Sách giáo dục địa phương lớp 6 mới

Giáo án giáo dục địa phương lớp 6 HÀ NỘI NĂM 2022 - 2023 MỚI NHẤT

Tuần: 1.

Ngày soạn: 05/9/2021

GIÁO DỤC NẾP SỐNG THANH LỊCH VĂN MINH CHO HS HÀ NỘI

Tiết 1:

BÀI 1: THANH LỊCH, VĂN MINH - NÉT ĐẸP

CỦA NGƯỜI HÀ NỘI


I. Mục tiêu:

1. Về kiến thức:

- Học sinh hiểu thế nào là thanh lịch, văn minh. Những biểu hiện của thanh lịch, văn minh trong đời sống của người Hà Nội. Ý nghĩa của việc thực hiện nếp sống thanh lịch, văn minh.

2. Về năng lực:

-

Năng lực tự chủ và tự học: biết chủ động tích cực thực hiện nhiệm vụ học tập.

- Năng lực giao tiếp và hợp tác: biết chủ động đưa ra ý kiến giải pháp khi được giao nhiệm vụ để hoàn thành tốt khi làm việc nhóm.

3. Về phẩm chất:

- Tự hào về truyền thống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội.

II. Thiết bị dạy học và học liệu:

1. Chuẩn bị của giáo viên:

- Tư liệu, bài viết tham khảo về người Hà Nội thanh lịch, văn minh. - Tranh ảnh, băng hình... về người Hà Nội thanh lịch, văn minh…

2. Chuẩn bị của học sinh: sách giáo khoa, vở ghi.

III. Tiến trình dạy học: 1. Hoạt động 1: Mở đầu

a] Mục tiêu:

- Tạo hứng thú cho HS trước khi vào bài mới.

b] Nội dung:

- Học sinh dựa vào kiến thức đã học và hiểu biết của mình để trả lời câu hỏi khi tham gia trò chơi.

c] Sản phẩm:

- HS dựa vào hình ảnh. - GV có thể chuẩn bị sẵn một số phần thưởng nhỏ để động viên HS: tràng pháo tay, điểm số, cái bút...

d] Tổ chức thực hiện:

- Bước 1: Tổ chức cho HS chơi trò chơi “Hỏi – đáp nhanh”, GV đưa ra yêu cầu mỗi bạn Hs kể về một hành vi giao tiếp, ứng xử của mình với mọi người xung quanh.

- Bước 2: Một vài HS lần lượt kể những biểu hiện của thanh lịch, văn minh trong đời sống của người Hà Nội.

- Bước 3: Gv khen ngợi Hs tham gia trò chơi và dẫn vào bài.

2. Hoạt động 2: Hình thành kiến thức mới Hoạt động 2.1: Tìm hiểu thế nào là thanh lịch, văn minh?

a] Mục tiêu, phương pháp, kĩ thuật:

- Mục tiêu: + Học sinh hiểu thế nào là thanh lịch, văn minh.

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÁI NGUYÊNTÀI LIỆU GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNGMÔN NGỮ VĂN LỚP 6[Lưu hành nội bộ]Thái Nguyên, năm 2013LỚP 6Bài 1: VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC THÁI NGUYÊNKẾT QUẢ CẦN ĐẠTHiểu được khái quát sự phát triển, tồn tại của văn học tỉnhThái Nguyên trong sự phát triển chung của văn học nước nhà.A. KHÁI QUÁT VĂN HỌC DÂN GIAN THÁI NGUYÊNI. Khái niệm văn học dân gian Thái Nguyên và phạm vivùng văn hóa Thái Nguyên.Văn học dân gian [VHDG] từ cội nguồn bao giờ cũngphát sinh từ một làng, một mường bản cụ thể. Quá trình giaothoa văn hóa trong phạm vi một vùng hay một bộ tộc hoặcgiữa các dân tộc đan xen quần tụ đã tạo dựng, tích hợp thànhvốn VHDG của một địa phương. Cái vốn đó lại do những điềukiện địa lý - lịch sử và sự vận động xã hội nhất định trong quátrình hình thành, phát triển Nhà nước và cộng đồng quốc giadân tộc cùng tiếp thụ lẫn nhau, hòa nhập vào nhau trở nênphong phú về nội dung, bền vững về phong cách, đa dạng vềsắc thái. Đó chính là giá trị có ý nghĩa nền tảng tinh thầnthống nhất trong đa dạng.Văn học dân gian trên vùng văn hóa Thái Nguyên khôngnằm ngoài quy luật trên. Nó vừa chứa đựng cái nguồn sốngchảy trong nguồn mạch văn hóa cộng đồng, vừa không ngừngtích tụ những nét bản sắc Thái Nguyên trong lịch sử. Do đó,việc giới thuyết nó trong khái niệm VHDG Thái Nguyên là2hoàn toàn có thể chấp nhận được. Đương nhiên, VHDG TháiNguyên là tổng giá trị VHDG của các thành phần dân tộc anhem đã từng cộng cư và quần tụ từ trước cả khi Thái Nguyêncó địa danh hành chính là bộ Vũ Định thời Hùng Vương. Trảiqua các biến thiên lịch sử gắn với mỗi thời đại: khi thu hẹpchâu Thái Nguyên chỉ là một huyện Đồng Hỷ [thời Lý], khimở rộng trấn Thái Nguyên lại bao gồm cả phủ Cao Bằng [thờiHậu Lê], khi tách ra thì một phủ Thông Hóa cũng được đổithành một tỉnh Bắc Cạn [thời Pháp thuộc]….Tuy vậy, dù saođịa giới cũng chỉ là vấn đề lịch sử hành chính, còn lịch sử vănhóa truyền thống trong đó có VHDG thì rõ ràng không thể đặtgọn vào một khuôn khổ có tính xác định trong từng thế kỷ.II. Tiến trình thể loại và những đặc điểm cơ bảnChỉnh thể VHDG Thái Nguyên trong các thành tựu đãsưu tập hiện nay chưa đủ dữ kiện để dựng lại một hệ thốngtiến trình phát triển của nó trong lịch sử. Do đó, chỉ có thể giớithiệu VHDG Thái Nguyên là một di sản đa thể loại hợp thành.Trong đó VHDG Tày - Nùng giữ vai trò chủ thể giữa một toàncảnh văn hóa giàu bản sắc tộc người, tạo thành bản sắc TháiNguyên.1. Loại hình tự sự dân gian1.1. Thần thoại Thái Nguyên khá phong phú đa dạng.Trong đó thần thoại suy nguyên còn ít được sưu tập ngoài cácmẫu kể đơn giản về người khổng lồ Tài Ngào vẫn được lưutruyền ở thần thoại H'mông - Dao cũng như thần thoại Sán3Dìu, Trại Đất…ít mang bản sắc địa phương, nhưng cũng tậphợp thành các nhóm mẫu kể trên các địa bàn Định Hóa, ĐạiTừ và vùng ngoại thành Thái Nguyên. Hầu hết, bộ phận này làcác thần thoại nguồn gốc tộc người, tộc danh và địa danh. Cábiệt, có thần thoại Tày khá trùng khớp với thần thoại ViệtMường [Sự tích các dân tộc Tày, Nùng, Mèo, Dao là anh em].1.2. Truyền thuyết Thái Nguyên nổi đậm màu sắc tiếpxúc và hội tụ. Truyền thuyết địa danh hiện còn vô số các mẫukể: Giếng Dội, Núi Xem, Núi Văn, Núi Võ, Vực Ách, Gò Chùa[Đại Từ] Đồi Vua Mọc, Đá Miếu Nữ Tướng [Phú Lương]…Trong đó có nhiều mẫu kể ở Phú Lương, Đại Từ, Phú Bình,Phổ Yên như: Sự tích Đền Cô Thắm, Sự tích Miếu Nữ Tướng,Sự tích Gò Chúa Chỏm, Sự tích Núi Cô Tiên, Núi ĐongQuân…đều chứa đựng khá nhiều mô - típ truyền thuyết dântộc Kinh. Có thể cho rằng đó là những truyện có liên hệ ítnhiều với các truyền thuyết về Thánh Gióng và Hai Bà Trưng.Tuy nhiên, các truyền thuyết lịch sử về Dương Tự Minh, LưuNhân Chú, Hoàng Hoa Thám, Trịnh Văn Cấn…trên đất TháiNguyên vẫn là những mẫu kể đáng chú ý hơn cả. Bởi lẽ từ đóhiện ra những con người Thái Nguyên thật sự khổng lồ về ýchí. Họ là những anh hùng dân tộc giữa đời thường, rất đángkhâm phục mà không hề xa cách trong cảm quan thẩm mỹ dângian.1.3. Cổ tích Thái Nguyên là cả kho tàng phong phú baogồm từ những mẫu kể còn đơn giản, chỉ có một mô típ như Sự4tích Thôm Toòng [Ao Đồng] ở Phú Bình, Sự tích Ruộng ThácĐao [Dải lụa đào] ở Đại Từ…đến những mẫu kể chuỗi xíchliên hoàn như Tua Tềnh và Tua Nhì [kiểu Tấm Cám] ở ĐịnhHóa. Trong đó, yếu tố giao thoa văn hóa Kinh - Tày rất đậmnổi, nhưng vẫn không làm nhạt nhòa bản sắc tộc người. Bêncạnh một số cổ tích Kinh, có thể thấy cổ tích Tày - Nùngphong phú vào bậc nhất. Đóng góp quan trọng của bộ phậnnày vào kho tàng cổ tích Việt Nam là ở sự nảy nở vô số cácmẫu kể cổ tích loài vật. Đó là những mẫu kể còn khêu gợikhông khí hoang sơ, thôn dã mà kỳ thú [Sự tích thi gào to, Sựtích giống ếch lưng gù]. Ở thể loại này, còn thấy các tộc ngườicó số dân không quá mười ngàn người như Cao Lan, SánChí…cũng có những mẫu kể đặc sắc. Hầu hết trong số này làsự tích về người mồ côi và người đội lốt.1.4. Truyện ngụ ngôn và truyện cười Thái Nguyên còn íthơn các thể loại khác về số lượng và chưa hoàn thiện để đạtđến chất lượng ở đỉnh cao. Điều đó có lý do lịch sử - xã hội.Cư dân bản địa - chủ thể Thái Nguyên là người Tày nói chungkhông sở trường lối tư duy triết lý trừu tượng. Mặt khác, đa sốcác vùng văn hóa Thái Nguyên trước cách mạng tháng Támmới bước vào hình thái xã hội phong kiến sơ kỳ. Kiểu truyệncười khôi hài một cách trí tuệ, theo lối trào lộng chữ nghĩabằng tiếng Tày - Nùng là xuất sắc hơn cả, nhưng cũng còn ítđược phổ biến.51.5. Truyện thơ Thái Nguyên khá phong phú. Một truyệnthơ Tày - Nùng được sưu tập chủ yếu ở Cao Bằng hiện naycũng thấy có ở Thái Nguyên. Nội dung chủ đạo trong thể loạinày nổi bật hai vấn đề: bi kịch tình yêu và khát vọng anh hùngchống ngoại xâm. Truyện thơ H'mông - Dao còn đậm màu sắcthơ ca nghi lễ, tình huống cốt truyện khá đơn giản nhưng nộidung đáng được chú ý đặc biệt. Từ vùng Chợ Mới [PhúLương] đến Phổ Yên, các truyện nôm khuyết danh của ngườiKinh khá phong phú. Chỉ riêng ở vùng Đèo Vai cách Chợ Mớikhông xa, người Tày đọc Tống Trân Cúc Hoa, Phạm TảiNgọc Hoa bằng tiếng Kinh như của chính tộc người mình. Ởđây có nguyên nhân từ sự hòa nhập nhân chủng tộc người.2. Loại hình trữ tình dân gian2.1. Thể loại bao trùm loại hình trữ tình dân gian là cadao. Ca dao hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các thể loại hát dânca trong đời sống dân gian các dân tộc Thái Nguyên: gầuplênh [hát giao duyên], gầu xống [hát cưới xin], gầu tú dua[hát mồ côi], gầu tuờ [hát cúng ma]…của người H'mông ởĐồng Hỷ, phong slư [thơ tình yêu dân gian], sli lượn [hát trữtình] của người Tày - Nùng ở Võ Nhai. Hàng loạt bài sli lượnThái Nguyên cho thấy sự giao thoa mạnh mẽ giữa hai nềnvăn hóa Kinh - Tày, từ địa danh, ngôn ngữ đến cung cách phôdiễn tình cảm. Đặc điểm này nổi đậm trong thể tài ca dao sinhhoạt. Không thể không dẫn một vài câu như:Gái xuống tắm tinh thông canh cửi6Tiếng lượn ngọt hơn mật với đườngHình dong sáng hơn "gương thần diệu"Ăn mặc những "yểu điệu thướt tha"Xinh gái bằng "Ngọc Hoa công chúa"Anh làm trai khách khứa xin mừng.[Lượn mừng trong mục Lượn mỏ nước - theo Vi Hồng]Có thể nhận ra các tiếng phổ thông [trong ngoặc kép] ởđoạn trên được dùng nguyên văn trong bài hát Tày. Về cácyếu tố thiết kế âm nhạc, còn có thể nhận ra những nét có dángdấp hát chầu văn [Nam Hà], hát quan họ [Bắc Ninh].2.2. Ở các vùng Đại Từ, Phú Bình, Phổ Yên cho thấyđặc biệt phong phú ca dao sinh hoạt bằng tiếng phổ thông. Đólà những bài ca cầm tay, những bài hát mừng quê hương mới,cuộc sống mới trên những vùng "đất lành chim đậu".Quê Ngâu thì ở Hà ĐôngNgâu đi lấy chồng ở đất Hà TâyGặp mình ta lại cầm tay…[Ca dao cầm tay - Phú Bình]Đó là những khúc hát ngắn, trữ tình duyên dáng, thườngđược diễn xướng trong hình thức đối đáp trên ruộng đồng gòbãi khắp các vùng bán sơn địa xứ Thái.Ca dao lao động với chức năng tổ chức lao động giảnđơn ở Thái Nguyên không nhiều, và chỉ còn dấu ấn trong cácbài hát vui chơi của trẻ em các dân tộc.73. Loại hình trung gian3.1. Tục ngữ Thái Nguyên có đủ các nhánh, nếu xem xétnó trong sắc thái nghệ thuật biểu diễn của các dân tộc anh em:tục ngữ Tày - Nùng, tục ngữ H'mông - Dao, tục ngữ Sán Dìu,tục ngữ Cao Lan, Sán Chí…Ở thể loại này, có thể thấy rõnhững giá trị đặc sắc trong ngôn ngữ văn hóa đặc thù. Ngạnngữ, phương ngôn Thái Nguyên không nhiều. Tuy nhiên, chỉtìm hiểu một số bài ngắn trên đất Phú Lương, Võ Nhai cũngđã thấy nội dung chủ đạo của nó là ngợi ca những miền quêgiàu về sản vật, đẹp về tình người trong kỷ niệm thôn dã.3.2. Các loại hát mo hát pụt, loàn, mại xe, phuối rọi, ngũluận ngôn, tông nặc…còn ít được nghiên cứu từ nguyên dạngtrong đời sống văn nghệ Thái Nguyên.III. Kết luậnVăn học dân gian Thái Nguyên là kho báu trí tuệ, tâmhồn, tình cảm thẩm mỹ cao đẹp và phong phú của nhân dâncác dân tộc Thái Nguyên. Trước hết, nó biểu hiện sự tích tụvăn minh Thái Nguyên ngàn năm trên các vùng đất cổ, trongkhu vực lan tỏa của nền văn hóa Thần Sa. Màu sắc tiếp xúc vàhội tụ của VHDG Thái Nguyên rất đậm nổi. Nhưng đó lànhững giá trị hợp lưu văn hóa được lắng kết muộn màng, cùngvới quá trình du cư của đồng bào các dân tộc ít người theo sựchuyển dịch dần các vùng rừng rậm rạp lên phía Bắc, kéo theosự đan xen ngày một gia tăng của dân tộc người Kinh, mà mộtbộ phận đã Tày hóa. Sự thay đổi môi trường sinh thái do8những tác động quy luật xã hội đương nhiên đã tác động mạnhmẽ vào đời sống văn học dân gian. Hoàn toàn có thể khẳngđịnh VHDG Thái Nguyên là một nguồn mạch tạo dựng nềnVHDG Việt Nam thống nhất trong đa dạng.B. VĂN HỌC THÁI NGUYÊN TỪ CÁCH MẠNGTHÁNG TÁM ĐẾN NAYI. Tiến trình phát triển1. Cách mạng tháng Tám thành công, tiếp đó là cuộckháng chiến chống Pháp đã mở ra cho Việt Bắc một thời kìvăn học mới [giai đoạn lịch sử này, Thái Nguyên là một thànhtố không thể tách rời vùng Việt Bắc]. Trong kháng chiến 9năm, Thái Nguyên cũng như nhiều tỉnh thuộc An toàn khu đãtrở thành cái nôi của văn chương cách mạng, văn học khángchiến. Năm 1949, cơ quan Hội Văn nghệ Việt Nam đóng tạiLàng Chòi thuộc Yên Giã, xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnhThái Nguyên. Những nhà thơ, nhà văn như Tố Hữu, NguyễnĐình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Huy Cận…đều đãcó thời gia sinh sống và hoạt động ở đây.Thời kỳ này, đồng thời với các nhà văn đàn anh từ khắpmiền đất nước tụ về, sự xuất hiện của các cây bút là người dântộc ít người, quê gốc tại Việt Bắc như Bàn Tài Đoàn, NôngQuốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại…cùng nhữngtác phẩm viết bằng tiếng Tày, Nùng, Dao đã góp phần làm chovăn học kháng chiến của đất nước trở nên đa dạng, đa diện, đasắc. Và có thể nói, những tác giả là người dân tộc ít người vừa9nêu trên cũng chính là những tên tuổi đầu tiên làm nên nềnvăn học Việt Bắc và văn học Thái Nguyên sau này.Năm 1957, Hội Văn nghệ Việt Bắc được thành lập tại thịxã Thái Nguyên [lúc này là thủ phủ khu tự trị Việt Bắc] đãnhư một cuộc hội tụ lớn của văn nghệ sĩ 6 tỉnh Thái Nguyên,Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn.Từ đây, nền văn học thành văn của các dân tộc Việt Bắc,trong đó có Thái Nguyên, có điều kiện phát triển mạnh mẽ.Những tác phẩm quan trọng như Muối của Cụ Hồ, Xuân vềtrên núi của nhà thơ người Dao Bàn Tài Đoàn; Tiếng ca ngườiViệt Bắc của nhà thơ dân tộc Tày Nông Quốc Chấn; Ché Mènđược đi họp, Muối lên rừng của nhà văn Nông Minh Châu; Ănngay nói thẳng của nhà văn Nông Viết Toại đều ra đời tronggiai đoạn này.2. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đưa vănhọc sang một thời kì mới. Toàn Đảng, toàn dân tập trung vàohai nhiệm vụ chính là chống giặc ngoại xâm và xây dựng kiếnthiết đất nước. Văn học Thái Nguyên tiếp tục phát triển tronghoàn cảnh chung của đất nước. Chủ đề "tất cả cho tiền tuyếnđánh thắng giặc Mỹ xâm lược" là chủ đề trọng yếu của vănhọc lúc bấy giờ đã được các cây bút khai thác triệt để. Mộtđiều đáng nói là chính trong những năm tháng đầy cam go vàác liệt ấy, đội ngũ sáng tác ở Thái Nguyên đã phát triển cả vềsố lượng lẫn chất lượng. Kế tiếp những tên tuổi đã đượckhẳng định trong kháng chiến chống Pháp, ngay từ những10năm đầu của thập niên 60 [thế kỷ XX] hàng loạt các cây bútmới như Lê Minh, Xuân Cang, Vi Hồng [văn học], Bế SĩUông, Nông Ích Đạt, Bế Dôn [kịch]…đã dần dần hiện diệntrên văn đàn cả nước cũng như ở Thái Nguyên. Những tácphẩm của các nhà sáng tác trong những năm tháng này đềumang hơi thở nóng hổi của thời đại: Trận địa giữa ruộng bậcthang [Nông Minh Châu]; Suối gang, Lên cao [Xuân Cang];Người chia ánh sáng [Vi Hồng]; Suối Lê Nin [Trần Văn Loa];Gái Quan Lang [Lê Thoa]…Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giaiđoạn quyết liệt nhất, cũng lại là lúc đội ngũ sáng tác văn họccủa Thái Nguyên lớn mạnh hơn bao giờ hết. Các giải thưởngcủa tổ chức văn học lớn ở Trung ương vào thời kỳ này của cácnhà văn Xuân Cang [Những vẻ đẹp khác nhau, tặng thưởngHội Nhà văn 1968]; Vi Hồng [Cọn nước eng Nhàn, Báo Vănnghệ - Hội Nhà văn 1971]; Hồ Thủy Giang [Cô Bánh Xích,Báo Văn nghệ - Hội Nhà văn 1971]…cùng sự xuất hiện khárầm rộ những tên tuổi mới như Ma Trường Nguyên, Trần VănLoa, Hoàng Minh Tường, Trịnh Thanh Sơn, Chu Hồng Hải,Nguyễn Đức Thiện, Khánh Điểm, Ba Luận…đã làm nên mộtdiện mạo văn học Thái Nguyên trên văn đàn cả nước.3. Bước sang thời kỳ thống nhất đất nước [1975] độingũ văn học Thái Nguyên vẫn tiếp tục thế mạnh của mình.Nhiều nhà văn đã hướng ngòi bút vào hiện thực mới của xãhội. Những chủ đề về cuộc sống hòa bình, thống nhất, tình11cảm Bắc Nam cùng những biến cố của thời cuộc đã dần dần đivào văn học. Một số tác giả Thái Nguyên đã trưởng thành vàđược khẳng định qua các tập sách riêng gây được sự chú ý củadư luận. Tiêu biểu nhất là hai tiểu thuyết Đất bằng và VãiĐàng của nhà văn Vi Hồng, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - năm1980, đã được đánh giá như một hiện tượng tiểu thuyết ViệtNam của thập kỷ 80 [thế kỷ XX].Năm 1987, sự ra đời của Hội văn học nghệ thuật tỉnh đãnhư một bước ngoặt lớn đối với văn học Thái Nguyên.Sự xuất hiện hàng loạt các cây bút ở các lứa tuổi, các thểloại với nhiều bút pháp khác nhau đã làm cho "kho tàng vănchương" Thái Nguyên giàu có lên một cách đáng mừng.Những tác giả văn xuôi nối nhau, đại diện cho nhiều thế hệcầm bút: Đặng Vương Hưng, Hà Đức Toàn, Nguyễn BìnhPhương, Lê Thế Thành, Nguyễn Cao Thâm, Nguyễn MinhSơn, Đỗ Dũng, Nguyễn Văn, Ngọc Thị Kẹo, Thanh Hằng,Hoàng Luận…Những cây bút thơ theo năm tháng lại pháttriển không ngừng như: Thế Chính, Trần Thị Vân Trung, VõSa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Đức Hạnh, Hữu Tiệp,Hiền Mặc Chất, Nguyễn Long, Ba Luận, Minh Hằng, HuyDuân, Nguyễn Anh Đào, Vũ Đình Toàn, Triệu Doanh, MaiThắng…Đó là những tên tuổi trưởng thành trong thời kì HộiVăn học Nghệ thuật Thái Nguyên được thành lập.4. Thế kỉ XXI, cùng sự chuyển mình của đất nước, vănhọc Thái Nguyên đã có những bước tiến mới. Một lớp tác giảđã xuất hiện từ cuối thể kỷ trước đang được dần dần khẳng12định ở đầu thế kỉ này như: Phạm Đức, Bùi Thị Như Lan,Dương Thu Hằng, Trần Quang Toàn, Tô Sơn, Phan Thái, BùiNhật Lai, Phạm Ngọc Chuẩn, Thu Huyền, Phan Thức, XuânNùng, Nguyễn Kiến Thọ, Trần Xuân Tuyết, Nguyễn Hữu Bài,Nguyễn Thịnh, Hồ Triệu Sơn, Ngọ Quang Tôn, Phạm Quí…Hàng chục đầu sách riêng được xuất bản hàng năm củacác tác giả Thái Nguyên, dù chất lượng không đồng đềunhưng cũng đã minh chứng cho những bước đi dài rộng củavăn chương toàn tỉnh.Giai đoạn văn học này, có một điều đáng nói là trong khivăn xuôi Thái Nguyên chỉ phát triển một cách bình lặng thìthơ lại có những bước tiến vượt bậc mà có lẽ Thái Nguyênchưa bao giờ đạt được. Ba tập thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh[Mưa mùa đông], Võ Sa Hà [Cánh chim về núi], Minh Thắng[Rét ngọt] được giải của Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các HộiVHNT Việt Nam trong các năm 2004 và 2006; Ba giải thưởngthơ của hai tờ báo lớn: Văn nghệ Quân đội, Báo Văn nghệ traocho ba tác giả: Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu vàVõ Sa Hà đã đưa vị thế thơ của Thái Nguyên lên một tầm caomới so với toàn quốc.Song song với thơ và văn xuôi nhưng công tác nghiêncứu, lí luận, phê bình ở Thái Nguyên mới chỉ được tiến hànhtrong các nhà trường Đại học nằm trên địa bàn tỉnh, nội dungcũng hạn hẹp trong phạm vi học đường chứ chưa phổ biến đểtrở thành một hoạt động rộng khắp trên toàn tỉnh. Bởi vậy, độingũ viết phê bình, lí luận văn học ở Thái Nguyên còn yếu vàthiếu. Ngoài những tác giả như nhà văn Lâm Tiến, nhà giáo13Vũ Châu Quán, Vũ Đình Toàn, các PGS-TS Trần Thị VânTrung, Vũ Anh Tuấn, Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Huy Quát,chưa thấy sự xuất hiện của các cây bút mới.Sáng tác kịch bản ở Thái Nguyên cũng còn nhiều hạnchế. Từ những năm 90 của thế kỉ trước đến nay, với một số ítvở kịch nói, chèo của Nguyễn Đức Trạo và Mông Đông Vũđược dàn dựng trên sân khấu và truyền hình trung ương, cònhầu như rơi vào im lặng.Một sự kiện văn học nghệ thuật không thể không nhắcđến, đó là sự ra đời của tờ Báo Văn nghệ Thái Nguyên vàogiữa năm 1991. Tuy còn nhỏ, lẻ, lượng phát hành không caonhưng tờ Văn nghệ Thái Nguyên nhiều năm nay, đặc biệt làsang thế kỉ XXI đã thực sự bước vào đời sống kinh tế, văn hóaxã hội của tỉnh nhà, là một diễn đàn không thể thiếu của anhchị em văn nghệ sĩ Thái Nguyên.II.Những đặc điểm cơ bản1. Văn xuôiQua mỗi thời kì văn học, văn xuôi Thái Nguyên luônbộc lộ những đặc điểm nhất định. Trong kháng chiến chốngPháp và thời kì đầu của hòa bình lập lại, nhân vật tiểu thuyếtvà truyện ngắn của các nhà văn thường là anh lính cụ Hồ,những người nông dân miền núi đi theo cách mạng…Suốt một thời gian dài sau đó, người công nhân, nôngdân, người lính luôn là nhân vật trung tâm trong văn xuôi TháiNguyên. Những tác phẩm văn xuôi trong thời kỳ này có lốiviết đơn giản, xuôi chiều, ít cá tính.14Khoảng những năm 1980 trở lại đây, ở Thái Nguyên, màbắt đầu từ nhà văn Vi Hồng, cuộc sống tâm hồn con ngườimiền núi đã được miêu tả một cách phong phú, sâu sắc, đadạng. Với sự vận dụng tối đa vốn văn hóa dân gian, Vi Hồngđã sáng tạo và khởi xướng một cách viết mới về miền núi, màcó nhà văn đã nhận định đó là cách viết "Hiện đại hóa dângian". Sau này, không ít các nhà văn người dân tộc ở TháiNguyên và Việt Bắc ảnh hưởng Vi Hồng một cách sâu sắc vàcó hiệu quả.Từ cuối thế kỉ XX bước sang thế kỉ XXI, trước làn sónghội nhập toàn cầu, trong sự tiếp nhận các lí thuyết văn họchiện đại của thế giới, văn xuôi Thái Nguyên tuy còn nhiều hạnchế, nhưng cũng không nằm ngoài xu thế chung ấy.Các cây bút văn xuôi Thái Nguyên, dù ít dù nhiều, dùthành công hay chưa thành công, đều đã bắt đầu có nhữngchuyển động nhất định trong bút pháp, trong phương pháp,trong quan niệm về hiện thực….và đã có những thành tựunhất định.2. ThơThơ Thái Nguyên luôn có những bước thăng trầm. Vàokhoảng vài chục năm đầu kể từ khi hòa bình lập lại, nếu coicác nhà thơ Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Cầm Giang…lànhững người đã sống và hoạt động lâu năm ở Thái Nguyên làcác nhà thơ của xứ Thái, thì có thể nói, thời kỳ này đã đánhđược một dấu son khá rực rỡ cho phong trào thơ tỉnh nhà.Nhưng nhìn chung, đội ngũ thơ Thái Nguyên mặc dù trải quanăm tháng đã được hình thành, thậm chí khá đông đảo nhưng15chỉ dừng lại ở ý nghĩa phong trào, thiếu hẳn tính chuyênnghiệp. Vào đầu thế kỉ XXI thơ Thái Nguyên mới thực sự nổibật khi một số tác giả có ý thức tìm tòi và đổi mới thơ. Có thểnhận định, thơ Thái Nguyên thế kỉ XXI đã có sự đổi về chất.Võ Sa Hà từ lối viết truyền thống cùng sự tiếp cận thi pháphiện đại đã tạo ra những hình tượng, những ngôn từ thơ đầyám ảnh. Nguyễn Thúy Quỳnh cùng những độc bạch nội tâm,giàu triết lí, thấp thoáng hình ảnh thơ siêu thực. Lưu Thị BạchLiễu với giọng điệu lạnh lùng, bất an, chứa chất nhiều "ẩn số".Rồi Nguyễn Đức Hạnh, Thế Chính, Nguyễn Kiến Thọ, PhạmVăn Vũ…mỗi người một vẻ, một đóng góp đã thổi bùng ngọnlửa thi ca Thái Nguyên hôm nay.Từ những thành quả của thơ Thái Nguyên trong nhiềunăm trở lại đây và đặc biệt là từ số không nhiều các tác giả thơvừa nêu trên, ta có thể nhận định: Thơ Thái Nguyên đang trênđà đổi mới và phát triển.III. Kết luậnHơn một nửa thế kỉ đối với tiến trình văn học của mộtđịa phương không phải là quá dài. Hơn nữa, Thái Nguyên vốnlà một vùng đất giàu truyền thống lịch sử, cách mạng, là nơihội tụ của nhiều dân tộc, nhiều vùng miền, mang nhiều nétđặc trưng về kinh tế, văn hóa, phong tục, tập quán, ngônngữ….chắc chắn văn học không thể phản ánh đầy đủ và sâusắc trên mọi bình diện cuộc sống. Việc giới thiệu, đánh giávăn học hiện đại Thái Nguyên cũng chỉ có thể như nhữngphác thảo, nhằm mục đích giới thiệu, tạo ra một cái nhìn tổngquan ban đầu.16Nhưng chắc chắn có thể khẳng định là văn học TháiNguyên, đến ngày hôm nay, đã đủ sức hòa nhập vào tiến trìnhvăn học Việt Nam đương đại.HƯỚNG DẪN HỌC BÀI1. Đặc trưng của văn học dân gian Thái Nguyên, sự pháttriển và các thành tựu.2. Đặc điểm của một số thể loại tiêu biểu.3. Sự phát triển của văn học viết Thái Nguyên qua cácgiai đoạn cụ thể. Kể tên một số thể loại, tác giả và tác phẩmtiêu biểu.LUYỆN TẬP1. Em có suy nghĩ gì về ý kiến: “Văn học dân gian TháiNguyên là kho báu về trí tuệ, tâm hồn, tình cảm thẩm mĩ caođẹp và phong phú của dân tộc Thái Nguyên”?2. Nêu nhận xét khái quát về tiến trình phát triển của vănhọc Thái Nguyên.17Bài 2: SỰ TÍCH ĐỀN THƯỢNG NÚI ĐUỔM- Truyền thuyết KẾT QUẢ CẦN ĐẠTHiểu được ý nghĩa, nội dung và nghệ thuật của truyện. Có tìnhyêu thương con người, yêu quê hương đất nước và lòng tự hàodân tộc.TIỂU DẪNTrải qua 4000 năm dựng nước và giữ nước hào hùng,chúng ta thấy trên khắp đất nước, hầu như ở địa phương nàocũng có những ngôi đền thờ những người anh hùng dân tộc.Đó là đền thờ Ngô Quyền và Phùng Hưng ở Sơn Tây, TrầnQuốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Quảng Ninh, Hai Bà Trưng ở MêLinh, Vĩnh Phúc…Những người anh hùng ấy đã được truyềnthuyết hóa để trở thành phúc thần, được huyền thoại hóa đểtrở thành nhân vật trong văn học dân gian Việt Nam. Với TháiNguyên, chúng ta tự hào có một ngôi đền - một truyền thuyếtđẹp - một nhân vật văn học đặc biệt như thế. Đó là đền Đuổmthờ người anh hùng dân tộc Dương Tự Minh và truyền thuyết"Sự tích đền Thượng Núi Đuổm".***Ngày xưa có một gia đình nghèo khổ. Hai vợ chồng chỉsinh được một người con trai. Khi người con mới lên hai tuổithì người bố qua đời. Hai mẹ con tần tảo nuôi nhau.18Trên núi Đuổm [Động Đạt, Phú Lương] ngày ấy có mộtbầy tiên nữ xuống đánh cờ. Chàng trai nhà nghèo lớn lên cũnglàm cái nghề của bố, ngày ngày chàng lên rừng lấy củi về bán,lấy tiền nuôi mẹ già. Chàng trai còn là người có tư chất thôngminh, tuấn tú, hiếu học nên chàng chỉ tự học mà đã tinh thôngcác ban võ nghệ, lại giỏi văn chương thơ phú. Tương truyềncó lần chàng đã giết được một con hổ thọt thành tinh chuyênăn thịt người trên núi Cấm, trừ họa cho mọi người nên dântrong vùng ai nấy đều mến phục. Đương khi thấy dân làngnghèo khổ mà chàng chưa nghĩ được kế giúp người già, contrẻ thì tình cờ một hôm lên núi Đuổm, chàng gặp bảy nàngtiên. Sau khi hỏi han trò chuyện về gia cảnh, chàng được nàngtiên thứ bẩy đem lòng yêu mến. Một hôm nàng nghe chàng kểlể về ý muốn cứu dân, nàng bèn cởi tấm áo đang mặc trênmình trao cho chàng trai và dặn rằng: "Chàng hãy mặc áo nàyvào thì mọi người sẽ không còn nhìn thấy chàng, chàng có thểvào kho báu của nhà vua lấy vàng bạc về cho mọi người".Từ đó, chàng nghèo khổ nọ đã nhiều lần lấy được củacải nhà vua phân phát cho người nghèo. Kho báu của nhà vuangày càng vơi. Nhà vua tra khảo lính canh thì bọn họ dập đầukêu oan. Trong bọn có người nói: ngày ngày anh ta chỉ thấy cómỗi một con bướm bay ra, bay vào nhà kho, chứ tuyệt nhiênkhông thấy bóng một người qua lại.Nhà vua bày kế bắt con bướm. Thế là chàng trai mồ côitốt bụng bị nhốt vào cũi, giải về kinh đô. Tại sao lại có chuyện19con bướm bay vào bay ra và con bướm đó lại là chàng trai?Có người chưa hiểu cho là áo ma. Thật ra đó chính là vì chàngtrai mặc chiếc áo tàng hình của nàng tiên thứ bẩy cho. Số là vìcó một hôm chàng đi rừng lấy măng, đốn củi, bị vướng câynhọn rách một miếng nhỏ. Mẹ chàng không hay biết, bèn đemvải thường vá vào một miếng nhỏ vừa bằng hai cánh bướm.Hình ảnh con bướm ấy chính là miếng vải trần gian.Thủơ ấy, khi chàng trai đang bị giam cầm trong ngụctối, có lính canh giữ cẩn thận để chờ ngày xét xử, thì nước tacó giặc ngoại xâm. Thế giặc mạnh như vũ bão, người người bịchết, nhà nhà đau khổ, cả một vùng biên ải tan hoang. Trướctin tức tới cấp báo về kinh đô, nhà vua chưa biết ứng phó rasao thì từ trong ngục tối, chàng trai tính được vận nước, ngỏlời xin được nhà vua cho đi giết giặc lập công. Nhà vua cảmừng, lập tức chiều lòng chàng.Chàng trai ra trận như một vị tù trưởng oai phong lẫmliệt, đầu chít khăn đầu rìu màu xanh, vận võ phục màu xanh.Nhân dân nghe tin, theo chàng đi đánh giặc rất đông. Nghenói giặc có nhiều phép thuật, gươm chặt, giáo đâm không chếtnhưng cũng bị đạo quân của chàng đánh cho tan tác. Giặc tan,đất nước thanh bình, chàng trai lại đem đoàn quân của mìnhlên vùng núi Đuổm lập trang trại để sinh sống. Chàng khôngcần chức tước, bổng lộc, ơn huệ của nhà vua.Khi vị tướng đã trở về già, ông làm nghề thuốc chữabệnh cho dân. Người đời gọi ông là ông lang già núi Đuổm.20Tương truyền sau khi ông mất, dân trong vùng tưởng nhớ màlập đền thờ trên núi Đuổm. Trong khi dựng đền, người ta xẻmột cây mít làm đôi, đem một nửa cây thả xuôi theo dòngsông Cầu. Tấm gỗ mít trôi đến vùng Hà Châu thuộc huyện TưNông tức Phú Bình bây giờ thì không trôi đi nữa. Ở Hà Châunhân dân biết chuyện cũng lập đền thờ, gọi là đền Hạ để phânbiệt đền Thượng núi Đuổm. Người xưa còn có câu: ThượngĐu Đuổm, Hạ Lục Đầu Giang.Ngày nay, đền Đuổm đã bị thời gian và chiến tranh tànphá, nhưng nền móng xưa vẫn còn in dấu tích nhắc nhở vềngười xưa cảnh cũ. Đền đã được xây dựng lại nhiều lần. Ởđền chính, trên hai cột gian giữa còn đắp nổi một đôi câu đối.Quan Triều đầu thánh thiên thu tháiĐộng Đạt giáng thần vạn cổ thanh[Quan Triều sinh thánh ngàn năm thịnhĐộng Đạt giáng thần vạn thủa xanh][Theo Vi Hồng và Vũ Anh Tuấn sưu tầm]HƯỚNG DẪN HỌC BÀI1. Em hãy tìm hiểu nhân vật Dương Tự Minh qua cácphương diện: lai lịch, phẩm chất, hành động... Nghệ thuật xâydựng nhân vật có điểm gì đáng lưu ý?2. Ý nghĩa của câu chuyện.21LUYỆN TẬP1. Suy nghĩ và hành động cụ thể của em để góp phầnbảo vệ và giữ gìn Đền Thượng núi Đuổm và những di tích lịchsử văn hóa của địa phương.2. Tìm đọc truyền thuyết "Sự tích Lưu Trung và LưuNhân Chú".22Bài 3: SỰ TÍCH SÔNG CÔNG, NÚI CỐC- Truyền thuyết KẾT QUẢ CẦN ĐẠTHiểu được nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của truyện. Trântrọng những khát vọng mang tính nhân văn của nhân dân.TIỂU DẪNNúi Cốc và sông Công đã trở thành danh thắng của đấtThái Nguyên và đi vào huyền thoại. Ngọn núi và dòng sôngấy đã đi vào thơ, vào nhạc và in dấu trong lòng người TháiNguyên. "Sự tích Sông Công, Núi Cốc" là một truyền thuyếtđược nhân dân Thái Nguyên sáng tạo, lưu truyền. Qua thờigian, truyền thuyết ấy đã trở thành một viên ngọc quý trongkho tàng văn học dân gian của tỉnh Thái Nguyên.***Chuyện kể rằng từ đời xửa đời xưa, tiếng cửa miệng củangười dân tộc ở vùng hồ này nói là đời già, đời cũ, ở vùng HồNúi Cốc bây giờ có một chàng trai mồ côi vốn là con cả củamột gia đình nghèo khổ. Sau khi cha mẹ qua đời chàng phải tựkiếm sống nuôi các em bằng nghề kiếm củi. Ngày ngày chàngmang dao, mang búa lên dãy núi Chúa chặt hết củi cây đến củicành từ sáng cho đến lúc ông mặt trời lặn rồi mới về nhà. Vốntrước chàng cũng được cha mẹ đặt cho một cái tên để gọinhưng vì ngày nào chàng cũng phải ngồi ăn hai bữa cơm đêm,23chẳng những thế vào những ngày mưa chẳng lên rừng kiếmcủi được thì chàng lại phải mò mẫm trên đồng cạn dưới đồngsâu để kiếm con cua con ốc nên mọi người đã quen gọi chànglà chàng Cốc. Năm tháng qua đi, chính chàng cũng không cònnhớ tên thật của mình nữa. Vì nghèo quá, chàng Cốc cũngchẳng được ai kết bạn với mình. Chàng chỉ có một cây sáolàm bạn. Mỗi khi tiếng sáo của chàng vút lên thì con gà gôđang gáy ở rừng sồi giữa trưa nắng chói chang cũng ngừngbặt, gió đang thổi cũng dừng lại để nghe. Muôn vạn cỏ câychim chóc nơi nơi hễ nghe tiếng sáo của chàng cũng đều phảiđộng lòng thương cảm. Ngày qua tháng lại, khi các em chànglớn lên mỗi người một nơi thì chàng vẫn kiếm ăn một mìnhbên dãy núi Chúa, bụng bảo dạ rằng mình đã rơi vào cái phậnnghèo thì còn nói gì đến chuyện vợ con. Thế rồi một ngày kiachàng lên đường tìm đến vùng Định Hóa ngày nay và đi ở chomột nhà giàu. Đàn trâu của nhà này đông vô kể. Những nhàkho đựng thóc lúa của họ cũng san sát mọc lên như một cánhrừng. Ruộng của họ cũng nhiều đến nỗi con nai phải chạymỏi chân. Nhà này có một người con gái đẹp tuyệt trần.Chẳng những thế mà nàng còn múa dẻo nổi tiếng khắp vùng.Nàng thường có mặt ở những ngày đầu xuân khi bàn làng mởhội tung còn. Các trai bản ai ai cũng muốn được hát si lượnqua hai bờ núi với người con gái ấy, nhưng tận đến khi tuổixuân của nàng đẹp rực rỡ, tài múa của nàng mềm mại nhưdòng nước uốn lượn của con suối trước nhà, nàng vẫn chưa24nhận lời kết duyên với ai. Người ta gọi nàng là nàng Công.Nàng vừa đẹp vừa hiền, lại vừa múa khéo, nhưng ít ngườiđược trò chuyện. Trong khi đó cha của nàng ra điều kiện kénrể rằng: ai muốn được làm rể nhà nàng thì phải làm côngtrong ba năm và không được sai phạm một điều gì. Hết thờigian đó, cha nàng sẽ cho gặp mặt nàng Công. Nàng bằng lòngvới người nào thì lễ cưới sẽ được tiến hành ngay. Đã mấy nămtrôi qua nhưng nàng Công chưa ưng lòng thuận ý đẹp duyênvới một người nào. Bởi vì những người đến xin làm rể nhànàng đông quá. Ngày cha nàng cho họ gặp mặt con gái, họđứng chen chúc dưới sàn. Khi nàng Công từ trong nhà bướcra, ai cũng cố chen vai thích cánh để ngoi lên cho nàng đượcnhìn tận mặt, nên nàng Công cứ đứng lặng trước đám ngườimà không rõ đây là những con người hay là những bộ xươngbiết đi biết nói. Nàng rùng mình bước vào trong nhà. Đámđông buồn bã hồi lâu rồi mỗi người tản đi một ngả…Vừa khi ấy nàng Công nghe thấy ở bên ngoài có tiếngsáo vút lên bay bổng, véo von. Thoạt đầu nàng cũng không đểý lắm, nhưng hình như tiếng sáo ấy cứ len lỏi vào tai nàng,tìm đến phòng nàng đang ở để nói lên một nỗi cô đơn và cảnhsống éo le cực khổ của một người nào đó. Chẳng mấy chốc,nàng Công nghe tiếng sáo đầm đìa nước mắt. Nàng quay rasàn ngoài thì hình như tiếng sáo cứ xa dần. Nàng quay trởvào, vừa đặt mình nằm nghỉ thì tiếng sáo lại vút lên. Hôm ấynàng thao thức đến nửa đêm về sáng vẫn không thể nào chợp25

Video liên quan

Chủ Đề