Tại sao nôi văn minh phương Đông La cái nôi của văn minh thế giới

1. Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương Đông

-Nói chung đều thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Biểu hiện rõ nhất của các điều kiện này là sự có mặt của những con sông lớn: Sông Nile ở Bắc Phi; sông Tigrơ, sông Ơphơrat ở Tây Á; sông Ấn [Hindus], sông Hằng [Gangga] ở Ấn Độ; sông Hoàng Hà, sông Dương Tử [Trường Giang] ở Trung Quốc; sông Mekong ở bán đảo Trung - Ấn, sông Menam ở Thái Lan, sông Hồng ở Trung Quốc, Việt Nam, v.v. Lưu vực các con sông này tạo ra những đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của phương Đông và thế giới. Và cũng chính từ các dòng sông ấy đã xuất hiện các nhà nước cổ đại – các nền văn minh phương Đông.

-Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà người ta lại đưa ra các cụm từ như “văn minh sông Nile”, “văn minh sông Hoàng Hà, Trường Giang”, “văn minh sông Ấn-sông Hằng”, v.v. Có thể nói, ngay từ đầu, văn minh phương Đông đã là văn minh nông nghiệp. Và đặc điểm này “đeo đuổi” văn minh phương Đông cho đến tận ngày nay.

-Như vậy rõ ràng làsản xuất nông nghiệp gắn chặt với các quốc gia phương Đông, và đó là cơ sở tạo ra tính chất nông nghiệp- sông nước của văn minh phương Đông.

Cái nôi nền văn minh: đơn hay đaSửa đổi

Một giả thuyết truyền thống về sự lan rộng văn minh là nó khởi nguyên ở tại vùng Lưỡi liềm Màu mỡ rồi lan rộng ra nhờ sự ảnh hưởng văn hóa.[9] Ngày nay, các học giả thường tin rằng các nền văn minh xuất hiện độc lập ở vài nơi trên cả hai bên bán cầu.

Có năm nơi thường được nhìn nhận là có nền văn minh xuất hiện độc lập:[6][10][11][12][13][14][15][16][17]

  1. Vùng Lưỡi liềm Màu mỡ
  2. Đồng bằng Ấn-Hằng
  3. Bình nguyên Hoa Bắc
  4. Trung phần Andes
  5. Trung Bộ châu Mỹ

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Charles Keith Maisels [1993]. The Near East: Archaeology in the "Cradle of Civilization. Routledge. ISBN978-0-415-04742-5.
  2. ^ Singh, Upinder [2008]. A History of Ancient and Early medieval India: from the Stone Age to the 12th century. New Delhi: Pearson Education. tr.137. ISBN9788131711200.
  3. ^ Cradles of Civilization-China: Ancient Culture, Modern Land, Robert E. Murowchick, gen. ed. Norman: University of Oklahoma Press, 1994
  4. ^ Mann, Charles C. [2006] [2005]. 1491: New Revelations of the Americas Before Columbus. Vintage Books. tr.199–212. ISBN978-1-4000-3205-1.
  5. ^ Haviland, William [2013]. Cultural Anthropology: The Human Challenge. Cengage Learning. tr.250. ISBN978-1285675305. Đã bỏ qua tham số không rõ |displayauthors= [gợi ý |display-authors=] [trợ giúp]
  6. ^ a b Understanding Early Civilizations: A Comparative Study, Trigger, Bruce G., Cambridge University Press, 2007
  7. ^ Maura Ellyn; Maura McGinnis [2004]. Greece: A Primary Source Cultural Guide. The Rosen Publishing Group. tr.8. ISBN978-0-8239-3999-2.
  8. ^ Lin [林], Shengyi [勝義]; He [何], Xianrong [顯榮] [2001]. 臺灣--人類文明原鄉 [Taiwan— The Cradle of Civilization]. Taiwan gu wen ming yan jiu cong shu [臺灣古文明研究叢書] [bằng tiếng Trung Quốc]. Taipei: Taiwan fei die xue yan jiu hui [台灣飛碟學硏究會]. ISBN978-957-30188-0-3. OCLC52945170. Chú thích có các tham số trống không rõ: |1= và |month= [trợ giúp]Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ [liên kết]
  9. ^ “The Rise Of Civilization In The Middle East And Africa”. History-world.org. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2009.
  10. ^ "Rise of Civilizations: Mesopotamia to Mesoamerica", Archaeology, Wright, Henry T., vol. 42, no. 1, pp. 46–48, 96–100, 1990
  11. ^ “AP World History”. College Board. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2008.
  12. ^ “World History Course Description” [PDF]. College Board. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2008.
  13. ^ “Civilization”. The Columbia Encyclopedia. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2008. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= [trợ giúp]
  14. ^ Edwin, Eric [ngày 27 tháng 2 năm 2015]. “city”. Britannica.com. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2016.
  15. ^ “Africanafrican.com” [PDF]. Africanafrican.com. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2016.
  16. ^ The Ancient Hawaiian State: Origins of a Political Society, Hommon, Robert J., Oxford University Press, 2013
  17. ^ Kennett, Douglas J.; Winterhalder, Bruce [2006]. Behavioral Ecology and the Transition to Agriculture. University of California Press. pp. 121–. ISBN 978-0-520-24647-8. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2010.

Tiểu luận: Cơ sở cho sự hình thành văn minh phương Đông

Nói đến phương Đông, người ta không thể không nhắc đến những nền văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Arập, Trung Hoa, không thể không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông. » Xem thêm

» Thu gọn
Chủ đề:
  • Văn minh phương Đông
  • Lịch sử Văn minh phương Đông
  • Tài liệu Văn minh phương Đông
  • Bài giảng Văn minh phương Đông
  • Văn hóa Việt Nam
  • Cơ sở văn hóa Việt Nam
  • Đại cương văn hóa
  • Di sản văn hóa Việt Nam
Download
Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Tiểu luận Cơ sở cho sự hình thành văn minh phương Đông -1-
  2. Dẫn nhập Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực bao phủ toàn bộ châu Á và phần Đông Bắc châu Phi. Nói đến phương Đông, người ta không thể không nhắc đến những nền văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Arập, Trung Hoa, không thể không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông. Tóm lại, phương Đông là một khu vực văn minh có “bản sắc” riêng cả về phương diện truyền thống lẫn hiện đại. Ngày nay, xét trên nhiều góc độ như lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá,... phương Đông chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử thế giới. Vấn đề thứ 1 Cơ sở cho sự hình thành văn minh phương Đông Châu Á và Đông Bắc châu phi là nơi ra đời những nền văn minh cổ kính của phương Đông nói riêng và của loài người nói chung. Ở đây đã xuất hiện những quốc gia chiếm hữu nô lệ tối cổ xây dựng trên sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy. 1.Điều kiện tự nhiên: Những nền văn minh cổ kính đó xuất hiện trên lưu vực những con sông lớn như sông Nile [Ai Cập], Tigris và Euphrates [Lưỡng Hà], sông Ấn [Indus] và sông Hằng [Gange] [Ấn Độ], sông Hoàng Hà và Trường Giang [Trung Quốc]… - Nhìn chung lưu vực các con sông nói trên là những vùng đồng bằng phì nhiêu rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. khí hậu ấm áp, nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ và dễ canh tác đã cho phép các quốc gia cổ đại phương Đông phát triển nông nghiệp thuận lợi. - Người phương Đông cổ đại sống trên lưu vực các con sông từ thời nguyên thủy đã sớm phát hiện và lợi dụng những thuận lợi đó để phát triển sản xuất. Cùng với nông nghiệp, thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh, xã hội sớm xuất hiện giai cấp và nhà nước. Cụ thể: * Ai Cập ở Đông Bắc châu Phi, là một thung lũng nằm dọc theo lưu vực sông Nile. Phía tây giáp sa mạc Libi, phía đông giáp Hồng Hải, phía bắc giáp Địa Trung Hải, phía nam giáp dãy núi Nubi và Ethiopia. Địa hình chia làm hai khu vực: Thượng Ai Cập ở phía nam là một dãi thung lũng dài và hẹp, có nhiều núi đá. Hạ Ai Cập ở phía bắc là vùng châu thổ đồng bằng sông Nile rộng lớn hình tam giác. Sông Nile là một trong những con sông dài nhất thế giới, khoảng 6500km, với bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, phần chảy qua Ai Cập dài 700km. Hàng năm nước lũ dâng khiến cho phù sa từ thượng nguồn tuôn xuống gia tăng màu mỡ cho đồng bằng châu thổ, thuận lợi cho việc trồng trọt. Sông Nile cung cấp nguồn thực phẩm thủy sản dồi dào cho sư dân và là con đường giao thông quan trọng nhất của vùng này. Do đất đai màu mỡ, -2-
  3. các loại thực vật như đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen, cây papyrus làm giấy… sinh trưởng và phát triển quanh năm. Ai Cập có một quần thể động vật đồng bằng và sa mạc rất phong phú, đa dạng : trâu bò, voi, hươu cao cổ, tê giác, hà mã, cá sấu, hỗ, báo… các loại thủy sản cũng rất nhiều, tạo thuận lợi cho nghề đánh cá.. * Lưỡng Hà: Lưỡng Hà là vùng bình nguyên giữa hai con sông Tigris và Euphrates, người Hy Lạp cổ đại gọi là Mésopotamie. Từ xa xưa vùng này đã nổi tiếng là vùng đất phì nhiêu, rất thuận lợi cho cuộc sống con người. * Ấn Độ: Ấn Dộ là một bán đảo ở Nam Á, thời cổ - trung đại bao gồm cả các nước Pakistan, Nepan, và Bangladesh ngày nay. Ấn Độ có sự đa dạng về địa hình và khí hậu ở các vùng Bắc Ấn, Trung Ấn và Nam Ấn. Sông Ấn [Indus], sông Hằng [Gange hay Gangga] đã tạo nên những vùng đồng bằng màu mỡ, có vai trò rất quan trọng dẫn đến sự ra đời sớm của nền văn minh nông nghiệp ở đây. Nhìn chung điều kiện tự nhiên Ấn Độ rất phức tạp, vừa có núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú, khí hậu có vùng nóng ẩm nhiều mưa, có vùng quanh năm tuyết phủ, lại có cùng sa mạc khô cằn nóng nực. Tính đa dạng và phức tạp của thiên nhiên Ấn Độ, một mặt là điều kiện thuận lợi cho cư dân cổ tụ cư và phát triển, mặt khác là những thế lực đè nặng lên số phận con người Ấn Độ khi nhận thức của họ còn thấp kém. * Trung Quốc: Lãnh thổ Trung Quốc mênh mông nên địa hình đa dạng và phức tạp. Phía tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, các sông lớn đều chảy ra Thái Bình Dương tạo nên khí hậu ôn hòa. Trong số 5.000 dòng sông của nước này thì Hoàng Hà [dài 5.464km] và Dương Tử [dài 5.800] là hai con sông lớn nhất . Tuy thường xuyên gây ra lũ lụt, nhưng Hoàng Hà và Dương Tử đã mang đến nguồn phù sa bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển, mang lại giá trị kinh tế cao. Từ xa xưa, những con sông này là những tuyến giao thông huyết mạch nối liền các vùng trong lãnh thổ Trung Quốc. Các triều đại đã xuất hiện, tồn tại và lớn mạnh trên lưu vực hai dòng sông này và xây dựng nên nền văn minh Trung Quốc độc đáo. - Bên cạnh những thuận lợi nói trên, những con sông này lại bị ngăn cách bởi hệ thống núi non trùng điệp và những vùng sa mạc mênh mông. Địa thế hiểm trở đó cùng với những phương tiện giao thông hết sức hạn chế thời cổ đại đã làm cho các nền văn minh này xuất hiện và phát triển một cách độc lập. Sự liên hệ buổi đầu hầu như không xảy ra, do đó mỗi nền văn minh đã phát triển một cách độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Về mặt này, Ai Cập là một ví dụ điển hình: Địa hình Ai Cập gần như đóng kín, phía Bắc và phía Đông giáp Địa Trung Hải và Hồng Hải, phía Tây bị bao bọc bởi sa mạc Sahara. Ở Ấn Độ thì hai mặt Đông Nam và Tây Nam đều tiếp giáp với Ấn Độ Dương, phía bắc án ngữ bởi dãy Hymalaya [tức là xứ Tuyết] thành một vòng cung dài 2600km, trong đó có hơn 40 ngọn núi cao trên 7000m như những trụ trời. 2] Cơ sở dân cư: Trên cơ sở những điều kiện tự nhiên như vậy, cư dân ở phương Đông ra đời sớm và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, quá trình hình thành các cộng đồng dân cư ở phương Đông diễn ra rất đa dạng và phức tạp. Cụ thể: -3-
  4. - Ai Cập: Ở lưu vực sông Nile từ thời đồ đá cũ đã có con người sinh sống. người Ai Cập thời cổ là những thổ dân châu Phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc. Do đi lại săn bắn trên lục địa, khi đến vùng thung lũng sông Nile, họ định cư ở đây phát triển nghề nông và nghề chăn nuôi từ rất sớm. Về sau, một chi của bộ tộc Hamites từ Tây Á xâm nhập vùng hạ lưu sông Nile, chinh phục thổ dân người châu Phi ở đây. Trải qua quá trình hỗn hợp lâu dài, người Hamites và thổ dân đã đồng hóa với nhau, hình thành ra một tộc người mới, đó là người Ai Cập. - Lưỡng Hà: Người Sumer từ thiên niên kỉ IV.TCN đã di cư tới đây và sáng lập ra nền văn minh đầu tiên ở lưu vực Lưỡng Hà, chung sống và đồng hóa với người Sumer. Ngoài ra còn rất nhiều bộ lạc thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau ở các vùng xung quanh di cư đến. Trải hàng ngàn năm, qua quá trình lao động, họ đã hòa nhập thành một cộng đồng dân cư ổn định và xây dựng nên nền văn minh rực rỡ ở khu vực Tây Á. - Ấn Độ: Cư dân Ấn Độ đa dạng về tộc người và ngôn ngữ. Có hai chủng tộc chính là người Dravida chủ yếu cư trú ở miền Nam, và người Aria cư trú ở miền Bắc. Ngoài ra còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Arập cũng sinh sống ở đây… - Trung Quốc: Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, từ xa xưa, vùng châu thổ Hoàng Hà đã là quê hương của các bộ tộc Hạ, Thương, Chu. Họ chính là tổ tiên của dân tộc Hán – người sáng tạo ra nền văn minh Hoa Hạ. Phía Tây và Tây Nam là nơi sinh sống của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Hán – Tạng, Môn – Khmer Phía Bắc, Đông Bắc là nơi cư trú của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Tungut. Con cháu của họ sau này là các dân tộc ít người như Mông Cổ [lập ra nhà Nguyên], Mãn [lập ra triều Mãn Thanh], Choang, Ngô, Nhĩ… các dân tộc trên đất này còn rất nhiều dân tộc khác sinh sống, cùng người Hán xây dựng đất nước. 3] Cơ sở kinh tế: - Về kinh tế, các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã hội đang ở trình độ hết sức thấp kém. Với một trình độ sản xuất như vậy không cho phép các quốc gia cổ đại phương Đông phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ của mình một cách thuần thục và điển hình. - Sự phát triển rất yếu ớt chế độ tư hữu ruộng đất và sự tồn tại dai dẳng những tổ chức công xã nông thôn, tàn tích của xã hội thị tộc nguyên thủy có thể coi là những nguyên nhân gây nên tình trạng trì trệ, yếu kém của các nền văn minh cổ đại phương Đông. 4] Cơ sở chính trị-xã hội: - Ở phương Đông ra đời và tồn tại một hình thức nhà nước đặc thù, nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền mà mọi quyền lực đều ở trong tay nhà vua và một bộ máy quan lại cồng kềnh, quan liêu. - Các quốc gia cổ đại phương Đông đã duy trì lâu dài chế độ nô lệ gia trưởng và các hình thức áp bức bóc lột kiểu gia trưởng nên vai trò của nô lệ trong xã hội chưa nổi bật. Chính trên cơ sở như vậy mà nền văn minh phương Đông ra đời và phát triển và cũng -4-
  5. chính các yếu tố đó đã ảnh hưởng, chi phối tạo nên những nét đặc thù của nền văn minh phương Đông. Vấn đề thứ 2 Trình độ sản xuất và chinh phục tự nhiên của các quốc gia phương Đông Trên cơ sở điều kiện tự nhiên thuận lợi, cư dân phương Đông cổ đại đã sớm biết lợi dụng điều kiện tự nhiên để sản xuất, chế tạo công cụ lao động, chinh phục tự nhiên xây dựng những nền văn minh đầu tiên trên thế giới. - Muốn chinh phục được tự nhiên, con người phải có công cụ lao động, bởi công cụ lao động là tiêu chí để đánh giá trình độ sản xuất của một xã hội. Ngay từ thời nguyên thủy con người đã biết chế tạo công cụ lao động, từ những công cụ thô sơ bằng đá, gốm đến những công cụ bằng đồng, sắt… đã cho phép con người tạo ra một năng suất lao động ngày càng cao. Người Ai Cập ngay từ thời Cổ vương quốc đã biết dùng cuốc bằng đá hoặc bằng gỗ để trồng trọt, dùng liềm bằng đá để gặt lúa, dùng trâu bò để đập lúa. Thời Trung vương quốc, người ta đã biết mở rộng các công trình thủy lợi thành một hệ thống rộng lớn với nhiều công dụng khác nhau như điều tiết thủy lượng, dẫn, tháo nước để chống hạn và chống úng… người Ai Cập còn biết xây hồ Mơrit thành một bể chứa nước lớn ăn thông với sông Nile, có khả năng cung cấp nước cho một vùng rộng lớn có thể gieo trông hai vụ trong năm. Ở Lưỡng Hà người ta đã xây dựng một hệ thống đê điều hoàn chỉnh gồm đập nước, mương dẫn… như mạng nhện.Từ đầu thiên niên kỉ II, người Ấn Độ đã biết dùng lưỡi cày bằng đá để cày ruộng.Còn ở Trung Quốc, thời Ân-Thương người ta dùng liềm bằng đá hoặc vỏ ngao để gặt lúa, dùng lưỡi cày bằng gỗ. Sang thời Xuân Thu, người ta đã biết dùng những công cụ bằng sát, có những lò luyện sắt có trên 300 công nhân. Những công cụ bằng kim loại đã cho phép con người nâng cao năng suất lao động. - Bên cạnh việc sáng tạo ra những công cụ lao động, cư dân cổ đại phương Đông cũng đã đạt một trình độ tổ chức sản xuất tương đối cao. Do yêu cầu phải hợp sức với nhau để xây dựng các công trình thủy lợi nên việc tổ chức sản xuất là một công việc rất cần thiết để thống nhất kế hoạch, và tập trung sức sản xuất. Ở Ai Cập vào thời Tân vương quốc, sản xuất đã được chuyên môn hóa và được phân công tỉ mỉ. Có Thừa tướng là [Vidia] chịu trách nhiệm quan sát, điều hành sản xuất nông nghiệp trong toàn quốc. việc tổ chức điều hành sản xuất trong toàn quốc có ý nghĩa sống càn đối với các quốc gia phương Đông cổ đại, bởi vì nền văn minh phương Đông chủ yếu hình thành trên lưu vực của những con sông lớn. Nhà nước đã đứng ra huy động sức người sức của để xây dựng và bảo vệ các công trình thủy lợi. - Các quốc gia cổ đại phương Đông cũng đã biết thuần dưỡng súc vật làm vật nuôi phục vụ sản xuất và cung cấp thực phẩm cho đời sống hằng ngày. - Nhờ quan tâm đến sản xuất nông nghiệp mà trình độ tổ chức sản xuất của nhà nước và công xã nông thôn được nâng cao đem lại hiệu quả đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cư dân. -5-
  6. Trong những ngành thủ công nghiệp người ta cũng đã biết làm đồ gốm, đồ thủy tinh, thuộc da, dệt …. ở Ấn Độ người ta đã biết làm đồ trang sức tinh xảo và chạm trổ trên đá. - Nhờ sản phẩm của nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển đã thúc đẩy việc giao lưu buôn bán với các nước. Từ chổ chỉ dùng vật trung gian để trao đổi, người ta đã biết chế ra tiền bằng đồng và bằng vàng thuận tiện cho việc buôn bán. Việc mở rộng giao lưu buôn bán giữa các quốc gia đã tạo điều kiện để giao lưu văn hóa và thúc đẩy sản xuất làm cho xã hội phương Đông cổ đại phát triển ngày càng cao hơn. Vấn đề thứ 3 Sự ra đời của nhà nước và trình độ quản lý xã hội của các quốc gia phương Đông Nhà nước xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử vào khoảng cuối thiên niên kỉ IV - đầu thiên niên kỉ III.TCN. Những nhà nước cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ … là những nơi có điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nơi mà quá trình phân hóa xã hội, tập trung của cải tư hữu và đấu tranh giai cấp diễn ra sớm nhất. - Do nhu cầu chống chọi với thiên nhiên và tổ chức sản xuất mà các nhà nước phương Đông đã ra đời. Vào nửa sau thiên niên kỉ IV. TCN, cư dân Lưỡng Hà đã bắt đầu xây dựng nhà nước của mình trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ. Mỗi thành thị kết hợp với vùng đất đai phụ cận hợp thành một quốc gia nhỏ. Đứng đầu mỗi quốc gia là một ông vua gọi là Patesi. Patesi lúc đầu do quý tộc bầu ra, về sau trở thành cha truyền con nối. Patesi đại diện cho nhà nước chịu trách nhiệm trước Thần coi sóc các công trình thủy lợi, quản lý kinh tế, chỉ huy đội quân. Ở Sumer, ngoài Patesi còn có hội nghị nhân dân và hội đồng bô lão. Các cơ quan này bầu ra các quan chức của tòa án, và bộ máy hành chính cũng như có quyền tuyên chiến hay hòa hoãn. Ở Ai Cập, nhiều công xã nông thôn liên minh lại thành một liên minh công xã lớn hơn gọi là “nôm” [hay châu], về sau các châu đó hợp nhất lại và phát triển thành nhà nước Ai Cập. Châu là hình thức nhà nước phôi thai, đứng đầu châu là một “nômáccơ” vưa là thủ lĩnh quân sự, một thẩm phán và là một tăng lữ tối cao. Nômáccơ đước coi như một vị thần sống. Dần dần do nhu cầu thống nhất lại thành thượng và hạ Ai Cập, đến cuối thiên niên kỉ IV.TCN thống nhất lại thành quốc gia Ai Cập. Ở Ấn Độ, người Arian ở vùng Tây Bắc đã liên hiệp các bộ lạc lại thành liên minh bộ lạc. Đứng đầu các liên minh bộ lạc có vua [Radjah] mà thực chất là tù trưởng hay thủ lĩnh quân sự, quyền lực chủ yếu vẫn thuộc về đại hội các thành viên nam giới của bộ lạc. Về sau Radjah tập trung quyền lực vào trong tay mình và truyền ngôi cho con cháu. Xung quanh nhà vua có đội ngũ quan lại lo các công việc như chỉ huy quân đội, thu thuế, tế lễ, thủy lợi… Đến vương triều Môria [321-184.TCN], bộ máy nhà nước của Ấn Độ cổ đại tương đối hoàn chỉnh có những đặc trương của một bộ máy nhà nước chuyên chế phương Đông. Vua được tôn sùng như một vị thần sống và được coi như người đại diện cho thần. Dưới nhà vua là hội đồng cơ mật “Parisát” gồm đại biểu của những gia đình quý tộc tiếng tăm nhất. Trong bộ máy nhà nước cồng kềnh, đứng đầu là các thừa Tướng cùng nhiều chức thượng thư trông coi các bộ. Đơn vị hành chính cơ sở ở địa phương là làng. Ấn Độ được chia thành nhiều khu vực -6-
  7. hành chính lớn nhỏ khac nhau, đứng đầu các khu vực hành chính đó là những người trong hoàng tộc hoặc cận thần được nhà vua tin cẩn. Nhà vua cũng có một đội quân hùng hậu gồm đủ các binh chủng như bộ binh, kị binh, tượng binh… Ở Trung Quốc bộ máy nhà nước cũng tiêu biểu cho kiểu nhà nước chuyên chế phương Đông. Nhà Hạ mở đầu cho nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. Đứng đầu nhà nước là nhà vua, dưới là “lục khanh” [6 chức tướng] giúp vua cai trị đất nước. Nhưng nhà nước hoàn chỉnh nhất là vào thời Tây Chu. Vua được coi là thiên tử [con trời], dưới vua là tầng lớp quý tộc quan lại phụ trách các công việc hành chính, quân đội, nông nghiệp… Vua và tước hiệu quý tộc được truyền lại cho con cháu. Như vậy, ở phương Đông cổ đại đã xuất hiện và tồn tại một hình thức nhà nước đặc biệt.Nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, còn gọi là chủ nghĩa chuyên chế phương Đông. Đặc trưng của kiểu nhà nước này là quyền lực vô hạn của nhà vua về thần dân và ruộng đất. Nhà vua đã cùng với bộ máy quan lại tổ chức quản lí xã hội tương đối chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, trong đó hình pháp được đề cao. Việc xuất hiện nhà nước và trình độ tổ chức quản lí xã hội ở phương Đông cổ đại đã góp phần xây dựng nên những nền văn minh rực rỡ ở khu vực này. Vấn đề thứ 4 Những đặc điểm của văn minh phương Đông Văn minh phương Đông rất rộng lớn về quy mô, lãnh thổ, rất đa dạng về màu sắc và có sự tồn tại rất lâu dài về mặt lịch sử. Khái quát cho đúng, cho hết những đặc điểm của văn minh phương Đông quả là một công việc không hề đơn giản, nếu không nói là hết sức khó khăn. Đây là vấn đề phức tạp và còn phải nghiên cứu nhiều. Ở đây chúng tôi mới chỉ tập hợp và nêu lên một số nhận xét bước đầu. 1. Văn minh phương Đông mang đậm tính chất văn minh nông nghiệp, văn minh sông nước. Tính chất nông nghiệp, sông nước là đặc điểm nổi bật nhất, là bản sắc dễ thấy nhất của văn minh phương Đông. Đặc điểm này thuộc về loại hình văn minh: Văn minh phương Đông chủ yếu là văn minh gốc nông nghiệp, trong khi văn minh phương Tây chủ yếu thuộc loại hình gốc du mục và thương nghiệp. Tất nhiên nói như thế không có nghĩa là trong văn minh phương Đông không có các yếu tố du mục và thương nghiệp nhưng nhìn một cách tổng thể thì tính chất nông nghiệp, tính sông nước là nét chủ đạo. a] Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương Đông nói chung đều thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Biểu hiện rõ nhất của các điều kiện này là sự có mặt của những con sông lớn: Sông Nile ở Bắc Phi; sông Tigrơ, sông Ơphơrat ở Tây Á; sông Ấn [Hindus], sông Hằng [Gangga] ở Ấn Độ; sông Hoàng Hà, sông Dương Tử [Trường Giang] ở Trung Quốc; sông Mekong ở bán đảo Trung - Ấn, sông Menam ở Thái Lan, sông Hồng ở Trung Quốc, Việt Nam, v.v. Lưu vực các con sông này tạo ra những đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của phương -7-
  8. Đông và thế giới. Và cũng chính từ các dòng sông ấy đã xuất hiện các nhà nước cổ đại – các nền văn minh phương Đông. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà người ta lại đưa ra các cụm từ như “văn minh sông Nile”, “văn minh sông Hoàng Hà, Trường Giang”, “văn minh sông Ấn-sông Hằng”, v.v. Có thể nói, ngay từ đầu, văn minh phương Đông đã là văn minh nông nghiệp. Và đặc điểm này “đeo đuổi” văn minh phương Đông cho đến tận ngày nay. Như vậy rõ ràng là sản xuất nông nghiệp gắn chặt với các quốc gia phương Đông, và đó là cơ sở tạo ra tính chất nông nghiệp- sông nước của văn minh phương Đông. b] Tính chất nông nghiệp – sông nước được thể hiện ở rất nhiều bình diện văn minh và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn minh phương Đông. Những biểu hiện của tính chất nông nghiệp-sông nước của văn minh phương Đông rất đa dạng. Có thể nêu ra ở đây một vài ví dụ. Trước hết xin nói về văn hoá vật chất liên quan đến những nhu cầu thiết yếu nhất của con người, đó là ăn, mặc, ở, đi lại. Nguồn lương thực chính của người phương Đông chủ yếu là lúa gạo và các loại ngũ cốc do nền sản xuất nông nghiệp tạo ra. Người phương Đông thường ăn cơm với các loại thực phẩm mang tính tự cung tự cấp như rau, cá và một số loại thịt gia cầm. Các loại gia vị, hương liệu như ớt, tiêu, rau thơm, cari, v.v. vốn là sản phẩm của sản xuất nông nghiệp cũng được dùng phổ biến ở nhiều nơi. Cách ăn mặc của cư dân phương Đông cũng phù hợp với công việc sản xuất nông nghiệp: Nói chung mặc ấm về mùa lạnh [hoặc ở xứ lạnh] và mát mẻ về mùa nóng [hoặc ở xứ nóng]; mặc gọn gàng, tiện lợi [khố, váy, v.v.]. Nói chung, trừ một số khu vực dân cư theo loại hình kinh tế du mục nên ở lều di động, đa số cư dân còn lại sống trong một ngôi nhà cố định. Đó có thể là nhà “nửa nổi nửa chìm”, tức là đào sâu xuống lòng đất một chút, hoặc là ngôi nhà sàn tiện lợi về mọi mặt. Trong số các phương tiện đi lại thì thuyền phổ biến ở nhiều nơi, và hình thức di chuyển này ở phương Đông rõ ràng trước hết gắn với sông nước, sau đó mới đến yếu tố thương mại. Tính chất nông nghiệp của văn minh phương Đông còn được biểu hiện ở các tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá dân gian rất độc đáo của cư dân phương Đông. Có thể nói bao trùm lên đời sống cư dân nông nghiệp phương Đông là niềm tin tín ngưỡng và các sinh hoạt văn hoá dân gian như lễ hội... Tín ngưỡng là cội nguồn của lễ hội. Lễ hội vừa là dịp tiến hành các nghi lễ có tính ma thuật để cầu xin thần linh giúp đỡ, xua đuổi tà ma, vừa là dịp để người dân vui chơi giải trí. Trong số các loại tín ngưỡng tồn tại ở phương Đông, phổ biến nhất là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Điều này hoàn toàn có cơ sở bởi sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ở thời kì sơ khai khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển, gần như tất cả đều phụ thuộc vào thiên nhiên, vào ý Trời. Vì vậy, ở khắp nơi, từ Đông Bắc Phi-Tây Á đến lưu vực sông Hoàng Hà rộng lớn v.v. đâu đâu người ta cũng thờ cúng các vị Thần liên quan đến sản xuất nông nghiệp như Thần Mặt trời, Thần Đất, Thần Nước, Thần Lúa, Thần Gió, Thần Sông... Gắn liền với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là hàng loạt các lễ hội nông nghiệp như lễ hội té nước, lễ hội cầu mưa, cầu nắng, hội đua thuyền, lễ tịch điền, lễ hội mừng được mùa... -8-
  9. Nông nghiệp gắn liền với nông thôn. Tính chất nông nghiệp của phương Đông được nảy sinh, nuôi dưỡng và phát triển trong một mô hình xã hội đặc biệt: mô hình làng xã. Các công xã nông thôn, theo cách nói của K. Marx, có ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sống của cư dân nông nghiệp phương Đông. 2. Văn minh phương Đông nặng về tính cộng đồng Trong sản xuất nông nghiệp, các gia đình nông dân cùng canh tác trên một cánh đồng, ruộng đất nhà này tiếp giáp ruộng đất nhà kia. Để có được năng suất, những người nông dân trong làng không thể không liên kết với nhau. Chỉ có đoàn kết con người mới chống được thiên tai. Muốn chống hạn, diệt sâu bọ,... cũng cần sức mạnh của cả làng. Môi trường canh tác mang tính tập thể như thế chính là cơ sở để nảy sinh tính cộng đồng. Đặc trưng này của văn minh phương Đông khiến mỗi người khi hành động luôn luôn phải nghĩ đến cộng đồng, đến tập thể, xã hội. Trong làng, người dân thường tránh những việc làm phương hại đến tập thể. Từ đây nảy sinh quan điểm sống vì tập thể. Vì tập thể, người ta sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân. Cũng vì thế mà người phương Đông thường đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm [trong khi phương Tây thì coi trọng quyền lợi]. Quả thực, trong việc chống chọi với thiên tai, địch hoạ, nếu không có tinh thần trách nhiệm được đề lên thành nghĩa vụ thì không thể có được chiến thắng. Từ tính cộng đồng, từ sự đùm bọc làng xã, sau này truyền thống tốt đẹp ấy phát triển thành tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước phương Đông. Nếu so sánh với văn hoá phương Tây thì cũng thấy một sự khác biệt nhất định. Có thể nói, trong quan hệ ứng xử, phương Tây thiên về cá thể, trọng lí. Điều này có điểm mạnh là phát huy cao độ sức sáng tạo cá nhân, tránh được sự dựa dẫm, ỷ lại. Cũng có người cho rằng, ở phương Đông, tâm thức duy cộng đồng luôn luôn chiếm ưu thế đối với tâm thức duy cá nhân. 3. Hoà đồng, thuận tự nhiên Đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên của văn minh phương Đông thường được đặt trong sự so sánh với đặc điểm chinh phục tự nhiên của văn hoá phương Tây. Văn hoá phương Tây thiên về giải thích, cải tạo thế giới. Tất nhiên nói như trên không có nghĩa là đối lập tuyệt đối giữa văn minh phương Đông và văn minh phương Tây trong vấn đề đối xử với môi trường tự nhiên. Thái độ hoà đồng với tự nhiên của văn minh phương Đông đã được hình thành từ rất lâu và định hình trên cơ sở của những quan niệm về con người trong các học thuyết phương Đông. Theo nhiều tác giả, con người trong quan niệm của tất cả các tôn giáo phương Đông và trong hầu hết các học thuyết triết học phương Đông truyền thống đều không đối lập với giới tự nhiên. Nó luôn luôn được coi là một thành tố, một bộ phận của giới tự nhiên. Có thể cắt nghĩa đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên bằng cơ sở kinh tế – xã hội của phương Đông. Trước hết có thể giải thích bằng nền sản xuất nông nghiệp. Như đã nói ở trên, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Bởi vậy từ trong tâm khảm của người dân, tự nhiên là đấng tối cao. Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả khi thuận theo tự nhiên. -9-
  10. Một trong những biểu hiện của sự thuận theo ấy là tính thời vụ. Có thể nói, kinh nghiệm sống, nói cụ thể hơn là kinh nghiệm sản xuất, đã khiến cư dân nông nghiệp phương Đông phải hành động thuận theo tự nhiên. Trái ý tự nhiên, trái ý Trời sẽ bị trả giá. Không còn cách nào khác, Nhật Bản vẫn phải “sống chung với động đất”, Indonesia phải “sống chung với núi lửa”, Philippines phải “sống chung với bão” còn đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam thì phải chấp nhận “sống chung với lũ” như là một lẽ tự nhiên. Một lí do khác nữa cắt nghĩa cho đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên là ở tổ chức của xã hội truyền thống phương Đông, đó là xã hội nông nghiệp với chế độ công xã nông thôn. Chế độ này, như đã nói, mang lại cho mỗi đơn vị nhỏ bé [làng xã] một cuộc sống cô lập, tách biệt. Công xã tổ chức theo lối gia đình tự cấp, tự túc. Con người bị trói buộc bởi những quy tắc truyền thống, do đó hạn chế sự phát triển của lí trí, từ đó rất dễ trở thành nô lệ của những điều mê tín dị đoan. Những công xã nông thôn phương Đông, do vậy, hạn chế con người ở việc chủ yếu phục tùng những hoàn cảnh bên ngoài, phục tùng tự nhiên chứ không có ý thức và năng lực làm chủ hoàn cảnh, chinh phục tự nhiên. Đây cũng chính là lí do để chế độ chuyên chế phương Đông tồn tại và phát triển. 4. Văn minh phương Đông hướng nội và khép kín Cuộc sống nông nghiệp luôn luôn cần một sự ổn định. Người dân thường rất sợ những điều xảy ra bất thường. Lối sống hài hoà với tự nhiên, tình cảm với mọi người, suy cho cùng, cũng là nhằm đạt tới sự ổn định. Từ đây xuất hiện phương thức sống hướng nội và khép kín. Sống trong các công xã nông thôn cô lập, tách biệt, xét ở một góc độ nào đó, tính tự trị đồng nghĩa với hướng nội và khép kín. Trong xã hội phong kiến, mô hình làng xã “kín cổng cao tường” cùng với những thiết chế xã hội ngặt nghèo của nó càng làm cho “tầm nhìn” của cư dân nông nghiệp không vượt khỏi “lũy tre làng”. Nền nông nghiệp tự cấp tự túc chỉ tạo ra được những sản phẩm vừa đủ để lưu thông trong phạm vi “chợ làng”, không trở thành hàng hoá thương nghiệp của nền kinh tế thị trường kiểu phương Tây. Đó cũng là hướng nội, khép kín. Lối sống hướng nội và khép kín không thể tạo ra sự phát triển đột biến. Có lẽ đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân làm cho chế độ phong kiến phương Đông kéo dài sự trì trệ nhiều thế kỉ. Trái với phương Đông, phương Tây hướng ngoại và cởi mở. Điều này cũng dễ hiểu. Ở đó nền kinh tế thương mại và du mục buộc người ta phải năng động, phải đi tìm thị trường ở bên ngoài và mở rộng quan hệ. Vấn đề thứ 5 Lịch sử hình thành các nền văn minh phương Đông 1. Phương Đông là nơi có điều kiện tự nhiên phong phú và đa dạng. Vì vậy, ngay từ khi có xã hội loài người, nơi đây đã từng là khu vực sinh tồn của bầy người nguyên thuỷ. Rồi theo sự phát triển của lịch sử, ở phương Đông dần dần xuất hiện công xã thị tộc, bộ lạc và sau đó là các - 10 -
  11. nhà nước. Ngày nay các nhà khoa học đã khẳng định một cách chắc chắn rằng phương Đông là nơi xuất hiện những nhà nước chiếm hữu nô lệ tối cổ. Các nhà nước ấy chính là các nền văn minh. Người ta thường nói đến bốn nền văn minh Phương Đông: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Và có một nét đặc biệt là những nhà nước gắn liền với các nền văn minh phương Đông thường xuất hiện trên lưu vực những dòng sông lớn từ bờ biển phía đông Địa Trung Hải đến bờ biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương: Lưu vực sông Nin ở Ai Cập; lưu vực Lưỡng Hà tạo bởi sông Tigrơ [Tigre] và Ơphơrat [Euphrate] cùng chảy ra vịnh Persi; lưu vực đồng bằng Bắc Ấn Độ tạo bởi sông Ấn [Hindus] và sông Hằng [Gangga]; và lưu vực hai con sông lớn Hoàng Hà và Dương Tử [Trường Giang] tạo ra vùng đồng bằng Hoa Bắc và Hoa Trung màu mỡ. Phân lập các lưu vực rộng lớn nói trên là những hệ thống núi non trùng điệp và những sa mạc mênh mông: sa mạc Arập ở đông Ai Cập, dãy núi Zagrôt ở phía đông Lưỡng Hà, dãy Himalaya và cao nguyên Pamir ở bắc và đông bắc Ấn Độ, rồi vùng sa mạc Nội Mông, Ngoại Mông ở Bắc và Tây Bắc Trung Hoa. Địa thế hiểm trở cùng với những phương tiện giao thông hết sức hạn chế thời đó đã làm cho các nền văn minh cổ đại phương Đông xuất hiện và phát triển một cách tương đối độc lập, vì vậy mỗi nền văn minh có tính chất độc đáo riêng và mang dấu ấn dân tộc đậm đà. Nói chung, các lưu vực sông ở phương Đông nói trên đều tạo thành những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu, rất phù hợp với sự phát triển của nông nghiệp. Ở đây, điều kiện tự nhiên thuận lợi: thuỷ lượng cao, khí hậu ấm áp, đất đai màu mỡ, dễ canh tác. Chính vì vậy cư dân các khu vực nói trên đã sớm gắn bó với việc sản xuất nông nghiệp, nhất là nghề trồng lúa nước. Bên cạnh trồng trọt, các gia đình còn chăn nuôi gia súc và gia cầm, một số làm các nghề thủ công như sản xuất nông cụ, dệt vải, làm đồ gốm, v.v. Tuy nhiên nghề thủ công phương Đông chỉ có tính chất bổ trợ cho nền kinh tế khép kín của làng xã, không phát triển thành kinh tế hàng hoá thị trường. Như vậy là kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo của các quốc gia phương Đông. 2. Phương Đông bước vào xã hội chiếm hữu nô lệ – xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử phát triển của nhân loại – tương đối sớm. Điều này cũng dễ hiểu. Như trên đã nói, nông nghiệp ở phương Đông ra đời sớm và giữ vai trò chủ đạo. Khi nông nghiệp phát triển thì tổ chức xã hội cũng phát triển, dẫn đến việc xã hội sớm phân hoá thành giai cấp và hệ quả là nhà nước sớm ra đời. Thời gian xuất hiện nhà nước phương Đông cổ đại sớm nhất [dưới hình thức nhà nước chiếm hữu nô lệ] là vào khoảng thế kỉ thứ IV TCN. Dĩ nhiên các nhà nước chiếm hữu nô lệ không ra đời cùng một lúc và cũng không chấm dứt cùng một lúc. Ra đời sớm nhất là nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Ai Cập và Lưỡng Hà [thế kỉ thứ IV TCN], sau đó mới đến các nhà nước ở khu vực sông Ấn, sông Hằng và Hoàng Hà, Dương Tử [thế kỉ thứ III TCN]. Về sự “lụi tàn” của các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông cũng tương tự. Nếu như đế quốc Ba Tư ở vùng Trung Cận Đông sụp đổ ngay từ thế kỉ thứ IV TCN thì nhà nước cổ đại Ấn Độ còn kéo dài mãi đến tận những thế kỉ đầu công nguyên. Các nhà nước cổ đại phương Đông không chỉ có những đặc trưng chung của một xã hội chiếm hữu nô lệ mà còn có những đặc điểm riêng mang màu sắc phương Đông, như sau. - 11 -
  12. - Do các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã hội đang còn ở trình độ thấp kém, tức là ở giai đoạn cuối của thời đại đồ đá mới, nên xã hội chiếm hữu nô lệ không thể phát triển nhanh chóng, khiến các quốc gia đó, nói chung, không trở thành những xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển thành thục và điển hình. - Sự tồn tại dai dẳng và ngoan cố của các tổ chức công xã nông thôn, tàn tích của xã hội thị tộc thời nguyên thuỷ, và sự phát triển rất yếu ớt của chế độ tư hữu về ruộng đất trong các xã hội cổ đại phương Đông. - Sự bảo tồn lâu dài của chế độ nô lệ gia trưởng và của các hình thức áp bức, bóc lột kiểu gia trưởng, việc sử dụng lao động của nô lệ chưa được phổ cập trong các ngành sản xuất xã hội và vai trò của nô lệ trong sản xuất kinh tế chưa chiếm vị trí chủ đạo. Nô lệ phương Đông không phải là lực lượng chính làm ra của cải vật chất. Tuyệt đại đa số nô lệ được sử dụng để hầu hạ, phục dịch trong các gia đình quan lại, chủ nô quyền quý. Điều này cũng dễ hiểu bởi ở các quốc gia nông nghiệp phương Đông, nhà nước bóc lột nông dân là chính, bằng chế độ lao dịch, thuế khoá. - Sự xuất hiện và phát triển mạnh của một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt - nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền – gọi là chủ nghĩa chuyên chế phương Đông. Các quốc gia phương Đông sở dĩ thiết lập được thiết chế chính trị này bởi vua các nước đó nắm được quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và về thần dân trong cả nước. Có thể nói khắp dưới gầm trời không đâu không phải đất nhà vua, khắp dưới mặt đất không đâu không phải thần dân của nhà vua. Do nắm được tư liệu sản xuất là toàn bộ ruộng đất nên các nhà vua đã dùng nó để ràng buộc các thần dân và nắm trọn quyền chính trị. Một lí do nữa về sự tồn tại của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền là yêu cầu của việc trị thuỷ, đắp đê phòng lụt, bảo vệ mùa màng. Nhu cầu này đòi hỏi phải tập trung quyền lực vào trung ương để có thể huy động được sức người sức của, nhân tài vật lực. Ngoài ra các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông còn phải tiến hành các cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi hoặc bảo vệ lãnh thổ của mình, do đó cũng cần phải tập trung quyền lực vào tay trung ương để huy động lực lượng vật chất và tinh thần. Tóm lại, với bộ máy bạo lực to lớn, với việc đề cao đến mức thần thánh hoá nhà vua, các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông đã phục vụ đắc lực cho giai cấp chủ nô, bảo vệ quyền lợi và tài sản của giai cấp thống trị, đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nông dân, giữ vững địa vị thống trị của chủ nô. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông đã làm nòng cốt cho nhân dân xây dựng, phát triển được những nền văn hoá đa dạng, độc đáo, với nhiều thành tựu rực rỡ về chữ viết, văn học nghệ thuật, khoa học tự nhiên, triết học, v.v. và hàng loạt những công trình văn hoá vật chất đồ sộ vẫn sống mãi với thời gian. Những thành tựu văn hoá rực rỡ ấy đã làm cho các quốc gia cổ đại phương Đông trở thành những trung tâm của các nền văn minh thế giới cổ đại. 3. Vào những năm cuối cùng TCN hoặc những năm đầu công nguyên, nhìn chung các quốc gia phương Đông đều kết thúc chế độ nô lệ và lần lượt chuyển sang xã hội phong kiến. Vào thời kì trung đại, nền kinh tế chủ yếu của các nhà nước phong kiến phương Đông vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Trong xã hội phong kiến, giai cấp phong kiến quý - 12 -
  13. tộc và sau này thêm tầng lớp địa chủ, là giai cấp nắm tư liệu sản xuất, nắm ruộng đất nên là giai cấp thống trị. Giai cấp bị trị là nông dân. Ở phương Đông, khi kinh tế phong kiến là điền trang thái ấp thì nông dân chịu thân phận nông nô còn khi kinh tế phong kiến chuyển sang hình thức địa chủ thì nông dân trở thành tá điền. Trong các nhà nước phong kiến phương Đông, nhà nước phong kiến Trung Hoa là một điển hình. Đặc trưng của kiểu nhà nước này là có một chính thể quân chủ chuyên chế tập quyền cao độ, hoàn hảo. Dưới chế độ phong kiến, vua là người nắm trong tay toàn bộ quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vua được mệnh danh là Thiên tử. Và bộ máy nhà nước do vua đứng đầu có một uy quyền vô cùng to lớn. Trong lịch sử, chế độ phong kiến phương Đông tồn tại dai dẳng: khoảng 20 thế kỉ [tính từ đầu công nguyên đến những năm đầu của thế kỉ XX]. Thời điểm bắt đầu suy thoái của của các nhà nước phong kiến phương Đông có thể tính từ thế kỉ XVI-XVII trở đi. Vào thời điểm đó, giai cấp phong kiến phương Đông trở nên phản động, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Các nhà nước phong kiến phương Đông vẫn duy trì tình trạng kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bóp chết những mầm mống của nền kinh tế hàng hoá và những quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa các nhà nước còn thi hành chính sách bế quan toả cảng, đóng cửa, không giao lưu với thế giới bên ngoài. Trong khi đó thì cũng đúng vào thời điểm ấy, các nước phương Tây tiến hành cách mạng tư sản, xác lập chủ nghĩa tư bản và tiến hành xâm lược các nước nhằm mở rộng thị trường mà đối tượng được chúng “để mắt đến” chính là các quốc gia phương Đông. Khi cuộc chiến tranh xâm lược của phương Tây nổ ra, giai cấp phong kiến phương Đông nói chung đều nhân nhượng, thoả hiệp và đầu hàng. Do vậy từ thế kỉ XVI đến XIX, trừ Nhật Bản, tất cả các nước phương Đông đều bị biến thành nước nửa thuộc địa hoặc thuộc địa của các nước tư bản phương Tây. Nhìn chung, trong chế độ phong kiến, các nền văn minh phương Đông vẫn toả sáng. Những “chiếc nôi” văn hoá cổ đại phương Đông vẫn có sức lan toả mạnh mẽ ra các khu vực xung quanh: Nhiều yếu tố văn minh Ấn Độ được truyền bá sang Đông Nam Á, Tây Tạng, Bắc Á, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới; văn minh Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nhật Bản, Korea, Việt Nam và các nước khác; Văn hoá Ai Cập-Lưỡng Hà mặc dù tồn tại không lâu song những thành tựu của nó không chỉ có ảnh hưởng trong khu vực mà còn toả sáng ra các khu vực khác của thế giới, v.v. Cùng với sự lan toả của các nền văn hoá cổ đại là sự xuất hiện của các nền văn hoá mới như Arập, Nhật Bản, Korea, v.v. Bức tranh văn minh phương Đông, do vậy càng phong phú, đa dạng, nhiều sắc vẻ. Thêm nữa, vừa đấu tranh chống lại sự đô hộ của chủ nghĩa tư bản phương Tây, các dân tộc phương Đông vừa tiếp thu những yếu tố văn minh mới, tiến bộ từ phương Tây để làm giàu cho văn minh của dân tộc mình. Văn minh phương Đông từ đây càng ngày càng phát triển đa dạng và phong phu. Vấn đề thứ 6 Những hạn chế của nề văn minh phương Đông - 13 -
  14. Văn minh phương Đông, như đã nói ở trên ở trên, có nhiều thành tựu vĩ đại. Tuy nhiên văn minh phương Đông không phải không có những hạn chế nhất định.Các hạn chế của văn minh phương Đông, suy cho cùng, chủ yếu do đời sống nông nghiệp chi phối. 1 .Văn minh gốc nông nghiệp mang tính làng xã của phương Đông đã tạo ra những hạn chế. Nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp với tính tự trị làng xã buộc mỗi cá nhân, mỗi gia đình phải tự làm ăn, tự lo liệu cuộc sống của mình. Do khoa học kĩ thuật chưa phát triển, sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên nên người dân thường chỉ đủ ăn, đủ mặc. Đó là cơ sở tạo ra tính tư hữu, tính ích kỉ, gắn với nó là tâm lí sợ người khác hơn mình. Họ dễ bì tị, đố kị với những người giàu có, với những người có cuộc sống dư dả hơn mình. Hơn nữa tính cộng đồng làng xã lại có mặt trái là dễ tạo ra thứ chủ nghĩa tập thể bình quân, lối sống ỷ lại, dựa dẫm, cam phận trong cái tôi nhỏ bé của mình, làm cản trở tính sáng tạo của mỗi cá nhân. Chính vì lối sống ấy mà ý thức cá nhân trong mỗi con người không phát huy mạnh mẽ để trở thành ý thức sáng tạo. Người ta không nghĩ hay không dám hướng đến một cung cách làm ăn khác hơn để cải tiến cuộc sống đơn sơ, thiếu thốn của mình, và cam chịu, chấp nhận nó như một điều tất yếu. Họ bằng lòng với cuộc sống theo cách thức sản xuất mà ông cha để lại, không dám đi xa, mạo hiểm vì cả đời chỉ quen với làng xã và mảnh ruộng cỏn con của mình. Thêm nữa lối sống nông nghiệp còn tạo ra cho người nông dân tính cách lề mề, tuỳ tiện và sự yếu kém về tính tổ chức. Nền sản xuất nông nghiệp vốn ít có những đòi hỏi khắt khe về thời gian, người ta không phải lo cạnh tranh gay gắt, không bị ai thúc ép. Vì thế nên khi bước vào xã hội hiện đại với yêu cầu phát triển công nghiệp thì tính cách tuỳ tiện, thiếu kỉ luật, thiếu tính tổ chức mới bộc lộ tất cả những yếu kém của nó. Đó là mặt hạn chế cơ bản của con người nông nghiệp phương Đông trong sự so sánh với con người phương Tây vốn quen tác phong nhanh nhẹn, chính xác và làm việc hết mình. Tư tưởng cục bộ địa phương cũng là một hạn chế của con người nông nghiệp quen sống trong cộng đồng làng xã mình mà ít mở rộng hiểu biết, giao tiếp ở phạm vi rộng hơn, xa hơn. Tâm lí “người cùng làng” trong phạm vi cộng đồng có thể dễ đố kị nhau nhưng khi ra ngoài làng thì họ lại bênh vực cho những người cùng làng xã mình, hay có thể từ một việc va chạm nhỏ nhưng nếu động đến làng thì cả làng sẵn sàng kéo nhau ra bảo vệ làng mình một cách cực đoan bất kể tốt, xấu, phải, trái. 2. Như đã phân tích ở trên, xã hội nông nghiệp với chế độ công xã nông thôn cô lập, tách biệt, cộng với những xiềng xích nô lệ của các quy tắc hà khắc cổ truyền “đã làm hạn chế lí trí của con người trong những khuôn khổ chật hẹp và trở thành công cụ ngoan ngoãn của mê tín. Những công xã này chủ yếu làm cho con người phục tùng những hoàn cảnh bên ngoài chứ không nâng con người lên địa vị làm chủ những hoàn cảnh ấy”. Xã hội phương Đông, vì vậy, mang tính chất thụ động, quân bình, ít thay đổi. Tình trạng tĩnh tại, trì trệ của xã hội phương Đông kéo dài đến tận mươi năm đầu của thế kỉ XIX. Và đó chính là cơ sở để chế độ chuyên chế phương Đông tồn tại quá dai dẳng, làm cản trở sự phát triển của xã hội. Lối tư duy thiên về trực giác của phương Đông, ít óc duy lí, phân tích, mổ xẻ cũng phần - 14 -
  15. nào làm cho khoa học kĩ thuật không phát triển mạnh được như phương Tây. Những phát kiến về khoa học – kĩ thuật của phương Đông trước đây chủ yếu gắn với sản xuất, nảy sinh từ sản xuất.Trên một ý nghĩa nào đấy, đó cũng là một hạn chế của văn minh phương Đông. 3 Phương Đông đã có những tấm gương sáng về sự phát triển vượt trội: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,... Trong số những bài học có thể rút ra được từ các quốc gia nói trên có bài học về giữ gìn bản sắc ưu việt của văn hoá truyền thống, loại bỏ những yếu tố văn hoá lạc hậu, lỗi thời, hạn chế do nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu gắn liền với công xã nông thôn quy định, và tiếp thu những yếu tố văn hoá mới, tiên tiến của phương Tây. Nói cách khác, đồng thời với việc bảo tồn và phát huy những thành quả, những yếu tố tích cực xây dựng một nền văn minh công nghiệp [và hậu công nghiệp] tiên tiến cho sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và toàn khu vực. Vấn đề thứ 7 Những thành tựu của văn minh phương Đông [1] Những thành tựu về chữ viết-văn học: 1. Ai Cập: + Ở giai đoạn đầu văn học mang đậm tính tôn giáo như ca ngợi các thần, miêu tả nghi lễ thờ cúng và tang lễ. Đến thời Tân và Trung Vương quốc, văn học đã phản ánh những mâu thuẫn xã hội, phê phán bọn quan lại và nói lên nỗi khổ của những người lao động. - Tiêu biểu là các tác phẩm: “Truyện kể của Lpouer”, “Truyện Sinouhé” [Xinuhê], tập truyện “Người nông phu biết nói những điều hay” phê phán tầng lớp quan lại ức hiếp người dân và sự khốn khổ của những người lao động. - Thơ ca trữ tình: Các bài thơ ca ngợi tình yêu, và sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên được tập hợp trong cuốn “Papyrus Haris 500”. - Văn học mang tính chất triết lí: Tiêu biểu là cuốn “Đối thoại một người thất vọng với linh hồn của mình”, nói đến sự suy sụp của người Ai Cập trước sự đổ vỡ của các giá trị truyền thống, tâm trạng chán đời. + Văn học Ai Cập đã có những bước tiến khá rõ rệt, từ những tác phẩm thô sơ mang tính chất tôn giáo, đến chỗ xuất hiện nhiều tác phẩm với nhiều thể loại, phản ánh tình hình xã hội, thể hiện sức sáng tạo kì diệu cỉa người Ai Cập cổ đại. 2. Lưỡng Hà: + Chữ viết Chữ viết ở Lưỡng Hà xuất hiện từ khá sớm. Người Sumer sáng tạo ra chữ tượng hình vào khoảng đầu TNK III.TCN. Đầu tiên người Sumer dùng những hình vẽ về sau là những nét vạch hợp lại thành ý. Họ dùng một thanh gỗ hay sậy nhỏ, vót nhọn một đầu, ấn trên phiên đất mềm tạo thành một đầu nhọn, đáy bằng, trở ngược thanh gỗ vạch một đường thẳng, trông như mũi tên hay chiếc đinh. Một số chiếc đinh này tập hợp lại thành từ. Chữ viết của người Lưỡng Hà được viết trên đất sét, mỗi tấm đất sét là một trang sách. - 15 -
  16. Chữ có hình như những góc nhọn, nên thường được gọi là chữ hình góc nhọn, chữ hình nêm hay chữ tiết hình. Rất nhiều dân tộc ở Tây Á thời cổ đại đã dùng loại chữ viết này để ghi lại sinh hoạt kinh tế, xã hội và những diễn biến chính trị thời đó. Vì vậy, có thể coi chữ viết của người Sumer phát minh ra là nguồn gốc của nhiều chữ viết khác của người Akkad, Babylone, Hittiles, Assyria, Ba Tư. + Văn học: Văn học Lưỡng Hà phong phú về nội dung và thể loại, với nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Các thể loại văn học chính là văn học dân gian, thơ và anh hùng ca. Nội dung thường gắn liền với tín ngưỡng và phản ánh đời sống thường ngày của người lao động. Điển hình nhất là hai trường ca: Anuma Elit và Gilgamesh. - Trường ca Anuma Elit ca ngợi sự sáng tạo của vũ trụ, một khối hỗn mang thuở ban đầu, từ đó sinh ra con người và muôn vật trên trên mặt đất. - Trường ca Gilgamesh ca ngợi tinh thần anh dũng của những nhân vật có thật được thần thánh hóa, phản ánh với mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Đó là nhữnh cuộc đấu tranh quyết liệt trước sự tàn phá của thác lũ, hạn hán và thú dữ để bảo vệ đời sống yên lành của cư dân. * Văn học Ả rập: + Văn xuôi: - Kinh Koran không chỉ là kinh thánh của các tín đồ Hồi giáo mà còn là một tác phẩm văn học đồ sộ, ảnh hưởng sâu sắc đến ngôn ngữ, và văn hóa Hồi giáo. Kinh Koran đã làm cho ngôn ngữ Arập thống nhất, bảo tồn, và được truyền bá rộng rãi trong các nước theo Hồi giáo. Đạo Hồi truyền bá tới đâu kinh Koran và ngôn ngữ Arập cũng được truyền tới đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu văn hóa, giữa các quốc gia. Kinh Koran được xem như một bộ sách giáo khoa, là cuốn sách học tiếng Arập. Đạo Hồi quy định tín đồ ở bất kỳ nơi đâu khi đọc kinh cũng đều phải đọc bằng tiếng Arập, vì vậy ngôn ngữ Arập được bảo tồn và duy trì sức sống cho tới tận ngày nay. Ngoài ra kinh Koran còn chứa đựng nhiều truyền thuyết, những câu chuyện lịch sử, phản ánh sinh động bộ mặt xã hội lúc bấy giờ, là những tư liệu lịch sử, và nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao thế hệ nhà thơ, nhà văn sáng tác ra những tác phẩm bất hủ, làm phong phú thêm cho nền văn học Arập. - Nghìn lẻ một đêm, tác phẩm vĩ đại nhất của nền văn học Arập, là một trong những công trình sáng tạo đồ sộ và tuyệt diệu của nền văn họcthế giới. Đay là câu chuyện dân gian bao gồm nhiều chuyện nhỏ nối tiếp nhau có từ lâu đời ở miền đông đế quốc của các hoàng đế Arập thời cổ, được bổ sung qua nhiều thế kỷ và được phổ biến rộng rãi ở trong nước cũng như thế giới. Tập truyện phản ánh phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt của giai cấp thống trị và ước nguyện của nhân dân, thể hiện sức tưởng tượng phong phú và óc sáng tạo tuyệt vời của nhân dan Arập. - Arập còn có tập “ngụ ngôn” cũng rất nổi tiếng. Tập truyện này vốn của Ấn Độ, được truyền sang Ba Tư từ khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ VIII, sau đó được dịch sang tiếng Arập và - 16 -
  17. phổ biến toàn thế giới. + Về thơ ca cũng có rất nhiều các tác giả và tác phẩm tiêu biểu. - Nhà thơ Abu Tamman, giữa thế kỷ IX đã sưu tập và hiệu đính tác phẩm “Anh dũng ca” 2 tập bao gồm tác phẩm của hơn 500 thi sĩ Arập cổ đại. - Đến thế kỷ X, Abu Lơ Faraj lại soạn một tuyển tập thơ lớn gần 20 cuốn, lấy tên là “Thi ca tập” bao gồm rất nhiều thơ ca của các tác giả trước đó. 3. Ấn Độ: + Ngôn ngữ và chữ viết: Ấn Độ có rất nhiều ngôn ngữ, những ngôn ngữ chính được biểu đạt bằng hệ thống chữ viết riêng. Chữ viết đầu tiên của Ấn Độ dưới dạng đồ họa có từ thời Harappa. Sau đó xuất hiện chữ cổ Brahma, chữ Phạn [Sanskrit], chữ Pali … Nhiều loại ngôn ngữ đang lưu hành hiện nay ở Ấn Độ như Hindi, Benga, Urdu … là biến thái của ngôn ngữ Phạn. + Chữ viết đã chuyển tải được một nền văn chương Ấn đầy sắc thái, một kho tàng văn hóa vô cùng phong phú bao gồm các bộ kinh Hindu và kinh Phật, Sử thi, kịch và thơ ca trữ tình. Hai viên ngọc quý nhất trong kho tàng văn học Ấn Độ là hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana. - Mahabharata là bản trường ca gồm 110.000 khổ thơ [220.000 câu]. Chủ đề của bộ sử thi nói về cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền bắc Ấn Độ. Mahabharata được coi là một bộ [bách khoa toàn thư] của Ấn Độ. - Ramayana dài 48.000 câu thơ là thiên tình sử đầy trắc trở giữa hoàng tử Rama tuấn tú và nàng công chúa kiều diễm Sita. Thông qua câu chuyện tình đó, bộ sử thi phản ánh những ngành nghề, việc làm ăn sinh sống, phong tục cưới xin, quan niệm của người Ấn Độ về con người, cha con, vợ chồng, anh em, lòng chung thủy và đức tính trung nghĩa ở đời. - Nhà thơ- nhà viết kịch Kalidasa sống vào thế kỉ IV thời vương triều Gúpta, ông là tác giả của tác phẩm văn học trữ tình nỗi tiếng Sacuntala. Tác phẩm phỏng theo một câu chuyện dân gian trong sử thi Mahabharata, mô tả cuộc tình duyên trắc trở của Sacuntala và nhà vua Dusianta. Mối tình tuyệt đẹp đã sinh ra Bharata vị thủy tổ của nhân dân Ấn Độ. Tuy chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn nhưng Kalidasa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối của giai cấp thống trị. - Ngoài ra văn học Ấn Độ còn xuất hiện nhiều tác phẩm viết bằng nhiều loại phương ngữ khác nhau. 4. Trung Quốc: a. Chữ viết: + Văn tự đầu tiên của người Trung Quốc là văn tự kết thừng. Đến thiên niên kỉ II.TCN, người Ân Thương đã viết lên mai rùa, xương thú gọi là giáp cốt văn. Ngoài ra còn có chữ được khắc trên đồ vật [Ân khư khư thế], chữ khắc trên đá [Thạch cổ văn], chữ khắc hay đúc trên đồng [Kim văn], chữ trên chuông đỉnh [Chung đỉnh văn]. So với Giáp cốt văn, Kim văn không khác biệt về bản chất, nhưng chữ ngay ngắn, vuông vắn, thành hàng lối rõ rệt và nhiều chữ phức tạp hơn. - 17 -
  18. + Đến nhà Tần, chữ viết được chỉnh lí, đơn giản và cải tiến … khuôn trong hinh vuông gọi là chữ Tiểu triện. Đây là lần thống nhất quan trọng cơ bản đầu tiên trong lịch sử phát triển chữ viết của Trung Quốc … ra đời từ thiên niên kỉ thứ II.TCN, chữ viết Trung Quốc là hệ chữ viết duy nhất hiện còn được sử dụng. b. Văn học: + Thơ: - Kinh thi: là tập thơ cổ nhất do nhiều tác giả sáng tác từ đầu Xuân Thu đến giữa Tây Chu [khoảng 500 năm] gồm 3 phần: Phong, Nhã, Tụng, trong đó Phong chiếm số lượng nhiều nhất và cũng có giá trị cao nhất. Kinh thi đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Trung Quốc sau này. - Thơ Đường: Thơ Đường là đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc, nó trở nên vô giá bởi nội dung và giá trị nghệ thuật tuyệt vời của mình. Hiện nay còn lại khoảng 48.000 bài thơ của 2300 tác giả. Các tác giả nỗi tiếng như Lí Bạch [701-762] đã để lại trên 1200 bài, Đỗ Phủ [712-770] khoảng 1400 bài, Bạch Cư Dị [772-846] khoảng 2800 bài … + Tiểu thuyết Minh-Thanh: Thời Minh - Thanh đã để lại cho hậu thế một số lượng lớn tiểu thuyết chương hồi phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Có các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân … Từ đầu nhà Thanh tới cuối thời vua Càn Long là thời kì tiểu thuyết cực thịnh. Các tác phẩm tiêu biểu như Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần… Trong đó Hồng lâu mộng là tiểu thuyết có giá trị nhất, là một kiệt tác của nhân loại. c. Sử học: Người Trung Quốc có ý thức cao về lịch sử và rất giàu kinh nghiệm trong việc biên soạn sử, vì vậy sử học nước này rất phát triển. - Người tiêu biểu cho nền sử học Trung Quốc là Tư Mã Thiên [sinh năm 135 hay 145.TCN], ông là người đầu tiên trên thế giới chép sử bằng thể kí. Tác phẩm tiêu biểu là Sử kí, bộ sử đồ sộ nhất của nhân loại, gồm 5265000 chữ được Lỗ Tấn ca ngợi “Lời hát tuyệt vời của các sử gia, thiên Li tao không vần”. - Ban Cố thời Đông Hán là người mở đầu cho cách viết sử theo triều đại [tác phẩm Hán thư], sau đó có Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp… - Tư Mã Quang và nhiều tác giả khác cùng biên soạn tác phẩm Tư trị thông giám theo thể biên niên, tổng cộng có 354 cuốn [kể cả 30 cuốn mục lục]. - Thời Minh -Thanh còn có các bộ “Minh sử”, “Tứ khố toàn thư”… Các bộ sách trên đều là những di sản văn hóa vô giá của nhân dân Trung Quốc. [2] Tôn giáo và tư tưởng phương Đông 1. Ai Cập: + Tôn giáo của người Ai Cập rất phong phú, gồm nhiều hệ thần linh địa phương hỗn dung với nhau. Ban đầu mỗi vùng thờ những vị thần của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên, linh hồn người chết... + Đến thời kì thống nhất quốc gia, ngoài việc thời cúng các thần riêng của từng địa - 18 -
  19. phương, còn xuất hiện những vị thần chung. Người Ai Cập thờ thần Ra [Thần mặt trời], thần Ptah [thần sáng tạo vũ trụ và con người], thần Amon [thần đem lại sức mạnh cho vương quốc và Pharaon], thần Osiris [được coi là thần Nông nghiệp, thần sông Nile], thần Montou [thần chim ưng], Sobek [thần Cá sấu]... + Người Ai Cập tin linh hồn bắt tử, nên việc chôn cất thi hài gắn liền với quan niệm hồn và xác. Khi chết, linh hồn tuy thoát ra ngoài nhưng vẫn còn tìm chỗ dựa ở nơi xác, vì vậy khi con người cần phải giữ lại xác. Việc xây dựng các Kim tự tháp [các lăng mộ của nhà vua] và kĩ thuật ướp xác bắt nguồn từ quan niệm trên. 2. Lưỡng Hà: - Trong thời kỳ đầu, người Lưỡng Hà theo đa thần giáo. Họ tôn sùng những lực lượng tự nhiên, coi đó là những lực lượng thống trị cuộc sống của mình. Người Lưỡng Hà thờ thần Anu, Eaua, thần Enlin... ngoài các thần chủ, người Lưỡng Hà còn tôn thờ nhiều thần khác như thần trồng trọt, thần chăn nuôi và các hiện tượng tự nhiên như thần Samat [thần Mặt trời]. Thần Istaro [thần Ái tình]... người ta tin rằng thần Mẹ [Inana] còn là thần bảo hộ nông nghiệp, thần của sinh nở, thần Ea [thần Biển] còn dạy cho người ta biêt nghề thủ công, nghệ thuật, khoa học, thần Tamuz [thần Nước] được coi như vị thần dạy bảo cư dân trông trọt, làm nghề thủ công và là vị thần của lòng nhân ái, bảo vệ mùa màng... - Cùng với sự xác lập quyền lực tối cao, trong toàn Lưỡng Hà của Hammourabi, thần Mardouk đã trở thành vị thần tối cao trong toàn quốc, bản thân nhà vua cũng được thần thánh hóa, thay mặt thần Mardouk cai trị muôn dân. - Người ta xây dựng nhiều đền miếu thờ thần và tiến hành nhiều nghi lễ phức tạp. Việc xây dựng đền miếu đã trở thành gánh nặng đối với quần chúng. Nhân dân đã bị tập đoàn tăng lữ nô dịch về tinh thần và bóc lột về kinh tế. Tập đoàn tăng lữ của Babylone rất cồng kềnh, có đến hơn 30 đẳng cấp. * Đạo Hồi của Arập: - Đạo hồi, tiếng Arập là Islam, có nghĩa là phục tùng, tuân theo thánh Allah tối cao và duy nhất, tuân theo vị sứ giả của thánh Allah là Muhammad. Những tư tưởng chính trị của đạo Hồi nằm trong kinh Koran gồm 30 quyển, 114 chương, 6236 tiết. Các tín đồ Hồi giáo coi kinh Koran như một vật linh thiêng, thần thánh. Trong kinh Koran luân lí và pháp luật, thế tục và tôn giáo là một, mọi giới luật đều do thánh Allah ban ra, đó là quy tắc cho mọi hành vi, từ lễ giáo đến hôn nhân, từ các hoạt động kĩ nghệ, thương mại đến chính trị, di chúc, chiến tranh và hòa bình... Những hiểu biết về y, dược và cách chữa trị một số bệnh cũng thấy nói đến trong kinh Koran. - Kinh Koran gọi tín ngưỡng của đạo Hồi là lman là chỉ tất cả những tín điều của thánh Allah do nhà tiên tri Muhammad truyền đạt lại. Đạo Hồi có 6 tín ngưỡng lớn gọi là Lục tín’ Tin chân thánh: tức là tin rằng ngoài thánh Allah không còn vị thần nào khác, thánh Allah là duy nhất, là độc nhất. Đây là hạt nhân cơ bản nhất của tín ngưỡng của đạo Hồi. Tin thiên sứ: Theo kinh Koran thì có rất nhiều thiên sứ, mỗi thiên sứ cai quản một công việc. Thiên sứ do Allah sáng tạo ra từ ánh sáng, để theo dõi, ghi chép tất cả mọi hành vi thiện, - 19 -
  20. ác, tốt, xấu của con người. Tín kinh điển: Tức là tin rằng kinh Koran là bộ kinh Thần thánh do đâng Allah khải thị cho nhà tiên tri Muhammad, từ đó xây dựng uy quyền tuyệt đối của kinh Koran đối với các tín đồ. Tín sứ giả: Muhammad là sứ giả và nhà tiên tri của thánh Allah, được phái xuống để thực hiện những sứ mệnh do Allah ủy thác, vì vậy mọi tín đồ phải tôn sùng. Tín tiên định: Các tín đồ Hồi giáo tin rằng, số phận con người do thánh Allah an bài, con người không có cách gì cưỡng lại được. Đó là định mệnh. Tín kiếp sau: Các tín đồ Hồi giáo tin rằng, sau khi chết, con người có thể sống lại và chịu sự phán xét của thánh Allah vào ngày tận thế. - Về nghĩa vụ của tín đồ, đạo Hồi quy định: Phải có đức tin kiên định và chỉ thừa nhận chỉ có thánh Allah còn Muhammad là sứ giả và là vị tiên tri [Nêbi] cuối cùng. Hàng ngày phải cầu nguyện 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Khi cầu nguyện phải hướng về Mecca. Thứ sáu hàng tuần phải đến thánh thất làm lễ. Hàng năm đến tháng Ramadan phải trai giới một tháng. Trong tháng này, từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, các tín đồ tuyệt đối không được ăn uồng, hút thuốc... nhưng những người già, người bệnh, trẻ em dưới 10 tuổi, phụ nữ có thai thì được miễn. 3. Ấn Độ: - Bàlamôn giáo ra đời vào những thế kỉ đầu thiên niên kỉ I.TCN do sự phát triển của xã hội có giai cấp và sự bất bình đẳng về đẳng cấp. Là một tôn giáo đa thần, cao nhất là thần Brama, vị thần sáng tạo thế giới. Ngoài thần Brama còn có thần Visnu, Siva … nội dung quan trọng trong giáo lí của Bàlamôn giáo là thuyết luân hồi. Về mặt xã hội, Bàlamôn giáo là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ. Bàlamôn được truyền bá rộng rãi trong nhiều thế kỉ, đến thế kỉ VI.TCN bị suy thoái do sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phât. - Khoảng thế kỉ VII, đạo Phật bị suy sụp, nhân đó đạo Bàlamôn phục hồi và phát triển. Đến khoảng thế kit VIII-IX, Bàlamôn giáo được bổ sung thêm nhiều yếu tố về đối tưựong sùng bái, kinh điển và nghi thức… từ đây Bàlamôn giáo được gọi là Hinđu giáo [Ấn Độ giáo]. Đối tượng sùng bái chủ yếu của Hinđu giáo vẫn là ba thần Brama, Visnu, Siva. Các loài động vật như rắn, hổ, khỉ, bò, cá sấu… cũng được Hinđu giáo coi là các thần và rất được tôn sùng, Giáo lí của Hinđu giáo được thể hiện trong các bộ kinh Vêđa, Upanisad và các sử thi Mahabharata, Ramayana, Bhagavad…. - Phật giáo: Ra đời vào cuối thiên niên kỉ I.TCN, Siddharata Gautama là người sáng lập. Nội dung chủ yếu của Phật giáo là chỉ ra chân lí về nguyên nhân cảu các nổi khổ ở đời và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy. Chân lí về nỗi đau và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ đó được thể hiện trong “Tứ diệu đế”. Khổ đế là chân lí về các nỗi khổ. Tập đế là chân lí về nguyên nhân của các nỗi khổ. Diệt đế là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ. Đạo đế là chân lí về con đường diệt khổ [Bát chính đạo]. Về mặt thế giới quan nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết “duyên khởi”. - 20 -

tìm hiểu về nền văn minh phương Đông cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [199.78 KB, 21 trang ]

MỞ ĐẦU
Nói đến lịch sử văn minh nhân loại, người ta thường nghĩ đến những giá trị to lớn
mà loài người đã đạt được trong thời đại ngày nay. Nhưng chúng ta cần phải nhìn nhận lại
quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, ngay từ rất sớm - thời cổ đại, loài người
đã bước vào xã hội văn minh của mình, chính khu vực phương Đông chứ không phải là
khu vực nào khác, những thành tựu văn minh rực rỡ đầu tiên của lịch sử nhân loại đã được
hình thành và phát triển rực rỡ.
Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực bao phủ toàn
bộ châu Á và phần Đông Bắc châu Phi. Mặc dù khái niệm Đông phương học [Oriental
Studies] xuất phát từ phương Tây song vai trò của Đông phương học nói chung, văn minh
phương Đông nói riêng càng ngày càng được giới khoa học thế giới khẳng định và quan
tâm. Ngày nay, xét trên nhiều góc độ như lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá,... phương
Đông chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nói đến phương Đông, người ta không thể
không nhắc đến những nền văn hoá - văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ,
Arập, Trung Hoa, không thể không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo và
hàng loạt tín ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông. Nói đến phương Đông, người ta
cũng nhắc ngay đến các đại ngữ hệ như Nam Á, Nam đảo, Hán - Tạng, Thái - Kađai,
Antai...; đến những công trình văn hoá kì vĩ như Ăngco Vát, Vạn lí trường thành,
Borobudur, các kim tự tháp Ai Cập... Và, từ góc nhìn văn hoá - văn minh hiện đại, phương
Đông còn làm cho thế giới ngạc nhiên về “sự thần kì Nhật Bản”, về hàng loạt các con rồng
châu Á như Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,... Tóm lại, phương Đông là một
khu vực văn hoá-văn minh có “bản sắc” riêng cả về phương diện truyền thống lẫn hiện đại.
Vì vậy, tìm hiểu về nền văn minh phương Đông cổ đại có một ý nghĩa to lớn, giúp
chúng ta hiểu rõ bản sắc văn hóa truyền thống cũng như sự phát triển của lịch sử khu vực
này. Ngoài ra, nó còn mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình hội nhập của
khu vực nói chung và đất nước nói riêng trong thời đại ngày nay.

NỘI DUNG
1.Văn minh phương Đông được hình thành gắn liền với các dòng sông lớn:
Một đặc điểm mà chúng ta dễ dàng nhận thấy đối với nền văn minh phương Đông
thời cổ đại, như văn minh Ai Cập, văn minh Ấn Độ, văn minh Trung Quốc, văn minh


Lưỡng Hà… tất cả đều hình thành trên lưu vực các con sông lớn.
Trong các nền văn minh trên thế giới, văn minh Ai Cập được hình thành sớm nhất.
Văn minh Ai Cập gắn liền với cư dân sống ở hai bên bờ sông Nil. Sông Nil hay được Việt
hóa thành sông Nin, là dòng sông thuộc châu Phi, một con sông dài nhất thế giới, với chiều
dài 6.650 km và đổ nước vào Địa Trung Hải, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài 700km.
Miền đất đai do sống Nil bồi đắp chỉ rộng 15-25 km, phía Bắc có nơi rộng 50 km vì ở đây
sông Nil chia thành nhiều nhánh trước khi đổ ra biển. Đây là dòng sông có ảnh hưởng nhất
ở châu Phi, gắn liền với sự hình thành, phát triển và lụi tàn của nhiều vương quốc cổ đại,
góp phần tạo dựng nên nền Văn minh sông Nin.
Sông Nil có hai nhánh chính, quan trọng nhất là sông Nil Trắng và sông Nil Xanh. Sông
Nil trắng bắt nguồn từ hồ Victoria nằm giữa Uganda , Kenya và Tanzania. Sông Nil Xanh
bắt nguồn từ Hồ Tana trên vùng cao nguyên của Ethiopia. Dòng Nil Xanh chảy được
khoảng 1.400 km [850 dặm] tới Khartoum thì hai dòng Nil Xanh và Nil Trắng gặp nhau,
hợp lưu tạo nên sông Nil. Phần lớn nguồn nước của sông Nil được cung cấp từ Ethiopia,
khoảng 80-85%, nhưng chỉ về mùa hè khi những cơn mưa lớn đổ xuống vùng này. Sông
Nil với nguồn nước dồi dào đã tạo nên vùng thung lũng trù phú nhất "lục địa đen". Nó đã
góp phần rất lớn tới sự hình thành nền văn minh Ai Cập cổ đại, với những kim tự tháp kỳ
vĩ. Sông Nil đã ảnh hưởng lớn tới nền văn hoá Ai Cập cổ ngay từ thời đại đồ đá, khi mà sa
mạc Sahara đang ngày càng xâm lấn sang phía Đông của lục địa châu Phi. Sông Nin bắt
nguồn từ hồ Victoria ở khu vực xích đạo có mưa quanh năm nên lượng mưa khá lớn. Tới
Khác-tum sông Nin nhận thêm nước từ phụ lưu Nin Xanh ở khu vực cận xích đạo, lưu
lượng trở nên rất lớn, mùa nước lũ lên tới 90.000 m³/s; đến biên giới Ai Cập mặc dù sông
Nin chảy giữa miền hoang mạc và không nhận được thêm phụ lưu nào nữa, nước sông vừa
ngấm xuống đất, vừa bốc hơi mạnh, gần biển lưu lượng nước giảm nhiều nhưng ở Cai-rô
[Ai Cập] về mùa cạn lưu lượng vẫn còn 700 m³/s. Phần hạ lưu sông Nil rộng lớn, giống
như hình tam giác dài 700 km, hai bên bờ sông rộng từ 10 dến 50 km tạo thành một vùng
sinh thái ngập nước và bán ngập nước - một đồng bằng phì nhiêu với động thực vật đa
dạng và đông đúc. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 11, nước lũ sông Nil dâng lên làm tràn
ngập cả khu đồng bằng rộng lớn và bồi đắp một lượng phù sa khổng lồ, màu mỡ. Các loại
thực vật chủ yếu như: đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen,... sinh sôi nảy nở quanh năm. Ai

Cập cũng có một quần thể động vật đa dạng và phong phú, mang đặc điểm đồng bằng-sa
mạc như voi, hươu cao cổ, sư tử, trâu, bò, các loài cá, chim, ...
Tất cả các điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã góp phần hình thành nền văn minh Ai Cập sớm
nhất. Các ngành nghề như đánh bắt cá, nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp
đều phát triển ngay từ 3.000 năm trước Công nguyên. Đặc biệt, các di sản kiến trúc đồ sộ
và đạt đến một trình độ vươn lên tầm kỳ quan của thế giới như: các kim tự tháp, các kiệt
tác về hội hoạ, điêu khắc và nghệ thuật ướp xác...Cũng chính vì vậy, nhà sử học Hy Lạp
Hê-rô-đốt đã nói rằng: “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nil”
Giống như văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà cũng được hình thành gắn liền với hai
con sông Euphrates ở phía Đông và Tigris ở phía Tây. Cả hai sông này đều bắt nguồn từ
miền rừng núi Armenia chảy qua lãnh thổ Iraq ngày nay rồi đổ ra vịnh Ba Tư [Péc-xích].
Lưỡng Hà là tên gọi của một vùng địa lý và của một nền văn minh ở nơi gồm lãnh thổ
Iraq, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, và tây nam Iran hiện đại. Tên gốc của nó xuất
phát từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “giữa” và “sông”, để chỉ hai vùng châu thổ sông
Euphrates và sông Tigris cũng như vùng đất nằm giữa chúng.
Tigris là con sông phía đông thuộc hai con sông lớn phân định nền văn minh Lưỡng Hà,
cùng với sông Euphrates [dài 2800km]. Tigris chảy từ các khu vực núi của Thổ Nhĩ Kỳ
qua Iraq. Sông Tigris dài khoảng 2000 km, bắt nguồn từ Dãy núi Taurus phía đông Thổ
Nhĩ Kỳ và chảy theo hướng đông nam đên khi nhập vào Euphrates gần Al Qurna ở phía
nam Iraq. Hai sông cùng nhau tạo ra đường thủy Shatt al-Arab chảy vào Vịnh Ba Tư. Sông
Tigris có nhiều nhánh, bao gồm Diyala và thượng và hạ lưu của các sông Zab. Thủ đô
Baghdad của Iraq nằm hai bờ của Tigris. Thành phố cảng Basra nằm ở tuyến đường thủy
Shatt al-Arab. Trong thời kỳ cổ đại, nhiều thành phố của nền văn minh Lưỡng Hà nằm hai
bên hoặc gần sông Tigris, những cư dân thời đó là lấy nước sông này để tưới nước cho
những khu vực nông nghiệp của người Sumeria. Các thành phổ đáng chú ý bên sông Tigris
có Nineveh, Ctesiphon, và Seleucia, còn thành phố Lagash lấy nước từ Tigris qua một con
kênh từ khoảng năm 2400 TCN. Sông Tigris từ lâu đã là một con đường vận tải quan trọng
ở quốc gia phần lớn là sa mạc này. Việc buôn bán qua con sông này đã giảm sút tầm quan
trọng của nó trong thế kỷ 20 khi tuyến đường sắt và đường bộ đã thay thế đường thủy.
Hằng năm, vào mùa xuân, băng tuyết vùng rừng núi Armenia tan ra, nước đổ vào hai con

sông, làm cho mực nước dâng cao gây nên lũ lụt làm ngập cả một vung rộng lớn. Nhưng
chính nhờ những trận lũ lụt ấy, đất đai ở khu vực này liên tục được phù sa bồi đắp và trở
nên màu mỡ. Lượng phù sa ở đây nhiều đến nỗi, qua mấy nghìn năm, cả một vùng biển
rộng lớn của khu vực này đã trở thành đồng bằng, bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gần
200km. Cũng vì vậy, hai dòng sông Tigris và Ephrates vốn đổ ra biển bằng hai cữa sông
khác nhau đã nhập lại thành một trước khi ra đến biển. Chính nhờ có đất đai phì nhiêu như
vậy, nên cũng như Ai Cập cổ đại, khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ, kinh tế ở đây
vẫn có điều kiện phát triển; do đó đã sớm bước vào xã hội văn minh.
Nền văn minh Ấn Độ được hình thành từ khá sớm, có nguồn gốc từ nền Văn hóa
Harappa và Mohenjo Daro, gọi theo địa danh của một trong những nơi khai quật chính là
một nền văn minh thời Cổ đại phát triển vào khoảng thời gian từ năm 2.800 TCN đến năm
1.800 TCN dọc theo sông Ấn nằm về phía tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ.
Lịch sử hình thành nền văn minh Ấn Độ cũng gắn liền với sông Ấn và sông Hằng.
Sông Hằng, con sông quan trọng nhất của tiểu lục địa Ấn Độ. Sông Hằng dài
2510km bắt nguồn từ dãy Hymalaya của Bắc Trung Bộ Ấn Độ, chảy theo hướng Đông
Nam qua Bangladesh và chảy vào Vịnh Bengal. Tên của sông được đặt theo tên vị nữ thần
Hindu Ganga. Sông Hằng có lưu vực rộng 907.000 km2, một trong những khu vực phì
nhiều và có mật độ dân cao nhất thế giới. Sông Hằng được tạo thành bởi hai con sông đầu
nguồn là sông Bhagirathi và sông Alaknanda ở dãy núi Himalaya của bang Uttaranchal
thuộc Ấn Độ. Nguồn nước thường được mọi người thừa nhận là Bhagirathi, một con sông
bắt nguồn từ một động băng tại độ cao 4000m và là con sông nhỏ hơn trong hai chi lưu của
sông Hằng. Sông Alaknanda bắt nguồn từ khu vực nằm dưới đỉnh Nanda Devi gần biên
giới Tây Tạng. Được tạo thành từ những khối băng tuyết tan ra từ các địa điểm như
Gangotri và các đỉnh như Nanda Devi và Kamet, hai sông nhánh này chảy về phía Nam
qua trung độ Haymalaya đến nơi hội tụ của chúng để tạo nên sông Hằng. Sau khi chảy hơn
200 km [125 dặm], sông Hằng đến thành phố Haridwar, nơi nó xẻ dọc Dãy núi Siwalik và
bắt đầu chảy theo hướng nhìn chung là Đông-Nam qua Đồng bằng sông Hằng. Tại
Haridwar, một con đập đã chuyển hướng nước đến Kênh thượng lưu sông Hằng. Giữa
Haridwar và Allahabad, một khoảng cách gần 800km [500 dặm], sông Hằng theo một
đường ngoằn ngoèo và không thể lưu thông bằng tàu thuyền được do có nhiều chỗ nông và

thác ghềnh. Tại Allahabad, sông Hằng được sông Yamuna chảy từ Tây Nam nhập vào, sau
đó sông Hằng chảy theo hướng Đông qua các thành phố Mirzapur, Varanasi, Patna, và
Bhagalpur gần biên giới với Bangladesh. Tại đoạn này, sông Hằng cũng nhận được nước
đổ thêm vào từ sông Son từ phía Nam, sông Gumti, sông Ghaghra, sông Gandak, và sông
Kosi từ phía Bắc. Qua Bhagalpur, sông chạy quanh dãy đồi Rajmahal tại biên giới
Bangladesh. Ở đây, qua hướng Nam là Đồng bằng châu thổ sông Hằng, cách Allahabad
khoảng 900 km về phía thượng lưu và cách Vịnh Bengal 450 km về phía hạ lưu. Gần
Pakaur, Ấn Độ, sông Hằng chia nhánh. Nhánh Bhagirathi chảy về hướng Nam để tạo nên
sông Hugli, là nhánh cực Tây của đồng bằng châu thổ, cũng như là kênh vận chuyển
đường thủy chính của khu vực đồng bằng này. Các tàu biển có thể chạy vào Hugli từ cửa
sông Hằng ở Vịnh Bengal đến thành phố Kolkata nằm cách cửa sông khoảng 130 km phía
thượng lưu. Nhánh chính của sông Hằng tiếp tục chảy qua Bangladesh, nơi có đoạn nó
được gọi là sông Padma. Sông Hằng đã tạo ra nhiều nhánh sông tạo thành một mạng lưới
đường thủy cũng như tạo ra một trong những đồng bằng châu thổ rộng lớn và phì nhiêu
nhất thế giới. Dòng chính của sông Hằng tiếp tục chảy theo hướng Nam và được nhận
thêm nước từ sông Brahmaputra đổ vào và tiếp nữa là từ sông Meghna [tên mà kể từ đoạn
này nó được gọi] trước khi đổ vào Vịnh Bengal. Tại Vịnh Bengal, cửa sông Meghna có bề
rộng 30km. Lưu lượng nước hàng năm của sông Hằng chỉ xếp sau sông Amazon và sông
Congo. Do sông Hằng mang theo trong mình lượng phù sa lớn nên vùng đồng bằng châu
thổ do nó tạo ra ngày càng tiếp tục được mở rộng. Lưu vực sông Hằng là khu vực đông dân
nhất, sản xuất nông nghiệp lớn nhất và rộng lớn nhất ở Ấn Độ. Ở châu Á, chỉ có vùng Bình
nguyên Hoa Bắc của Trung Quốc là có mật độ dân cư tương tự ở lưu vực này. Ở phần phía
Tây của đồng bằng sông Hằng, con sông này cung cấp nước tưới và một hệt thống kênh
rạch chằng chịt với các kênh huyết mạch chính là Kênh Thượng lưu sông Hằng và Kênh
Hạ lưu sông Hằng. Các loại lương thực và hoa màu trồng trọt và thu hoạch ở khu vực này
có: lúa, mía đường, đậu lăng, hạt có dầu, khoai tây và lúa mỳ. Hầu như cả khu vực đồng
bằng sông Hằng đã bị khai hoang hết rừng cây và cỏ để phục vụ cho nông nghiệp. Thông
thường, hai bên bờ sông Hằng có các vùng đầm lầy và các hồ nước. Ở các khu vực đầm
lầy và các khu vực ao hồ này, người ta trồng rau, lúa, ớt, cây mù tạc, vừng [mè] và cây
đay. Một số khu vực khác có rừng đước và có cá sấu sinh sống. Do sông Hằng được cấp

nước từ các đỉnh núi phủ băng tuyết, lượng nước của nó vẫn giữ mức cao quanh năm và
dòng sông vẫn được sử dụng làm thủy lợi thậm chí vào mùa khô và nóng từ tháng 4 đến
tháng 6. Vào mùa mưa mùa Hè, lượng mưa lớn có thể gây lũ lụt hoành hành, đặc biệt là
vùng đồng bằng châu thổ.
Sông Ấn Độ gọi tắt là Sông Ấn [Sindh darya], còn được biết đến như là Sindhu trong
tiếng Phạn, Sinthos trong tiếng Hy Lạp, và Sindus trong tiếng Latinh, là một con sông
chính của Pakistan. Trước khi diễn ra sự chia cắt Ấn Độ thành các quốc gia ngày nay là Ấn
Độ và Pakistan năm 1947 thì sông Ấn là con sông lớn thứ hai sau sông Hằng khi xét về
khía cạnh tầm quan trọng văn hóa và thương mại của khu vực, và nó là nguồn gốc của tên
gọi của Ấn Độ. Con sông này bắt nguồn từ Tây Tạng, chảy từ dãy núi Himalaya theo
hướng đông bắc-tây nam qua Kashmir, và sau đó chảy theo hướng nam gần như theo toàn
bộ đường chiều dài biên giới của Pakistan với Ấn Độ nhưng sâu trong lãnh thổ của
Pakistan. Chiều dài của sông này được tính toán theo các nguồn khác nhau dao động từ
2.900 đến 3.200 km. Nền văn minh lưu vực sông Ấn có một số điểm định cư dân kiểu đô
thị sớm nhất thế giới. Thượng nguồn của sông Ấn nằm ở Tây Tạng; nó bắt đầu ở chỗ hợp
lưu của hai sông là sông Sengge và sông Gar là các con sông tiêu nước cho các dãy núi
Nganglong Kangri và Gangdise Shan. Sông Ấn sau đó chảy theo hướng đông bắc-tây nam
tới Gilgit-Baltistan ở phía nam của dãy núi Karakoram, sau đó dần dần chuyển hướng theo
hướng nam, ra khỏi các vùng núi ở đoạn giữa Peshawar và Rawalpindi. Nó bị đắp đập
ngăn nước ở khu vực này, tạo ra hồ chứa nước Tarbela. Phần còn lại trên hành trình của nó
ra tới biển là các khu vực đồng bằng của Punjab và Sind, và dòng chảy của nó bị chậm đi
rất nhiều. Nó nối với sông Panjnad tại Mithankot. Chảy qua Hyderabad, nó kết thúc tại khu
vực đồng bằng châu thổ lớn ở phía đông nam Karachi. Sông Ấn là một trong số rất ít sông
trên trên thế giới có hiện tượng sóng cồn khi thủy triều dâng. Sông Ấn, theo lưu lượng, là
"sông ngoại lai lớn nhất [dòng chảy chính của nó không chảy qua quốc gia mà nó mang
tên] trên thế giới”. Nền văn minh thung lũng sông Ấn là một trong bốn nền văn minh của
thế giới cổ đại, ba nền văn minh cổ đại khác là nền văn minh Lưỡng Hà [Mesopotamia],
nền văn minh Ai Cập cổ đại và nền văn minh Trung Hoa. Các đô thị chính của nền văn
minh thung lũng sông Ấn, chẳng hạn như Harappa và Mohenjo Daro đã ra đời vào khoảng
năm 3000 TCN, và là hiện thân của những khu vực con người cư trú lớn nhất trong thế giới

cổ đại.
Ngoài ra, điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ có nét rất đặt biệt: miền Bắc có nhiều sông ngoài
và miền Nam lắm rừng nhiều núi, có núi cao và rừng già bí hiểm lại có hai dải bờ biển dài
vào loại nhất trên thế giới, có sa mạc nóng cháy lại có mưa theo gió mùa. Thật lài một
thiên nhiên, vừa đóng kín vừa cởi mở, vừa là một tiểu lục địa thống nhất; cách biệt với bên
ngoài, vừa chia cắt và khác nhau bên trong, vừa hùng vĩ lại vừa cực kì đa dạng. Với điều
kiện thiên nhiên như vậy, cùng với sự bồi đắp của sông Ấn và sông Hằng đã hình thành
nên hai đồng bằng màu mỡ cho miền Bắc Ấn Độ. Vì vậy, nơi đây từ rất sớm đã trở thành
một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại.
Nếu như văn minh Ấn Độ gắn liền với sông Ấn và sông Hằng thì văn minh Trung Quốc đã
được hình thành trên lưu vực sông Trường Giang và sông Hoàng Hà. Trung Quốc có hàng
ngàn con sông lớn nhỏ, nhưng có hai con sông quan trọng nhất là sông Hoàng Hà và sông
Trường Giang [hay sông Dương Tử]. Hai con sông này đều chảy theo hướng tây-đông và
hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc.
Hoàng Hà, nghĩa là “sông màu vàng”, là con sông dài thứ hai ở Trung Quốc với chiều dài
5.464 km sau sông Dương Tử. Cũng như các tên gọi khác có nguồn gốc từ Trung Quốc,
tiếng Việt gọi sông này là sông Hoàng Hà, tuy nhiên về mặt ngữ nghĩa có vẻ không chính
xác vì Hà đã có nghĩa là sông còn Hoàng chỉ màu vàng của nước sông này.
Hoàng Hà bắt nguồn từ dãy núi Côn Lôn ở phía tây bắc tỉnh Thanh Hải, từ độ cao 4.500m
trong vùng lòng chảo Yekuzonglie nằm ở phía bắc của dãy núi Bayankara [hay Ba Nhan
Khách Lạp] trên cao nguyên Thanh Tạng. Từ đầu nguồn của nó, con sông chảy theo hướng
nam, sau đó tạo ra một chỗ uốn cong về hướng đông nam và sau đó lại chảy theo hướng
nam một lần nữa cho đến khi tới thành phố Lan Châu, thủ phủ của tỉnh Cam Túc, là nơi mà
điểm uốn cong lớn về phía bắc, bắt đầu. Con sông chảy về phía bắc qua Khu tự trị dân tộc
Hồi Ninh Hạ tới khu tự trị Nội Mông, đoạn cong này gọi là Hà Sáo. Sau đó con sông này
lại đổi hướng, chảy gần như thẳng về phía nam, tạo ra ranh giới của hai tỉnh Thiểm Tây và
Sơn Tây. Khoảng 130 km về phía đông bắc của thành phố Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm
Tây, Hoàng Hà lại đổi hướng để chảy về phía đông. Nó chảy tới những vùng đất trũng ven
biển ở miền đông Trung Quốc gần thành phố Khai Phong và chảy qua chúng về phía cửa
sông của nó theo hướng đông bắc. Nó tưới tiêu cho một khu vực rộng 944.970 km vuông

[364.417 dặm vuông], nhưng do tính chất khô cằn chủ đạo của vùng này [không giống như
phần phía đông thuộc Hà Nam và Sơn Đông] nên lưu lượng nước của nó tương đối nhỏ.
Tính theo lưu lượng nó chỉ bằng 1/15 của sông Trường Giang và 1/5 của sông Châu Giang,
mặc dù khu vực tưới tiêu của con sông cuối [Châu Giang] chưa bằng một nửa của Hoàng
Hà. Trong lịch sử hàng ngàn năm của Trung Quốc, Hoàng Hà vừa đem lại lợi ích vừa đem
lại tai họa cho người dân, vì thế nó còn được coi là “Niềm kiêu hãnh của Trung Quốc” và
“Nỗi buồn của Trung Quốc”. Các ghi chép chỉ ra rằng, từ năm 602 đến ngày nay, con sông
này đã ít nhất 5 lần đổi dòng và các con đê bao bọc đã vỡ không dưới 1.500 lần. Lần thay
đổi dòng năm 1194 đã phá vỡ hệ thống tưới tiêu của sông Hoài trong gần 700 năm sau.
Phù sa Hoàng Hà đã ngăn chặn dòng chảy của sông Hoài và làm hàng ngàn người mất nhà
ở. Mỗi lần đổi dòng nó khi thì đổ ra biển Hoàng Hải, khi thì ra vịnh Bột Hải. Hoàng Hà có
dòng chảy như ngày nay từ năm 1897 sau lần đổi dòng cuối cùng năm 1855.
Hiện tại Hoàng Hà chảy qua Tế Nam, thủ phủ của tỉnh Sơn Đông và đổ ra biển Bột Hải
[vịnh Bột Hải]. Màu nước vàng của con sông là do phù sa mà nó mang theo. Hàng thế kỷ
của việc bồi đắp và sự bao bọc của các con đê đã làm con sông này chảy ở độ cao lớn hơn
so với đất nông nghiệp hai bên bờ, làm cho việc ngập lụt trở nên nguy hiểm hơn. Ngập lụt
của Hoàng Hà đã gây ra sự chết chóc khủng khiếp trong lịch sử. Mặc dù vậy, sau khi nước
lũ rút đi, nó đã để lại một khối lượng phù sa khổng lồ, tạo nên đồng bằng phì nhiêu, thuận
lợi cho cư dân quần cư để sinh sống. Đôi khi người ta còn gọi nó là Trọc Lưu, nghĩa là
dòng nước đục. Thành ngữ Trung Quốc "Khi nước Hoàng Hà trong" ám chỉ điều không
bao giờ xảy ra.
Sông Dương Tử, còn có tên gọi phổ biến hơn là Trường Giang, là con sông dài nhất châu
Á. Sông Trường Giang dài khoảng 6.300 km, bắt nguồn từ phía tây Trung Quốc - tỉnh
[Thanh Hải] và chảy về phía đông đổ ra Đông Hải, Trung Quốc. Thông thường sông này
được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa bắc và Hoa nam Trung Quốc, mặc dù
sông Hoài cũng đôi khi được coi như vậy. Tên gọi Dương Tử nguyên thủy là tên gọi của
người dân khu vực hạ lưu sông này để chỉ khúc sông chảy qua đó. Vì được phổ biến qua
những nhà nhà truyền giáo châu Âu nên tên “Dương Tử” đã được dùng trong tiếng Anh
để chỉ cả con sông [Yangtse, Yangtze Kiang]. Con sông này đôi khi còn được gọi là Thủy
lộ Vàng [Golden Waterway]. Ngoài ra, con sông này mang nhiều tên khác nhau tùy theo

khu vực mà nó chảy qua. Ở cao nguyên Thanh Tạng, Tây Tạng, nó được gọi là Vbri-chu.
Ở thượng nguồn, thuộc tỉnh Thanh Hải nó được gọi là Đà Đà Hà, Đương Khúc Hà,
Thông Thiên Hà. Đoạn từ Thanh Hải chảy đến Nghi Tân tỉnh Tứ Xuyên được gọi là Kim
Sa Giang. Đoạn từ Nghi Tân đến Nghi Xương được gọi là Xuyên Giang . Đoạn từ Nghi
Đô tỉnh Hồ Bắc đến Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam được gọi là Kinh Giang [xưa là đất Kinh
Châu]. Cuối cùng, khi chảy qua khu vực Dương Châu tỉnh Giang Tô nó được gọi là
Dương Tử Giang. Trường Giang là con sông lớn nhất của Trung Quốc về chiều dài,
lượng nước chảy, diện tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế. Trường Giang bắt nguồn từ
vùng cao nguyên tỉnh Thanh Hải, chảy về hướng nam, dọc theo ranh giới cao nguyên Tây
Tạng vào địa phận tỉnh Vân Nam, sau đó rẽ sang hướng đông bắc vào tỉnh Tứ Xuyên, qua
các tỉnh Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy và Giang Tô rồi đổ ra biển ở giữa Hoàng Hải và
Đông Hải. Sông Trường Giang là đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc. Nó nối
liền Trung Hoa lục địa với bờ biển. Việc vận chuyển trên sông rất đa dạng từ vận chuyển
than, hàng hóa tiêu dùng và hành khách. Các chuyến tàu thủy trên sông trong vài ngày sẽ
đưa ta qua các khu vực có phong cảnh đẹp như khu vực Tam Hiệp ngày càng trở nên phổ
thông hơn làm cho du lịch Trung Quốc phát triển.
Hoàng Hà và Trường Giang từ xưa thường gây ra nhiều lũ lụt, nhưng qua đó đã
bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi
công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành cái nôi của nền
văn minh Trung Quốc…
Ngoài ra, nền Văn minh sông Hồng của Việt Nam ở thời cổ đại cũng được hình
thành trên lưu vực các con sông như: sông Hồng, sông Mã.
Như vậy, những trung tâm văn minh lớn của phương Đông cổ đại, mặc dù thời gian
xuất hiện có khác nhau nhưng cùng có chung đặc điểm vô cùng quan trọng, đó là hình
thành trên lưu vực các con sông lớn.
2.Văn minh cổ đại phương Đông được hình thành trên nền nông nghiệp lúa nước

Với những điều kiện vô cùng thuận lợi, đó là: thuỷ lượng cao, khí hậu ấm áp, đất đai
màu mỡ, dễ canh tác. Cho nên, ngay từ rất sớm, cư dân phương Đông đã bước vào nền văn
minh nông nghiệp, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp lúa nước. Nền kinh tế phương Đông

mang nặng tính chất tự nhiên, nông nghiệp chủ đạo. Do đặc điểm của tự nhiên ở vùng sông
nước, cho nên có rất nhiều đồng bằng màu mỡ, phì nhiêu, có nguồn nước dồi dào do các
con sông lớn cung cấp...Do đó, nền kinh tế phương Đông có những đặc thù riêng, kinh tế
tự nhiên chiếm địa vị thống trị. Hoạt động kinh tế chủ đạo là nông nghiệp, qui mô sản xuất
nhỏ, gắn liền với công tác thủy lợi. Vì nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính của phương
Đông nên tư liệu sản xuất chính là ruộng đất. Không chỉ trong thời kỳ cổ đại mà trong suốt
chiều dài lịch sử của các quốc gia phương Đông, vấn đề ruộng đất luôn là một vấn đề hết
sức quan trọng. Kinh tế công thương ở phương Đông có phát triển nhưng rất yếu ớt, chỉ là
một hoạt động kinh tế phụ hay kinh tế thứ yếu trong các gia đình nông dân. Sự phân công
chuyên môn hóa giữa các ngành chưa diễn ra một cách sâu sắc, vì năng suất lao động thấp
kém, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, công cụ lao động thô sơ. Những sản phẩm của nền kinh tế
phương Đông thì rất đơn điệu, chủ yếu là nông sản, lương thực thực phẩm và các nhu yếu
phẩm cần thiết khác.
Bên cạnh nông nghiệp và luôn luôn đi cùng với nông nghiệp, cư dân phương Đông
còn thể hiện trình độ văn minh của mình thông qua công cuộc chinh phục tự nhiên, đặc
biệt là trong công tác trị thủy và làm thủy lợi. Điều kiện tự nhiên của phương Đông vô
cùng thuận lợi đối với nền kinh tế nông nghiệp nhưng nó cũng đặt ra không ít những khó
khăn, thách thức. Vì vậy, để có được cuộc sống ổn định lâu dài, cư dân phương Đông trong
quan hệ ứng xử với thiên nhiên, phương Đông không chỉ nghiêng về hoà đồng, thuận tự
nhiên mà họ còn tìm cách từng bước chinh phục tự nhiên để phục cho cuộc sống của mình.
Một trong những điều kiện thuận lợi khác của phương Đông chính là việc cư dân
phương Đông đã sớm bước vào thời đại kim khí, tức là có sự xuất hiện của những công cụ
lao động bằng kim khí như đồng đỏ, đồng thau và sắt. Sự xuất hiện của công cụ lao động
bằng kim khí đã làm biến đổi to lớn xã hội loài người. Ngay từ thiên niên kỷ IV TCN, con
người đã biết phát minh ra và sử dụng công cụ bằng đồng, đầu tiên là đồng đỏ. Vào
khoảng 5500 năm trước đây, cư dân Tây Á và Ai Cập đã biết sử dụng đồng đỏ. Đến
khoảng 4000 năm trước đây thì nhiều cư dân trên trái đất đã biết dùng đồng thau. Từ đồng
thau, người ta đã biết chế tạo ra nhiều loại công cụ như: lưỡi cày, lưỡi cuốc, rìu, dao...Đến
khoảng cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỉ I TCN, con người đã biết chế tạo ra công cụ
lao động bằng sắt-một thứ kim loại cứng và sắc hơn đồng rất nhiều. “Sắt cho phép người

ta có thể trồng trọt trên những diện tích rộng lớn hơn, có thể khai hoang những miền rừng
rú rộng lớn hơn; sắt khiến cho người thợ thủ công có được một công cụ cứng và sắc mà
không có một loại đá nào hay một loại kim khí quen thuộc nào có thể đương đầu với nó
được”. Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, trong suốt thời kỳ đồ đá, cuộc sống
của con người từ chỗ sống bấp bênh, đến chỗ tìm kiếm thức ăn để nuôi sống mình và lúc
này, vào buổi đầu của thời đại kim khí, sản phẩm họ làm ra không chỉ đủ ăn mà còn dư
thừa thường xuyên.
Với Ai Cập, ngay từ thời kỳ sơ khai, nền nông nghiệp đã bắt đầu xuất hiện với công cụ
sản xuất đều làm bằng đá, bằng gỗ, phương pháp canh tác thô sơ, lạc hậu; người ta chỉ biết
xới đất lên rồi gieo hạt giống. Tuy vậy, nhờ đất đai màu mỡ nên đã được thu hoạch một
cách đều đặng. Theo các văn tự cổ, thời Cổ vương quốc đã có những loại lúa mì đặc biệt ở
Thượng và Hạ Ai Cập; nghề trồng nho, trồng cây ăn quả và trồng cây gai cũng được nói
đến trong các văn tự cổ. Sang đến thời kỳ Tân vương quốc, nền kinh tế Ai Cập chủ yếu
vẫn dựa trên sự phát triển của kinh tế nông nghiệp tưới tiêu. Ở thời kỳ này, nền nông
nghiệp đã có bước phát triển mới. Bước tiến đó thể hiện trước hết trong kỹ thuật canh tác.
Công cụ bằng đồng thau được sử dụng rộng rãi trong sản xuất, người ta biết dừng loại cày
cán đứng có lỗ cầm và biết dùng vồ để đập đất.
Từ thời Cổ vương quốc, người Ai Cập đã biết chú trọng đến công tác thủy lợi và đã tiến
hành xây dựng nhiều công trình thủy lợi có quy mô to lớn. Herodote cũng nói rằng vùng
châu thổ sông Nil chằng chịt những kênh đào. Nhà nước còn đặt ra chức nông quan có
nhiệm vụ trông nom các công trình thủy lợi. Ở thời kỳ Trung vương quốc, các Pharaon đã

TTO - Được xem là "cái nôi văn minh" của thế giới, nền văn minh Lưỡng Hà xa xưa đã để lại cho hậu thế nhiều phát minh giá trị.

  • Xuất bản sách dịch chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại
  • Tìm thấy manh mối mới về sự sống cổ đại trên sao Hỏa
  • Người cổ đại Ai Cập làm trang sức từ thiên thạch

Khu vực Lưỡng Hà - Ảnh: Ancient Civilizations

Lưỡng Hà là vùng đất giữa 2 con sông Tigris và Euphrates. Bắt đầu xuất hiện lần đầu tại miền nam Iraq, nền văn minh Lưỡng Hà phát triển trên một khu vực rộng lớn bao gồm Iraq, Kuwait, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ và tây nam Iran ngày nay.

Là một trong bốn nền văn minh phát sinh dọc theo các con sông nổi tiếng trên thế giới cùng với đồng bằng châu thổ sông Nile ở Ai Cập, đồng bằng sông Ấn ở Ấn Độ và đồng bằng sông Hoàng Hà ở Trung Quốc, nền văn minh Lưỡng Hà đã để lại cho hậu thế nhiều phát minh giá trị.

Hệ đếm 60 và 1 giờ có 60 phút

Bảng đất sét 3.700 của người Babylon cổ đại ghi chép nhiều phương pháp tính toán. Bảng này hiện được lưu giữ tại thư viện trường Đại học Columbia, New York - Ảnh: Andrew Kelly

Người dân Lưỡng Hà sử dụng hệ thống số đếm 60. Từ đó, người Lưỡng Hà phân chia 1 giờ thành 60 phút và 1 phút gồm 60 giây.

Cũng chính nhờ vào cơ số 60, vòng tròn được chia thành 360 độ.

Từ xưa, người Lưỡng Hà cổ đại biết cách làm 4 phép tính cộng trừ nhân chia, biết phân số, luỹ thừa, căn số bậc hai và căn số bậc 3. Họ biết lập bảng căn số để dễ tra cứu và biết giải phương trình có 3 ẩn số.

Họ biết tính diện tích nhiều hình và biết cả quan hệ giữa 3 cạnh trong tam giác rất lâu trước khi Pitago [sống vào những năm 500 TCN] chứng minh điều này.

Lịch âm 12 tháng

Cư dân Lưỡng Hà dựa vào Mặt Trăng làm lịch 12 tháng - Ảnh: NASA

Những nhà thiên văn học người Babylon [một bộ phận của nền văn minh Lưỡng Hà] có thể dự đoán các kỳ nhật nguyệt thực và các điểm chí trong năm.

Cũng chính họ đưa ra ý tưởng lịch 12 tháng dựa trên chu kỳ Mặt Trăng. Đây là cơ sở cho loại lịch âm dương mà chúng ta sử dụng ngày nay.

Không lâu sau, người Ai Cập học hỏi loại lịch 12 tháng này nhưng áp dụng với Mặt Trời.

Bánh xe và xe kéo

Bức họa một chiếc chiến xa của người Sume những năm 2500 TCN - Ảnh tư liệu

Người Lưỡng Hà trong những năm 3.000 TCN là những cư dân đầu tiên chế tạo một phương tiện di chuyển nhờ vào sức kéo động vật. Đến khoảng năm 2.000 TCN, xe kéo mới du nhập vào Trung Quốc.

Xe kéo nguyên bản là một cỗ xe 2 hoặc 4 bánh được kéo bởi 2 hay nhiều con ngựa buộc sát cạnh nhau, được điều khiển bởi một người đánh xe. Cỗ xe được sử dụng trong nhiều mục đích như vận chuyển, diễu hành, thi đấu thể thao và cả trong chiến tranh.

Xe kéo xuất hiện ở nền văn minh Lưỡng Hà cũng là điều dễ hiểu khi nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính cư dân Lưỡng Hà là người sáng tạo ra bánh xe những năm 3.500 TCN phục vụ cho hoạt động sản xuất và vận tải.

Thuyền buồm

Thuyền buồm của người Lưỡng Hà cổ đại - Ảnh: Bright Hub Engineering

Do nhu cầu giao thương hàng hóa, người Sume nhận thấy di chuyển bằng đường bộ mất nhiều thời gian và không vận chuyển được hàng hóa số lượng lớn.

Người Sume chế tạo ra một loại thuyền hình vuông có một cột cao gắn vải để nhờ sức gió di chuyển vượt các sông Tigris và Euphrates.

Tuy nhiên lúc ban đầu, người Sume không biết cách điều chỉnh hướng cánh buồm. Điều này để lại không ít bất tiện khi hướng gió không cùng với hướng đi của họ.

Lưỡi cày và bước đột phá nông nghiệp

Mô phỏng lưỡi cày của người Lưỡng Hà - Ảnh: Wacom Gallery

Do nằm ở vùng đồng bằng rộng lớn giữa 2 con sông, nông nghiệp vẫn là ngành cơ bản của nền văn minh Lưỡng Hà. Người dân nơi đây có nhiều phát minh cho nông nghiệp, một trong số đó là lưỡi cày.

Lưỡi cày đầu tiên được làm bằng gỗ, hình dạng đơn giản vào những năm 6.000 TCN.

Buổi ban đầu, dụng cụ thường dính đất đá khi cày xong nên phải dùng tay gỡ đất. Lưỡi cày cũng không hoạt động tốt trong khu vực cỏ mọc quá dầy. Dần dần, các cư dân Lưỡng Hà phát triển lưỡi cày cho hiệu quả tốt hơn.

Phát minh này đóng góp nhiều cho trồng trọt, đảm bảo cuộc sống nông nghiệp định thay vì hình thức du canh du cư.

Bản đồ

Một phần trong tấm bản đồ thế giới của người Babylon cổ đại - Ảnh: Wikimedia

Lưỡng Hà là vùng đất sử dụng bản đồ sớm nhất trên thế giới, trong đó bản đồ cổ nhất được phát hiện có niên đại khoảng 2300 năm TCN.

Bản đồ này được khắc trên đất sét, mô tả vùng đất Akkadian ở Lưỡng Hà. Bản đồ được sử dụng như bản đồ thành phố, dùng trong quân sự hay trong thương mại.

Dù là người phát minh nhưng trình độ làm bản đồ của người Lưỡng Hà không bằng người Hy Lạp, Roma sau này.

Bộ luật đầu tiên

Lưỡng Hà cũng là khu vực có những bộ luật sớm nhất ngay từ những năm 2200-2100 TCN. Những bộ luật này quy định các vấn đề thừa kế tài sản, nuôi con nuôi, thuế đất, bảo vệ nông sản, trách nhiệm của người chăn nuôi và những hình phạt cho nô lệ chạy trốn…

Bộ luật quan trọng nhất ở Lưỡng Hà cổ đại là luật Hammurabi thời vua Hammaura [1796 TCN - 1750 TCN] - vị vua thứ 6 của Babylon. Đây cũng là văn bản luật cổ nhất còn được bảo tồn tốt, có niên đại khoảng năm 1760 TCN.

Bộ luật này hiện chỉ còn lại một phần được khắc trên một bia đá cao khoảng 2,44m hiện được lưu giữ tại bảo tàng Louvre [Pháp]. Đây là bộ luật cổ sớm nhất hầu như còn nguyên vẹn mà ngày nay đã phát hiện được.

Lưỡng Hà cũng là vùng đất diễn ra đô thị hóa đầu tiên [giai đoạn 4300-3100 TCN].

Những phát minh giúp xem giờ trước khi có đồng hồ

TTO - Đồng hồ là vật không thể thiếu trong đời sống hằng ngày. Nhưng bạn có biết trước khi có đồng hồ, người ta xem giờ như thế nào?

Video liên quan

Chủ Đề