Trong 57 nước ở châu Phi Liên Hợp Quốc xếp bao nhiêu nước vào nhóm những nước nghèo nhất thế giới

Theo Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) và Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), trong năm 2021, nạn đói đã trở nên trầm trọng hơn tại nhiều quốc gia trên toàn cầu, trong đó có thể kể đến Afghanistan, Angola, Cộng hòa Trung Phi, Ethiopia, Haiti, Kenya, Lebanon, Somalia, Syria, Yemen...

Trong danh sách các nước chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của tình trạng thiếu lương thực, Ethiopia đứng hàng đầu với số người phải đối mặt với nạn đói dẫn đến tử vong dự báo có thể tăng lên 401.000 người-con số cao nhất kể từ nạn đói năm 2011 ở Somalia-nếu các hoạt động viện trợ nhân đạo không được triển khai kịp thời. Miền Nam Madagascar-nơi chịu ảnh hưởng bởi đợt hạn hán tồi tệ nhất trong 40 năm qua-dự báo có tới 14.000 người có thể chết đói do thiếu lương thực. Con số này thậm chí có thể tăng gấp đôi lên 28.000 người vào cuối năm nay, nếu khu vực này không nhận được sự giúp đỡ khẩn cấp của các tổ chức quốc tế.

Trong 57 nước ở châu Phi Liên Hợp Quốc xếp bao nhiêu nước vào nhóm những nước nghèo nhất thế giới
Trong 57 nước ở châu Phi Liên Hợp Quốc xếp bao nhiêu nước vào nhóm những nước nghèo nhất thế giới
Trong 57 nước ở châu Phi Liên Hợp Quốc xếp bao nhiêu nước vào nhóm những nước nghèo nhất thế giới
Trong 57 nước ở châu Phi Liên Hợp Quốc xếp bao nhiêu nước vào nhóm những nước nghèo nhất thế giới
Trong 57 nước ở châu Phi Liên Hợp Quốc xếp bao nhiêu nước vào nhóm những nước nghèo nhất thế giới

Người dân tị nạn ở Mekele thuộc vùng Tigray, miền Bắc Ethiopia.Ảnh:AP

Tại Afghanistan, dự báo đến cuối năm 2021 sẽ có tới 3,5 triệu người dân phải đối mặt với nạn đói dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng cấp tính và tử vong. Hạn hán trầm trọng, giá lương thực tăng cao, nạn di cư do xung đột gia tăng và tình trạng thất nghiệp phổ biến do tác động của đại dịch Covid-19... càng làm trầm trọng hơn nạn đói ở nước này. Trong khi đó, bạo lực leo thang khiến các hoạt động hỗ trợ nhân đạo của các tổ chức quốc tế tại Afghanistan cũng trở nên khó khăn hơn. Tình hình mất an ninh lương thực ở Haiti cũng nghiêm trọng không kém, khi sản lượng cây trồng chủ lực của nước này rơi xuống mức thấp do thời tiết thất thường, đất nước trong vòng xoáy của bất ổn chính trị, giá lương thực và lạm phát tăng cao, dịch Covid-19 và các biện pháp hạn chế liên quan tác động tiêu cực đến đời sống của đa số người dân. Trong khi đó, đồng tiền mất giá, lạm phát tăng cao cũng góp phần đẩy các nước như Lebanon, Nigeria, Sudan, Venezuela đứng bên bờ vực thảm họa mất an ninh lương thực.

Mất mùa liên tiếp ở Zambia, Zimbabwe, Mozambique và Angola đang gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp và khiến giá lương thực tăng vọt ở các nước này. Khu vực Nam Phi vừa trải qua đợt hạn hán trầm trọng nhất trong vòng 40 năm qua kể từ năm 1981. Trong vài năm trở lại đây, tình trạng an ninh lương thực và dinh dưỡng ở nhiều quốc gia châu Phi đã trở nên tồi tệ hơn. Xung đột, đói nghèo và vấn nạn di cư tạo ra thảm họa không chỉ về an ninh lương thực, trong đó trẻ em là đối tượng chịu tổn thương nhiều nhất. Trẻ suy dinh dưỡng có hệ miễn dịch kém hơn và dễ mắc các bệnh truyền nhiễm. Theo Tổ chức Y tế thế giới, suy dinh dưỡng là nguyên nhân hoặc một yếu tố góp phần gây ra 45% số ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn cầu.

Báo cáo của FAO và WFP nhấn mạnh rằng, xung đột vũ trang, biến đổi khí hậu và các cú sốc do suy giảm kinh tế từ tác động của dịch Covid-19 tiếp tục là những nguyên nhân chính gây ra tình trạng mất an ninh lương thực nghiêm trọng trong những tháng cuối năm 2021. Bên cạnh đó, những hạn chế về tiếp cận nhân đạo là một yếu tố gây cản trở trầm trọng các nỗ lực kiềm chế khủng hoảng lương thực và ngăn chặn nạn đói.

Biến đổi khí hậu gây ra hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt, hạn hán, cùng với xung đột và bất ổn chính trị tái diễn ở nhiều quốc gia, đặc biệt là châu Phi, đi kèm với sự thiếu hụt hệ thống hỗ trợ của chính phủ và cộng đồng, khiến người dân các nước này phải vật lộn với tình trạng đói nghèo cùng cực trong nhiều thập kỷ. Một chu kỳ hạn hán lặp lại cũng đang đẩy nhiều cộng đồng dân cư ở nhiều quốc gia châu Phi rơi vào thảm họa thiếu lương thực.

Các tác động về kinh tế và sức khỏe của đại dịch Covid-19 đã khiến hàng triệu người dân trên khắp thế giới tiếp tục rơi vào cảnh nghèo đói và tuyệt vọng trong năm 2021, khi họ mất đi cơ hội có thu nhập, mất sinh kế, khả năng tiếp cận thực phẩm và dịch vụ cơ bản bị hạn chế.

Trước thực trạng này, Liên hợp quốc kêu gọi thế giới cùng chung tay đóng góp và thực hiện các hoạt động nhân đạo khẩn cấp để cứu trợ cho những điểm nóng này. FAO và WFP cam kết thực hiện các chương trình nhằm bảo vệ, khôi phục và cải thiện sinh kế cho người dân ở các khu vực bị ảnh hưởng, nhằm giảm các mối đe dọa ảnh hưởng đến nông nghiệp, dinh dưỡng, an ninh lương thực và an toàn thực phẩm. Giám đốc điều hành WFP David Beasley cho biết, ước tính, tổ chức này cần 6 tỷ USD để thực hiện các chương trình cứu trợ nhân đạo khẩn cấp cho người dân ở các vùng chịu thảm họa mất an ninh lương thực.

PHƯƠNG THẢO

giảmNguồn tài nguyên khai thác đã không được sử dụng hiệu quả để tập trung vào các chương trình phát triển, trong khi đó, nguồn lợi nhuận khổng lồ từ việc khai thác tài nguyên này bị thâu tóm bởi các nhóm lợi ích (political elites) địa phương kết nối với các doanh nghiệp quốc tế lớn (international coorporations). Một Nhà nước bị lũng đoạn với nạn tham nhũng, cấu kết phe phái, lạm dụng quyền lực (bad governance) càng làm tình hình trở nên nghiêm trọng hơn khi nguồn tài nguyên không được quản lý hiệu quả, và trở thành món mồi ngon để câu xé. Việc đa dạng chủng tộc ở châu Phi, điển hình mỗi nước có 40-80 bộ tộc, bộ lạc khác nhau, mỗi bộ tộc, bộ lạc có nền văn hoá, tiếng nói riêng, không thực sự tạo nên sự thống nhất quốc gia (national unity) và liên tục xảy ra các cuộc tranh chấp, nội chiến, tranh giành quyền kiểm soát nguồn tài nguyên, hoặc vì xung đột lợi ích

Ngược dòng lịch sử một chút, sau giai đoạn thuộc địa những năm 1970s, các nước ở châu Phi có mức GDP hầu như các nước châu Á: tàn phá chiến tranh, bóc lột thực dân, Nhà nước non trẻ. Chỉ sau 30-40 năm, châu Á đã phát triển một cách vượt bậc, cách xa châu Phi, trong khi các nước châu Phi, đặc biệt sub-Sahara châu Phi vẫn “đội sổ”. Lý giải nguyên nhân, có mấy lý do chính sau:

Châu Phi “giàu”, “rất giàu”, thường được xem là lục địa giàu về nguồn tài nguyên (resource-rich continent), chiếm hơn 30% trữ lượng khoáng sản thế giới, trong đó phải kể đến vàng, kim cương, dầu mỏ, đá quý. Tanzania nổi tiếng với vàng, Congo với đồng, Nambia với Uranium, Botswana với kim cương (xem bản đồ khoáng sản châu Phi). Vậy mà gần 50% dân số châu Phi, đặc biệt tập trung ở vùng tiểu vùng Sahara châu Phi, sống dưới chuẩn nghèo thế giới (thu nhập ít hơn $1.25/ngày). Central African Republic liên tục đội sổ là quốc gia nghèo nhất thế giới, có chỉ số Phát triển con người (HDI) thấp nhất thế giới, và là quốc gia không mạnh khoẻ nhất thế giới trong nhiều năm liền.

Một, châu Phi, theo một nghĩa nào đó, đã không bắt kịp cuộc Cách mạng xanh. Các nước châu Á, với việc đầu tư phát triển nông nghiệp, giúp đảm bảo nguồn lương thực (food security), và khi nông nghiệp đảm bảo, sử dụng nguồn lao động thặng dư và vốn tập trung đầu tư công nghiệp và dịch vụ, nói cách khác, xây dựng trụ cột của nền kinh tế đất nước. Trong khi đó, điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết không cho phép các nước châu Phi, đặc biệt các nước ở vùng sub-Sahara châu Phi – ngay cận xích đạo, cùng với hạn hán, lũ lụt, thiếu kinh nghiệm trong việc làm nông (vốn quen với việc hái lượm, săn bắn), việc trồng trọt trở nên khó khăn hơn. Tư duy canh tác tiểu nông, hộ gia đình nhỏ lẹ, làm giảm khả năng canh tác, năng suất thấp mặc dù thiên nhiên khá ưu đãi, đất trù phú, thời tiết êm dịu (sub-Sahara châu Phi không nóng như mọi người vẫn nghĩ!). Lý thuyết khác cho rằng các nhà lãnh đạo châu Phi không mặn mà phát triển nông nghiệp như các kỹ thuật gia (technocrat, politician) chính trị gia châu Á. Mối quan tâm của họ là khai thác nguồn tài nguyên sẵn có hơn là phát triển nông nghiệp (rất nhiều sản phẩm nông nghiệp ở Uganda được nhập khẩu từ các nước khác, đơn cử là Trung Quốc. Việc nhập khẩu thậm chí còn rẻ hơn so với tự sản xuất làm cho các sản phẩm nội địa trở nên kém cạnh tranh).

Thứ hai, nạn tham nhũng, lạm dụng quyền lực, thiếu năng lực của cơ quan chức năng dẫn đến quản trị nguồn lực không hiệu quả. Hầu hết các nguồn thu từ việc khai thác tài nguyên (mỏ dầu, than, vàng, v..v.) đều rơi vào tay giới tay trên (political elites). Nguồn thu quốc gia không được phân phối đến các tầng lớp thấp hơn. Quá trình phân phối (trickle down process) diễn ra chậm, thậm chí không diễn ra. Trái ngược lại, đối với các nước châu Á, nhờ có chính sách phân phối nguồn thu nhập (thông qua việc đánh thuế, các chương trình phúc lợi xã hội) (redistribution policies), phần nào thành quả phát triển kinh tế đã hỗ trợ quá trình phát triển xã hội. Bộ phim Blood diamond phần nào giải thích quá trình này, khi các ông thầu kinh tế lớn, cấu kết với quan chức địa phương, không chỉ bóc lột sức lao động người dân, mà còn khai thác đến tận cùng nguồn tài nguyên phong phú của nước này. Nhìn sang các nước Bắc Âu, nhờ khả năng quản trị nguồn tài nguyên hiệu quả, tính minh bạch và giải trình cao của Chính phủ mà nguồn thu được sử dụng hiệu quả. Lý giải một chút, các nước Bắc Âu, trước Chiến tranh thế giới thứ 2, cũng là những nước phụ thuộc vào nông nghiệp, nghèo nàn, sau đó, nhờ việc bán tài nguyên phục vụ cho quá trình tái kiến thiết ở các nước châu Âu, thêm với việc không bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, và được lãnh đạo bởi các Đảng dân chủ cánh tả (tập trung vào phát triển xã hội) mà các nước Bắc Âu phát triển được như ngày nay. Trong giới Phát triển có một thuật ngữ mà các nhà chuyên môn hay dùng là Lời nguyền tài nguyên (the resource curse) nhằm mô tả các nước nào giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên thì sẽ chịu lời nguyền phải chịu cảnh tang tóc, chiến tranh, đau thương. Điển hình các cuộc nội chiến Boko Haram ở Nigeria là một ví dụ. Tất nhiên, nó chỉ mang tính tương đối.

Thứ ba, phải kể đến ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài. Sau giai đoạn thực địa, World Bank và IMF tiếp cận Chính phủ các nước châu Phi với đề xuất các gói viện trợ tái cấu trúc (structural adjustment), đầu tư vào các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, tuy nhiên, đi kèm các điều kiện về mở cửa kinh tế thị trường, hướng tới chế độ dân chủ. Nhìn lại tính hiệu quả các chương trình này, có thể nói chương trình bị thất bại, nếu không nói là thất bại một cách thảm hại. Việc tư nhân hoá (privatization) các công ty Quốc gia với nguồn vốn lũ lượt từ các nước phương Tây, sau này, bị chỉ trích thực chất là quy trình thuộc địa mới (neo-colonialism), dẫn đến sự phá sản của đơn vị kinh tế địa phương, thất nghiệp tràn lan, và thiếu hụt đầu ra sản phẩm. Thêm nữa, cách tiếp cận của các chương trình này là từ trên đưa lệnh xuống (top-down approach) mà không từ nhu cầu thực tế của người dân (bottom-up approach) nên các chương trình này nhanh chóng thất bại. Cộng thêm đề xuất thiết lập mô hình dân chủ càng làm các nước châu Phi, vốn với đặc điểm đa bộ tộc, bộ lạc, vốn đã không gắn kết với nhau, càng trở nên phân cách. Mình ở đây một thời gian, khi một người giới thiệu, họ thường sẽ nói mình đến từ bộ tộc, bộ lạc nào, hơn là có quốc tịch Uganda. Ví dụ khác, ở Nigeria, có hơn 50 Đảng phái, đại diện cho các bộ tộc, bộ lạc khác nhau. Mặc dù chỉ có 4-5 Đảng chính đứng ra tranh cử và hoạt động năng nổ, nhưng việc chia rẻ nội bộ càng khiến cho Chính phủ tập trung tranh gìanh quyên lực hơn là đầu tư cho các chương trình phát triển dài hạn. Mặc dù không có bằng chứng rõ ràng nào cho thấy dạng Nhà nước (độc tài hay dân chủ) có mối liên hệ với phát triển đất nước, nhưng việc chia rẽ nội bộ và Chính trị bất ổn ảnh hưởng đến việc đầu tư và triển khai các chính sách đồng nhất.

Thuật ngữ trong giới phát triển gọi đây là “lời nguyền tài nguyên” (resource curse). Nghiên cứu của Jeffrey Sachs và Andrew Warner chỉ ra mối liên hệ giữa tài nguyên và tốc độ phát triển kinh tế phụ thuộc vào nguồn thu nhập được sử dụng như thế nào, thể chế Nhà nước, năng lực Chính phủ, giai đoạn phát triển quốc gia (early vs.late industrialisation). Nguồn tài nguyên, do đó, có thể xem là “lời nguyền” hoặc “phước ban”. Lấy ví dụ các nước Bắc Âu, nhờ việc sử dụng hiệu quả nguồn dầu mỏ và than đá, cộng với một Nhà nước minh bạch và chính sách phân phối thu nhập (do Đảng Dân chủ xã hội tiên phong), đã vực dậy các nước này từ kinh tế dựa vào nông nghiệp thành nước công nghiệp phát triển, đặc biệt từ sau thế chiến thứ 2. Nhìn vào Nigeria, một nước giàu nguồn dầu mỏ, một trong những nguyên do phát sinh nội chiến Boko Haram là tranh chấp về nguồn tài nguyên. Chính phủ và các tập đoàn đa quốc gia đòi hỏi quyền sở hữu tài nguyên (dầu mỏ) trên chính mảnh đất của người bản địa (bộ tộc, bộ lạc khác), và thực tế, người bản địa không được hưởng lợi từ việc khai thác trên. Đói nghèo, đầu tư thấp cho dịch vụ giáo dục và chăm sóc sức khoẻ, tham nhũng, khác biệt tôn giáo (đạo Hồi và Thiên chúa giáo) làm ngòi lửa cho cuộc tranh chấp. Hơn một thập kỷ, nội chiến tiếp tục tồn tại và kéo dài cho đến ngày nay.

Việc có nhiều bộ tộc, bộ lạc khiến cho việc triển khai các chính sách khó khăn hơn. Có một lý thuyết tại sao các chương trình phát triển works ở các nước khác khi có thành phần dân tộc homogenious hơn. Việc đa dạng chủng tộc khiến cho việc thiết kế các chương trình đòi – more centrialised.

Đó những lý do khiến châu Phi, đặc biệt các nước ở sub-Sahara vẫn nghèo đói như ngày nay.

Thông tin thêm mời các bạn đọc thêm cuốn: The looting machine (Tom Burgis), Taxing Africa (Mick Moore), và Asia-Africa Development Divergence: A question of intent (David Henley).

– Ngọc Thảo –