Ví dụ về nội dung và hình thức

 Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức. Từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng đó có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì? Nêu một số ví dụ minh hoạ.

–    Khái niệm nội dung và hình thức với tư cách là phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

Khái niệm nội dung dùng để chỉ toàn bộ các yếu tố làm cơ sở cấu thành nên sự vật; còn khái niệm hình thức dùng để chỉ phương thức kết hợp các yếu tố đó tạo nên sự tồn tại của sự vật.

Ví dụ, khi phân tích mỗi phân tử nước [H20] đã cho thấy: các yếu tố vật chất làm cơ sở cấu thành nên nó là 2 nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy [nội dung]; cách thức liên kết hoá học của chúng là: H – 0 – H [hình thức].

–          Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức, nghĩa phương pháp luận

+ Nội dung và hình thức là hai phương diện cấu thành nên mỗi sự vật: không có sự vật nào tồn tại mà chỉ có nội dung mà không có hình thức nhất định. Vì vậy, khi nghiên cứu nội dung của mỗi sự vật bao giờ cũng cần xem xét nó theo phương thức kết hợp nhất định và ngược lại. Việc nghiên cứu thuần tuý nội dung hay hình thức thuần tuý chỉ mang ý nghĩa là sự trừu tượng hoá trong một quá trình nhận thức xác định.

Ví dụ, khi nghiên cứu một đối tượng, trước hết người ta có thể tiến hành phân tích xem nó được cấu thành từ những yếu tố, bộ phận,… nào. Sau đó tiến hành nghiên cứu xem chúng được liên kết với nhau theo cách thức nào để tạo nên sự tồn tại của đối tượng đó, nhờ đó hiểu được toàn diện đối tượng ấy, giải thích được tính chất chung được tạo ra từ sự liên kết các yếu tố, bộ phận đó.

+ Cùng một nội dung nhưng có thể có những phương thức kêt hợp khác nhau; ngược lại, các nội dung khác nhau nhưng có thể có sự đồng dạng về phương thức kết hợp giữa chúng. Tuy nhiên điều đó không phải là tuyệt đối, phi nguyên tắc.

Ví dụ, một số doanh nghiệp có thể tương đồng nhau về số lượng vốn nhưng lại có phương thức kinh doanh ít hay nhiều khác nhau, từ đó tạo nên tính hiệu quả kinh doanh khác nhau; ngược lại, cùng một phương thức kinh doanh nhưng lại có thể thích hợp với một số doanh nghiệp có số lượng vốn ít nhiều khác nhau.

+ Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng, trong đó nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Giữa nội dung và hình thức không phải luôn luôn có sự thống nhất. Thông thường, quá trình biến đổi, phát triển của một sự vật được bắt đầu từ sự biến đổi nội dung của nó [dưới một hình thức phù hợp], tới một giới hạn nhất định sẽ xuất hiện sự không còn phù hợp giữa nội dung và hình thức. Khi đó sẽ xuất hiện nhu cầu thay đổi hình thức tạo nên sự phù hợp mới.

Vì vậy, vấn đề mấu chốt trong nhận thức và thực tiễn là nghiên cứu sự vật từ quá trình biến đổi nội dung của nó và xác lập sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.

Ví dụ, dưới một hình thức kinh doanh phù hợp, số lượng vốn của doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Đến một giai đoạn nhất định, nó đòi hỏi phải thay đổi cách thức tổ chức kinh doanh cũ, xác lập cách thức kinh doanh mới để bảo toàn lượng vốn cũ và không ngừng thực hiện sự tăng trưởng của doanh nghiệp.

[Last Updated On: 20/06/2022 By Lytuong.net]

Nội dung, hình thức là gì? Phân tích mỗi quan hệ biện chứng và ý nghĩa của cặp phạm trù nội dung và hình thức? [Triết học Mác Lênin]

1. Khái niệm nội dung và hình thức

Nội dung của đối tượng là tổng thể các bộ phận, yếu tố hợp thành nó, những tương tác và biến đổi trong nó.

Nội dung không chỉ bao gồm các bộ phận và sự tương tác của chúng với nhau, tức là những tương tác bên trong, mà còn quy định cả những tương tác với những đối tượng bên ngoài khác.

Nội dung chính là chất liệu để trên cơ sở đó xây dựng nên các sự vật, hiện tượng. Do đó, nó được xem là mặt bên trong của sự vật, cái được hình thức chứa đựng hay biểu hiện.

Ví dụ: Nội dung của một tác phẩm nghệ thuật, là toàn bộ các yếu tố như tư tưởng của tác phẩm, hình tượng nghệ thuật, v.v…đã phản ánh, và giải quyết những vấn đề nào đó của cuộc sống hiện thực. Hoặc, nội dung của một cơ thể sống là toàn bộ các yếu tố vật chất, như tế bào, khí quan, quá trình sống v.v…

Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật, hiện tượng ấy; là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội dung của sự vật, hiện tượng và không chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài, mà còn là cái thể hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng. “Hình thức là toàn thể nói chung những gì làm thành bề ngoài của sự vật, cái chứa đựng hoặc biểu hiện của nội dung. Hình thức là cách thể hiện, cách tiến hành một hoạt động. Hình thức bao gồm hình thức bên trong và hình thức bên ngoài.”

Ví dụ: Hình thức của một tác phẩm nghệ thuật văn chương, được thể hiện thông qua phương thức diễn đạt nội dung của tác phẩm… là cách sắp xếp trình tự các chương, mục, cách diễn đạt, hình dáng, mầu sắc trang trí của tác phẩm.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

Triết học duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại, vận động và phát triển ở các sự vật đều bao hàm sự thống nhất, sự tác động qua lại lẫn nhau giữ nội dung và hình thức. Trong mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức, thì nội dung quyết định hình thức, hình thức có tính độc lập tương đối, v.v…

a/ Sự thống nhất giữa nôi dung và hình thức

Nội dung và hình thức là hai mặt gắn bó với nhau trong mỗi sự vật. Trong mỗi sự vật đều có hai mặt: Nội dung và hình thức; không có sự vật nào chỉ có một mặt. Không có nội dung nào lại không gắn liền với một hình thức nhất định; ngược lại cũng không có một hình thức nào lại không chứa một nội dung nhất định. Nên nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất.

Nội dung và hình thức không tồn tại tách rời nhau, nhưng không phải vì thế mà lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình thức nhất định, và một hình thức luôn chỉ chứa một nội dung nhất định, mà một nội dung trong quá trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại, một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau.

b/ Nội dung giữ vai trò quyết định hình thức

Hình thức là mối liên hệ giữa những mặt, những yếu tố, những bộ phận, cho nên hình thức chịu sự quy định của chính những mặt, những yếu tố, bộ phận đó.

Hình thức phải phù hợp với nội dung, tuy nhiên, sự phù hợp giữa hình thức và nội dung không cứng nhắc. Cùng một nội dung nhưng trong những điều kiện tồn tại khác nhau có thể có những hình thức khác nhau.

So với hình thức, nội dung luôn giữ vai trò quyết định quá trình phát triển của sự vật, nó là yếu tố động và luôn thay đổi. Còn hình thức, là yếu tố tương đối ổn định của sự vật. Vì vậy, sự biến đổi và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ nội dung, còn sự biến đổi của hình thức thì chậm hơn. Nhưng luôn có khuynh hướng phù hợp với nội dung.

c/ Hình thức tác động trở lại nội dung

Hình thức do nội dung quyết định, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở chỗ: Nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển; nếu không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát
triển của nội dung.

Ở thời kì đầu tồn tại, hình thức của đối tượng phù hợp với nội dung và do vậy giữ vai trò tích cực trong sự phát triển của nó. Với sự hỗ trợ tích cực của hình thức, nội dung phát triển càng ngày càng xa, còn hình thức vẽ cơ bản vẫn giữ nguyên không đổi. Thời gian qua đi và khuôn khổ chật hẹp của hình thức cũ bắt đầu cản trở nội dung đang biến đổi. Hình thức không còn phủ hợp với nội dung nữa, trở nên kim hãm sự phát triển của nội dung. Sự không tương thích ngày càng lớn dẫn, giữa chúng xảy ra xung đột. Và cuối cùng nội dung đã di xa về phía trước vứt bỏ hình thức quá cũ kĩ, thủ tiêu nó. Nhưng thời điểm thủ tiêu hình thức đồng thời cũng là thời điểm biển đổi của nội dung. Sự thủ tiêu những mối liên hệ bền vững đòi hỏi sự biến đổi mạnh các bộ phận của nó và chấm dứt những tương tác lẫn nhau đã tồn tại trước đó. Như vậy, sự phù hợp hình thức và nội dung, sự thống nhất của chúng, cũng như thống nhất chất và lượng, là ranh giới tồn tại của đối tượng.

3. Ý nghĩa phương pháp luận

Từ mối quan hệ giữa nội dung và hình thức có thể rút ra kết luận cho thực tiễn.

Thứ nhất, hình thức của sự vật, hiện tượng do nội dung của nó quyết định, là kết quả những thay đổi của nội dung và để đáp ứng những thay đổi đó, thì sự thay đổi hình thức phải dựa vào những thay đổi thích hợp của nội dung quyết định nó; do vậy, muốn biến đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải tác động, làm thay đổi nội dung của nó.

Thứ hai, hình thức chỉ thúc đẩy nội dung phát triển khi nó phù hợp với nội dung nên để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển nhanh, cần chú ý theo dõi mối quan hệ giữa nội dung đang phát triển với hình thức ít thay đổi, và khi giữa nội dung với hình thức xuất hiện sự không phù hợp thì trong những điều kiện nhất định, phải can thiệp vào tiến trình khách quan, đem lại sự thay đổi cần thiết về hình thức để nó trở nên phù hơp với nội dung đã phát triển và bảo đảm cho nội dung phát triển hơn nữa, không bị hình thức cũ kìm hãm.

Ví dụ: Thói trì trệ, chậm đổi mới các hình thức và phương pháp quản lí, sự gia tăng tệ quan liêu, tuyệt đối hoá những hình thức tổ chức xã hội được hình thành trước đây trong thực tiễn là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng khủng hoảng xã hội và của những xu hướng bất lợi đã bộc lộ ở nước ta những năm gần dây. Xã hội có đạt tới sự phát triển mới về chất hay không phần nhiều phụ thuộc vào việc đổi mới đến đâu những hình thức xã hội già cỗi, phong cách và phương pháp làm việc cũ, đưa chúng vào phù hợp đến mức độ nào với những điều kiện dạng thay đổi.

Thứ ba, một nội dung có thể có nhiều hình thức thể hiện và ngược lại nên cần sử dụng mọi hình thức có thể có, mới cũng như cũ, kể cả việc phải cải biến các hình thức vốn có, lấy hình thức này bổ sung, thay thế cho hình thức kia để làm cho bất kỳ hình thức nào cũng trở thành công cụ phục vụ nội dung mới. V.I. Lênin kịch liệt phê phán thái độ chỉ thừa nhận các hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ, chỉ muốn làm theo hình thức cũ, đồng thời cũng phê phán thái độ phủ nhận vai trò của hình thức cũ trong hoàn cảnh mới, chủ quan, nóng vội, thay đổi hình thức cũ một cách tuỳ tiện, vô căn cứ.

Video liên quan

Chủ Đề