Tại sao xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải toàn dân, toàn diện độc lập, tự chủ, tự lực tự cường

Trong khi đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt, Ðảng ta luôn chú trọng đến nhiệm vụ quốc phòng, xem tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên. Vậy quốc phòng toàn dân là gì?

Thế trận quốc phòng toàn dân là việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược thống nhất, bảo đảm đối phó thắng lợi với mọi mưu toan và hoạt động của các thế lực thù địch xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân nếu chiến tranh xảy ra.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và toàn dân cần nhận thức sâu sắc để đồng tâm, hợp lực.

Quốc phòng toàn dân nghĩa là toàn dân tham gia xây dựng nền quốc phòng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của Nhà nước. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm nhất quán được khẳng định trong văn kiện các kỳ đại hội của Đảng. Quốc phòng toàn dân được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường; tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước.

Quốc phòng toàn dân trong tiếng Anh được hiểu là All-people defense.

2. Biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh:

Một là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện là bản chất và đặc điểm cơ bản của nền quốc phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh mới, trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa kinh tế, xu hướng quốc phòng thâm nhập vào các lĩnh vực của đời sống dân sinh, quân sự thâm nhập vào dân sự và ngược lại ngày càng phát triển.

Sự ảnh hưởng, phụ thuộc và thâm nhập lẫn nhau giữa quân sự, quốc phòng với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội ngày càng gia tăng. Điều đó làm cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc ngày càng không thể chỉ dựa vào lực lượng vũ trang. Sự nghiệp ấy phải thấm sâu và trở thành ý thức thường trực, hành động cách mạng ở mọi tầng lớp nhân dân và trong tất cả các hoạt động, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Vì vậy, nền quốc phòng toàn dân vững chắc phải là nền quốc phòng dựa trên sức mạnh của nhân dân, lòng dân được quy tụ thống nhất, nhân dân gắn bó với chế độ, chung sức, chung lòng, quyền lợi và nghĩa vụ hòa quyện vào nhau trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó là vấn đề cốt lõi, cấp bách trong quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân của nước ta hiện nay. Yêu cầu cơ bản đảm bảo tính toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng là phải xây dựng, không ngừng củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; thể chế hóa kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; tạo cơ chế để huy động tốt nhất sự đóng góp của các cấp, các ngành, của mọi tầng lớp nhân dân để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Hai là, tập trung xây dựng các tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân.

Trước hết, cần coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần vững chắc. Theo đó, tập trung xây dựng Đảng, Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh; củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, làm cơ sở, nền tảng để xây dựng các tiềm lực khác.

Thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, vùng nông thôn; thu hẹp chênh lệch đời sống giữa các tầng lớp nhân dân, vùng, miền. Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, mang thành quả của sự nghiệp đổi mới tới mọi tầng lớp nhân dân.

Thực hiện nghiêm chính sách tự do tôn giáo và bình đẳng giữa các dân tộc; phát hiện, giải quyết kịp thời mâu thuẫn nội bộ, không để các thế lực thù địch lợi dụng, kích động trở thành vấn đề phức tạp. Phát huy dân chủ rộng rãi, định hướng dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ quốc phòng; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Đồng thời, khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chủ động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, “phi chính trị hóa” Quân đội,… củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ.

Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.

Trước hết, cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các lực lượng để tạo sức mạnh tổng hợp xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc ở từng địa bàn và trên cả nước, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng trong thời bình; đồng thời, sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi đất nước có chiến tranh. Tập trung xây dựng thế trận quân sự của khu vực phòng thủ, trọng tâm là xây dựng các công trình quốc phòng; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.

Phát huy vai trò của Quân đội trong tham gia xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên các địa bàn, nhất là ở các địa bàn biên giới, hải đảo; đồng thời, chú trọng điều chỉnh thế bố trí lực lượng trên các hướng, địa bàn chiến lược, nhằm không ngừng nâng cao khả năng phòng thủ đất nước. Thực hiện tốt chức năng thẩm định về mặt quốc phòng các dự án phát triển kinh tế – xã hội, không để ảnh hưởng đến thế trận quốc phòng. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc gắn chặt với thế trận an ninh nhân dân, đảm bảo xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống xảy ra.

Bốn là, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh thì yêu cầu cốt lõi là phải xây dựng Quân đội thực sự của dân, do dân và vì dân; tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; có đủ sức mạnh để hoàn thành xuất sắc phận sự trung thành ấy trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng về xây dựng Quân đội là không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, lấy xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để xây dựng các mặt khác.

Xây dựng Quân đội nhân dân tinh nhuệ, trước hết và quan trọng nhất là tinh nhuệ về chính trị và trình độ tác chiến; từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Tập trung đẩy nhanh hơn nữa tiến trình hiện đại hóa, nhất là đối với các lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại: Hải quân, Phòng không – Không quân, Tác chiến điện tử, Thông tin liên lạc, Trinh sát kỹ thuật và Cảnh sát biển; đồng thời, đẩy nhanh lộ trình thực hiện “từng bước hiện đại” ở các lực lượng khác. Tập trung thực hiện tốt ba khâu đột phá, tạo chuyển biến về tổ chức, biên chế của Quân đội theo hướng: Tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, phù hợp với nghệ thuật tác chiến và vũ khí, trang bị, bảo đảm cân đối giữa các khối, các lực lượng; giữa cơ cấu về quân số với khả năng bảo đảm của đất nước, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, nhất là các địa bàn trọng điểm, biên giới, biển đảo.

Thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng gắn với quy hoạch của quốc gia và từng địa phương theo hướng kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; hình thành các khu vực chiến lược vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng – an ninh. Cùng với quá trình xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, việc triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng, bố trí hệ thống các công trình kinh tế, kỹ thuật có quan hệ rất lớn đến thế trận quốc phòng toàn dân. Do vậy, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải được kết hợp ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội

Kết luận: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân thì người dân phải là chủ thể của nền quốc phòng, mọi người dân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ tham gia. Thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng trong mối liên hệ chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân của Việt Nam tạo thành thế liên hoàn, vững chắc, phát huy được sức mạnh của các lực lượng, kết hợp được các hình thức hoạt động vũ trang và phi vũ trang, tạo được khả năng cơ động linh hoạt, khả năng độc lập và phối hợp tác chiến. Qua đó củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc trong tình hình mới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về “tự lực, tự cường là tiền đề của độc lập tự do”

Vấn đề độc lập dân tộc và khát vọng tự do luôn là ý chí, khát vọng thường trực bao đời của người Việt Nam từ xưa đến nay. Từ “hòn đá thề” trên đỉnh núi Hy Cương, Phú Thọ nói lên ý chí, khát vọng Vua Hùng và Thục Phán về sự đoàn kết, thống nhất để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập đến Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đền nợ nước, trả thù nhà hay Triệu Thị Trinh hùng hồn khẳng định: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta”… đều khẳng định rõ điều đó.

Ngày đăng : 05/11/2021 Xem với cỡ chữ

Bản in

Nối tiếp dòng chảy truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, vấn đề độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho Nhân dân đã trở thành nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường. Chính ý chí tự lực, tự cường và khát vọng về quyền sống chân chính của dân tộc đã bồi đắp tư tưởng, sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và lan tỏa trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam. Nói cách khác, chủ nghĩa yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “đàng hoàng”, “to đẹp” đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đặt nền móng cho sự phát triển tư tưởng Mác xít ở Việt Nam, tạo ra những điều kiện căn bản, tiên quyết đưa đến những thành công của các mạng nước nhà.

Sau nhiều năm chứng kiến nền độc lập của dân tộc bị xâm phạm, Nhân dân ta “một cổ hai tròng” chịu nhiều lầm than, cực khổ, bị chà đạp, áp bức, các phong trào yêu nước lần lượt nổ ra nhưng đều thất bại, Nguyễn Tất Thành dù rất ngưỡng mộ và kính trọng lòng yêu nước dũng cảm, kiên cường của các bậc tiền bối, nhưng với tấm lòng yêu nước sâu sắc, sự trăn trở về vận mệnh dân tộc, bằng sự hiểu biết của bản thân, đã sớm nhận ra con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc mà cần thiết phải có con đường mới, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử để giành lại độc lập, tự do. Và ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiral La Touche De Tréville của Pháp, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành [lúc ấy mới 21 tuổi], lấy tên mới là Văn Ba đã rời Sài Gòn bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, mang theo khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Điều này sớm đã thể hiện tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, mang tầm nhìn thời đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương của Lênin đã giúp Người giải đáp những vấn đề cơ bản về con đường giải phóng dân tộc mà Người tìm kiếm bấy lâu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Trong quá trình tìm đường cứu nước cũng như lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn đề cao ý chí tự lực, tự cường, tự lực cánh sinh và coi đó là phương châm hành động của cách mạng Việt Nam, nhờ đó, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại.

“Tự lực, tự cường” nghĩa là gì?

Hiểu theo nghĩa gốc, "tự lực" cónghĩa là dựa vào sức mình để sống và làm việc, tuyệt đối không trông chờ, ỷ lại vào người khác; "tự cường"có nghĩa là tự làm cho mình mạnh lên, không chịu thua kém người khác, dân tộc khác, thường được dùng với nghĩa dành cho tổ chức, dân tộc, đất nước. Nói cách khác, “tự lực, tự cường” là tự mình lo công việc của mình, gây dựng sức mạnh cho mình, khộng lệ thuộc, không phụ thuộc không ỷ lại ngồi chờ. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của mỗi con người, mỗi dân tộc vì chứa đựng trong đó lòng tự trọng, ý chí vươn lên và khát vọng khẳng định bản thân. Tự lực và tự cường có thể đồng thời biểu thị ý chí, năng lực của cá nhân, tổ chức và quốc gia, dân tộc. Trong đó, sự tự lực và tự cường của từng cá nhân sẽ góp phần quan trọng vào việc hình thành sự tự lực và tự cường của tập thể, đất nước, dân tộc.

Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường

Là người tìm đường và dẫn đường cho dân tộc, Hồ Chí Minh luôn đề cao ý chí tự lực, tự cường. Người cho rằng tự lực, tự chủ là phẩm chất, quyền lợi mang "tính người"và nếu con người không có quyền tự chủ thì không còn là con người nữa. Người đã viết: “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng/ Cay đắng chi bằng mất tự do/ Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ/ Để cho người dắt tựa trâu bò”. Nổi bật trong tư tưởng về ý chí tự lực tự cường của Người là một số nội dung chính sau đây:

Thứ nhất, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế.

Nếu hầu hết các đảng cộng sản ở Châu Âu đều có quan điểm rằng, cách mạng ở các thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng ở các nước tư bản [chính quốc], cách mạng ở các nước thuộc địa không thể thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa thắng lợi thì Nguyễn Ái Quốc không tán thành quan điểm đó. Người cho rằng, với ý chí, khát vọng đấu tranh mãnh liệt, bất khuất vì độc lập, tự do, cách mạng ở các nước thuộc địa [trong đó có Việt Nam] hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không. Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính quốc. Người ví mối quan hệ đó như hai cánh của một con chim. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản thực dân giống con đỉa có hai vòi, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở các nước tư bản, vòi kia hút máu các dân tộc thuộc địa, Người khẳng định muốn tiêu diệt nó, phải cắt cả hai cái vòi, muốn vậy phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc.

Thứ hai, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

Ý chí tự lực, tự cường trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã giúp Người thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính, bao gồm chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới đứng lên chống đế quốc, thực dân. Từ thực tế xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Người đã nhận định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Theo Người, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh [1927], Người viết: “chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng “phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.

Ở một nước thuộc địa như Việt Nam, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp trở thành vấn đề sống còn. Trong cuộc đấu tranh đó, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc được coi là nền tảng căn bản, có thể huy động, tập hợp được hết thảy các giai tầng xã hội đoàn kết trên một mặt trận, đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như bảo vệ vững chắc nền độc lập đó.

Thứ ba, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng.

Điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách mệnh, “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Chính vì thế, mùa xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Người soạn thảo. Sự ra đời của Đảng đánh dấu bước ngoặt đặc biệt quan trọng trong tiến trình cách mạng dân tộc, trở thành nhân tố tiên quyết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dẫn dắt, tập hợp và lãnh đạo nhân dân từng bước đấu tranh, chuẩn bị các điều kiện mọi mặt, đưa tới sự thành công của cách mạng.

Ngày 28/01/1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị TW 8, Người cùng TW Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc; chỉ ra các nhiệm vụ quan trọng, cần kíp để chuẩn bị các điều kiện đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng, như: xây dựng lực lượng cách mạng; căn cứ địa cách mạng; tập dượt cho quần chúng đấu tranh, xác định phương pháp đấu tranh; chuẩn bị bộ máy tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ chín muồi và dự kiến các công việc sau khi giành được chính quyền.

Nhờ có sự chủ động, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt,chỉ trong vòng 15 ngày Cách mạng tháng Tám [1945] diễn ra mau lẹ, ít đổ máu, giành thắng lợi hoàn toàn trên cả nước, đập tan chế độ thực dân thống trị nước ta hơn 80 năm, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót nghìn năm, khai sinh nền dân chủ cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Thứ , ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng, phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Khi thời cơ cách mạng chín muồi [8/1945], Người đã gửi Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa trong cả nước: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”. Hay thời kỳ kháng chiến chống Pháp [1946-1954], Người cũng đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”… Sức mạnh toàn dân được huy động và hiện diện to lớn, tạo nên thành công vĩ đại của CM Việt Nam.

Thứ năm, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc, “nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải đương đầu với những kẻ thù có sức mạnh kinh tế - quân sự vào hàng cường quốc thế giới, chống lại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.Trong cuộc đối đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”; hay: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.

Có thể khẳng định, theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, tự lực, tự cường là tiền đề của độc lập tự do.

Thực tế đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa đã giúp Hồ Chí Minh hiểu rằng: Công cuộc giải phóng phải là công cuộc "tự giải phóng" chứ không thể trông chờ vào thiện chí hay sự bố thí, rộng lượng của những kẻ cướp nước. Vì thế, lên án chủ nghĩa thực dân bao nhiêu thì Người cũng quyết liệt bấy nhiêu trong việc kêu gọi Nhân dân các dân tộc bị áp bức tiến hành cuộc đấu tranh tự giải phóng:"Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em".Trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau 30 năm hoạt động quốc tế,Người luôn nhấn mạnh:Việc giải phóng của ta phải do ta tự làm lấy chứ không thể trông mong vào lực lượng bên ngoài. Tranhthủ điều kiện quốc tếthuận lợi vào tháng 8/năm 1945, Người đã kêu gọi đồng bào "đem sức ta mà giải phóng cho ta". Sức mạnh như "triều dâng, thác đổ" của tinh thần dân tự giải phóng đã mang lại nền độc lập thiêng liêng cho Tổ quốc. Thắng lợi này thể hiện việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin ở một nước thuộc địa, khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, tinh thần, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân tộc theo tư tưởng của Bác. Tư tưởng tự lực, tự cường, chủ động chuẩn bị chu đáo các điều kiện cách mạng tiếp tục được phát triển và khẳng định trong các giai đoạn cách mạng sau, đưa tới thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp [1945- 1954], kháng chiến chống đế quốc Mỹ [1954-1975], trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước [1975- nay], đặc biệt trong 35 năm đổi mới [1986- nay].

Từ kinh nghiệm và bài học thực tế của Việt Nam và thế giới, Người đã rút ra kết luận:"Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập". Với vị thế của một nguyên thủ Quốc gia,Hồ Chí Minh tìm mọi cách để duy trìsự độc lập, tự chủcủa nhân dân Việt Nam.Người nói: "Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào", kể cả sự can thiệp củacácđồng minh.Khi động viên toàn dân tích cực tham gia và ủng hộ kháng chiến vì nền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc, Người nói rõ: "Mỗi một người dân phải hiểu: Có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do".

Trong quan hệ quốc tế cũng vậy, Người luôn coi đoàn kết quốc tế là chiến lược trọng yếu của Đảng nhưng Người hiểu rằng,muốn tăng cường đoàn kết quốc tế thì trước hết phảităng cường nội lực dân tộc, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh; nếu không có thực lực thì không thể nói gì đến ngoại giao, càng không thể mong muốn sự bình đẳng, độc lập, tự chủ mà "chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy". Khi Việt Nam đánh Mỹ và nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh vẫn kiên trì nhắc nhở cán bộ và Nhân dân: "Các nước bạn ta, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc ra sức giúp đỡ ta một cách vô tư, khẳng khái, để chúng ta có thêm điều kiện tự lực cánh sinh”chứ không phải để ta sinh ra tật ỷ lại, trông chờ vào người khác.

Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới “tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường”, ngoài tiềm lực kinh tế, khát vọng phát triển của toàn dân tộc thì ý chí tự lực, tự cường chính là điều kiện cốt lõi để đất nước ta bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế.Việc phát huy ý chí tự lực tự cường vốn là nét đẹp trong truyền thống văn hóa Việt Nam đã được Hồ Chí Minh phát triển lên một tầm cao mới tiếp tục cho thấy giá trị và soi đường cho dân tộc Việt Nam trong hành trình tiến tới “sánh vai với các cường quốc năm châu” như khát vọng lớn lao mà Người đã kí thác lại cho toàn Đảng, toàn dân ta. Minh Huyền

Lê Thùy Trang

Lần xem: 9505

Go top

Bài viết khác

Video liên quan

Chủ Đề