nhìn bề ngoài pi một không khác pi khui mấy, tuy nhiên âm điệu, tiết tấu và mục đích sử dựng của pi một phức tạp hơn pi khui khá nhiều. Pi một là loại nhạc cụ sử dụng trong các sự kiện tâm linh, tín ngưỡng nên nó chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần người Thái. Do đó, những người trẻ tuổi ít biết thổi nhạc cụ này. Và, khi chế tạo pi một đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế và am hiểu nhất định các điệu nhạc cũng như phong tục tập quán của người nghệ nhân. Về không gian thể hiện, nhạc cụ này chủ yếu được sử dụng trong các sự kiện tâm linh nên không gian chủ yếu của nó là các dịp “sên” [cúng], cụ thể như sên bản, sên mường [cúng bản, cúng mường, cầu cho bản mường yên vui, cuộc sống ấm no, hạnh phúc]; sên hườn [cúng cầu gia đình bình an, làm ăn phát đạt, không bị bệnh tật]. Pi một được thổi làm nhạc nền cho lời cầu cúng trong lễ chá chiêng,... Cụ Phạm Bá Quan [xã Na Mèo, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa] cho biết, pi một thường được thể hiện trong những không gian sau: - Thổi trong lễ “sên”. Trong lễ này, ông mo, bà một sẽ đọc bài cúng của mình đồng thời có một nghệ nhân ngồi cạnh thổi đệm pi một theo sau, tạo nhạc nền cho bài cúng đó. - Thổi khi “phi một tư” [ma một nhập vào bà một]. Trong quá trình lễ, bà một sẽ bị ma “một” nhập vào. Lúc này phải thổi nhạc theo đúng trạng thái biểu hiện của bà “một”. Hình thức ma nhập này giống với cách lên đồng của người Kinh. Thổi pi một trong trường hợp này rất khó vì tiếng sáo phải lột tả được diễn biến sự việc, có cả những đoạn hội thoại với bà “một” nên rất khó thể hiện. - Thổi khi điệu “Cheo hưa” [Chèo thuyền] - Thổi khi điệu “Lá oi”. Điệu này thường được thổi trong lễ chá chiêng. - Thổi khi điệu “Phai láu”. Điệu này phải thổi theo từng chương, từng điệp khúc. Đây là một điệu khó, thổi rất tốn sức, nếu nghệ nhân không am hiểu và điêu luyện sẽ không thể hiện được điệu này. Nhìn chung, pi một là một nhạc cụ tương đối phức tạp về nhạc điệu, khi sử dụng nhạc cụ này đòi hỏi người sử dụng phải có trình độ thực sự. Hơn thế nữa, mục đích sử dụng cũng đặc biệt nên pi một không được dùng phổ biến hàng ngày. Tuy nhiên, nó luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người Thái. Khèn thổi trong đám ma [Pié - ken la] Pié - ken la là loại nhạc cụ chuyên dùng trong đám ma, chức năng giống như kèn đám ma của người Kinh. Âm thanh của nó phát ra rất sầu não. Người ta thường thổi pié - ken la kết hợp với trống và chiêng. Về hình dáng bên ngoài, pié - ken la trông giống như một cái loa nhưng nhỏ, thon và dài hơn. Về chất liệu: Phần chính của nhạc cụ này được làm ra từ một đoạn thân cây múc khà hoặc cây có lõi rỗng, nhẹ và bền, thuận tiện khi khoét lõi, dài khoảng 20 - 30 cm, có đường kính vừa phải; ngoài ra còn sử dụng một ống sắt hoặc đồng để lắp vào phần đuôi. Người ta tìm chọn những chiếc kén sâu [sâu ở cây dâu, hay cây co há, một loại cây cũng thuộc họ dâu, ở trong rừng] để lắp vào ống thổi. Cách chế tạo: Trước tiên, lấy dao sắc gọt tỉa cho gọn, hình dáng như cái loa, phần đầu phải gọt thật nhỏ, thon, đủ để tra kén sâu vào, đây cũng chính là lỗ thổi. Sau đó, tiếp tục lấy đục đục rỗng phần lõi khúc cây múc khà sao cho thành vừa đủ mỏng, phần đuôi tạo gờ đế giữa ống sắt hoặc đồng. Tiếp theo, là công đoạn tra kén sâu vào đầu ống đã tạo. Sở dĩ lấy kén của con sâu ở cây dâu hay co há trong rừng là vì đây là loại kén không gây ngứa, dai, có hình dáng như cái loa, phù hợp với cấu tạo của chiếc kèn. Công đoạn cuối cùng là đục các lỗ tạo âm, được tiến hành tương tụ như pi một, có 7 lỗ trên và 1 lỗ dưới. Pié là nhạc cụ chuyên dùng trong đám ma, thường kết hợp với trống, chiêng làm nhạc đệm cho bài mo của thầy cúng tiễn đưa linh hồn người chết về với mường then [mường trời]. Về giai điệu, pié hầu như không có điệu nào được đặt tên cụ thể. Nó chỉ kết hợp với bài trống “Cóng vai”, “Cóng phương” trong bài trống tiễn đưa linh hồn của người chết. Khèn môi [Tơn] So với các nhạc cụ kể trên, tơn là loại nhạc cụ ít phổ biến nhất hiện nay. Ở các bản của người Thái ở Thanh Hóa, nhạc cụ này chỉ còn rất ít. Hình dáng của tơn trông giống như lưỡi của khèn bè, nhưng dài và to hơn [dài khoảng 10 -15 cm]. Nguyên liệu để làm nhạc cụ này là một miếng đồng hoặc bạc nhưng phổ biến là đồng vì bạc hiếm và đắt. Cách chế tạo nhạc cụ này khá đơn giản, chỉ cần cắt miếng đồng thành lát mỏng, lấy dũa dũa thật nhẵn và mỏng. Về cách chơi, người sử dụng chỉ cần đưa tơn lên miệng vừa thổi vừa gẩy. Không gian thể hiện tơn chủ yếu trong những ngày lễ chá chiêng. Tơn thường được biểu diễn kết hợp với pi một tạo thành âm thanh đặc trưng của ngày chá chiêng.
  6. Bộ nhạc cụ gõ Trống, chiêng, khua lóng Trống, chiêng là loại nhạc cụ truyền thống không chỉ có ở người Thái mà còn ở nhiều dân tộc khác trên đất nước ta. Đối với người Thái nói chung và người Thái Thanh Hóa nói riêng, trống, chiêng là một “đặc sản” âm nhạc trong sinh hoạt văn hóa tinh thần. Xét về hình dáng, cách chế tạo và cách thể hiện, trống, chiêng của người Thái ở Thanh Hóa có những nét đặc trưng riêng, so với trống, chiêng của người Thái nói chung. Về hình dáng, trống, chiêng của người Thái cơ bản giống với trống, chiêng của các dân tộc khác, gần gũi nhất là người Mường; chiêng thì hầu như không khác gì, trống thì dáng thon và nhỏ hơn. Để chế tác trống, đầu tiên phải chọn được gỗ tốt. Thông thường, người Thái hay dùng gỗ mít làm tang trống vì nó nhẹ, dễ khoét lõi. Tiếp đến cần phải có da bò và cuối cùng là các thanh tre vót nhọn để làm đinh găm da bò vào mép trống. Về cách chế tạo, sau khi tìm được gỗ tốt, cắt thành khúc dài khoảng 1m, họ lấy rìu đẽo cho thật nhẵn mặt ngoài. Sau đó, dùng dùi và dao nạo, đục rỗng lòng khúc gỗ. Tiếp theo, phải đục các lỗ nhỏ ở rìa mặt trống [để sau lấy đinh tre găm da bò vào thành trống] rồi đem phơi khô. Da bò cũng phải phơi khô. Khi các nguyên liệu đã được chuẩn bị xong, người nghệ nhân bắt đầu đóng chặt và căng da bò bịt kín hai đầu khúc gỗ tạo thành hai mặt trống. Trong quá trình đó, người nghệ nhân thường xuyên thử âm thanh của trống. Nếu âm thanh chưa đạt thì tiếp tục kéo căng mặt trống đến lúc có được âm thanh như ý mới thôi. Các nghệ nhân còn có thể tô điểm cho trống bằng cách khắc hoa văn lên tang trống. Hiện nay, do có sự du nhập của kỹ thuật chế tạo trống từ các nơi khác đến nên việc làm trống ở người Thái Thanh Hóa không bó hẹp trong cách làm truyền thống. Bởi vậy, trống có thể to hơn và tang trống được chế tạo bằng cách lắp ghép các mảnh gỗ lại với nhau rồi lấy dây cột chặt. Người ta cũng có thể sử dụng cả da trâu để làm mặt trống. Về không gian sử dụng, nếu so sánh về mức độ phổ biến và tần suất xuất hiện của trống, chiêng so với các nhạc cụ khác như pi khui, pi một, khèn bè... trong đời sống văn hóa tinh thần của người Thái thì trống, chiêng có tần số xuất hiện nhiều hơn. Trống, chiêng có mặt trong hầu hết các sự kiện trong đời sống đồng bào Thái, nhất là trống. Cụ thể, trống được dùng trong lễ hội, trong cưới xin và tang ma. Trống còn là âm thanh tập hợp mọi người trong bản mường; trống báo hiệu cho người dân tất cả các chuyện vui, buồn... Trong đám cưới của người Thái, tiếng trống, chiêng trở thành “linh hồn” của buổi lễ. Mỗi khi trống, chiêng vang điệu “cóng ram” mọi người dù ở xa hay ở gần đều biết là có đám hỉ. Âm thanh như thôi thúc lòng người, tạo ra tâm lý hổ hởi, phấn chấn, nhất là đối với các chàng trai cô gái. Trong lễ cưới, người Thái hay đánh điệu “cóng ram”. Cóng ram thường có ba hình thức thể hiện: “ti sặp sóng”, “ti sặp sám” và “ti sặp si” [đánh theo hai, theo ba, theo bốn]... Với lối đánh chậm rãi, lúc trầm lúc bổng, nghệ nhân vừa đánh vừa nhảy uốn người theo nhịp trống, chiêng. Thường thì một trai một gái cùng thể hiện, trai đánh trống, gái đánh chiêng. Tiếng trống, chiêng khiến cho người nghe ở ngoài cảm thấy xao xuyến, thổn thức... Âm thanh ấy hòa cùng những câu khặp tạo ra âm hưởng rất đặc biệt, đằm thắm hương sắc Thái. Tiếng trống, chiêng kết hợp với “quánh lóng” [khua lóng] còn gọi là “quánh lóng cóng ram” lại có tiết tấu và âm thanh khác hẳn với tiếng “cóng dàm” khi chơi một mình. Trong đám cưới, sự kết hợp này thường diễn ra khi đón cô dâu về nhà chồng, nó không chỉ biểu thị sự hân hoan vui mừng của nhà trai mà còn biểu thị sự hiếu khách của nhà trai đối với nhà gái. Khi cơm rượu xong, mọi người bước vào phần giao lưu vui vẻ thì chơi điệu “sặp sanh”. Đây là lối đánh có tiết tấu nhanh, vui nhộn, lôi cuốn mọi người cùng ca hát, nhảy múa... Cuộc vui cứ thế diễn ra thâu đêm suốt sáng. Trong các lễ hội, người Thái cũng hay sử dụng nhạc điệu cóng dàm kết hợp với khua lóng. Hai loại nhạc cụ này tạo ra âm thanh liên hồi, người tham gia lễ hội cảm giác có lúc thúc giục, lúc sâu lắng rất đặc biệt, khi đã tham gia rồi không muốn cất bước chân đi. Trong lễ hội, thường diễn ra các trò chơi như trô sang [đánh cù], sun mạy [đẩy gậy], khin sái [kéo co]... Những trò này được tiếng trống, chiêng, khua luống cổ động rất náo nhiệt. Khua lóng [quánh lóng] vốn dĩ ban đầu không phải là một nhạc cụ. Lóng vốn chỉ được dùng để giã gạo. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của đời sống, đặc biệt với lối sống lạc quan, yêu đời, yêu văn hóa văn nghệ, người Thái đã sử dụng nó như một nhạc cụ làm phong phú thêm đời sống tinh thần của mình. Nếu nhìn rộng ra, bên cạnh người Thái, người Mường, một tộc người anh em cộng cư gần gũi với người Thái, cũng có nhạc cụ này. Nói về lịch sử ra đời, cho đến nay vẫn chưa khẳng định được dân tộc nào sáng tạo và sử dụng lóng như một nhạc cụ trước. Chỉ biết rằng, các tộc người Thái, Mường sử dụng lóng như một nhạc cụ đặc trưng của dân tộc mình. Về hình dáng, lóng trông giống như một chiếc thuyền độc mộc, nhưng cấu tạo lại hoàn toàn khác. Một cái lóng có thể dài từ 2 - 3m, một đầu được tạo như hình mũi thuyền, đầu kia được đẽo tạo một gờ có lỗ để cột chặt lóng với một khúc gỗ khác đã chôn xuống đất. Ở đoạn giữa lóng được khoét lòng dài khoảng 2m. Về vật liệu chế tạo, do mục đích sử dụng để giã gạo nên người Thái phải chọn những cây gỗ dẻo, chịu được lực, có tiếng vang khi chày giã xuống như cây sú, sâng, mang... Kích thước cây gỗ làm lóng phải to hơn một vòng tay người lớn mới đủ. Khi vào rừng đốn gỗ người ta dùng rìu, dao cắt ra thành từng khúc dài từ 3 - 4m sau đó mới chuyển về nhà. Chày để giã cũng được làm bằng những loại gỗ cứng, thẳng, vừa tay cầm, dài khoảng 2m, không quá nặng để khi giã đỡ mất sức [thường là phụ nữ sử dụng]. Về cách làm, công đoạn đầu tiên là lấy rìu vạc hết vỏ và một phần thân để tạo cho lóng thành hình chiếc thuyền. Tại điểm trung tâm của mũi lóng người ta đục một lỗ nhỏ có kính thước bằng chiếc cối gia đình, để giã những nguyên vật liệu nhỏ. Ở phần thân, khoét một lỗ rộng có chiều dài hơn 1m, miệng loe, phần đáy thì thu nhỏ dần. Thành của lỗ này phải mài nhẵn để khi vớt gạo, kê... ra không bị xước tay. Phần đuôi dùng rìu tạo gờ để cột chặt lóng với một cột trụ chôn xuống đất. Cột này cũng làm từ một khúc gỗ cứng. Người làm lóng sẽ tạo một cái mâu ở đầu trên để cài gờ lóng vào cho chắc. Chày được bạt cho phẳng hai đầu để khi giã đầu chày tiếp xúc đều vào trong lóng, ở đoạn giữa của chày sẽ tỉa một gờ nhỏ làm tay cầm khi giã gạo. Sau khi làm xong, lóng chỉ được sử dụng để giã gạo, giã kê, sắn... vì lúc này gỗ đang còn tươi, khi gõ âm thanh phát ra không rõ. Chỉ đến khi gỗ khô, lóng mới được coi là một nhạc cụ. Lúc này khi gõ vào thành lóng âm vang xa hơn và trong hơn lúc trước. Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, việc tiếp xúc hàng ngày với nông cụ này đã làm người Thái nhận ra rằng, ngoài chức năng giã gạo phục vụ bữa ăn nó còn có thể góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần bằng các nhạc điệu, tiết tấu vui nhộn. Có thể nói, việc sử dụng lóng như một nhạc cụ là một sáng tạo đặc sắc của dân tộc Thái nói chung và người Thái Thanh Hóa nói riêng. Lóng là nhạc cụ được sử dụng khá rộng rãi trong cuộc sống, sinh hoạt của người Thái. Nó thường kết hợp với trống, chiêng để chơi “quánh lóng cóng ram”, là âm thanh chủ đạo trong các ngày lễ hội như: lễ hội chá chiêng, ngày tết, ngày hội mường, bản, lễ cưới... Khi khua luống thường có từ 6 - 8 người cùng chơi. Trong 6 hoặc 8 người này sẽ phân ra đảm nhận các vai trò khác nhau, trong đó có một người ệt mé [làm mẹ], 6 người hoặc 4 người ệt lúc [làm con], một người làm tải [giữ nhịp]. Quánh lóng có hai điệu chính, điệu một là “Phặt phưm”, cách gõ của điệu này thực hiện một lần đẩy chày vào thành bên và ba lần gõ thành bên người đứng gõ; điệu hai là “Lóng xúm” thực hiện hai lần đẩy vào thành bên và một lần gõ vào thành bên người đứng gõ, điệu này còn thực hiện thêm động tác tót cay [chọi gà] bằng cách gõ hai chày vào nhau. Ngoài ra, trong đám cưới còn có thêm các điệu “Lóng tón khách”, “Lóng tùng”; trong lễ hội mừng mùa có “Lóng sóng”, “Lóng sám”, “Lóng pặc xác”... Quánh lóng là kiểu chơi nhạc cụ tập thể, những người tham gia phải thực sự tâm đầu ý hợp, phải luyện tập qua nhiều ngày. Đa số người chơi loại nhạc cụ này là phụ nữ. Trong quá trình thể hiện các điệu của quánh lóng, người đảm nhận vai trò làm mẹ là người vất vả nhất. Vị trí đứng của người này là ở giữa, phải gõ liên tục và là người giữ nhịp, giữ tiết tấu cho cả dàn nhạc, 4 hoặc 6 người giữ vai trò làm con phải theo mẹ mà bắt nhịp, động tác phải thanh thoát đồng đều. Người làm tải gõ sau cùng với chức năng giữ nhịp và phụ âm. Quánh lóng, cóng ram là một “đặc sản” trong đời sống tinh thần của người Thái. Sự kết hợp của hai nhạc cụ này tạo ra một chuỗi âm thanh trầm bổng, có lúc đọng lại có lúc lại vang xa. Khi được thưởng thức người nghe sẽ có cảm giác rộn ràng, xốn xang khó quên. Âm thanh này không thể lẫn với âm thanh của các nhạc cụ khác. Có thể nói đây là nét đặc sắc của nghệ thuật trình tấu nhạc gõ của người Thái Thanh Hóa. Tóm lại, trống, chiêng, khua lóng là một nét đặc trưng của văn hóa Thái. Trống, chiêng của người Thái ở mường Mìn đủ bộ là 1 trống, 4 chiêng, trống là đặc trưng cho núi rừng, chiêng là tượng trưng cho 4 mùa xuân, hạ, thu, đông, lóng là tượng trưng cho sông nước. Khi nhạc trống, chiêng, khua lóng vang lên quyện với nhau là tượng trưng cho linh hồn sông núi thôi thúc lòng người phấn khởi vươn lên trong cuộc sống hàng ngày. Nhạc trống, chiêng, khua lóng thường được dùng trong các ngày vui, lễ hội và liên hoan văn nghệ truyền thống dân tộc. Riêng trống và chiêng còn được dùng trong đám tang nhưng chỉ có 1 trống và 1 chiêng với các làn điệu như: trống chầu, trống mời ăn, trống nhạc buồn, trống cho người khóc, trống hề, trống tiễn người chết, trống tiễn linh hồn người chết lên trời... Hiện nay, các đám vui như cưới, lễ hội ít sử dụng các nhạc cụ truyền thống như trống, chiêng, khua lóng, đa phần dùng các nhạc điệu hiện đại như loa, đài..., riêng các đám hiếu vẫn giữ truyền thống như xưa.[ ] Gõ ống [Bóng bu] Tiếng Thái gọi loại nhạc cụ này là tắng bóng bu hoặc tắng bu. Bóng bu được chế từ gốc nứa, vầu, ngọn tre, luồng, có đường kính khoảng 5 - 7cm [vừa một nắm tay], dài khoảng 45 - 50 cm. Người ta chơi loại nhạc cụ này bằng cách gõ xuống tấm ván và hai ống gõ vào nhau hòa nhịp với khua lóng và cồng, chiêng. Hiện nay, cùng với các loại nhạc cụ khác như khua lóng, cồng, chiêng, bóng bu được sử dụng phổ biến vào những dịp lễ hội của thôn bản, lễ khai trương làng văn hóa, xã văn hóa, trong đám cưới... 6.2. DÂN TỘC KINH 6.2.1. Vài nét về lịch sử cư trú của người Kinh ở Quan Sơn Trong lịch sử, người Kinh và người Mường có chung nguồn gốc tổ tiên là người Việt cổ. Song do những biến động lịch sử, cư dân Việt cổ đã tự chia tách thành hai bộ phận Kinh và Mường. Quá trình phân tách ấy bắt đầu từ cuối thời kỳ Bắc thuộc. Chính vì vậy, ngôn ngữ của hai dân tộc này có nhiều điểm gần gũi rất dễ nhận thấy. Xét từ mối quan hệ cội nguồn đó, có thể trên vùng đất Quan Sơn, người Kinh cũng có mặt từ rất sớm. Trong diễn trình lịch sử, việc nhập cư, chuyển cư của người Kinh từ các địa phương ở Bắc Bộ, Trung Bộ và một số huyện của tỉnh Thanh Hóa đến vùng đất Quan Sơn diễn ra trong các thời kỳ khác nhau đã dần dần tạo nên sự hội tụ khá đông đảo người Kinh trên vùng đất Quan Sơn. Giai đoạn trước năm 1960, đa số người Kinh ở Quan Sơn chủ yếu là những cán bộ, công nhân, bộ đội lên công tác, làm việc rồi lấy vợ người Thái, người Mường ở Quan Sơn và nhập khẩu, cư trú tại Quan Sơn. Những lần nhập cư đông của người Kinh diễn ra chủ yếu theo chính sách phát triển kinh tế miền núi của Đảng và Chính phủ. Năm 1960, theo chủ trương của tỉnh đưa nhân dân miền xuôi lên làm kinh tế mới, định canh, định cư lâu dài ở các huyện miền núi, Quan Sơn đã tiếp nhận 210 hộ người Kinh lên định cư. Đến thời điểm năm 1997, số người Kinh lên công tác, buôn bán, làm ăn nhập khẩu vào huyện Quan Sơn càng nhiều hơn. Không chỉ người Kinh ở các huyện miền xuôi trong tỉnh mà còn ở Nghệ An, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng cũng đến Quan Sơn làm ăn cư trú lâu dài. Những năm gần đây, do giao thông phát triển, điều kiện làm ăn sinh sống có nhiều thuận lợi hơn, dân số người Kinh tăng cơ học rất nhanh trên địa bàn huyện Quan Sơn. Trước năm 1997, người Kinh ở Quan Sơn chưa đến 1%, nhưng đến cuối năm 2015, người Kinh ở Quan Sơn đã chiếm 9,1% dân số toàn huyện. Người Kinh ở Quan Sơn có các dòng họ: Nguyễn, Lê, Trịnh, Trần, Đỗ, Vũ, Đặng, Mai, Bùi,... trong đó, họ Nguyễn, Lê, Trịnh, Trần, Mai chiếm đa số. Địa bàn cư trú của người Kinh ở Quan Sơn thường là dọc tuyến đường 217, nơi đông dân cư như km: 19; 22; 25; 34; 35; 42; 54; 61; 79; 88 và ở các tuyến đường vành đai biên giới, liên xã, các thị trấn, thị tứ, trung tâm các xã, ngã ba đường cái, các bản đông dân cư có đường ô tô đi lại để thuận tiện cho việc buôn bán, giao lưu. Hiện nay, người Kinh có mặt ở hầu khắp các xã, thị trấn trong huyện, nhưng tập trung nhiều ở các xã: Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Tiến, Trung Thượng, thị trấn Quan Sơn, Sơn Hà, Sơn Lư, Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Điện, Mường Mìn, Na Mèo. 6.2.2. Vai trò của tộc người Kinh trên vùng đất Quan Sơn Sự có mặt của người Kinh trong diễn trình lịch sử của vùng đất Quan Sơn đã tạo ra một bước chuyển biến mới đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở địa phương trên nhiều phương diện, đặc biệt là lối làm ăn, tư duy kinh tế nhanh nhạy, năng động thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và khả năng điều hành các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, tiếp cận và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và phục vụ đời sống hàng ngày. Trong số người Kinh có mặt trên đất Quan Sơn phải kể đến một lực lượng cán bộ, giáo viên, cán bộ y tế, bộ đội biên phòng và một số ngành khác xuất phát từ lòng nhiệt huyết, tình thương mến yêu con trẻ đã lên vùng đất Quan Sơn bám bản, dựng trường lớp, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho Quan Sơn, chăm lo sức khỏe cho đồng bào các dân tộc và giữ vững ổn định quốc phòng - an ninh nơi biên cương. Lực lượng này đã trở thành nguồn cung cấp cán bộ cho huyện cũng như tỉnh. Người Kinh lên Quan Sơn sinh sống lập nghiệp cũng đem theo những kinh nghiệm sản xuất, cách thức làm ăn để người dân miền núi cùng vận dụng. Kinh nghiệm thâm canh trong sản xuất nông nghiệp được người Kinh truyền thụ, chia sẻ với bà con các dân tộc. Các nghề truyền thống của đồng bào dân tộc có từ xa xưa là dệt thổ cẩm, thêu, đan lát,... Người Kinh làm đa dạng hóa các nghề bằng việc góp thêm các nghề mới như: mộc, chế biến nông sản, hải sản,... Đồng bào dân tộc Kinh lên Quan Sơn sinh sống đã thúc đẩy sự phát triển hàng hóa, kinh tế thị trường. Người dân tộc ở vùng miền núi nói chung trước đây chưa quen với sản xuất hàng hóa, chủ yếu sản xuất của bà con theo lối tự túc, tự cấp, cần gì thì sản xuất cái ấy chứ không có nhu cầu sản xuất ra để bán. Tập quán lâu đời quen sống dựa vào khai thác tự nhiên không tạo được những bước đột phá trong phát triển kinh tế. Người Kinh đến từ các huyện miền xuôi trong tỉnh và nhiều người ở tỉnh ngoài [chủ yếu là Bắc Bộ] đã mang đến nhiều nét văn hóa của các vùng miền góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần và vật chất cho nhân dân trong huyện. Đến vùng đất Quan Sơn, với nét nổi trội của văn hóa Thái, người Kinh đã góp phần vun đắp và hòa nhập hai truyền thống văn hóa vào ngôi nhà chung văn hóa Quan Sơn. Các gam màu văn hóa đa dạng vừa phong phú sắc thái vùng miền, vừa độc đáo sắc thái văn hóa các dân tộc anh em trên vùng đất Quan Sơn được thể hiện trong mọi sinh hoạt của đời sống thường ngày, nhất là trong các dịp lễ hội, ngày tết, văn nghệ quần chúng, liên hoan cấp làng, xã, huyện. Văn hóa của người Kinh ở Quan Sơn cơ bản giống văn hóa của người Kinh ở vùng đồng bằng Thanh Hóa. Trên vùng đất Quan Sơn, sự ảnh hưởng văn hóa của người Kinh trên địa bàn cũng phổ biến rộng rãi. Có những gia đình người Thái, Mường làm nhà xây gạch, cốt thép như người Kinh, nhất là khu vực thị trấn, thị tứ, ven quốc lộ 217. Dấu hiệu sâu đậm là những biểu hiện dùng hỗn hợp trong ngôn ngữ giao tiếp. Chẳng hạn, trong một câu nói của người Thái, người Mường thường dùng cả tiếng Thái, tiếng Kinh pha lẫn. Ví dụ: Một người Thái nói: “Mự nị ái pay hội” [Hôm nay bố đi họp] thì từ “hội” chính là từ của người Kinh [hội họp]. Nếu dùng đúng từ của người Thái thì phải nói là “Mự ni ái pay xùm”, hoặc nói “Hến láu xớ chén” [Rót rượu vào chén], nếu nói đúng từ Thái phải nói là “Hến láu xớ choóc”, “choóc” tiếng Thái đồng nghĩa tiếng Kinh là “chén”. Một số nét trong phong tục tập quán của người Kinh cũng được các dân tộc khác trên địa bàn học làm theo. Chẳng hạn, trước đây người Thái ăn Tết vào trung tuần tháng 3 âm lịch “kin chiêng bóc mạy” [ăn Tết mừng hoa nở], nay người Thái cũng ăn Tết theo năm âm lịch như người Kinh. Tập quán thờ thổ công, thổ địa của người Kinh cũng được một bộ phận người Mường, người Thái ở thị trấn, thị tứ làm theo. Tục cúng ngày mùng một, ngày rằm [ngày 15 âm lịch] hàng tháng của người Kinh, nay nhiều gia đình người Thái, nhất là các hộ làm kinh doanh cũng học người Kinh. Do cùng sinh sống làm ăn nên bà con người Kinh cũng như người Thái, người Mường, người Mông có điều kiện hiểu biết nhau hơn, tình cảm gắn bó keo sơn lâu dài đã tạo nên khối đoàn kết các dân tộc ngày càng bền vững. Có thể nói rằng, trong quá trình phát triển của lịch sử, trên vùng đất Quan Sơn, người Kinh đã xây dựng được mối quan hệ đoàn kết, gắn bó, thân thiện với các dân tộc anh em. Tình cảm ấy ngày càng được củng cố và nâng lên tầm cao mới thông qua quan hệ hôn nhân giữa các dân tộc Thái - Kinh - Mường. Nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Quan Sơn là người Kinh đã và đang đóng góp tâm sức xây dựng và phát triển quê hương trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 6.3. DÂN TỘC MƯỜNG 6.3.1. Vài nét về nguồn gốc và văn hóa người Mường huyện Quan Sơn Dựa trên những kết quả của nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã có ý kiến rằng người Mường và người Kinh hiện nay vốn có chung tổ tiên là người Việt cổ. Sự phân tách thành hai tộc người mới diễn ra trong khoảng cuối thời kỳ Bắc thuộc. Bộ phận người Việt cổ sinh sống ở khu vực miền núi, ít chịu tác động bởi văn hóa phương Bắc, giữ được nhiều dấu ấn của văn hóa cổ truyền trong đời sống sản xuất, phong tục tập quán, tín ngưỡng,... trở thành tộc người Mường. Bộ phận người Việt cổ sinh sống ở vùng đồng bằng, đô thị chịu ách cai trị trực tiếp của ngoại bang, lại giao lưu với văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa,... trong diễn trình dài lâu của lịch sử nên đã biến đổi thành tộc người Kinh hiện nay. Đồng bào Mường có tiếng nói riêng nhưng không có chữ viết. Tiếng Mường thuộc nhóm Việt Mường, ngành Môn - Khơ me, họ Nam Á. Một số nhà nghiên cứu đã cho rằng, trong lịch sử đã có một thời kỳ ngôn ngữ tiền Việt Mường, sau đó phát triển thành ngôn ngữ Việt Mường chung. Đến khoảng thế kỷ IX, thế kỷ X thì ngôn ngữ Việt Mường chung có sự phân hóa thành hai ngôn ngữ gắn với hai khối cư dân. Khối cư dân sinh sống ở vùng núi, ít tiếp xúc với người Hán dẫn đến sự hình thành tiếng Mường. Khối cư dân sinh sống ở vùng đồng bằng, đô thị, tiếp xúc nhiều với ngôn ngữ Hán và các ngôn ngữ khác trong khu vực Đông Nam Á dẫn đến sự hình thành tiếng Việt [Kinh]. Cũng bởi vậy, giữa tiếng Việt và tiếng Mường có những nét gần gũi. Thời gian đã lùi xa, nhưng hiện nay tiếng Việt cổ vẫn được bảo lưu trong môi trường văn hóa Mường. Sự phân tách hai tộc người Việt - Mường trong lịch sử có thể nói một cách hình ảnh như hai cành sinh ra từ một gốc. Người Mường cư trú trên một vùng đồi núi khá rộng, từ phía tây bắc của tỉnh Yên Bái đến phía bắc tỉnh Nghệ An, song dân cư tập trung đông nhất là ở tỉnh Hòa Bình và khu vực miền núi Thanh Hóa, thuộc địa bàn của các huyện Ngọc Lặc, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Bá Thước, Như Xuân, Lang Chánh và một số ít ở các huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát. Người Mường ở Thanh Hóa có số dân đông thứ hai, sau tỉnh Hòa Bình. Về mặt cơ cấu hành chính, đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, người Mường trên địa bàn Thanh Hóa tổ chức thành các đơn vị hành chính truyền thống với khoảng 40 mường, do một số dòng họ lang đạo nối đời thống trị như: họ Hà 4 mường, họ Phạm Thúc và Phạm Văn 15 mường, họ Lê Xuân 4 mường, họ Trương Công 5 mường, họ Nguyễn Đình 7 mường, họ Quách 2 mường, họ Cao 1 mường. Những mường lớn có uy thế cả về kinh tế và chính trị là mường Đẹ ở Thạch Thành, mường Lân Ru ở Như Xuân, mường Khô ở Bá Thước, mường Rặc ở Ngọc Lặc, mường Chếnh ở Lang Chánh[ ]. Về nguồn gốc người Mường ở Thanh Hóa, có ý kiến cho rằng người Mường ở Thanh Hóa được cấu thành từ ba nguồn chính, bao gồm: bộ phận thứ nhất là người Mường từ tỉnh Hòa Bình di cư vào, bộ phận thứ hai là người Thái, người Kinh hòa nhập thành người Mường; bộ phận thứ ba đáng chú ý là người Mường bản địa[ ]. Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, bộ phận người Mường ở các vùng khác di cư vào Thanh Hóa cũng được xác định từ nhiều nguồn cứ liệu. Trong bài viết “Mường Bi, một trong những trung tâm xuất phát và quy tụ của người Mường”, nhà nghiên cứu Lâm Bá Nam[ ] đã cung cấp những cứ liệu về việc một bộ phận lớn người Mường từ Hòa Bình di cư vào Thanh Hóa[ ]: Theo một số cụ già Mol Bi thì anh em của họ ở mường Bi không chỉ chạy vào Thanh Hóa mà còn chạy đi khắp nơi như Yên Bái, Nghĩa Lộ. Người Mol Bi ở Quan Hóa hầu hết là nông nô của lang đạo mường Bi ngày trước. Vào khoảng thế kỷ XVIII do mất mùa, đói kém, thuế nặng, dân ở đây nổi dậy chống lại rồi bỏ chạy lên Châu Mộc [Sơn La] làm ăn, chẳng bao lâu bị chúa đất ở đó truy đuổi, họ phải bỏ Châu Mộc chạy sang vùng Sầm Nưa [Thượng Lào], cuối cùng đoàn người theo dòng sông Mã xuôi về Quan Hóa cho tới tận ngày nay. Một bộ phận người Mường ở mường Bi bị lang đạo áp bức, bóc lột quá nặng nề nên đã dời bỏ quê hương đến nơi khác làm ăn sinh sống. Người Mol Bi còn lưu truyền lại một số câu chuyện xung quanh việc dời bỏ quê hương của mình. Người Mol Bi ở làng Giá thuộc xã Phú Xuân, huyện Quan Hóa còn nhớ, khi xưa, hồi còn sống ở vùng mường Bi, nhà lang chia trâu bò cho các gia đình trong mường bắt họ phải chăn dắt. Ngày lại ngày trôi đi, trâu bò sinh đẻ ngày một nhiều. Làng cũng không biết đàn trâu bò đã sinh sôi nảy nở được bao nhiêu. Khi dân có việc bèn lấy trâu bò trong số mới sinh sôi ra làm thịt, bọn lang đạo hay biết chuyện đó, chúng phạt vạ rất nặng. Vì không lo nổi việc phạt vạ, sợ bị chúng trừng phạt nên nhiều gia đình đã phải trốn đi. Khi sang được vùng đất mới, dân làng phải làm những cái mả giả để thờ cúng tổ tiên [vì đất thờ cúng cũ còn ở mường Bi]. Từ đó họ đặt tên nơi mới đến là làng Giả. Giả [hoặc Giá] là tên một làng của người Mol Bi ở xã Phú Xuân, huyện Quan Hóa[ ]. Một truyền thuyết khác lại cho biết, xưa kia tổ tiên của người Mol Bi ở mường Bi, vì lang đạo của họ gả con gái cho thổ ty ở vùng Quan Hóa nên tổ tiên của họ bị cắt cử đi theo để phục dịch bà nàng, một số anh chị em họ hàng chạy theo họ rồi an cư lập nghiệp ở đó[ ]. Một truyền thuyết khác cũng cho biết thổ ty bản Ken [xưa thuộc châu Quan Hóa, nay là bản Ken, xã Nam Tiến, huyện Quan Hóa], vì không có con trai nối dõi đã nhận người con rể. Người rể vào cùng với gần 100 gia đình người Mường rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây. Dòng họ Trương Công, Trương Văn có thế lực lớn ở Bá Thước còn đền thờ ông tổ của dòng họ ở làng Ấm xã Lương Nội. Theo truyền thuyết, ông tổ này quê ở Hòa Bình được Minh Mạng cử đi chỉ huy dân binh đánh giặc và được cử lên trấn ải miền Quang Chiểu [huyện Quan Hóa]. Sau khi thắng trận, đoàn quân kéo về Bá Thước rồi định cư ở đó, dần dần phát triển dân số mới phân chia nhau đi cai quản các mường khác trong vùng. Theo các cụ cao niên ở Quan Sơn kể lại thì phần lớn người Mường ở Quan Sơn từ mường Bi [Hòa Bình] di cư sang Quan Hóa rồi ngược sông Luồng lên mường Mìn, mường Xia cư trú, nay thuộc các xã Sơn Điện, Sơn Thủy, Na Mèo, một số ngược sông Lò lên cư trú ở Sơn Lư, Tam Lư, hoặc từ Sơn Điện di cư sang các xã khác cư trú. Trong diễn trình lịch sử, vùng đất Quan Sơn cũng là nơi có con người cư trú rất sớm. Vùng đất này đã lưu giữ những chiếc trống đồng được xem như là những chứng tích của cư dân Việt cổ [Trống đồng Trung Hạ là chiếc trống đồng loại I, được xác định thuộc giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn]. Theo nhà nghiên cứu Trịnh Sinh “muộn hơn và cũng là kế thừa dòng trống Đông Sơn là trống Mường [trống loại II Heger]. Những chiếc trống này chất chứa bao bí ẩn của lịch sử đòi hỏi phải được giải mã. Xứ Thanh lại là nơi tập trung nhiều trống Mường ở ngay vùng người Mường đang sinh sống”[ ]. Tại Quan Sơn đã tìm thấy ba chiếc trống đồng mà theo phân loại của F. Heger là thuộc trống đồng loại II. Đó là trống đồng bản Bơn [xã Mường Mìn]; trống Sơn Thủy, trống Tam Lư. “Trống Mường có vẻ đẹp riêng của nó, với những hoa văn được tạo ra bằng phương pháp in dập, nhất là hoa văn ô trám, đã biến mặt trống đồng như một bức thảm được thêu dệt hoa văn đẹp, lặp đi lặp lại như hoa văn trên các tấm thổ cẩm, tấm áo của đồng bào các dân tộc miền núi xứ Thanh còn lưu giữ. Trống Mường kể lại nhiều vấn đề về lịch sử tộc người, nhất là lịch sử người Mường, bộ phận vốn là một trong những thành phần cơ bản của người Việt cổ xưa”[1]. Như vậy, khái quát từ một số nguồn dữ liệu và kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây, có thể thấy rằng nguồn gốc người Mường ở Quan Sơn nằm trong bối cảnh chung về nguồn gốc người Mường ở Thanh Hóa, bao gồm: một bộ phận di cư từ Hòa Bình vào, một bộ phận người Mường từ các huyện miền núi Thanh Hóa chuyển cư đến Quan Sơn mà nhiều nhất là từ Quan Hóa và không loại trừ khả năng là có một bộ phận bản địa đã có mặt trên vùng đất Quan Sơn từ lâu đời. Người Mường ở Quan Sơn tập trung ở các bản Sủa, Na Phường, Na Hồ, Na Lộc, Tân Sơn thuộc xã Sơn Điện; các bản Hẹ, Hao, Bìn, Sỏi thuộc xã Sơn Lư, một số khác sống xen kẽ, rải rác ở các bản thuộc các xã trong huyện. Người Mường ở Quan Sơn là một cộng đồng cư dân lâu đời, nhưng hiện tại số dân đứng thứ ba sau người Thái, người Kinh và chiếm 7,4% dân số của toàn huyện Quan Sơn. Bản sắc văn hóa truyền thống của người Mường ở Quan Sơn cơ bản giống như người Mường ở một số huyện của Thanh Hóa như Lang Chánh, Bá Thước, Ngọc Lặc. Do dân số ít lại cộng cư, xen kẽ lâu đời bên cạnh người Thái nên văn hóa của người Mường ở Quan Sơn cũng có nhiều nét hòa nhập với văn hóa của người Thái nơi đây: đa số người Mường nói và khặp Thái thông thạo; trang phục phụ nữ Mường [váy, áo khóm] cũng dệt và may mặc như phụ nữ Thái; nhà ở của người Mường gần giống như người Thái; các món ăn của người Thái được người Mường sử dụng hàng ngày; người Mường hiểu phong tục tập quán của người Thái, thậm chí một số ít người Mường dùng tiếng Thái giao tiếp hàng ngày. 6.3.2. Một số dòng họ của người Mường huyện Quan Sơn Người Mường ở Quan Sơn có các dòng họ: Lương, Lộc, Len, Hà, Ngân, Phạm, Lục. Trong đó có hai dòng họ lớn là họ Lương và họ Hà. Họ Lương của người Mường ở Quan Sơn chiếm 26% dân số người Mường trong huyện. Đây là dòng họ lớn nhất của dân tộc Mường ở huyện Quan Sơn. Là dòng họ có số dân đông nên họ Lương có mặt ở hầu khắp các bản có người Mường trong huyện, tập trung ở các bản: Sủa, Na Phường, Na Hồ, Tân Sơn xã Sơn Điện; các bản Hẹ, Bình, Sỏi, Hao, Bon xã Sơn Lư; bản Hát xã Tam Lư; bản Xuân Thành xã Sơn Thủy; bản Na Mèo xã Na Mèo; một số khác sống xen kẽ trong các bản của người Thái như bản Chiềng, Luốc Làu, Mìn, Yên xã Mường Mìn và một số bản ở xã khác. Họ Hà cũng là dòng họ lớn của người Mường ở Quan Sơn. Họ Hà tập trung ở ba bản: Sủa, Na Phường, Na Hồ. Tuy dân số không nhiều bằng họ Lương, nhưng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 dòng họ Hà là dòng họ lang đạo nhiều thế hệ làm tạo pọng, tạo bản. Người họ Hà tuy làm tạo nhưng rất siêng năng, cần cù lao động, lấy việc tự lao động sản xuất để nuôi sống mình, làm giàu chính đáng, nên được đồng bào các dân tộc quý trọng. Dân tộc Mường coi họ Hà là trụ cột của mình để noi gương trong lao động, xây dựng cuộc sống gia đình. Trong kháng chiến chống Pháp, ông Hà Văn Thụng [Tạo bản Sủa] đã ủng hộ kháng chiến 5.000kg thóc, 77kg thực phẩm, 40kg muối và vận động được nhiều thanh niên trai tráng dân tộc Mường đi bộ đội, du kích, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến phục vụ kháng chiến chống Pháp. Ông làm tạo bản nhưng sống gần gũi, hòa đồng, thương yêu dân lành, được nhân dân quý trọng, tin yêu. Đồng thời cá nhân ông và con cháu dòng họ tích cực tham gia kháng chiến, ủng hộ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Mức đóng góp của gia đình ông thời đó cho kháng chiến là mức cao nhất của xã Sơn Điện. Họ Ngân của người Mường ở Quan Sơn tuy không lớn như dòng họ Lương, họ Hà nhưng cũng khá phổ biến ở các bản có người Mường của huyện Quan Sơn. Hiện nay, dòng họ Ngân của người Mường cư trú khá tập trung ở các bản Sủa, Na Phường, Na Hồ, Na Lộc xã Sơn Điện, một số khác sống xen kẽ trong các bản người Mường, người Thái trên địa bàn huyện. Họ Lộc của người Mường ở Quan Sơn sống khá tập trung ở các bản Na Lộc, Na Hồ, Na Phường, Sủa, Tân Sơn xã Sơn Điện; bản Bìn, Hẹ, Hao xã Sơn Lư; bản Hát xã Tam Lư... Họ Len của người Mường ở các bản Na Lộc, Na Hồ, Na Phường, Sủa của xã Sơn Điện. 6.4. DÂN TỘC MÔNG Người Mông di cư từ xã Pù Nhi, huyện Mường Lát đến vùng đất Quan Sơn vào cuối năm 1989. Vào thời điểm đó, người Mông ở Quan Sơn chỉ có 34 hộ, với gần 600 khẩu, cư trú ở 3 bản do đồng bào tự chọn là: Xia Nọi, Mùa Xuân, Ché Làu của xã Sơn Thủy cũ [mỗi bản hơn 10 hộ]. Đến đầu năm 1990 ba bản này chính thức được thành lập. Năm 1999, thực hiện Nghị định 65/NĐ-CP của Chính phủ, xã Sơn Thủy chia tách thành hai xã là Sơn Thủy và Na Mèo, bản Ché Làu thuộc về xã Na Mèo. Người Mông ở Quan Sơn hiện nay chiếm 2,3% dân số toàn huyện. 6.4.1. Vài nét về văn hóa vật chất 6.4.1.1. Kiến trúc nhà ở Ngôi nhà truyền thống của người Mông ở Quan Sơn là loại nhà nền đất [nhà trệt] xuất hiện từ lâu đời, người Mông gọi là lú trế. Để dựng được một ngôi nhà, trước tiên phải tìm kiếm nguyên liệu, công việc này rất quan trọng vì nó liên quan đến tuổi thọ, quy mô cũng như hình dáng của mỗi ngôi nhà. Cũng như các tộc người khác ở Quan Sơn, người Mông đã biết tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên. Các loại gỗ mà người Mông ở đây thường sử dụng để làm khung nhà là: pơ mu, dổi và một số loại gỗ tạp. Kinh nghiệm sử dụng gỗ nhiều đời cho biết, để chống mối mọt thì phải sử dụng loại gỗ có dầu, chính vì vậy những bộ phận quan trọng trong ngôi nhà truyền thống của người Mông như mái [tru trế] và cột chính [dê trế] thường được làm bằng gỗ pơ mu [tông thư sua], những bộ phận khác còn lại trong bộ khung nhà thường được làm bằng gỗ dổi lõi xanh, lõi vàng vì đây là loại gỗ không bị mọt. Vách nhà thường được thưng bằng các loại gỗ tạp hoặc các loại gỗ tốt khác như dổi, nghiến, lát... Các gia đình chủ động chuẩn bị nguyên vật liệu để làm nhà, tuy nhiên tinh thần tương trợ về công sức và vật chất là rất quan trọng. Đây là truyền thống tốt đẹp lâu đời vẫn được người Mông gìn giữ và phát huy. Dụng cụ làm nhà trước đây của người Mông rất đơn giản, chủ yếu là các công cụ thô sơ như rìu, dao, búa. Trước đây, đối với ngôi nhà truyền thống, để lắp ráp các bộ phận khung của ngôi nhà, người ta thường dùng lạt, dây mây rừng hoặc ngoãm tự nhiên. Hiện nay, ngôi nhà được dựng bằng những tốp thợ chuyên nghiệp và ngôi nhà trở nên chắc chắn hơn bởi khung nhà được liên kết bằng mộng là chủ yếu. Kích thước của ngôi nhà được đo lường bằng sải tay, gang tay. Một ngôi nhà truyền thống của người Mông thường có kích cỡ trung bình có chiều dài khoảng 12 đến 14m, chiều rộng khoảng 7 đến 9m, cột chính [cột cái] của ngôi nhà thường không quá 4m. Đây cũng chính là chiều cao của ngôi nhà. Mái được lập trờm xuống thấp để che chắn sương mù sớm mai tràn vào nhà, do vậy nhìn bề ngoài ngôi nhà của người Mông rất thấp nhưng bên trong lại rộng rãi. Người Mông ở Quan Sơn hiện nay vẫn còn giữ được không gian sinh hoạt truyền thống. Nhà người Mông được chia làm 3 gian. Đặc biệt, gian giữa thường thoáng rộng hơn hai gian bên cạnh. Cũng giống như quan niệm của người Kinh, gian giữa giữ vị trí trung tâm của ngôi nhà, nơi diễn ra các sinh hoạt chính của mỗi thành viên trong gia đình, là nơi đối ngoại, tiếp khách. Đặc biệt, gian giữa thờ cúng tổ tiên - ma nhà [đa xử ca] đối diện với cửa chính. Phần giữa gian giữa đến vách hậu là nơi thông thoáng thường không kê đặt bàn ghế cố định. Đây là nơi ăn cơm của nam giới, nơi tiếp cơm khách và cũng là không gian thiêng của gia đình vì đây là nơi diễn ra các nghi lễ thờ cúng của gia đình. Trên vách hậu của gian giữa là bàn thờ ma nhà. Những gia đình chủ nhà làm nghề thầy cúng và nghề bốc thuốc chữa bệnh thì có thêm bàn thờ ma thuốc và ma thầy cúng. Các bàn thờ của người Mông không giống như người Kinh và một số dân tộc khác, vì thế nếu người ngoài không tinh ý sẽ không nhận ra. Tuy gọi là bàn thờ nhưng đơn giản chỉ định vị bằng miếng giấy bản to bằng bàn tay có vết máu gà dán đè những chiếc lông cổ gà trên vách hậu gian giữa cao ngang tầm đầu người lớn. Hai gian bên là buồng và bếp. Buồng ngủ không làm song song với bàn thờ mà thường bố trí nơi ngủ lui về phía cuối gian [sát vách tiền]. Mỗi nhà được mở hai cửa, một cửa chính và một cửa phụ. Người nhà, nhất là phụ nữ đi lại hàng ngày chủ yếu qua cửa phụ. Gian chủ nhà thường ở bên phải ngôi nhà, được chia làm ba phần: phần sát vách tiền là buồng ngủ của vợ chồng chủ nhà; phần giữa là lối đi; phần tiếp theo là bếp lò, bếp nấu ăn, sát vách hậu để đồ dùng nấu nướng, nơi ăn uống của phụ nữ và trẻ nhỏ, cất giữ một số đồ sinh hoạt của gia đình. Cửa phụ của ngôi nhà được đặt ở giữa, cách đầu hồi bên phải thông với lối đi của gian này. Phía trên bếp là gác bếp dùng để cất giữ lương thực, hạt giống, hạt gia vị, thực phẩm, đồ đan lát và một số dụng cụ sản xuất. Gian thứ ba, ở bên trái của ngôi nhà, cũng có thể gọi là gian khách. Ở giữa là nơi uống nước và tiếp khách [nhưng cũng có gia đình dành nơi uống nước và tiếp khác là khu vực giáp vách tiền bên phải gian khách cạnh cửa chính], phần sát vách tiền được ngăn lại kê giường ngủ cho khách, khu vực sát vách hậu ngăn lại thành các buồng ngủ cho các con. Tuy nhiên, khu vực khách và các con chủ nhà ngủ ở từng gia đình hiện nay có thể hoán đổi cho nhau, có gia đình khách ngủ ở khu vực vách tiền hoặc ngược lại. Nhà của người Mông có một đặc điểm khác nữa là rất ít hoặc không có cửa sổ. Đặc điểm này bắt nguồn từ việc ứng xử khôn ngoan với điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi [vùng núi cao sương gió bất thường], cũng như tâm lý vốn rất kín đáo của người Mông. Bốn bức vách xung quanh nhà cũng như các buồng ngủ được làm từ ván gỗ được đẽo thủ công từ rìu, gần đây đã sử dụng bằng cưa nên tương đối phẳng phiu, nhìn đẹp mắt. Ngoài ra, nhà có hai chái ở hai bên đầu hồi có diện tích khá rộng, là nơi phơi váy áo, cất giữ công cụ sản xuất, gác tạm ngô, đỗ, các dụng cụ đựng và chế biến lương thực. 6.4.1.2. Trang phục Người Mông ở Quan Sơn có nghề thủ công truyền thống đó là trồng lanh dệt vải. Phụ nữ Mông là người trực tiếp làm ra trang phục dân tộc. Đến tuổi trưởng thành, các thiếu nữ Mông thường dành nhiều thời gian cho công việc này. Tập quán của người Mông đánh giá tài năng, vẻ đẹp của phụ nữ qua khả năng thêu thùa, qua bộ y phục. Câu tục ngữ: “Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu; Gái xinh chưa biết cầm kim là hư”; hay “Muốn biết người tốt xem gác bếp; Muốn hay người đẹp xem quần áo” như là thước đo giá trị vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Mông. Người Mông ở Quan Sơn có 2 nhóm [ngành]: Mông Trắng và Mông Đen. So với bộ y phụ nam giới, bộ y phục cổ truyền của nữ giới người Mông khá đa dạng và cầu kỳ hơn nhiều. Một bộ y phục cổ truyền của phụ nữ gồm váy, áo xẻ ngực có yếm lưng, tấm vải che váy phía trước, thắt lưng và vuông vải nhỏ che lưng đằng sau, khăn quấn đầu, xà cạp... Váy của phụ nữ Mông là loại váy mở, hình nón cụt, cạp váy được xếp nếp xoè rộng, trung bình mỗi váy có tới 40 - 50 nếp xếp, khi người đi, váy đu đưa lượn sóng. Váy của người Mông Trắng làm bằng vải lanh trắng không thêu hoa văn như Mông Đen. Vẻ đẹp của chiếc áo phụ nữ Mông được tập trung ở cổ áo. Cổ áo thường là một thảm thêu thùa nhiều màu sắc, rộng tới 10 - 15cm. Thêu cổ áo rất cầu kỳ, cần nhiều thời gian, nhất là chiếc cổ áo cưới. Mô típ hoa văn trên trang phục có những loại chính sau đây: hình chữ nhật, hình ô vuông, hình chữ thập, hình thoi, hình xoáy ốc và hoa lá. Thân váy được trang trí các mảng hoa văn thêu, vẽ sáp ong hoặc ghép vải với nhiều hoạ tiết hoa văn. Cách in sáp ong, nhuộm chàm như sau: dùng sáp ong nóng chảy để vẽ hoa văn theo ý muốn lên trên nền lanh trắng, sau đó đem vải đã vẽ nhuộm chàm nhiều lần tạo thành màu vừa ý rồi nhúng vào nước nóng cho sáp ong tan ra, để lại hoa văn trắng trên nền chàm. Thêu hoa văn bằng chỉ màu tạo nên hoa văn đẹp hơn cả. Chỉ màu đồng bào có thể tự nhuộm từ sợi lanh, có thể mua ở chợ. Đồng bào thường dùng vải dệt công nghiệp để ghép từng mảng lớn hoặc từng đường vân nhỏ ở nẹp áo, cổ áo, tay áo và đặc biệt là hai chiếc tạp dề đeo ở phía trước và sau bên ngoài váy hoặc quần của phụ nữ. Y phục phụ nữ Mông còn có tạp dề [đại sế]. Tạp dề được mặc ở phía ngoài váy, gồm có hai mảnh trước và sau. Mỗi nhóm Mông có cách trang trí khác nhau trên tạp dề. Tạp dề ở người Mông Đen chỉ thêu ở mảnh trước và có kích thước to hơn của người Mông Trắng. Y phục của nam giới Mông đơn giản hơn, không có sự khác biệt giữa các nhóm. Áo truyền thống của người Mông gọi là lú tro, có đặc điểm tay chật và thon dần về phía cổ tay. Áo có 2 loại. Loại thứ nhất gọi là chon lau, ở trước cổ áo có một miếng vải hình số 7 có thêu hoa văn, đánh dấu bước trưởng thành của chàng trai và thể hiện tài thêu thùa của những người phụ nữ như mẹ, hay chị em gái trong gia đình. Loại áo này chỉ có ở người Mông Đen. Loại áo thứ hai gọi là chon tu chỉ có ở người Mông Trắng, không có miếng vải thêu trước ngực như ở áo của người Mông Đen. Tuy nhiên, giữa nhóm Mông Trắng và Mông Đen có sự khác nhau nhất định về cách trang trí tay áo: người Mông Trắng trang trí các mảng hoa văn vòng quanh tay áo với các hình ô vuông, quả trám bằng chỉ màu xanh, vàng, trắng... hoặc bằng cách ghép các viền vải màu xanh, đen vòng quanh tay áo nhưng không cao quá khuỷu tay; trong khi đó ở người Mông Đen lại vượt quá khuỷu tay, sát nách, chạm cầu vai. Cách trang trí này cũng tương tự ở tay áo nữ giới. Do đó, chỉ cần để ý quan sát cách trang trí ở tay áo trên bộ y phục của người Mông cũng nhận ra được đâu là người Mông Trắng, đâu là người Mông Đen. Đây cũng là đặc điểm trang trí của hai nhóm Mông này ở Thanh Hóa nói chung. Quần [lú tri] của nam giới bằng vải màu đen thuộc kiểu quần chân què, rộng đũng, tạo sự thoải mái khi lao động, cạp vấn hoặc bỏ lá toạ nhưng thường có một khăn vải cũng màu đen thắt thay rút quần, hai múi khăn bỏ xuống phía trước che lấp khu vực bộ hạ. Trước đây, người Mông may quần từ vải lanh nhuộm chàm hoặc đen, nay phần lớn đã chuyển sang sử dụng vải phin hoặc vải thô nhuộm chàm rồi cắt may. Trang phục của nam giới còn có bộ phận thắt lưng được làm bằng vải, rộng khoảng 20cm và dài khoảng 2m. Thắt lưng được làm đơn giản từ vải thô có màu xanh hoặc màu chàm. Những nam giới từ 60 tuổi trở lên thường quấn trên đầu một khăn vải thô [gọi là cho phụa] vừa giữ cho ấm đầu, vừa thể hiện người đã đến tuổi già cả. Đồ trang sức của người Mông gồm có khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, bộ xà tích và nhẫn. Đồ trang sức không chỉ có chức năng thẩm mỹ mà còn là biểu tượng của sự giàu sang, có “tác dụng” ngăn chặn ma tà theo tín ngưỡng dân gian. Theo họ, đeo các đồ trang sức cũng là để bảo vệ con người trước lực lượng siêu nhiên. Tuy nhiên, chức năng thẩm mỹ là chức năng chính của đồ trang sức Mông. Đồ trang sức cổ truyền của dân tộc Mông chủ yếu làm bằng bạc trắng, gần đây một số nơi sử dụng đồ trang sức bằng hợp kim nhôm. Hiện nay, tập quán trồng lanh và dệt vải lanh của người Mông ở Quan Sơn vẫn còn, song vị thế giảm đi rất nhiều so với trước đây. Kiểu dáng, y phục dân tộc vẫn còn được bảo lưu nhưng chất liệu không hoàn toàn bằng vải lanh. Vì vậy, hiện nay, khi có dịp đến thăm bản của người Mông ở Thanh Hóa nói chung và huyện Quan Sơn nói riêng, chúng ta ít được nghe âm thanh dệt vải. Trang phục nhiều màu sắc của người Mông vẫn thấp thoáng trên nương rẫy, nhưng nó không bằng chất liệu lanh mà chủ yếu bằng vải dệt công nghiệp với kỹ thuật ghép vải khéo léo và tinh tế. 6.4.2. Vài nét về văn hóa tinh thần 6.4.2.1. Văn học dân gian Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Mông, văn học dân gian chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Văn học dân gian của người Mông nói chung rất phong phú về thể loại, tiểu biểu như: thần thoại, truyện cổ tích, các thể loại trữ tình, tục ngữ, cao dao, dân ca... Tuy nhiên, do những biến động lịch sử - xã hội, một bộ phận người Mông di cư tự do trong đó có người Mông ở Thanh Hóa cũng như người Mông ở Quan Sơn đã làm mất mát, phai nhạt đi ít nhiều vốn văn học dân gian tộc người. Song trong dòng chảy văn học dân gian của người Mông ở Quan Sơn có những điểm chung căn bản của người Mông ở Việt Nam. Về cơ bản vẫn còn lắng đọng những giá trị lịch sử - văn hóa cũng như nghệ thuật ngôn từ ở từng thể loại văn học dân gian. Trong văn học dân gian, thần thoại là một thể loại văn học phong phú được thể hiện bằng những truyện kể dân gian. Các truyện dân gian khá đa dạng về nội dung chủ đề, trong đó nổi bật là đề cao những người thông minh tài giỏi, những anh hùng văn hóa xuất thân từ quần chúng, những mối tình đẹp, hay những người chiến thắng sự bạo tàn và sự bất công bảo vệ chính nghĩa. Thần thoại của người Mông còn có nhiều truyền kể giải thích về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên cũng như nguồn gốc động thực vật. Thần thoại của người Mông còn giải thích về nguồn gốc loài người, nguồn gốc dân tộc. Đó là truyện “Bọc thịt”, về mô típ nhìn chung tương tự như nhiều truyện “Quả bầu” của các dân tộc anh em khác. Ngoài ra, trong thần thoại còn có những truyện giải thích về những hiện tượng đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc [làm ma, cúng mụ, phụ nữ không được lên gác, cúng cột cái...] và được đồng bào ghi nhớ như những điều chỉ dẫn trong sinh hoạt gia đình, cuộc sống nói chung. Truyện cổ tích cũng là một loại hình văn học khá phong phú và tương đối điển hình. Ở Thanh Hóa chưa có những nghiên cứu cụ thể về lĩnh vực này ở người Mông, nhưng bước đầu nghiên cứu sưu tầm, đối chiếu cho thấy người Mông ở Quan Sơn cũng như người Mông ở phía Bắc Việt Nam có hàng trăm truyện cổ tích. Căn cứ vào tiêu chí phân loại, có thể chia truyện cổ tích thành 3 loại: truyện cổ tích loài vật; truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt xã hội. Trong loại truyện cổ tích loài vật có những nhóm truyện kể về một số loài động vật: lợn, gà, bò... Nội dung cốt truyện vừa giải thích các đặc điểm con vật vừa giải thích các nghi lễ tín ngưỡng liên quan tới con vật... Trong loại truyện cổ tích thần kỳ, yếu tố thần kỳ đóng vai trò quyết định đến việc giải quyết xung đột của truyện, yếu tố thần kỳ còn chi phối quá trình phát triển dẫn dắt câu truyện. Nhìn chung, truyện cổ tích thần kỳ có hai nhóm, đó là truyện về các dũng sĩ tài hoa và truyện mồ côi. So với hai loại truyện trên, truyện cổ tích sinh hoạt xã hội chiếm tỷ lệ thấp nhất. Nổi bật các truyện cổ này là nói về các mối quan hệ gia đình ở những góc độ tốt xấu khác nhau, song nhìn chung các loại truyện này đều có ý nghĩa giáo dục, cảnh tỉnh... thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Bên cạnh các loại truyện cổ tích trên, người Mông huyện Quan Sơn còn lưu giữ được những truyền thuyết dân gian gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm, chống sự nô dịch, đàn áp, bành trướng của đế chế Đại Hán, để rồi sau đó người Mông bị mất đất và phải chạy đi nơi khác ở sinh sống trong đó có Việt Nam. Trong văn học dân gian của người Mông, dân ca chiếm một vị trí đáng kể. Kho tàng dân ca của người Mông bao gồm nhiều loại như: dân ca dao duyên, dân ca than thân trách phận, dân ca nghi lễ phong tục. Dân ca giao duyên là những bài dân ca về tình yêu nam nữ có nội dung tỏ tình, tương tư, thề thốt đến các bài ca thán tình yêu đổ vỡ, éo le, không trọn vẹn... Dân ca than thân trách phận, phản ánh nỗi khổ của phận làm dâu, của người mồ côi cha mẹ. Dân ca nghi lễ phong tục gắn liền với chu kỳ vòng đời mỗi con người. Có thể nói một cách hình ảnh là dân ca của người Mông ngân dài theo suốt cuộc đời một con người. Từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay người Mông luôn tắm mình trong các nghi lễ phong tục dân tộc. Hát ru là những mạch nguồn đầu tiên của dòng suối dân ca nuôi lớn tâm hồn trẻ thơ. Trong lễ cưới cũng như tang ma, các nghi lễ đều gắn liền với dân ca. Người Mông ở Quan Sơn, trong lễ cưới cũng như trong tang ma người ta vẫn còn gìn giữ được cả trăm bài hát dân ca theo trình tự các nghi lễ. Đặc điểm chung là những bài dân ca không chỉ hát bằng lời mà còn có thể giãi bày với nhau bằng khèn, đàn môi, kèn lá. Các nhạc cụ đó gắn chặt với dân ca. Nghe khèn, kèn lá, đàn môi, người ta hiểu nội dung người thổi diễn đạt. Trong dân ca không chỉ có những bài ngắn mà còn có những tập dài nổi tiếng như Tiếng hát làm dâu, được các dân tộc anh em biết đến. Mỗi người Mông ít nhiều đều biết dân ca cũng như nhiều thanh niên biết gẩy đàn môi, thổi khèn... đó là những nhạc cụ truyền thống của dân tộc. Tục ngữ cũng là một thể loại văn học dân gian rất sinh động của người Mông. Đây là thể loại văn học có giá trị đúc kết những kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét, phán đoán, hay lời khuyên răn dạy bảo của dân gian dưới hình thức những câu nói ngắn, súc tích có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ lưu truyền. Tục ngữ Mông phản ánh tập trung 3 vấn đề cơ bản: kinh nghiệm sản xuất của nhân dân, phản ánh các mối quan hệ xã hội và phản ánh lối sống cùng những ứng xử của người Mông. 6.4.2.2. Tín ngưỡng tôn giáo Tín ngưỡng tôn giáo là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và cầu mong mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Trong xã hội truyền thống, tín ngưỡng tôn giáo của người Mông là một trong những thành tố quan trọng của văn hóa tinh thần. Tín ngưỡng tôn giáo của người Mông có nhiều nét tương đồng với các tín ngưỡng tôn giáo của các tộc người khác ở cùng địa phương. Trong các hình thức tín ngưỡng tôn giáo của người Mông, việc thờ cúng tổ tiên, đặc biệt là Sa man giáo, tô tem giáo... tương đối phát triển và tồn tại ở dạng tàn dư. Tín ngưỡng tôn giáo hòa điệu với các lễ thức hội hè làm cho đời sống tinh thần của đồng bào Mông trở nên phong phú và sinh động hơn. - Thờ cúng tổ tiên: Thờ cúng tổ tiên là một hình thức tín ngưỡng tôn giáo quan trọng của người Mông, được thể hiện trong quan niệm, nghi lễ, kiêng kỵ và huyền thoại về tổ tiên. Theo nhận thức chung, thờ cúng tổ tiên là thờ cúng ông bà, cha mẹ và những người đồng tộc đã chết. Người Mông ở phía Bắc nước ta quan niệm tổ tiên là những người đã chết trong 3 đời trở lại [cha, ông, cụ]. Quan niệm này được thể hiện trong các bài khấn mời tổ tiên [cúng năm mới, cúng ma trâu...] chủ nhà hoặc thầy cúng đều gọi tên tuổi những người thuộc 3 thế hệ đã khuất trở về ăn tết với con cháu, phù hộ cho con cháu làm ăn[ ]. Người Mông Trắng ở Quan Sơn thường tổ chức cúng tổ tiên - cúng họ tại nhà trưởng tộc vào ngày 29 tháng 9 âm lịch hằng năm. Theo phong tục, trưởng tộc thông báo trước cho những gia đình của dòng tộc biết để đóng góp cúng tổ và tổ chức ăn uống một bữa ở nhà trưởng tộc. Còn ở phạm vi gia đình, thường chỉ thờ cúng một đời trước, tức chỉ thờ cúng bố mẹ sinh ra mình đã mất. Người Mông ở đây thờ cúng tổ tiên vào những dịp lễ tết, khi gia đình có việc vui như cưới hỏi... Mục đích tưởng nhớ và cầu xin tổ tiên che chở cho người sống. Trong một bản người Mông ở thường có 3 - 4 dòng họ, cụ thể là ở bản Ché Làu có 3 họ [Hơ, Thao và Giàng], bản Mùa Xuân có 3 họ [Thao, Hơ và Sung], bản Xia Nọi có 5 họ [Sung, Chá, Thao, Hơ, Hạ]. Các thành viên trong dòng họ gắn bó chặt chẽ với nhau bởi cùng một phả hệ dòng nam do một ông tổ sinh ra. Trong ngày giỗ họ, tất cả các thành viên trong dòng họ phải tới dự. Ông trưởng họ thường kể về sự nghiệp của tổ tiên, các quy ước kiêng kỵ của dòng họ. Mỗi lần cúng như vậy, hình ảnh của tổ tiên lại được khắc sâu vào tâm trí của mỗi thành viên. Chính vì vậy tính cố kết dòng họ ở người Mông hiện nay vẫn còn rất sâu sắc và bền vững. Bàn thờ tổ tiên, được đặt ở vị trí gian giữa. Tuy nhiên, cũng giống như người Mông ở Lào Cai và một số tỉnh ở phía Bắc, nhiều dòng họ Mông ở Quan Sơn nói riêng cũng như ở Thanh Hóa nói chung không lập bàn thờ tổ tiên riêng. Nơi thờ cúng tổ tiên chỉ là một miếng giấy bản có kích thước khoảng 25cm x 30cm gần nơi thờ “đa xử ca” ở bên bức vách hậu gian giữa. Trang trí trên bàn thờ là mảnh giấy bản và ống hương. Nơi đặt bàn thờ là không gian thiêng, chỉ có chủ nhà mới được làm chủ lễ cúng mời tổ tiên, chỉ có con trai mới được đến gần bàn thờ, vì thế con gái và con dâu trong gia đình kiêng không qua lại khu vực này. Người Mông chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm mới, lễ cơm mới hoặc khi cần cúng chữa bệnh. Người Mông quan niệm, tổ tiên thuộc loại ma lành phù hộ cho con cháu. Tuy nhiên, nếu không thờ cúng thành tâm, chu đáo thì tổ tiên cũng có thể bắt phạt làm cho con cháu ốm đau. Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Mông còn thờ cúng một hệ thống ma nhà như ma đa xử ca, ma cột chính, ma cửa... gắn liền với những lễ thức đặc biệt. - Thờ ma đa xử ca: Đa xử ca [người Mông ở phía Bắc gọi là xử ca] là ma có vị trí quan trọng trong hệ thống các ma nhà của người Mông. Đa xử ca gắn liền với quan niệm giàu có, nhất là về tiền bạc. Nơi thờ đa xử ca ở vách hậu gian giữa nhà, được định vị bằng miếng giấy bản màu có dán lông cổ gà và bôi ít máu gà. Vì gắn liền với quan niệm giàu có, tiền bạc nên hiện nay nơi thờ đa xử ca ở các gia đình tường có dán thêm một vài tờ tiền polime có mệnh giá từ 10 đến 50 ngàn đồng. Mỗi năm cúng đa xử ca một lần vào đêm 30 Tết. Đồ cúng phải có một con gà trống. Trước kia, mỗi khi giết gà cúng, ông chủ nhà thường cắt tiết gà gần chết rồi thả gà trong nhà để đoán định việc làm ăn trong năm bằng cách quan sát thấy gà quay đầu về bức vách thờ đa xử ca hoặc phía buồng ông bà chủ nằm thì năm đó gia đình làm ăn phát đạt, nhưng nếu gà quay đầu ra phía cửa chính thì báo hiệu năm đó gia đình gặp khó khăn, làm ăn không may mắn. - Thờ ma cột chính: Trong bộ khung nhà của người Mông có 4 cột cái nhưng trong đó có một chiếc cột gọi là cột chính [dê trế]. Đây là cây cột nóc của vì kèo ở giữa gian chủ nhà và gian thờ. Cột chính của ngôi nhà theo người Mông tượng trưng cho sự hưng thịnh của gia đình, liên quan đến sức khoẻ và vận mệnh của gia đình. Cột chính là nơi linh thiêng của ngôi nhà, nên kiêng dựa, treo quần áo, đồ dùng và đụng chạm mạnh vào đó. Cũng như người Mông ở phía Bắc, trước đây khi gia đình sinh con trai, nhau thai nhi sẽ chôn ở chân cột chính. Khi chết, thầy cúng phải chỉ đường cho hồn về nhận lại áo “nhau” ở chân cột chính mang về cho tổ tiên. Cúng ma cột chính hay còn gọi là cúng ma lợn, theo quan niệm của người Mông còn nhằm tạ ơn những người xưa kia đã giúp người Mông qua hoạn nạn, để tìm chữ viết đã mất. Lợn dùng trong lễ này phải là lợn nái đã đẻ. Sau khi làm lễ xong lấy xương hàm con lợn treo lên cây cột chính. - Thờ ma cửa chính: Ma cửa chính gọi là Xìa mình. Trong tâm thức của người Mông nói chung và người Mông ở Quan Sơn nói riêng, ma cửa có nhiệm vụ như người lính gác cửa, ngăn ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn, ngăn không cho hồn của các thành viên trong gia đình bỏ đi. Khi nào súc vật chết vì bệnh tật, hoặc bị hổ vồ là do ma cửa bị ngã. Cũng có khi người đàn bà có thai ở gia đình khi bước qua ngưỡng cửa, ma cửa cũng bị ngã. Do đó cần làm lễ nâng ma cửa dậy. Theo quan niệm của đồng bào, ma cửa thường ngự ở miếng giấy đỏ hoặc miếng vải đỏ dán ở thanh ngang trước cửa chính. Do vậy, phụ nữ Mông trong thời gian thai sản, có kinh nguyệt hay sẩy thai kiêng không đi qua cửa chính. Ma cửa chính thường được cúng vào dịp Tết hoặc khi chăn nuôi không thuận lợi, khi có người ốm đau hoặc mất tài sản. Mâm lễ cúng ma cửa chính phải có một con gà trống được đặt ở cạnh cửa chính. Mỗi lần cúng ma cửa, gia đình phải thay miếng giấy đỏ hoặc miếng vải đỏ ở cửa chính. - Thờ ma buồng: Theo quan niệm của người Mông, ma buồng [đá trùng] liên quan chủ yếu tới việc chăm sóc bảo vệ sức khoẻ trẻ em và phát triển đàn gia súc. Khi một cặp vợ chồng ra ở riêng sinh con đầu lòng mới đủ điều kiện thờ ma buồng. Gia đình có trẻ nhỏ hàng năm thường làm lễ cúng ma buồng ít nhất một lần. Đồ cúng phải có một con lợn nhỏ được chọc tiết ngay trong nhà. Lễ cúng ma buồng thường cúng vào buổi tối hoặc ban đêm. Người lạ không được tham dự lễ cúng quan trọng này vì thế mỗi khi gia đình tổ chức lễ cúng ma buồng phải đóng chặt cửa. Cách thức và số lượng bát thịt cúng ma buồng ở người Mông có sự khác biệt giữa các dòng họ. Số bát cúng ở mỗi dòng họ thường là số lẻ, nhiều nhất là 9 bát, ít nhất là 3 bát. Chẳng hạn như dòng họ Hơ và họ Thao ở Ché Lầu cúng 9 bát. Mâm lễ cúng được đặt trong buồng hoặc ở gian giữa nhà tuỳ theo từng gia đình, mỗi bát thịt cúng phải đủ các bộ phận của con lợn. Ngoài ra, lễ cúng còn có nước luộc thịt đựng trong quả bầu khô, cuống cong. Ông chủ nhà là người chủ trì lễ này từ việc chuẩn bị mâm lễ cho đến việc cúng. Ông đại diện gia đình khẩn cầu ma buồng bảo vệ hồn [plì] trẻ nhỏ, phù hộ trẻ nhỏ trong gia đình hay ăn chóng lớn, chăn nuôi được nhiều gia súc. Cúng xong ông rót nước thịt trong quả bầu ra các chén nhỏ bằng ống nứa cho trẻ nhỏ uống, với niềm tin trẻ sẽ được khoẻ mạnh. Số thịt cúng cũng được chia cho các thành viên trong gia đình ăn một bữa ở trong nhà, kiêng không mang ra ngoài nhà. Mỗi khi cúng xong, quả bầu cong và các chén bằng ống nứa được gói gém cẩn thận và cất trong buồng ngủ của vợ chồng chủ nhà. - Thờ ma bếp: Trong mỗi gia đình của người Mông ở Quan Sơn có hai bếp: bếp kiềng và bếp lò. Trước đây đồng bào dùng ba hòn đá kê làm kiềng, sau này mới dùng kiềng sắt. Bếp kiềng dùng để nấu các thức ăn hàng ngày và đun nước uống. Người Mông quan niệm có ma bếp nên phải thờ ma bếp, do vậy kiêng không được gõ vào kiềng, khạc nhổ và đổ những thứ nước bẩn vào bếp nhất là trong lúc nấu nướng. Ma bếp kiềng được cúng vào dịp Tết. Mỗi khi dựng xong nhà mới người ta dùng đất sét để đắp bếp lò. Trong tâm thức của người Mông, bếp lò tượng trưng cho sự trường tồn, bền vững, no đủ của mỗi gia đình. Bởi vậy gian bếp lò được coi là gian gốc của ngôi nhà, vì vậy buồng của vợ chồng chủ nhà bao giờ cũng ở gian này [gian phải]. Bếp lò thường dùng để nấu cám lợn, hoặc mỗi khi gia đình có tổ chức ăn uống cho nhiều người. Trên bếp lò ở mỗi gia đình người Mông hiện nay ở Quan Sơn vẫn thường có chiếc chảo gang tượng trưng cho sự no đủ, vì vậy chiếc chảo này kiêng cho mượn vì sợ mất của cải và những rủi ro sẽ đến với gia đình. Ma bếp lò “đá kho chú” liên quan đến việc sinh nở của phụ nữ và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Bởi vậy, cũng giống như bếp kiềng, nhất là phụ nữ kiêng dẫm chân lên bếp lò, kiêng gõ và làm hư hại bếp. Khi lợn chửa người ta còn kiêng không lấy tro trong bếp lò, hoặc khi nhấc chảo cám ra khỏi bếp phải để một hòn đá vào giữa bếp, vì nếu không làm như vậy gia súc dễ bị dịch bệnh hoặc chết, phụ nữ gặp khó khăn trong sinh đẻ... - Thờ ma bảo vệ lương thực: Trong ngôi nhà của người Mông, hai gian bên thường làm gác để cất giữ lương thực. Ở đó, lúa và ngô là nguồn lương thực thiết thân rất quan trọng trong đời sống của người Mông. Trong tín ngưỡng của người Mông có một loại ma luôn bảo vệ hồn lúa và ngô nên đồng bào còn gọi là ma bảo vệ hồn lúa, hồn ngô. Loại ma này thường trú ngụ trên gác [phía đầu bếp], nơi để thóc, ngô. Ma này có nhiệm vụ phù hộ cho được mùa hoặc có thể làm mất mùa tuỳ theo thái độ ứng xử của gia chủ. Nếu người lạ lên gác sẽ làm cho ma này sợ và bỏ đi, vì thế ngay cả con dâu trong nhà cũng kiêng lên gác. Bởi vậy những người thường xuyên lên gác để cất hoặc lấy lương thực xuống là đàn ông trong gia đình, nhất là ông chủ nhà. Người Mông thường cúng ma bảo vệ lương thực mỗi khi chuẩn bị thu hoạch. - Thờ cúng tổ sư nghề Trước đây cũng như hiện nay trong mỗi bản của người Mông cũng có ít nhất vài ba thầy cúng và vài ba thầy thuốc chữa bệnh bằng thuốc lá. Ở những gia đình có người hành nghề này thường có bàn thờ ma tổ sư nghề. Hai bàn thờ này được bố trí ở vách hậu cạnh nơi thờ ma nhà [đa xử ca]. Nếu ở gia đình có người làm cả nghề thầy thuốc và thầy cúng thì đôi khi tổ sư nghề thuốc được thờ chung với tổ sư nghề cúng. Bàn thờ ma tổ sư thường là một cái giá làm bằng gỗ, ở trên giá được đặt bát hương và những dụng cụ hành nghề. Hằng năm chủ nhà cúng ma tổ sư vào dịp Tết năm mới, lễ cúng nhất thiết phải có con gà trống. Ngoài ra, mỗi khi có người đến mời đi cúng hoặc đến chữa bệnh xin thuốc thì cũng phải làm lễ cúng cho hai loại ma này. - Thờ cúng thần cộng đồng Người Mông có tập quán thờ cúng các thần thổ địa [thu tỉ]. Thần thổ địa được thờ ở một gốc cây to [hoặc hòn đá lớn] trong khu rừng cấm “lùng sán”. Việc thờ cây, thờ đá là một hiện tượng phổ biến ở các cư dân Đông Nam Á. Đồng bào quan niệm thần thổ địa chi phối cuộc sống của cộng đồng. Người dân trong bản khoẻ mạnh, được mùa, gia súc đầy đàn là nhờ thần phù hộ. Ngược lại gia súc bị bệnh dịch, người bị tai nạn là do có người hành động vô lễ với thần như: chặt cây trong rừng cấm, phá phách nơi thần ở... Hàng năm vào dịp tháng Giêng đại diện các gia đình trong bản đến khu rừng cấm, nơi thờ thần làm lễ cúng thần, lễ vật cúng là một con gà trống. Người Mông ở Quan Sơn thường tổ chức các nghi lễ thờ cúng vào các ngày 9, 19 hoặc 29 hằng tháng. Thầy cúng cầu xin thần phù hộ cho dân bản. - Tín ngưỡng vật linh giáo Trong đời sống tinh thần của người Mông ở Việt Nam nói chung và người Mông ở Quan Sơn nói riêng còn tàn dư tín ngưỡng vật linh giáo. Đây là hình thái tôn giáo sơ khai có nguồn gốc từ thời kỳ nguyên thủy: quan niệm một số loài trong thế giới động thực vật và con người đều có phần hồn và phần xác. Phần xác là thực thể tồn tại mà con người nhìn thấy được, còn phần hồn [plì] rất quan trọng chi phối phần xác nhưng con người không thể nhìn thấy. Trong thế giới thực vật những cây trồng chủ yếu liên quan đến đời sống người Mông đều có hồn như ngô, lúa, lanh, thuốc phiện, các lọai gỗ quý dùng làm nhà [cây làm cột chính, pơ mu lợp mái...]. Hoặc những cây cổ thụ ở trong rừng, những hang động, vách đá cũng đều có hồn. Như vậy, bên cạnh con người, trong thế giới động vật và thực vật chỉ có những cây, con liên quan đến đời sống người Mông hoặc quen thuộc với người Mông mới có hồn. Loài vật càng đặc biệt, hồn càng đáng sợ. Những gốc cây to, hình thù kỳ dị đều có tinh linh; hoặc hòn đá to, mỏm đá lạ đều là các vật có hồn đặc biệt, có khả năng chi phối đời sống của cộng đồng, dễ gây tai nạn cho con người nên một số nơi người dân phải tổ chức thờ cúng các tinh linh này. Xuất phát từ tín ngưỡng vật linh giáo, người Mông quan niệm cơ thể con người có 3 hồn: Hồn thứ nhất ở trên đầu [trên chóp đỉnh đầu]. Đây là hồn chính của con người. Ở trẻ em hồn rất yếu [thóp mềm] nên người lớn thường phải có ý thức bảo vệ hồn này cho trẻ nhỏ. Người Mông ở phía Bắc còn có những kiêng kỵ nhất định để bảo vệ hồn này, đó là phải kiêng không được xoa đầu trẻ em. Nếu ai nhỡ tay xoa đầu chúng để hồn hoảng sợ bỏ đi, phải làm gà làm lễ cúng gọi hồn [húp plì][ ]. Song người Mông ở Quan Sơn lại quan niệm xoa đầu trẻ nhỏ là thể hiện sự quan tâm và thân thiện. Hồn thứ hai ở rốn có nhiệm vụ cai quản thân thể và các bộ phận nội tạng. Còn hồn thứ ba ở ngực, hồn này rất ít bỏ đi chơi nhất là hồn của trẻ nhỏ, nhưng khi bỏ đi bệnh sẽ nặng. Vì vậy người Mông [phổ biến là trẻ nhỏ] thường đeo vòng cổ bảo mệnh. Vòng này tượng trưng cho chiếc khóa được thầy cúng phù phép ngăn cản hồn đi chơi. Đứa bé mới sinh ra chưa có hồn. Ba ngày sau gia đình phải tổ chức lễ gọi hồn [húp plì], lúc đó đứa trẻ mới được cộng đồng thừa nhận và được đặt tên. Người Mông cho rằng, hồn liên quan đến sức khoẻ và sinh mệnh của con người. Nếu một trong ba hồn rời khỏi cơ thể sẽ gây ốm đau. Trong trường hợp một trong ba hồn ra đi, gọi không về, con người sẽ chết. Khi con người đã tắt thở, hồn thứ nhất sẽ bay lên trời và sẽ trở về với tổ tiên, hồn thứ hai gác mộ và hay về quấy nhiễu người khác. Do đó, người chết đến ngày thứ 13 gia đình phải làm lễ đuổi hồn, không cho hồn quay về quấy nhiễu gia đình. Hồn thứ ba sẽ đầu thai vào kiếp người hoặc kiếp vật [tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức khi còn sống của thân chủ]. Các quan niệm về linh hồn như vậy đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thờ cúng tổ tiên của người Mông nói chung và người Mông ở Thanh Hóa cũng như Quan Sơn nói riêng. - Vai trò của thầy cúng trong đời sống người Mông Ở vùng người Mông, các bản làng nào cũng có thầy cúng [chí nếnh]. Có tài liệu gọi là thầy Sa man[ ]. Đây là những người được xem là có khả năng dùng phù phép đưa mình vào trạng thái hôn mê, trực tiếp giao thiệp cùng các thần. Nhiệm vụ chủ yếu của các thầy cúng là cầu cúng chữa bệnh, đi sang thế giới bên kia tìm bắt, dụ dỗ hồn người ốm trở về, ngoài ra họ còn biết bói toán tìm của cải bị mất, chủ trì một số nghi lễ tôn giáo như cúng trừ tà của gia đình, cúng ma lợn [bua tai]... Thầy cúng như một người liên lạc có khả năng thâm nhập vào thế giới bên kia. Nhưng muốn giao tiếp được với thế giới bên kia thì ông ta phải có tổ sư giúp đỡ gọi là ma tổ sư nghề cúng - đá nếnh. Đá nếnh vừa chỉ cho thầy cúng những nguyên nhân bệnh tật, vừa nêu các cách chữa bệnh [bằng lễ cúng]... Thầy cúng muốn hành nghề được phải có những trang bị đặc biệt. Trước hết, mỗi thầy cúng đều có một bàn thờ riêng dựng bên cạnh nơi thờ ma nhà đa xử xa. Dụng cụ quan trọng của thầy cúng là đôi sừng bò, đây là dụng cụ âm dương [kạ lếnh]. Nhạc cụ gồm một đôi nhạc ngựa bằng đồng [trong có 3 hạt nhỏ bằng sắt], một chiếc vòng lắc gồm 7 hoặc 9 mảnh sắt nhỏ gắn kèm, một chiếc thanh la bằng đồng. Thầy cúng chỉ có tấm khăn màu đỏ phủ lên mặt, che kín mắt khi ông ta lên đồng. Khi làm lễ, thầy cúng lắc lư đầu, tìm cảm giác “váng vất” để dễ nhập đồng. Ông ta ngồi trên một tấm ghế dài, tấm ghế tượng trưng cho con ngựa thần. Nhờ con ngựa thần này, thầy cúng mới có khả năng đi đến thế giới bên kia. Theo quan niệm của người Mông, người đau ốm là do hồn đi chơi vắng hoặc các loại ma bắt mất hồn. Các loại ma này là ma mặt trời [đá chủa tu] gây ra đau đầu, sốt nóng và chết, ma suối [đá dạ] là loại ma gây ra đau đầu, sốt nóng và chết... Tất cả các loại ma trên thường hay bắt hồn người, khiến người mắc bệnh. Do đó thầy cúng muốn chữa được bệnh, thầy phải đi sang thế giới bên kia tìm hồn, dụ dỗ hồn về, mặc cả với cả ma, đưa lễ vật cho ma để đòi lấy hồn, hoặc doạ nạt trừng trị ma đòi thả hồn. Nhìn chung, thầy cúng không chỉ là những người cầu cúng, chữa bệnh cho người Mông mà họ còn là những người am hiểu lý lẽ, phong tục tập quán Mông. Từ việc chuyển nhà, làm lễ gọi hồn cho trẻ nhỏ, đến việc làm ma cho người chết, chữa bệnh lúc ốm đau... đều có ý kiến và sự tham gia của thầy cúng. Do vậy từ lâu họ là những người có uy tín được dân làng kính trọng. 6.4.2.3. Phong tục tập quán - Phong tục trong sinh đẻ Trong xã hội truyền thống, người Mông có tập quán kết hôn sớm, có con sớm cũng là mong ước chung của mọi gia đình. Tuy vậy, do sống ở môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, địa hình chia cắt nên trước đây thường xảy ra hiện tượng hữu sinh vô dưỡng. Đồng bào có tập quán đẻ ngồi. Việc đỡ đẻ do những người thân và làng xóm giúp. Khi đẻ khó gia đình phải nhờ thầy cúng thực hiện một nghi lễ truyền thống đó là lễ cúng xin “mẹ tròn, con vuông” gọi là lễ đề ca sủa. Khi đứa trẻ sinh ra, rau thai nhi sẽ được chôn ở cột nhà chính [nếu đứa trẻ là con trai] với ý niệm con trai sẽ trở thành trụ cột gia đình. Nếu đứa trẻ là con gái, rau thai nhi chôn ở gầm giường ngủ với niềm tin con gái sau này sẽ là người nuôi dạy con cái và nội trợ giỏi. Trẻ sơ sinh được ba ngày gia đình tổ chức lễ gọi hồn [húp plì] và đặt tên cho trẻ. Lễ gọi hồn, lễ đặt tên là tín hiệu của văn hóa tộc người đón nhận thành viên mới vào cộng đồng. Trong lễ thức gọi hồn đặt tên cho trẻ sơ sinh là bé trai, người Mông phải đặt nỏ lên bàn thờ với ý niệm mong bé trai thở thành chiến binh ngoan cường. Khi nhà có người đẻ, gia đình cắm một cành lá tươi ở cửa chính làm tín hiệu báo cho người ngoài biết để không vào trong nhà trong những ngày trẻ mới sinh. Tục kiêng này người Mông gọi là cấm bang. Cũng trong thời gian ở cữ một tháng, những người phụ nữ trong gia đình không được ra vào bằng cửa chính mà phải đi bằng cửa phụ. Ngoài ra, người Mông còn có phong tục làm lễ mừng tuổi cho con khi đứa trẻ được một tuổi. Trong trường hợp đứa nhỏ hay ốm đau gầy yếu, người Mông làm lễ nhận bố nuôi [tủa sảo] cho con. Cũng giống như người Mông ở phía Bắc, người Mông ở Quan Sơn hiện nay vẫn còn giữ phong tục thờ bà mụ [đá trung]. Tục thờ này chỉ được diễn ra ở những người phụ nữ đã có con. Vì theo quan niệm của đồng bào Mông, bà mụ có liên quan đến sức khoẻ của gia đình, sản xuất, nhưng chủ yếu liên quan đến chăn nuôi và việc chăm sóc trẻ em. Cúng mụ phải mổ lợn, cách cúng giống như cúng ma cửa chính [xìa mình] mà cả họ vẫn làm. Ở một số nơi, đàn bà có thể tự cúng lấy nhưng nói chung việc cúng do một người biết cúng trong họ đảm nhiệm. Tùy từng họ lễ cúng tiến hành ở trong buồng hay ở gian giữa nhà. Mỗi khi gia đình tổ chức lễ này phải đóng chặt cửa nhà vì kiêng người lạ xuất hiện và kiêng quét nhà trong ba ngày. - Phong tục trong hôn nhân Theo tập quán cũ, trong hôn nhân của người Mông, con dì con già, con cô con cậu được lấy nhau. Con trai cậu lấy con gái cô được coi là điều tốt. Người cô khi gả bán con gái trước hết phải gả cho con cậu với quan niệm “nước tốt kiêng để chảy vào ruộng nhà người”. Còn cậu thì có quyền đòi cô gả con gái cho con trai mình vì “tôi đã để vật quý ở đâu thì phải lấy lại nó”. Đồng bào còn có tục em chồng phải lấy chị dâu goá. Nếu em chồng đã có vợ thì chị dâu phải làm lẽ. Nếu không có em chồng thì chị dâu phải lấy em họ. Nay tập quán này hầu như không còn duy trì nữa. Trước đây người Mông còn phổ biến tục “kéo vợ”[ ]. Theo tục lệ này, trai gái yêu nhau, nhưng nhà nghèo, không lo đủ tiền thách cưới cho nhà gái nên đôi trai gái quyết định thể theo tục này. Tuy vậy, trước đây, nhất là người Mông ở phía Bắc cũng có không ít trường hợp chàng trai tổ chức đón đường rồi kéo người con gái về nhà, dù người đó không bằng lòng. Song cũng không ít trường hợp cô gái phản kháng với cách bắt ép này. Có lẽ từ cách ứng xử cưỡng ép này mà dẫn đến việc gọi tục cướp vợ thay vì tục kéo vợ. Xét về mặt quan hệ xã hội, tục kéo vợ là hình thức hôn nhân tự do của người Mông, không bên nào cưỡng ép bên nào, ít nghi lễ, ít tốn kém, hôn nhân dựa trên tình yêu thực sự, do đó có cơ sở đảm bảo hạnh phúc gia đình. Tục kéo vợ đã tồn tại trong lịch sử nhiều dân tộc, như ở người Tày, Nùng trước đây cũng có tục tương tự mà đồng bào gọi là tục “đeo túi” [thắc tày]. Theo phong tục cổ truyền, lễ cưới của người Mông gồm 3 nghi lễ chính: lễ dạm hỏi, lễ đưa đồ cưới và lễ cưới. Lễ dạm hỏi thường diễn ra sau mùa thu hoạch, khi nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, nhờ hai ông mối thay mặt nhà trai sang nhà gái dạm hỏi. Hai ông mối phải là người tài ăn nói, thạo lý lẽ và hiểu biết về phong tục tập quán. Lễ dạm hỏi, hai ông mối đem theo lễ vật gồm gà, rượu, bạc. Mục đích của lễ dạm hỏi là hai ông mối phải thống nhất được với nhà gái ngày tốt cho lễ cưới và các khoản thách cưới. Trước đây, lễ cưới thường được tổ chức vào mùa đông, kiêng cưới vào mùa có tiếng sấm. Khi chuẩn bị đủ mọi khoản thách cưới cần thiết theo yêu cầu của nhà gái thì gia đình nhà trai sang nhà gái tổ chức lễ cưới và đón dâu. Lễ vật thách cưới cũng tuỳ vào hoàn cảnh của từng gia đình. Trước đây cũng như hiện nay lễ vật thách cưới của người Mông ở Quan Sơn [kể cả ở Mường Lát, Quan Hóa] thường là 50kg thịt lợn hơi và 50 bát rượu. Đoàn đón dâu sang nhà gái phải là số lẻ như 7, 9, 11, 13... người, gồm: hai ông mối, chú rể, một phù rể và một số bạn bè, người thân chú rể. Đám cưới tổ chức ở nhà gái thường diễn ra một buổi. Trường hợp nhà chú rể ở xa, đoàn đón dâu phải ngủ lại ở nhà gái một đêm. Sau khi làm xong các thủ tục tại nhà gái, đoàn người đưa dâu về nhà chú rể. Lễ đưa dâu của nhà gái cũng tổ chức trang trọng. Đúng giờ đưa dâu, cô dâu mới được ra khỏi buồng. Dẫn đầu đoàn người đưa dâu là hai ông mối nhà trai cầm ô đi trước, mục đích là xua đuổi ma xấu bảo vệ hạnh phúc cho cô dâu chú rể, tiếp theo là cô dâu và phù dâu, hai ông mối nhà gái, chú rể và phù rể cùng bạn bè và họ hàng hai họ. Trên đường đón dâu về nhà bao giờ đoàn đón dâu cũng phải nghỉ lại ở giữa đường ăn cơm rồi mới về nhà. Trong khi ăn phải vứt một ít cơm, thịt ra xung quanh mời các ma rừng, ma đất, ma đói để cầu an cho cô dâu chú rể. Đoàn đón dâu về đến nhà trai, trước khi cô dâu bước qua ngưỡng cửa chính vào trong nhà, người nhà chú rể ôm con gà trống đi vòng quanh cô dâu ba vòng thực hiện nghi lễ nhập hồn cô dâu vào ma nhà chồng. Kể từ đó phần hồn cô dâu luôn được các ma nhà chồng bảo vệ. Cũng xuất phát từ tập quán nhập gia tuỳ tục nên cô dâu người Mông ở Quan Sơn về nhà chồng phải mặc y phục theo dân tộc nhà chồng. Nếu cô dâu là người Mông Trắng lấy chồng là người Mông Đen thì khi về nhà chồng kể từ ngày cưới phải mặc váy đen và ngược lại. Lễ lại mặt được tiến hành sau khi cưới ba ngày, đôi vợ chồng trẻ được gia đình bên vợ tiếp đãi ân cần và chu đáo. Hiện nay, người Mông ở Quan Sơn vẫn còn tục hát dân ca trong đám cưới. Các bài dân ca được hát trình tự theo các nghi lễ từ lúc đi đón dâu cho tới khi đến nhà gái đón dâu, làm các nghi lễ ở nhà gái cho tới khi xin dâu, giao dâu cho mẹ chồng, tính ra có đến cả gần một trăm bài ca. Đây là nét đặc trưng trong hôn lễ của người Mông, hiếm thấy ở các dân tộc khác. - Phong tục trong tang ma Lễ tang các dân tộc ở Việt Nam nói chung và của người Mông nói riêng phản ánh các quan hệ về lịch sử - xã hội và cộng đồng dân tộc. Qua lễ tang cũng cho thấy phần nào nhận thức về thế giới quan và nhân sinh quan của tộc người. Người Mông quan niệm, thế giới có ba tầng: tầng trên trời là thế giới tổ tiên, tầng ở giữa là thế giới con người, tầng dưới lòng đất là địa ngục, âm phủ. Theo quan niệm của đồng bào, con người có 3 linh hồn [plì], khi chết linh hồn cũng đều lìa khỏi xác đi ba nơi khác nhau: hồn gốc về với thế giới tổ tiên, hồn thứ hai lên trời và hồn thứ ba đầu thai ở trần. Quan niệm này quy định các nghi lễ trong tang ma. Đây là một hiện tượng văn hóa đặc sắc bao gồm nhiều nghi lễ khác nhau. Nhìn chung, tang ma của người Mông ở Quan Sơn về cơ bản giống tang lễ của người Mông ở các tỉnh phía Bắc và được trải qua một số nghi lễ chính sau: Lễ chỉ đường: Nếu như người Mông ở phía Bắc khi tắt thở phải bắn súng, sau đó dùng tù và thổi ba hồi báo cho dân làng biết gia đình có người chết thì người Mông ở Thanh Hóa, cụ thể ở Quan Sơn lại báo hiệu bằng trống. Do vậy, cứ nghe mấy hồi trống gióng lên thì biết trong bản có người chết, các gia đình trong bản nghỉ lao động để phụ giúp tang chủ. Chính vì thế người Mông rất kiêng tiếng trống và chỉ dùng trống trong đám ma. Có lẽ vì thế mà hiện nay những trường học ở trong bản Mông sử dụng kẻng để báo hiệu thay vì trống - một dụng cụ hiệu lệnh truyền thống còn phổ biến ở những trường học vùng nông thôn nói riêng hiện nay. Sau khi người nhà tắt thở, gia đình chủ động khâm liệm người chết. Người Mông ở Thanh Hóa nói chung và ở Quan Sơn nói riêng xưa cũng như nay không có tập quán đặt xác người chết vào quan tài. Sau khi khâm liệm xong, người nhà đặt người chết lên cáng để tang, khi đi chôn cũng khiêng bằng cáng, trước khi chôn người ta lắp ghép các miếng ván xuống huyệt theo hình quan tài sau đó đặt thi thể vào đó rồi lấp đất. Tập tục này bắt nguồn từ chính địa hình dốc và chia cắt, dân cư thưa thớt lại sống phân tán, nên khâm liệm xác người chết trong quan tài sẽ rất khó khăn trong việc vận chuyển lúc an táng. Bởi vậy, hiện nay chỉ trừ những gia đình người Mông sống ở phố, hoặc cạnh đường lớn dễ đi lại thì mới khâm liệm người chết vào quan tài, còn lại phần lớn người Mông ở các bản vùng cao, vùng sâu thì vẫn mai táng như nếp cũ trước đây. Trong thời gian để tang, giữa người Mông Trắng và Mông Đen có khác nhau. Ở nhóm Mông Đen, trong thời gian quàn xác để tang ở nhà, nếu người chết là nam giới thì đặt thi hài ở phía trên gian giữa nhà [gần khu vực vách hậu, cạnh nơi thờ tổ tiên], còn nếu người chết là nữ thì đặt thi hài ở khu vực gần cửa chính, đến giờ đưa ra khỏi nhà đi chôn mới đặt lên cáng. Tập tục này bắt nguồn từ quan niệm nam trong nữ ngoài [người ngoài lấy về làm vợ]. Trong khi đó ở người Mông Trắng cứ tắt thở là đưa lên cáng để tang; thi hài cả nam và nữ đều đặt ở phía trên gian giữa, thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ gia đình. Công việc tiếp theo là người nhà đi mời ông thầy cúng [dở mổ] đến làm lễ chỉ đường [tơ kê]. Đây là lễ thức rất quan trọng. Thầy cúng đọc bài chỉ đường hướng dẫn hồn người chết tìm đường về với tổ tiên. Người Mông quan niệm phải có bài chỉ đường, linh hồn người chết mới trở về được với tổ tiên. Vì vậy, một số gia đình nghèo không cần làm ma, chỉ làm lễ chỉ đường xong là có thể đem người chết đi chôn. Sau lễ chỉ đường là những nghi lễ khác tiếp theo, đó là lễ thổi kèn, lễ đuổi giặc, lễ viếng, lễ đưa người chết ra ngoài bãi, lễ hạ huyệt[ ]. Trong đám ma của người Mông thường dùng khèn, trống. Họ thổi khèn xướng theo các hát trong suốt thời gian để tang để bày tỏ nỗi luyến tiếc của người sống đối với người chết. Người Mông ở Quan Sơn có đến cả trăm bài hát được hát trong đám ma, trong đó nhiều bài có nội dung giáo dục rất sâu sắc. Với truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, những người đến viếng đám tang thường mang theo giấy bản, ngô, rượu; người thân mang cả chăn lanh, lợn để cúng người chết và giúp đỡ tang chủ. Do điều kiện đi lại khó khăn, việc báo tin buồn cho người thân ở xa mất nhiều thời gian nên xưa kia đám tang thường kéo dài từ 5 - 7 đêm. Hiện nay đường sá và thông tin liên lạc thuận tiện nên thời gian tổ chức lễ tang đã giảm xuống chỉ còn 2 - 3 đêm. - Phong tục trong lễ tết Theo phong tục, đồng bào Mông ăn tết truyền thống [nò xia] vào tháng Chạp. Ý nghĩa tết truyền thống của người Mông là ăn mừng thắng lợi một mùa sản xuất và chuẩn bị cho một mùa nương rẫy mới. Đây là dịp để anh em, họ hàng, làng xóm đến thăm hỏi lẫn nhau và cùng ăn uống vui vẻ. Chính vì thế dù ít dù nhiều các gia đình đều phải chuẩn bị lợn, gà, rượu, bánh trái,... để dâng cúng tổ tiên và đãi khách. Vì tết kéo dài cả tháng do đó các gia đình đã phải chuẩn bị nuôi nhiều lợn, gà, vịt... để lấy thực phẩm. Trước đây, trong dịp tết Nguyên đán các bản còn tổ chức lễ hội Nào xồng. Mục đích của lễ hội này là cúng thổ thần, bàn bạc công việc của bản và bầu người hội đầu mới. Đây là lễ hội có ý nghĩa cố kết cộng đồng của bản. Hiện nay lễ hội này không còn duy trì nữa. Ngoài ra, trong xã hội truyền thống, người Mông cũng tổ chức ăn tết vào dịp rằm tháng bảy [nò táo gia], thời gian kéo dài một ngày. Các gia đình mổ lợn, đồ xôi, làm bánh để cùng nhau ăn uống. Mục đích của ăn tết tháng bảy là cầu mong cho mùa màng phong đăng, không bị sâu bệnh, cuối năm thu hoạch được nhiều lương thực, gia đình ấm no hạnh phúc. 6.5. DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA, DANH THẮNG Ở HUYỆN QUAN SƠN Trên đất Quan Sơn hiện nay có khá nhiều di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. Các bản mường cổ là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống và những cảnh quan nhiên nhiên nguyên sơ, kì vĩ. Đây là một trong những tiềm năng văn hóa, du lịch của Quan Sơn. Quan Sơn có tiềm năng, thế mạnh về du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng bởi hệ thống đường giao thông, sông suối dày đặc với quần thể hang, động tương đối phong phú đa dạng và có Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo. Những tiềm năng này rất thuận lợi trong việc phát triển du lịch đường bộ theo hướng gắn văn hóa tâm linh với các điểm có thế mạnh trong việc xây dựng du lịch như: hang Hòm [xã Trung Xuân]; suối Bá ở bản Xày, thác suối Din [bản Din, xã Trung Hạ]; núi Pù Mằn [xã Trung Thượng]; di tích lịch sử cầu Pha Lò [xã Trung Thượng]; động Nang Non - pha Su Lú [xã Sơn Lư]; dấu tích Pha Phanh [xã Sơn Điện] gắn với bài ca kháng chiến của quân và dân ta trong thời kỳ chống thực dân Pháp; thác 20 sải suối Khà [bản Ngàm, xã Tam Thanh]; thác bản Nhài [xã Sơn Điện]; hang Co Láy, dòng suối Xia, Pha Dùa, động Bo Cúng [xã Sơn Thủy]; đền thờ Tư Mã Hai Đào gắn với lễ hội mường Xia, núi Lá Hoa [xã Sơn Thủy]. Quần thể hang động Sa Ná, Son [xã Na Mèo], Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo... trong tương lai sẽ kết nối với thủ đô kháng chiến, di tích lịch sử cách mạng Lào tại huyện Viêng Xay - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, cách Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo khoảng 50km. Đây là một trong những điểm thu hút khách du lịch quốc tế tương đối lớn. Sau đây là một số di tích, danh thắng, không gian văn hóa tiềm năng ở huyện Quan Sơn có thể phát triển các loại hình du lịch. 6.5.1. Các di tích, danh thắng xã Trung Xuân Hang Hòm ở Pù Dờn Pù Dờn ở phía bắc sông Lò thuộc đất bản Muống. Pù Dờn là một núi đá có cây. Ở độ cao 100m so với mặt đất có một hang có nhiều quan tài cổ. Quan tài người Thái gọi là “hòm” nên đồng bào gọi hàng này là hang Hòm. Hang Phỉ ở Pù Cọ Hang Pù Cọ là một hang đá khá rộng ở phía bắc sông Lò, có thể chứa được hàng trăm người. Do có phỉ ở đó một thời gian nên hang Pù Cọ còn có tên là hang Phỉ. Năm 1962, lợi dụng địa hình hiểm trở lại xa dân cư, Mỹ Diệm đã đưa một tốp phỉ, trong đó có cả người Quan Hóa đi lính Pháp ngày trước nay làm biệt kích cho chúng xuống nhằm phá an ninh trật tự ở hậu phương ngay trên địa bàn. Bọn chúng bị nhân dân phát hiện báo cáo với chính quyền và chúng đã bị bộ đội, công an, dân quân du kích địa phương bao vây bắt sống toàn bộ. Pha Sói ở bản Piềng Phố Pha Sói là một núi đá có cây không cao lắm. Trên núi có một cái hang khá rộng ở cách mặt đất khoảng 10m. Các thợ săn lên núi săn khỉ phát hiện ra hang này, khi vào trong hang thì thấy có nhiều quan tài của người xưa. Không biết từ đời nào và đi bằng cách nào mà người xưa đưa được quan tài vào hang ở độ cao như vậy. Sau khi phát hiện, các thợ săn đã trình báo với chính quyền địa phương. Chính quyền xã báo cho huyện và cơ quan chức năng biết. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thanh Hóa đã lên khảo sát hang động này cùng những hiện vật trong đó. 6.5.2. Các di tích, danh thắng xã Trung Hạ Thác suối Tiên ở bản Xày Suối Tiên chảy từ xã Lâm Phú [huyện Lang Chánh] qua bản Đôn, bản Cháo, bản Tiên về xã Trung Hạ, qua bản Xày, bản Chiềng rồi đổ ra sông Lò tại Km 19, đường 217 thuộc địa phận bản Xày. Tại nơi giáp ranh giữa bản Tiên [xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh] và bản Xày [xã Trung Hạ], suối Tiên đổ từ trên cao xuống tạo thành thác nước rất đẹp. Nhân dân gọi thác nước này là thác Tiên [kánh Tiên]. Từ thác Tiên vào phía xã Lâm Phú gọi là suối Tiên, từ thác Tiên ra phía bản Xày gọi là suối Xày. Thác Tiên cách trung tâm bản Xày về phía nam [xã Lâm Phú] khoảng 1,5km. Thác Ma Hao - suối Din ở bản Din Suối Din ở phía bắc sông Luồng, đối diện với Piềng Din [bản Din]. Suối bắt nguồn từ dãy Pha Phanh giáp xã Nam Tiến [huyện Quan Hóa] chảy theo hướng tây bắc - đông nam đổ về sông Lò tại Piềng Din bản Din. Suối có độ dài khoảng 4km. Khi ra gần sông Lò khoảng 500m suối tạo thành nhiều thác liên tục tung bọt trắng xóa, tỏa hơi nước ra xung quanh mát rượi. Thác dưới cùng là Ma Hao, cao khoảng 15m, dựng đứng, tỏa hơi nước như sương. Tương truyền rằng, thời giặc cờ đỏ [quân Thanh, Trung Quốc] cướp phá nước ta chúng đem chó dẫn đường đi lùng sục nhân dân bản Din sơ tán ở trong suối Din. Khi vào đến thác thứ nhất, trong khi chúng đang loay hoay tìm đường lên thác và ngắm cảnh đẹp của thác thì lũ chó đi theo đã ngáp ngủ và không con nào đi theo chúng vào khe tìm dân ta sơ tán trong đó. Thúc mãi chó không đi chúng cũng mệt và lăn ra ngủ sau đó rồi về. Ngáp ngủ tiếng Thái gọi là “hao”, chó là “ma”, do vậy mà thác nước đó có tên là thác chó ngáp ngủ, tiếng Thái gọi là kánh Ma Hao. Thác bản Xày - suối Bá tại Km 18 - đường 217 Dòng suối Bá chảy từ bản Xanh, ra đến bản Bá gọi là suối Bá. Khi suối Bá qua đường 217 về địa phận bản Xày và đổ xuống sông Lò từ trên cao hàng trăm mét, bọt nước tung trắng xóa. Đứng dưới chân thác nước nhìn lên cảm giác dòng nước trắng xóa đổ ào ạt như từ trên trời xuống. 6.5.3. Các di tích, danh thắng xã Trung Tiến Bản Cum - Suối Cum Bản Cum là bản của dân tộc Thái. Bản có tự bao giờ không ai nhớ rõ. Bản tọa lạc trên một lô đất khá bằng phẳng bên cạnh suối Cum mát mẻ, nước chảy rì rào quanh năm suốt tháng. Bản Cum trước đây có tên gọi là bản Co Cúm [co cúm là một loại cây có trái tròn, khi chín thơm lừng, thường mọc ở ven sông, suối]. Tại vị trí bản ngày nay người xưa gọi là piềng Co Cúm. Sau đó dân đến ở và khai phá làm ruộng trước mặt bản. Lâu ngày từ “Cúm” biến thành từ “Cum”, bản Cúm trở thành bản Cum. Bản Cum còn có tên gọi nữa là Cum Cuống [bản Cum Trong]. Khi chia tách thành lập bản mới [năm 1988] bản Cum Ngoài lấy tên là Pa Chè [rừng chè] vì ở đó có nhiều chè, còn bản Cum Trong gọi là Cum. Xét về nhiều mặt, cùng với bản Lầm và bản Lộc, bản Cum được xếp vào loại bản đẹp so với các bản ở xã Trung Tiến. Đồng bào trong bản chủ yếu ở nhà sàn kê tảng kiểu cũ và kiểu mới; nhiều nét văn hóa truyền thống và phong tục tập quán của dân tộc Thái hiện diện rõ trong đời sống. Suối Cum bắt nguồn từ chân núi phía đông núi Pù Mằn chảy theo hướng tây nam - đông bắc về sông Lò tại cầu Km 25 [cầu suối Cum]. Suối Cum dài khoảng 12km, lưu lượng nước khá lớn. Suối Cum cung cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu đồng ruộng, cây trồng cho bản Cum, Pa Chè, khu dân cư Km 25, các trường tiểu học, THCS và cơ quan ở xã Trung Tiến. Dọc suối Cum theo đường lâm nghiệp do Lâm trường sông Lò mở có các thác nước trắng xóa, các dãy núi đồi cây xanh rì ngút mắt. Phía trong bản Cum khoảng 2km là địa điểm đội 3 Lâm trường sông Lò ở, trước đây trồng nhiều cây mỡ nay đã đến tuổi khai thác. Bản Lộc và bản Tong Bản Lộc và bản Tong là hai bản đối diện nhau, cách nhau con sông Lò thơ mộng, hiền hòa. Thời kỳ xây dựng hợp tác xã nông nghiệp thì hai bản chung một hợp tác xã lấy tên là Hợp tác xã Nông nghiệp Lộc - Tong. Hợp tác xã này làm ăn giỏi có tiếng của huyện Quan Hóa [cũ] thời kỳ những năm 60 của thế kỷ trước. Bản Lộc [có người nói là bản Lốc] mang tên guồng nước tưới ruộng của bản. Thời chưa đào được mương dẫn nước từ suối Cum [bản Cum] về tưới ruộng, toàn bộ cánh đồng khá rộng của bản Lộc chỉ chờ guồng nước mang nước từ sông Lò về tưới. Do vậy, đến bản Lộc trước kia thấy hàng dãy dài vài chục chiếc guồng cần mẫn đưa nước sông Lò lên tưới ruộng cho bản là vì vậy. Bản Tong ở phía bờ bắc sông Lò đối diện với bản Lộc tại Km 22 + 200 lên Km 23. Cánh đồng rộng 9,5ha trước bản, dùng mỏ nước ở Pha Ngua tưới không đủ nên đồng bào phải làm guồng lấy nước từ sông Lò lên tưới ruộng. Dãy guồng nước này thu hút nhiều người chụp ảnh, ghi hình, làm thơ ca ngợi về nó. 6.5.4. Các di tích, danh thắng xã Trung Thượng Bản Khạn, mó nước nóng Bản Khạn ở biệt lập giống như ở trên một cao nguyên thu nhỏ. Bản Khạn có vị trí: phía bắc giáp bản Đe, xã Trung Tiến và xã Nam Động, huyện Quan Hóa; phía nam giáp bản Ngàm, bản Bôn xã Trung Thượng; phía tây giáp bản Bàng xã Trung Thượng; phía đông giáp bản Bách xã Trung Thượng. Bản Khạn tọa lạc trong một thung lũng đẹp, sơn thủy hữu tình. Bản Khạn có núi cao, hang động, thác nước và những ngôi nhà sàn cổ truyền của người Thái, những thửa ruộng bậc thang, những khu rừng nguyên sơ giàu tiềm năng. Địa hình nơi đây bằng phẳng, nhiều phong cảnh đẹp, đặc biệt là có mỏ nước nóng lạnh ngay gần bản và hang động Nàng Tiên [thắm Hin Dón] ngay thác Hin Dón của suối Khạn. Ngoài ra bản còn có thác Mây Mù [kánh Móc] tỏa màn sương ra xung quanh và thác Hin Dón [thác Đá Nhô] cao khoảng 30m. Ngay cạnh chân thác Hin Dón bên trái có một hang động, đồng bào gọi là thắm Tiên [hang Tiên]. Cửa hang chỉ vừa lọt người nhưng càng vào càng rộng và cao với chiều dài khoảng 1.000m. Trong hang có nhiều cảnh đẹp như cảnh tiên nên đồng bào gọi là hang Tiên. Hang còn có tên khác là thắm Hín Dón [hang Đá Nhô] theo tên của thác. Bản Khạn chủ yếu sử dụng nguồn nước từ mỏ nước nóng lạnh ở đầu bản. Mỏ nước nóng lạnh có lưu lượng nước khá lớn, trong veo, tuôn trào suốt ngày đêm đưa nước vào suối Khạn. Nhân dân bản Khạn đã xây bờ bao chắn nước tạo thành cái ao nhỏ khoảng 70m2 và xây nhà tắm dưới bờ chắn, gắn 4 miệng ống to bằng bắp tay cho bà con sinh hoạt hàng ngày. Mỏ nước này về mùa thu, đông thì ấm, mùa xuân, hè thì mát lạnh. Do vậy, đồng bào mới đặt tên là mỏ nước nóng lạnh. Ngoài mỏ nước nóng lạnh, trong bản còn có mỏ nước Bo Ngoạng và mỏ nước Bo Khằm [mỏ Vàng] giữa lòng suối Khạn. Xung quanh bản Khạn có nhiều dãy núi, cây cối sum suê, xanh rì mát mắt. Trong bản có đủ kiểu nhà sàn đứng ngạo nghễ, ung dung. Cầu Pha Lò [Phà Lò] Cầu Pha Lò là di tích lịch sử cấp tỉnh đã được xếp hạng tại Quyết định số 2514/QĐ-UBND ngày 04/08/2011 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Đây là địa danh nổi tiếng từ xa xưa. Nơi đây lưu truyền nhiều câu chuyện dân gian về việc chia đất đai giữa tạo mường Chự và tạo mường Mò thời trước. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cầu Pha Lò là nơi bị giặc đánh phá ác liệt nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông nối đôi bờ sông Lò, ngăn con đường giao thông của ta sang nước bạn Lào. Ngày 10/02/1966, lực lượng dân quân các xã Trung Hạ và Tam Lư[ ] đã bắn cháy 1 máy bay F105 của Mỹ bằng súng bộ binh tại trận địa phòng không bảo vệ cầu Pha Lò. Cùng với các danh thắng phụ cận, cầu Pha Lò đang được quy hoạch xây dựng để trở thành một điểm đến hấp dẫn trong thời gian tới. Núi Pù Mằn Núi Pù Mằn là núi đất, có độ cao 1.247m so với mực nước biển. Pù Mằn giáp với bản Nà Đang [xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh] và bản Xum [xã Sơn Hà, huyện Quan Sơn] nhưng thuộc đất bản Ngàm [xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn]. Pù Mằn cũng với Pù Kùn của bản Xum [xã Sơn Hà] và ngọn Nóc Ngua, bản Nà Đang [xã Lâm Phú] tạo nên quần thể 3 đỉnh núi cao và thiêng ở khu vực này. Pù Mằn có rất nhiều động - thực vật. Về động vật, có khỉ, vượn, sóc, gấu, nai, lợn lòi, hổ, báo, đười ươi... Về thực vật, có nhiều loại gỗ quý như: sa mu, đinh hương, táu, sến, lát hoa, lát chun, chò chỉ, dổi, vàng tâm, re hương... Song, mây, nứa, vầu, bương trong dãy núi này cũng rất nhiều. Tuy nhiên, động - thực vật, nhất là các cây gỗ lớn, nứa, vầu... chỉ ở lưng chừng ¾ núi trở xuống. Càng lên cao cây gỗ lớn càng ít đi và khi lên đến đỉnh thì chỉ có cây thân nhỏ, cây bụi mọc lúp xúp cao không quá 8m. Phía đông núi Pù Mằn là đỉnh Nóc Ngua và xã Lâm Phú [huyện Lang Chánh]; phía tây núi Pù Mằn là xã Sơn Hà [huyện Quan Sơn]; phía nam núi Pù Mằn là đỉnh Pù Kùn [bản Xum, xã Sơn Hà, huyện Quan Sơn], xã Yên Khương [huyện Lang Chánh]; phía bắc núi Pù Mằn là bản Ngàm [xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn] và tuyến đường 217. Pù Mằn thuộc quần thể đầu nguồn suối Ngàm, một dòng suối dài, có lưu lượng nước khá lớn dùng để tưới tiêu cho cánh đồng bản Ngàm, cấp nước cho các hồ, ao cá và nước sinh hoạt cho bản, các cơ quan, nhà trường với số lượng hàng nghìn người. Đây là một danh thắng đẹp, kỳ thú. Bảo vệ, giữ gìn không gian Pù Mằn cũng là bảo vệ môi trường sinh thái để cho rừng mãi xanh, tạo nguồn sinh thủy, chống lũ ống lũ quét. Pù Mằn cùng với động Nang Non là những danh thắng độc đáo của vùng đất Quan Sơn. 6.5.5. Các di tích, danh thắng xã Tam Thanh Thác 20 sải ở bản Pa Suối Pa bắt nguồn giáp biên giới Việt - Lào chảy về Việt Nam qua các bản: Pa, Cha Lung, Phe, Piềng Pa rồi đổ ra sông Lò tại bản Piềng Pa [chợ Tam Thanh]. Suối dài trên 25km, lưu lượng nước khá lớn, chỗ bắt nguồn của nó gọi là hang Trình gần với đất mường Pao [huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào]. Do suối Pa chảy qua nhiều bản, có nhiều khe suối dồn nước về nên càng về hạ lưu nước càng nhiều và tạo ra các vụng sâu như vằng Hừa [hay còn gọi là vằng Ngước [vụng Thuồng Luồng] tại Piềng Pa. Nhiều núi kéo xuống suối, trong đó có cả núi đá tạo thành các thác nước, các hang hốc dưới nước như vằng Hu Ngước [vụng Hốc Thuồng Luồng] ở bản Cha Lung, cánh Pa Tốt [thác Cá Dừng] ở bản Pa. Cánh Sào Và [thác 20 sải] cách bản Pa 3km về phía thượng nguồn. Nhờ lưu thủy của suối Pa mà các bản Pa, Cha Lung, Phe, Piềng Pa có nước tưới ruộng, làm ao thả cá và nước sinh hoạt dồi dào. Hàng năm, con suối này còn cung cấp cho đồng bào dọc suối hàng tấn cá. Thậm chí các bản lân cận như bản Bôn, bản Kham, bản Nà Ấu, bản Mò cũng vào suối kiếm cá về ăn. Suối Pa hào phóng cho rất nhiều cá, tôm. Do vậy đồng bào rất yêu quý trân trọng suối Pa. * Các danh thắng suối Pa từ ngoài vào - Vằng Hừa [hay còn gọi là vằng Ngước] là một vụng nước sâu trong xanh ở ngay bản Piềng Pa [trụ sở xã Tam Thanh hiện nay]. Sở dĩ có tên là vằng Hừa là vì theo tiếng Thái, “vằng” là vụng nước, “hừa” là thuyền. Trước đây đồng bào muốn đánh bắt cá tại vụng nước sâu này phải đi thuyền và nhiều thuyền đã bị xoáy nước làm chìm mất tích. Do nhiều thuyền và người mất tích nên đồng bào ngờ là thuồng luồng bắt vì vậy vũng nước này còn được gọi là vằng Ngước [vụng Thuồng Luồng]. - Vằng Hu Ngước [vụng Hốc Thuồng Luồng] ở bản Cha Lung cũng là một vụng nước sâu. Ở đó có một hang [hốc] không rộng lắm, chỉ vừa chui lọt người, kéo dài vào trong núi đá chìm dưới nước sâu. Trong hốc đó có rất nhiều cá. Có nhiều trường hợp người chui vào đó bị mất tích luôn nên đồng bào cho là bị thuồng luồng bắt, vì vậy gọi hốc đá đó là hu Ngước [hốc Con Thuồng Luồng], vụng nước đó gọi là vằng Hu Ngước [vụng Hốc Thuồng Luồng]. - Kánh Pa Tốt [thác Cá Dừng]: Phía trong bản có một thác dựng đứng khá cao trên dòng suối Pa. Cá từ hạ lưu suối Pa lên đó đều phải dừng lại vì không thể qua thác này được. Do vậy đồng bào gọi thác nước này là kánh Pa Tốt. Cá ở thác Cá Dừng rất nhiều, đồng bào đi bắt lúc nào cũng được, thậm chí vào mùa cá lên có người bắt được một lúc hàng tạ cá các loại. - Thác 20 sải: Cách bản Pa khoảng 3km về phía thượng nguồn có một thác cao, nước tung trắng xóa rất đẹp. Hai mươi sải là từ dùng phổ biến, ước lượng cho những thác nước cao. Vì thế mà ở Quan Sơn có nhiều thác 20 sải. Thác 20 sải ở suối Khà, bản Ngàm Suối Khà bắt nguồn từ gần biên giới Việt - Lào, gần “sắn có Mòn”, giáp với xã Sơn Hà, xã Tam Lư chảy theo hướng đông nam sang tây bắc qua bản Khà ra bản Có Hướng đổ vào sông Lò tại bản Ngàm [bản Khà, bản Có Hướng nay cũng thuộc bản Ngàm]. Bản Khà là một bản nhỏ phía thượng nguồn suối Khà, cách bản Có Hướng khoảng 3km, nay không có người ở cố định, chỉ có vài hộ dân Có Hướng vào đó tăng gia, chăn nuôi làm chòi ở tạm. Thác 20 sải suối Khà ở gần bản Khà, xung quanh thác không còn cây gỗ to, chỉ còn chuối rừng, lau lách vì trước đây dân bản Có Hướng [bản Ngàm] vào phát rẫy đã chặt hết. Nay rừng chưa phục hồi. Thác 20 sải ở suối Khà có 3 tầng, tầng dưới cùng có vụng nước khá rộng ở dưới chân thác. Chảo Thuồng Luồng [Ang Ngước] ở sông Lò Chảo Thuồng Luồng là một hốc đá có miệng như lòng chảo nằm cách bờ sông Lò 2m về phía nam. Tại đây có một suối chảy ra, đồng bào gọi là suối Ang Ngước. Ang Ngước ở bờ nam sông Lò tại cửa khẩu tiểu ngạch, thuộc phần đất của xã Tam Thanh. 6.5.6. Các di tích, danh thắng xã Sơn Lư Động Nang Non [pha Su Lú] Động Nang Non ở xã Sơn Lư, huyện Quan Sơn còn có tên gọi tiếng Thái là thắm pha Su Lú, có diện tích khoảng 17,5ha. Từ thị trấn huyện Quan Sơn theo quốc lộ 217 đến Km 39 xã Sơn Lư nhìn sang phía nam sông Lò thấy một núi đá có cây thả mình xuống dòng sông Lò, nơi đây chính là động Nang Non. Muốn đến động Nang Non phải dùng thuyền, bè qua sông Lò. Từ bờ sông Lò lên khoảng 100m rẽ về phía trái là đến cửa hang. Hiện nay huyện Quan Sơn đã cho xây bậc và tay vịn lên xuống với hơn 300 bậc bê tông. Hang rộng chừng 10m, sâu vào khoảng 70m, cao trên 17m rồi chia thành 2 nhánh, 2 tầng. Tầng trên có một tràn đá tạo thành phản nhũ đá có hình tựa như cô gái đang nằm ngủ [tiếng Thái có nghĩa là nang non]. Động Nang Non nằm trong vùng đồi núi cao, có đặc tính chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều, chịu ảnh hưởng của gió tây nam thổi từ tháng 4 đến tháng 8, gió mùa đông bắc thổi từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Thời tiết rất lạnh kèm theo mưa phùn và sương giá. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 22 - 240C, nhiệt độ cao nhất có tháng lên đến 38 - 390C. Lượng mưa trung bình từ 1600 - 1900mm và phân bố không đều giữa các tháng, mưa nhiều nhất tập trung vào tháng 7 - 8. Khu vực động Nang Non chịu ảnh hưởng thủy văn từ sông Lò, đây là vùng có địa chất thủy văn phức tạp do địa hình kiến tạo nhiều đồi núi dốc. Tuy nhiên khu vực động Nang Non có độ cao lớn từ 164m đến 329m do vậy không bị ảnh hưởng nhiều của thủy văn sông Lò. Thiên nhiên ở khu vực động Nang Non còn gần như nguyên sơ, với địa hình đồi núi tự nhiên kết hợp với sông Lò chảy qua phía tây khu động. Khu vực động Nang Non chủ yếu là đất rừng tự nhiên, cây lâu năm... hiện nay, có tuyến đường mòn dẫn từ bến thuyền lên động. Động Nang Non hiện chưa được khai thác tương xứng với tiềm năng của nó. Muốn vào động Nang Non hiện nay chỉ có đường thủy đi thuyền, bè, mảng qua sông Lò, đường vào khu động chỉ có 01 bến. Hệ thống giao thông trên khu vực động Nang Non chủ yếu là các đường mòn dân sinh, tuyến đường dẫn vào cửa động là đường bậc thang với bề rộng 1,5m. Địa hình trong khu vực động là các đồi núi dốc với điểm cao nhất có cốt 325m, khu vực sát mép sông có cốt cao độ là 169,97m, khu vực này chủ yếu là địa hình tự nhiên được kiến tạo. Trong lòng hang hẹp là một khoảng không gian rộng có những thạch nhũ lớn từ trần hang rủ xuống, có một hồ nhỏ trong vắt và có một con suối nhỏ chảy qua. Độ sâu của hang hiện nay vẫn chưa được khám phá hết, đó vẫn đang còn là một điều bí ẩn chờ khám phá. Tương truyền rằng thế kỷ XV khi Lê Lợi dẫn binh lên Lào để xuống Con Cuông [Nghệ An] đánh giặc Minh sau đó đánh ra Bắc. Khi qua đây ông đã vào hang này thăm cảnh và thắp hương nhưng không ghi lại bút tích gì. Vào năm 2014, động Nang Non đã được quy hoạch xây dựng thành điểm du lịch sinh thái. Sau khi hoàn thành, động Nang Non sẽ trở thành một điểm du lịch hấp dẫn. 6.5.7. Các di tích, danh thắng xã Tam Lư Bản Hậu, Vụng Hậu Bản Hậu, xã Tam Lư ở trên trục đường từ Km 42 đi xã Tam Thanh và Mường Pao [tỉnh Hủa Phăn - Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào]. Bản Hậu là bản văn hóa cấp tỉnh. Nhân dân ở đây chủ yếu là người dân tộc Thái và một số hộ người Kinh mới lên nhập cư làm ăn buôn bán nhỏ mấy năm gần đây. Bản Hậu hiện có 143 hộ, 636 khẩu, sống chủ yếu bằng nghề nông - lâm nghiệp. Bản ở dọc theo bãi bằng chân đồi nhìn ra cánh đồng và sông Lò. Trên địa bàn có trường tiểu học, THCS và mầm non Tam Lư đặt trụ sở. Bản còn có cầu treo bắc qua sông Lò rất đẹp. Vụng Hậu - sông Lò đoạn qua bản Hậu là bến của bản Hậu cũng rất đẹp với những câu chuyện huyền thoại, ly kỳ, nửa thực nửa hư mà thật lý thú. Nước vụng Hậu trong xanh chảy lững lờ. Phía bản Hậu là bãi cát trắng thoải, dốc xuống sông, phía bờ đối diện là núi đá đứng chìm chân xuống nước tạo thành vụng nước sâu. Phía núi đá có hang chìm thông đến Pù Kùn [bản Xum, xã Sơn Hà] dài vài chục ki lô mét. Nếu thả một bó lá dong ở hang trên đỉnh Pù Kùn thì sau 7 ngày bó lá dong đó sẽ nổi lên tại vụng Hậu. Bờ vụng Hậu phía tây [phía bản Hậu] là bãi bằng. Các thiếu nữ bản Hậu trồng dâu nuôi tằm ở đó. Theo các cụ già kể lại, xưa kia ở vụng Hậu có con thuồng luồng thường giả thành gà trống rơi xuống nước đang giãy giụa, con cá to đang ngáp chết bơi ngửa rúc vào bờ để nhử các cô gái. Khi các cô gái xuống sông bắt gà, bắt cá thuồng luồng sẽ lôi xuống hang và không thể lên được nữa. Có khi thuồng luồng biến thành chàng trai khôi ngô, tuấn tú, khéo nói đến tán tỉnh các cô gái. Thậm chí có đêm trăng thanh gió mát, thuồng luồng biến thành chàng trai vào bản tán gái như những chàng trai Thái. Có cô gái Thái thấy chàng trai lạ mặt đã hỏi chàng trai đến từ đâu, thì được đáp: Pí lung du nóng Dạ Pí pá du nóng Uấn Tuấn khình bá du khò Vằng Hậu Cháu phén pựn du tén Pù Kùn. Dịch: Anh vợ tôi ở ao Dạ Chị vợ tôi ở ao Uấn Bản thân tôi ở cổ vụng Hậu Tổ tiên tôi ở đỉnh Pù Kùn. Lúc ấy, các cô gái và dân bản mới biết là ở vụng Hậu có thuồng luồng. Do vụng Hậu thiêng, nước sâu lại có nơi sâu đến 10m nên rất nhiều cá ngon, cá to như: cá dốc [pa pộc], cá chày vây đỏ [pa tệt], có con đến 10 - 15kg. Cá ở đây nổi lên từng đàn ăn quả đa chín rụng xuống nước. Phải là những người có gan và biết thủ thuật bài trừ con thuồng luồng quấy nhiễu thì mới dám đến thả câu, thả lưới và quăng chài bắt cá tại vụng nước này. Cũng theo các cụ già kể lại, trước đây vụng Hậu có lúc nước cuộn thành cột sóng lớn vài mét; có lúc tự nhiên nước cạn xuống vài mét hoặc dâng lên vài mét; có khi đang xanh trong tự nhiên lại đục ngầu trong khi các vụng nước khác ở kề phía trên, phía dưới vẫn xanh trong. Vì thuồng luồng vụng Hậu hay quấy nhiễu nên thuồng luồng vụng Chiếng [sông Mã] đã lên diệt trừ. Hai bên ẩu đả một trận quyết liệt làm vang động cả vùng trong một đêm mưa gió. Ngày nay, nước vụng Hậu đã êm ả, bình thường như bao vụng nước khác của sông Lò. 6.5.8. Các di tích, danh thắng xã Sơn Điện Quần thể Pha Phanh - Căn cứ địa kháng chiến chống Pháp Pha Phanh là một dãy núi đá kéo dài từ bản Na Hồ, bản Sủa [xã Sơn Điện, huyện Quan Sơn] xuống xã Nam Động về xã Nam Tiến [huyện Quan Hóa] dài hơn 30km, tạo thành bức tường đá bảo vệ quê hương, bảo vệ căn cứ kháng chiến của ta thời chống Pháp. Thời kỳ 1948 - 1953 Ủy ban hành chính kháng chiến xã Sơn Thủy xuống bản Sủa rồi bản Lở trong dãy Pha Phanh để tản cư tiếp tục lãnh, chỉ đạo cuộc kháng chiến của địa phương. Pha Phanh có nong Uấn gắn liền với huyền thoại dân gian về chàng thuồng luồng ở vụng Hậu, sông Lò xã Tam Lư. Mặc dù vị trí ở cách xa nhau vài chục cây số nhưng nong Uấn, nong Dạ, Pù Kùn, vụng Hậu có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành những huyền thoại ly kỳ xoay quanh mô típ kể về thuồng luồng. Pha Phanh là dãy núi có cây có nhiều loại gỗ quý như: pơ mu, thông, tre, dổi, chò chỉ, vàng tâm, re thơm, trai, nghiến... Động vật nơi đây có sơn dương, gấu, khỉ, vượn [ở trên núi], rùa, hoẵng, nai, lợn lòi [ở chân núi, các bãi cỏ, các thung khe xung quanh dãy núi Pha Phanh]. Ngoài ra, các loại chim như: trĩ, hồng hoàng, gà lôi, chim cút và các loại bò sát, gặm nhấm cũng nhiều. Bản Ngàm Bản Ngàm cách đây hơn 100 năm có tên là bản Ka Nhăng. Bản Ka Nhăng có từ lâu đời [cách đây khoảng 700 năm đã có bản này]. Bản Ngàm là bản đầu tiên xây dựng bản văn hóa của xã Sơn Điện, đến nay bản đã trở thành bản văn hóa cấp tỉnh. Bản Ngàm còn được Chủ tịch UBND tỉnh công nhận là “khu dân cư hiếu học tiêu biểu” cấp tỉnh năm 2009. Năm 2015 bản được UBND huyện công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Trong bản, theo các nhánh đường bê tông kiên cố từng dãy nhà sàn rộng lớn khang trang, không gian làng bản xanh, sạch, đẹp. Người bản Ngàm quý khách, hiếu học. Phụ nữ bản Ngàm xinh đẹp, khéo tay. Nhiều nét hoa văn thổ cẩm đang được dạy và phát triển ở bản Ngàm. Trong bản, hầu như nhà nào cũng có khung cửi dệt vải thổ cẩm. * Các điểm du lịch sinh thái tiềm năng ở bản Ngàm - Núi Pha Đón - Chân núi Pha Đón bản Ngàm có nhiều cây, lắm thú. Ở đó đồng bào còn phát hiện trâu rừng, bò rừng thỉnh thoảng về đây ăn cỏ. Năm 2003 có một con trâu rừng nặng khoảng 700kg theo đàn trâu nhà về bản. - Hát Hón [thác Lon] trên sông Luồng có vẻ đẹp kỳ thú. Thác bản Nhài Thác bản Nhài nằm ở suối Nhài [bản Nhài, xã Sơn Điện], có diện tích khoảng 16ha. Địa hình tại khu vực thác bản Nhài tương đối phức tạp, chủ yếu là núi cao với cốt cao độ cao nhất là 562m và thấp nhất là 382m so với mặt nước biển. Thác ẩn hiện trong khu vực chủ yếu là núi đá, rừng cây lâu năm. Thác bản Nhài có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, thác nước đẹp hấp dẫn du khách tham quan, ngắm cảnh. Thác bản Nhài nằm trong hệ thống các điểm du lịch của huyện Quan Sơn, có tiềm năng tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái rừng cũng như các hoạt động vui chơi giải trí. Trong tương lai, thác bản Nhài là điểm dừng chân lí tưởng cho du khách khi đến Quan Sơn và vùng biên giới miền Tây Thanh Hóa. Chưa có ai đo cụ thể nhưng dân địa phương gọi thác đó là thác 20 sải. Thác cao gần 40m. Đứng ở dưới chân thác nhìn lên thấy nước đổ xuống trắng xóa và “màn sương” tỏa ra xung quanh rất đẹp. 6.5.9. Các di tích, danh thắng xã Mường Mìn Bản Yên Trước đây bản Yên là một bản lớn gồm 5 bản nhỏ hợp lại. Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 bản còn có tên là Pọng Yên, là bản duy nhất ở mường Mìn lập thành một pọng [Đơn vị hành chính của người Thái ngày xưa lần lượt là: bản, pọng, mường, châu, tỉnh]. Bản Yên hiện nay có 110 hộ 562 khẩu, trong đó dân tộc Thái chiếm 94% còn lại là dân tộc Mường, Kinh. Hiện nay, bản Yên gồm hai khu dân cư hợp lại là bản Ta Bán [Yên Ngoài] và bản Piềng Sần [Yên Trong]. Các bản nhỏ như: Huối Hặc, Huối Sứng, Nà On bây giờ không còn nữa. Bản Yên có độ che phủ rừng 88%. Rừng bản Yên xanh quanh năm, có nhiều loại lâm sản quý như sa mu, sến, táu, chò chỉ, dổi, re thơm, đinh hương... Cây dược liệu, nứa, vầu ở đây cũng nhiều, tạo việc làm và thu nhập cho đồng bào. Bản Yên có nhiều đồi núi, khe suối. Mỗi núi, mỗi đồi mang một tên riêng rất ấn tượng, như: suối Hặc [“hặc” tiếng Thái có nghĩa là yêu quý]; suối Xứng [“xứng” tiếng Thái có nghĩa vừa ý đẹp lòng]; suối On [Nà On] [“on” tiếng Thái có nghĩa là vui vẻ hoặc thỏa thích]; suối Khé [“khé” tiếng Thái là quế]; suối Cộng - Pom [“cộng” tiếng Thái có nghĩa là uốn cong]; thác Xứng - Thác nước đẹp ở suối Xứng; thác Cộng - Thác nước cao ở suối Cộng; thác Khé - Thác nước cao ở suối Khé đầu nguồn suối Yên; Keo Sam Tạng - Eo ngã ba liên thông với hai xã Tam Thanh, Sơn Điện; thác Dồm [suối Hặc] - Thác nước đẹp ở suối Hặc; núi Phứng [núi ong mật, ong khoái làm tổ]; pù Nộc Cộc - đồi Phượng Hoàng Mỏ Sừng; pù Xà Lày - đồi Cái Kéo; pù Phạ Mứt - đồi Trời Tối. Bản Yên còn có rất nhiều cây cọ, cọ mọc từng đồi riêng hoặc xen kẽ trong rừng gỗ, nứa, vầu tạo nên nguồn lâm sản nhiều nhất so với các bản trong xã. Do nhiều cây cọ mà gấu, khỉ, chim, thú ăn quả rất nhiều. Trước đây từng đàn chim phượng hoàng mỏ sừng cổ vàng, con to nặng đến 4-5kg bay từng đàn che bóng mặt trời. Tiếng Thái gọi là “nộc cộc pừng lai tố bín mứt phạ” [Nghĩa là chim phượng hoàng đàn nhiều con bay tối trời]. Bản Chiềng Ở địa bàn bản Chiềng có các cảnh đẹp như: Hát Tác Lét hoặc Kền Tao là một thác nước có 3 nhánh của sông Luồng ngay trước mặt bản. Thác tung bọt trắng xóa suốt ngày đêm. Những người xuôi bè qua đây thường rất ngại thác này vì nó khó xuôi hay mắc bè. Sở dĩ có tên là hát Tác Lét [thác Phơi Nắng] vì nhiều bè xuôi về đây mắc cạn phải phơi nắng cả ngày. Để tránh được bị mắc bè nhiều người đã phải đậu bè phía trên thác rồi đi khảo sát địa hình sau đó lên quay bè của mình mới xuôi trót lọt. “Quay bè” người Thái nói là “táo pè” do vậy có tên là hát Kền Tao [thác Quay Bè]. Ở đầu thác có một tràn đá lớn nhô cao có tên gọi là Kền Hán [tảng đá người Hoa]. Vì ở đó thời phương Bắc xâm lược nước ta có nhiều lính phương Bắc đã bị quân ta tiêu diệt tại đó khi chúng qua sông. Suối Bóng - kánh Pá Ó Suối Bóng thuộc đất bản Chiềng bắt nguồn từ Pù Kút chảy qua đường 217 tại km 73+300m xuôi về bản Huối Bóng rồi ra sông Luồng tại cầu suối Bóng của tuyến đường vành đai biên giới đi qua bản Bơn xuống bản Luốc Làu. Suối Bóng dài gần 10km chảy theo hướng tây nam - đông bắc. Lưu vực suối Bóng liên tiếp có nhiều dông núi, khe suối đổ về tạo cảnh quan đẹp do nhiều cây cối, chủ yếu là rừng gỗ hỗ giao với vầu, nứa hoặc vầu, nứa thuần loài che phủ. Suối Bóng khá bằng phẳng, trước thập kỷ 70 lưu lượng nước khá lớn nên đến mùa cá lên [tháng 3 - 6 hàng năm] hàng đàn, hàng lũ cá từ sông Luồng vào cư trú, sinh đẻ ở suối. Cách sông Luồng vào khoảng 7km có một thác cao khoảng 20m thẳng đứng, ở dưới chân thác có một vụng rộng chừng 30m2 do đá tảng tạo nên. Khi cá lên gặp thác thì dồn ở đó hàng đàn, hàng đống. Do cá không lên được thác phải dồn ở chân thác nên đồng bào gọi thác nước đó là kánh Pá Ó hoặc kánh Còng Cóng [thác Cá Dồn]. Vụng nước chân thác gọi là vằng Pá Ó [vụng Dồn]. Khi cá ngược lên thượng nguồn gặp thác nước dựng đứng thường nhảy lên. Lợi dụng hiện tượng này đồng bào còn đan các dụng cụ đón cá nhảy. Khi chúng nhảy lên sẽ rơi vào dụng cụ đặt sẵn. Dụng cụ này người Thái gọi là “xón giáng” cho nên ngoài thác nước này, còn có thác khác là kánh Xón Giáng ở ngoài kánh Pá Ó khoảng 500m. Nhìn chung, suối Bóng có nhiều cảnh đẹp rất nên thơ, là khu vực làm ăn, nuôi sống nhân dân bản Chiềng từ bao đời nay. Trước đây trong suối Bóng rất nhiều nai, hoẵng, lợn lòi, khỉ, vượn và chim thú khác nên thợ săn thường hay lui tới. Mỗi lần lui tới để săn thì không bao giờ về tay không. Không được thú lớn thì thú nhỏ hoặc chim, gà rừng mang về. Trước đây lưu vực suối Bóng còn có cả công, trĩ, gà lôi. Dưới nước thì có nhiều cá, tôm, cua, ba ba, là nguồn thực phẩm cho đồng bào nơi đây. Hệ thống dông núi, khe suối đổ xuống lưu vực suối Bóng ở cả hai phía rất nhiều tạo ra hình răng lược nhìn rất đẹp mắt. 6.5.10. Các di tích, danh thắng xã Sơn Thủy Động Bo Cúng Động Bo Cúng được xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 3180/QĐ-UBND ngày 18/09/2009 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Động Bo Cúng nằm trong phạm vi bản Chanh, xã Sơn Thủy. Động nằm ở độ cao trung bình từ 350m đến 600m so với mực nước biển. Đặc điểm nổi bật của địa hình nơi đây là có những dãy núi đá chạy dài xen kẽ các khối núi đá vôi với nhiều hang động; nhiều khe suối đan xen tạo nên cảnh sắc thơ mộng. Hướng dốc của động từ hai hướng đông, tây tụ vào khu vực trung tâm tại suối Xia, có độ dốc cao, nhiều đoạn hình thành vực. Khu vực bằng phẳng ven suối có cao độ khoảng 380m, khu vực triền núi có cao độ từ 400 - 500m, khu vực núi cao có cao độ đỉnh từ 600 đến 700m. Theo những người dân địa phương kể lại, vào năm 1968, ông Lương Văn Thương, người bản Chanh, xã Sơn Thủy đi săn thú đêm, hôm đó ông bắn trúng một con cầy bị thương rớt xuống hang. Vì tiếc con mồi ông đã vào theo, khi mới vào thì phải cúi mình chui vào nhưng càng vào thì càng rộng và rất đẹp. Ông mải mê chiêm ngưỡng cảnh đẹp nên không để ý tìm bắt con cầy. Lúc đó là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đời sống kinh tế khó khăn, hơn nữa chưa có đường ô tô vào đến bản Chanh nên chính quyền địa phương chưa để ý đến hang động này. Đến năm 2008 khi có tuyến đường vành đai biên giới từ Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa chạy qua gặp đường quốc lộ 217 tại Km 66 - bản Luốc Làu, xã Mường Mìn thì động Bo Cúng, bản Chanh mới có dịp khám phá và giới thiệu với công chúng gần xa. Động Bo Cúng có độ sâu khoảng 800m, rộng từ 20 - 50m, trần động cao thấp khác nhau khoảng từ 20 - 30m. Toàn bộ lòng động được chia thành 10 khoang lớn nhỏ. Tại mỗi khoang là tập hợp hàng loạt các tạo tác kỳ thú của tạo hóa. Với những gì hiện hữu và cả những nét đẹp chưa được khám phá, động Bo Cúng được xem như một kỳ công của tạo hóa ban tặng cho con người. Nơi đây xưa kia còn có cả một khe suối mỗi khi mùa mưa, lũ, từ trong khe chảy ra rất nhiều tôm. Bởi đặc điểm ấy mà người dân bản Chanh đã gọi động này theo tiếng địa phương - tiếng Thái là Bo Cúng nghĩa là Mó Tôm. Khu vực động Bo Cúng là một quần thể núi đá rất rộng với diện tích hàng nghìn héc ta, kéo dài từ bản Chanh về gần bản Khà dọc theo hai bên suối Xia. Trong các dãy núi đó có nhiều hang động và chim, thú cư ngụ như: hang Dơi, hang Gấu, hang Cọp, hang Khỉ, hang Vượn... Trên quần thể núi đá có cây này trước đây rất nhiều chim, thú. Khỉ, vượn nhiều đàn, mỗi đàn hàng trăm con. Gấu cũng nhiều vì trên núi có nhiều tổ ong và cây ăn quả mà chúng ưa thích. Hổ kiếm ăn ở trên núi và địa bàn xung quanh có nhiều lợn lòi, nai, hoẵng, sơn dương tối về hang trên núi ngủ. Cá, tôm, cua, ốc ở đoạn suối Xia này cũng rất nhiều, gỗ có nhiều loại gỗ quý như trai, lý, nghiến, lát hoa, lát chun [ở trên núi], chò chỉ, dổi, vàng tâm, sâng, sú [ở chân núi]. Quần thể Pha Dùa, Pha Hen Ở địa phận bản Bơn xã Mường Mìn có hai dãy núi đá có cây đối diện nhau, ở giữa có con sông Luồng chảy qua. Đó chính là Pha Dùa và Pha Hen, nơi đây chính là ranh giới giữa mường Mìn và mường Xia xưa [ngày nay là xã Mường Mìn và xã Sơn Thủy]. Núi phía bắc sông Luồng là Pha Hen vì núi cao, đứng dưới đường vào Sơn Thủy và bờ sông Luồng nhìn lên phải ngửa mặt mới nhìn thấy đỉnh núi. Ngửa mặt tiếng Thái gọi là “hen ná” hoặc “hen khò” [ngửa cổ]. Do vậy mà có tên Pha Hen. Núi phía nam sông Luồng đối diện với Pha Hen gọi là Pha Dùa [“Dùa” tiếng Thái có nghĩa là nhô ra, vươn ra.] Dãy núi này vươn ra sông Luồng. Do hai dãy núi này đối diện và sát gần nhau nên dân gian đã liên tưởng như chiếc cầu bắc qua sông Luồng nối liền 2 bờ từ Pha Hen và Pha Dùa. Pha Hen cặp Pha Dùa cai cầu khúa lạn Dịch: Núi Hen và núi Dùa bắc cầu nhịp đá. Núi Pha Dùa thơ mộng và linh thiêng, gắn với nhiều huyền thoại lưu truyền trong dân gian, trong đó đặc sắc nhất là truyện Pha Dùa. Tuy là núi đá cao, nhưng Pha Dùa có lối lên, nên các thợ săn của mường Mìn, mường Xia ngày trước hay lên núi Pha Dùa săn thú như: gấu, khỉ, vượn, sơn dương, chim đại bàng mỏ sừng cổ vàng. Đền thờ Tư Mã Hai Đào Bản Chung Sơn xưa kia là bản trung tâm của mường Xia, nơi cư trú của Tư Mã Hai Đào, khi ông rời Tén Tằn, huyện Mường Lát về ở mường Xia. Nơi đây khá bằng phẳng, phong cảnh sơn thủy hữu tình. Phía nam bản tựa vào núi Pha Dùa, phía bắc trước mặt bản là sông Luồng và dòng suối Xia trong xanh thơ mộng, miệt mài chảy ra gặp sông Luồng tại bản Pom Cò [Thủy Chung] đối diện với bản Chung Sơn. Hướng này đi thông lên tận Mường Lát và xuống đến Hồi Xuân - Quan Hóa. Phía đông bản Chung Sơn là Piềng Dùa, một bãi khá rộng [hiện nay bản Thủy Sơn [Na Tuồng] dời dân sang ở hai bên đường vành đai biên giới là tuyến đường chạy từ xã Hiền Kiệt huyện Quan Hóa đi thông về xã Mường Mìn và các xã, huyện phía dưới]. Phía tây bản Chung Sơn giáp bản Xuân Thành nơi Pháp đóng đồn năm 1948 - 1950 đi thông lên bản Na Mèo và sang Lào. Do vị trí thiên thời địa lợi này mà Tướng quân Tư Mã Hai Đào đã chọn nơi này đóng đại bản doanh và cư trú đến cuối đời mình ở bản Chung Sơn [Xia Tớ]. Đền thờ Tư Mã Hai Đào tọa lạc ở gần cây đa cổ thụ phía bên trên đường đi từ Km 66 qua Sơn Thủy đi Na Mèo [Km 78]. Đền thờ cũ của ông cũng là ngôi nhà ông ở trước đây chính là vị trí sân của đền thờ bây giờ. Do thế ở hơi thấp và quá gần đường cái, nên khi đầu tư xây dựng đền thờ năm 2010 huyện Quan Sơn đã xin phép ông xây lên phía trên cách đó khoảng 15m. Còn vị trí nền nhà cũng là đền thờ cũ của ông để làm sân cho đền thờ. Hiện nay, đền thờ Tư Mã Hai Đào ở cách đường cái về phía đồi, đường lên Na Mèo khoảng 50m. Vị trí mới này vừa cao ráo vừa có sân rộng cho thế hệ con cháu, dân bản, khách thập phương đến viếng thăm thắp hương cúng tế ông. Hằng năm cứ đến ngày 15/3 âm lịch, UBND xã Sơn Thủy lại tổ chức cho nhân dân và đồng bào xa gần đến thăm viếng và 5 năm một lần, huyện Quan Sơn tổ chức lễ hội mường Xia để tri ân Tướng quân Tư Mã Hai Đào. Lễ hội thu hút cán bộ, nhân dân các xã trong huyện, các huyện lân cận như: Mường Lát, Quan Hóa, Bá Thước, Lang Chánh và một số bản lân cận của huyện Viêng Xay - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đến dự rất đông vui. Hòn đá vía [cột trụ của mường Xia, Chu Sàn] trước đây đặt ở bãi rộng, nơi làm sân vận động của bản Chung Sơn và lễ hội mường Xia bây giờ. Vị trí hòn đá vía [trụ mường] cách đền thờ Tư Mã Hai Đào khoảng 150m về phía bắc, trước mặt đền thờ ngay trong bản Chung Sơn. Ngày khánh thành đền thờ cũng là ngày khôi phục lại lễ hội mường Xia lần thứ Nhất [năm 2010]. Ban tổ chức lễ hội đã cúng trâu xin phép được chuyển hòn đá vía [lặc mường, trụ mường] về sân đền thờ Tư Mã Hai Đào. Núi Lá Hoa, bản Mùa Xuân - bản Xia Nọi Bản Mùa Xuân trước năm 1990 gọi là bản Sa Lước. Tuy gọi là bản nhưng chỉ là vài hộ dân bản Muống lên đó ở tạm thời trong mùa rẫy mà thôi. Đầu năm 1990, đồng bào Mông ở xã Pù Nhi, huyện Mường Lát di cư sang ở thấy cảnh đẹp, cây cối quanh năm xanh tươi, mây giăng tứ mùa, không khí mát lành như mùa xuân nên đặt tên bản của mình là bản Mùa Xuân. Núi Lá Hoa cách trung tâm bản Mùa Xuân khoảng 5km về phía bắc [gần bản Xia Nọi]. Núi này cách bản Xia Nọi khoảng 1km và hiện nay thuộc đất bản Xia Nọi quản lý. Núi Lá Hoa là một núi đá có cây. Trên đỉnh núi có nhiều cây gỗ với sắc lá đỏ vàng rực rỡ. Do vậy người Thái đặt tên là pha Bóc Mạy. 6.5.11. Các di tích, danh thắng xã Na Mèo Hang Trùng, hang Bó, bản Sa Ná Hang Trùng nằm ở phía dưới cửa suối Son khoảng 50m. Ngay cửa hang, trên cao 50m có một nửa tấm quan tài vắt trên mô đá có cây giữ lại từ bao đời nay. Trong hang, theo nhiều thợ săn khỉ, vượn trước đây có nhiều quan tài cũ và đồ vật cũ [nhiều cái đã hư hỏng] của người Thái như: bế, mâm gỗ.... Tại sao có đồ vật ở đó và có từ bao giờ không ai biết được. Bản Sa Ná còn có một núi đá, đồng bào gọi là Pha Bó. Trèo lên Pha Bó ở độ cao khoảng 150m so với mặt đất ta gặp một hang khá rộng và càng đi sâu vào càng đẹp. Trong hang có Nà Kàng Koi [ruộng của người lùn] bằng đá nhũ giống như ruộng bậc thang của đồng bào Thái, bầu sữa mẹ [khối đá trên cao 2,5m] đang nhỏ sữa xuống đầu đứa con [hòn đá nhỏ cao khoảng 50cm] ở phía dưới và biết bao cảnh đẹp khác. Hang này đồng bào gọi là Hang Bó. Thời chiến tranh chống Mỹ để tránh máy bay Mỹ oanh tạc vào bản, nhân dân bản Sa Ná [xã Sơn Thủy, nay là xã Na Mèo] đã vào đây trú ẩn. Pha Bó không cao lắm, núi đá có cây nên việc trèo lên hang Bó tương đối dễ dàng. Quần thể hang Sa Ná là một quần thể hang động đẹp và hấp dẫn. Với lợi thế nằm ở vùng biên giới và có cửa khẩu quốc tế, hang Sa Ná đã thu hút được nhiều khách du lịch không chỉ trong huyện mà còn có du khách Lào. Thác nước 20 sải ở suối Sàng Suối Sàng bắt nguồn từ tiểu khu 189A đất lâm nghiệp của Ban quản lý rừng phòng hộ Na Mèo, chảy theo hướng đông bắc - tây nam giáp với địa phận bản Son xã Na Mèo. Suối Sàng dài khoảng 4km đổ ra sông Luồng tại Km 87+300, gần bãi bắn của Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, phía dưới cầu cứng qua sông Luồng đi bản Ché Làu. Nước suối Sàng trong xanh, mát rượi, là nguồn nước sạch phục vụ cho gần 1.000 hộ dân bản Na Mèo và các cơ quan đóng trên địa bàn Cửa khẩu Na Mèo. Từ cửa suối [bờ sông Luồng] theo suối Sàng vào khoảng 1,5km có một thác cao, nước tung bọt trắng xóa, mát rượi, đó chính là thác 20 sải suối Sàng cao gần 40m. Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo Cửa khẩu Na Mèo là nơi gặp gỡ của hai con suối là suối Pùn và suối Xôi chảy từ huyện Viêng Xay - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về Việt Nam. Khi hai con suối lớn hợp nhau ở đó tạo thành dòng sông Luồng từ Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo chảy qua xã Na Mèo, Sơn Thủy, Mường Mìn, Sơn Điện huyện Quan Sơn về Nam Động, Nam Tiến, Nam Xuân, huyện Quan Hóa rồi đổ ra sông Mã tại Hòn đá ngang, xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa. Sông Luồng dài hơn 100km, lưu lượng nước khá lớn. Trước những năm 1970 của thế kỷ XX đây là tuyến đường thủy để chính để đồng bào vận chuyển lâm sản, hàng hóa về Hồi Xuân, Cẩm Thủy bán. Nơi cửa khẩu có hai cầu bắc qua suối Xôi. Cầu cũ nhỏ hơn và thấp hơn ở về phía hạ lưu suối Xôi theo tuyến đường 217 từ Việt Nam sang Lào. Cầu mới to hơn, cao hơn bắc qua suối Xôi cách cầu cũ về phía thượng lưu khoảng 100m. Đây là hai chiếc cầu thông thương giữa nước ta với nước bạn Lào và khách quốc tế đến Việt Nam hoặc từ các nước qua Lào sang Việt Nam. Cầu mới xây dựng năm 2002 do Việt Nam và Lào hợp tác đầu tư. Phía đông cầu là trạm kiểm soát cửa khẩu liên hợp của Việt Nam gồm các lực lượng: biên phòng, hải quan, kiểm dịch, thuế vụ... Phía tây cách đầu cầu khoảng 150m là trạm kiểm soát liên hợp của nước bạn Lào. Chợ Na Mèo cách cầu Nặm Xôi [cửa khẩu về phía đông hạ lưu sông Luồng] khoảng 300m. Tại nơi gần chợ có cây đa cổ thụ tỏa bóng sum suê rất đẹp và mát mẻ. Các cơ quan đóng ở cửa khẩu gồm: Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo ở trên đồi [đơn vị gần cửa khẩu nhất], Trạm kiểm soát liên hợp ở ngay Cửa khẩu, phía đông cầu Nặm Xôi [suối Xôi], Chi cục Hải quan Na Mèo, Cửa hàng Thương nghiệp miền núi, Bưu điện Na Mèo, khách sạn Cửa khẩu, Hạt giao thông Na Mèo, Phòng khám Đa khoa Na Mèo... Theo quy hoạch thị trấn Na Mèo thì địa phận thị trấn khi thành lập sẽ bao gồm toàn bộ bản Na Mèo, bản 83, Cửa khẩu quốc tế Na Mèo kéo dài xuống đến Km 83 [5km]. Lợi thế có những hang động và các cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ đã tạo cho Quan Sơn những thế mạnh riêng, và đang dần hình thành ở đây một tuyến du lịch bắt đầu từ Quốc lộ 217 cho đến Cửa khẩu Na Mèo để kết nối các cảnh đẹp như: thác bản Xày, thác Ma Hao, núi Pù Mằn, cầu Pha Lò, bản Khạn, động Nang Non [pha Su Lú], thác bản Nhài, Pha Dùa, đền thờ Tư Mã Hai Đào, động Bo Cúng. Phát huy được lợi thế này Quan Sơn sẽ là một điểm đến hấp dẫn.

KẾT LUẬN

Quan Sơn thuộc vùng đất biên cương, là phên dậu phía tây của tỉnh Thanh Hóa. Tên gọi Quan Sơn xuất hiện từ năm 1996, khi Chính phủ quyết định chia tách huyện Quan Hóa thành 3 huyện: Quan Hóa, Quan Sơn và Mường Lát, theo Nghị định 72/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 1996.

Chủ Đề