Tên nước việt nam có từ khi nào năm 2024

TPO - Tên gọi Việt Nam đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhưng chưa phải là quốc hiệu chính thức. Phải đến năm 1804, Việt Nam mới chính thức trở thành quốc hiệu nước ta gắn liền với một lãnh thổ và lãnh hải rộng lớn, toàn vẹn tương tự như ngày nay, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 23/4 tại TP. Huế diễn ra Hội thảo khoa học “220 năm quốc hiệu Việt Nam - những chặng đường lịch sử (1804-2024)”, do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh TT-Huế tổ chức.

PGS.TS Trần Đức Cường - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, dự và chủ trì hội thảo. Tham dự còn có Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy TT-Huế Phan Ngọc Thọ, cùng các học giả, nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử.

Theo các nghiên cứu khoa học, trong lịch sử nước ta, tên gọi Việt Nam đã xuất hiện từ lâu, nhưng chưa phải là quốc hiệu chính thức. Phải đến năm Giáp Tý, ngày Đinh Sửu 17/2 (tức 28/3/1804), khi vua Gia Long làm lễ Khánh an kính cáo ở Thái miếu bên trong Hoàng thành Huế, chính thức đặt tên nước là Việt Nam.

Tên nước việt nam có từ khi nào năm 2024

PGS.TS Trần Đức Cường - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, chủ trì hội thảo. Ảnh: V.T.H

Trong lời chiếu, nhà vua khẳng định, đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa.

Dưới triều Nguyễn, quốc hiệu Việt Nam được duy trì gần 4 thập kỷ qua 2 đời vua Gia Long và Minh Mạng. Đến năm 1838, hoàng đế Minh Mạng đổi quốc hiệu là "Đại Việt Nam Quốc", thường gọi là Đại Nam (hoặc Đại Việt Nam) với lòng tự hào về một quốc gia văn hiến và hùng cường trong khu vực. Như vậy, chữ "Việt" không hề mất đi.

Tên nước việt nam có từ khi nào năm 2024

TS. Phan Tiến Dũng - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh TT-Huế, phát biểu tại hội thảo. Ảnh: V.T.H

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, triều Nguyễn kết thúc. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tại hội thảo, các tham luận tập trung vào nghiên cứu quốc hiệu Việt Nam qua các tư liệu lịch sử, cũng như sự phát triển của đất nước qua các thời kỳ.

Theo TS. Phan Tiến Dũng - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh TT-Huế, quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia, biểu thị chủ quyền lãnh thổ, vừa thể hiện các yếu tố hợp pháp về chính trị, luật pháp, quân sự, văn hóa, ngoại giao.

Tên nước việt nam có từ khi nào năm 2024

Các đại biểu tham gia ý kiến tại hội thảo nhằm làm rõ thêm vị thế Việt Nam qua những lần thay đổi quốc hiệu. Ảnh: V.T.H

Còn theo ý kiến tham luận của Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử TP. Đà Nẵng Bùi Văn Tiếng, qua 220 năm đồng hành cùng lịch sử dân tộc, quốc hiệu Việt Nam đã chứng kiến nhiều biến thiên chính trị của nước ta, chẳng hạn đã hai lần chứng kiến đất nước thống nhất. Một lần vào năm 1804, khi chính thức trở thành quốc hiệu và một lần vào năm 1976 khi đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, và hiện nay đang chứng kiến vị thế ngày càng được khẳng định của Việt Nam trên trường quốc tế.

Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã dùng nhiều quốc hiệu (tên chính thức của quốc gia) khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng được dùng chính thức hay không chính thức để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quốc gia Việt Nam. Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.

Văn Lang: Được coi là quốc hiệu đầu tiên cho Việt Nam. Lãnh thổ gồm khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Kinh đô đặt ở Phong Châu.

Âu Lạc: Năm 257 trước công nguyên, nước Âu Lạc được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam Quảng Tây (Trung Quốc).

Vạn Xuân: Là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602.

Đại Cồ Việt: Là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 86 năm đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông đổi sang quốc hiệu khác.

Đại Việt: Là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), đến năm 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 743 năm.

Đại Ngu: Là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ, từ năm 1400. Chữ Ngu ở đây có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình".

Việt Nam: Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt.. Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn. Quốc hiệu này được tuyên phong vào năm 1804.

Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí và đầu thế kỷ 15 trong cuốn "Dư địa chí" đã thấy nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc).

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến 1954. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay). Vì sự can thiệp của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nên đất nước ta gặp phải sự chia cắt và các chế độ ngụy quyền đã đặt ra các chính quyền mang các tên khác. Tên Quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng đế Bảo Đại ký với Pháp ngày 8/3/1949. Năm 1955 Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại và thành lập nên cái gọi là chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Để góp phần đấu tranh thống nhất đất nước, nhân dân miền Nam đã thành lập ra Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau 30/4/1975 với thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh toàn bộ đất nước đã thống nhất thành một khối. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Trước năm 1945 Việt Nam có tên gọi là gì?

Tổng quát.

Ai là người đầu tiên đặt tên nước là Việt Nam?

Năm 1803, vua Gia Long có ý định xin nhà Thanh đặt quốc hiệu là Nam Việt nhưng không được đồng ý do dễ gây nhầm lẫn với nước Nam Việt của Triệu Đà xưa. Vua Gia Long nhiều lần gửi thư biện giải, sau đó được đồng ý đổi tên nước là Việt Nam. Tháng 2 năm Giáp Tý 1804, vua Gia Long ban chiếu đặt quốc hiệu mới là Việt Nam.nullVua nào đặt quốc hiệu nước ta là Việt Nam? - VietNamNetvietnamnet.vn › vua-nao-dat-quoc-hieu-nuoc-ta-la-viet-nam-2225239null

Ai là người đặt tên cho nước Việt Nam?

Tháng 2, năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long chính thức đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam.nullQuốc hiệu Việt Nam có từ khi nào? - HĐND tỉnh Quảng Namdbnd.quangnam.gov.vn › Default › quoc-hieu-viet-nam-co-tu-khi-naonull

Tên Việt Nam bắt nguồn từ đâu?

Năm 1919, Trần Trọng Kim viết: “Quốc hiệu nước ta thay đổi đã nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói quen dùng hai chữ An Nam, nhưng vì hai chữ ấy có ngụ ý phải thần phục nước Tàu, vậy thì ta nên nhất định lấy tên Việt Nam mà gọi nước nhà” (Việt Nam sử lược).nullTìm về nguồn gốc của các quốc hiệu nước ta - Tuổi Trẻ Onlinecuoituan.tuoitre.vn › tim-ve-nguon-goc-cua-cac-quoc-hieu-nuoc-ta-566552null