học truyền thống cổ điển và dựa vào phẩm chất của các quá trình trừu tượng
hóa.
Đơn vị cơ bản của từ vựng là từ. Từ là chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa
được dùng độc lập để cấu tạo câu nói. Từ vốn có ý nghĩa và năng lực gọi tên,
biểu thị các sự vật, hiện tượng, trong phạm vi định danh và có năng lực
tham gia vào các mối liên hệ từ vựng trong ngữ đoạn. Thoả mãn những đòi
hỏi của phạm vi định danh và phạm vi ngữ đoạn của hoạt động ngôn ngữ, từ
có tất cả những đặc trưng tuyệt đối lẫn những đặc trưng tương đối. Chính đặc
điểm này đã biến từ trở thành một loại đơn vị ngôn ngữ đặc biệt, nằm trên
giao điểm của hai trục cơ bản trong cấu trúc của ngôn ngữ - trục đối vị [trục
dọc] và trục nối tiếp [trục ngang].
Bên cạnh các từ, trong thành phần từ vựng của mỗi ngôn ngữ còn tồn
tại rất nhiều các cụm từ cố định, thường được gọi là các thành ngữ. Cụm từ cố
định có nhiều điểm giống với từ: Chúng cũng có khả năng tái hiện trong lời
nói như các từ; Về mặt ngữ pháp, chúng cũng có thể là thành phần của câu,
cũng có thể là cơ sở để cấu tạo từ; Về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu thị
những hiện tượng của thực tế khách quan gắn liền với những kiểu hoạt động
khác nhau của con người. Chính vì vậy, các cụm từ cố định cũng nằm trong
thành phần từ vựng của ngôn ngữ, cũng được hệ thống hoá trong các từ điển.
Từ và cụm từ cố định được gọi là những đơn vị định danh cơ bản của
ngôn ngữ, thực hiện chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng của thực tế.
Tuy nhiên, cụm từ cố định không phải là đơn vị từ vựng cơ bản, bởi vì chúng
do các từ cấu tạo nên: muốn có các cụm từ cố định trước hết phải có các từ.
Từ chẳng những là đơn vị cơ bản của từ vựng mà còn là đơn vị cơ bản
của ngôn ngữ nói chung.
Trong các đơn vị ngôn ngữ, từ là đơn vị có thể đảm nhiệm nhiều chức
năng nhất. Chức năng cơ bản của từ là chức năng định danh, nhưng trong dãy
ngữ đoạn, từ còn mang chức năng phân biệt nghĩa, làm bộc lộ ý nghĩa này
hay ý nghĩa khác của những từ nhiều nghĩa. Tuỳ theo tính chất của mình, từ
17
có thể đảm nhiệm những chức năng khác nhau trong cấu trúc ngôn ngữ.
Thuộc tính nhiều chức năng của từ cho phép nó trở thành một đơn vị chiếm vị
trí trung tâm trong cấu trúc của ngôn ngữ.
Cấu trúc ý nghĩa của từ rất phức tạp, trong đó có cả nhân tố từ vựng lẫn
nhân tố ngữ pháp: Những ý nghĩa chung cho toàn bộ lớp từ không tương quan
với loạt sự vật, được gọi là những ý nghĩa ngữ pháp; Đặc trưng khái quát
hóa về phương diện phạm trù của một từ do nó tham gia vào một nhóm ý
nghĩa nào đó mà có được; Ý nghĩa từ vựng vốn có đối với một từ cụ thể,
tương quan với một loạt sự vật và là sự phản ánh của các sự vật và các quan
hệ của chúng trong hiện thực.
1.3.2 Đặc điểm của từ và từ vựng tiếng Việt
1.3.2.1 Từ tiếng Việt
Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang
những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất
định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và
nhỏ nhất để tạo câu [3, tr. 16]. Các thành phần ngữ âm, thành phần ngữ
pháp, thành phần cấu tạo, thành phần ý nghĩa không độc lập đối nhau mà
thống nhất với nhau thành một hợp thể gọi là từ. Trong đó, ngoài thành phần
ngữ âm thì các thành phần còn lại không phải là của riêng mỗi từ, chúng có
thể xuất hiện trong từ này cũng có thể xuất hiện trong từ kia.
Về đặc điểm ngữ âm thì hình thức âm thanh của từ tiếng Việt cố định,
bất biến ở mọi vị trí, mọi quan hệ và chức năng trong câu. Tính bất biến, tính
cố định về âm thanh là điều kiện hết sức thuận lợi giúp chúng ta nhận diện
được từ khá dễ dàng. Chúng có quan hệ mật thiết tính độc lập tương đối cao
của từ tiếng Việt đối với câu, với ngôn cảnh.
Về đặc điểm ngữ pháp thì tính chất chung nhất của các đặc điểm ngữ
pháp là tính đồng loạt, điều đó có nghĩa là những đặc điểm ngữ pháp tìm ra
được không phải là của riêng một từ mà còn là của chung một số từ. Nhờ tính
đồng loạt đó mà từ vựng của một ngôn ngữ mới chia ra được thành các từ
18
loại. Ở tiếng Việt, đặc điểm ngữ pháp của từ không biểu hiện trong nội bộ từ
mà biểu hiện chủ yếu ở ngoài từ, trong tương quan của nó với các từ khác
trong câu [3, tr. 22]. Đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt là tổng thể của
những đặc điểm kết hợp, khả năng làm thành phần cụm từ, thành phần câu.
Về đặc điểm cấu tạo của từ tiếng Việt bao gồm yếu tố cấu tạo từ, đơn vị
cấu tạo từ và phương thức cấu tạo từ.
Xét theo khả năng sản sinh ra các từ cho từ vựng tiếng Việt thì yếu tố
cấu tạo từ là những yếu tố mà tiếng Việt sử dụng để cấu tạo ra các từ cho từ
vựng. Trong tiếng Việt các yếu tố cấu tạo từ là những hình thức ngữ âm có
nghĩa nhỏ nhất tức là những yếu tố không thể phân chia nhỏ hơn nữa mà
cũng có nghĩa được dùng để cấu tạo ra các từ theo các phương thức cấu tạo
từ của tiếng Việt. Chúng ta gọi các yếu tố có đặc điểm và chức năng như trên
bằng thuật ngữ có tính quốc tế: hình vị [3, tr.28].
Phương thức cấu tạo từ là cách thức mà ngôn ngữ tác động vào hình vị
để cho ta các từ. Tiếng Việt sử dụng ba phương thức sau đây để tạo từ, đó là
phương thức từ hóa hình vị, ghép hình vị và láy hình vị.
Từ hóa hình vị là phương thức tác động vào bản thân một hình vị, làm
cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ
mà không thêm bớt gì cả vào hình thức của nó. Phương thức này chủ yếu chỉ
tác động vào các hình thức ngữ âm mô phỏng âm thanh và các yếu tố vay
mượn.
Ví dụ: gac đờ bu, mỳ chính, ti vi, cát sét, radio,
Ghép là phương thức tác động vào hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa,
kết hợp chúng với nhau để sản sinh ra một từ mới mang đặc điểm ngữ pháp
và ngữ nghĩa của từ].
Ví dụ: bàn học, bàn ăn, bố mẹ, thầy trò, xe máy, máy cày, hợp tác xã,
sách vở
19
Láy là phương thức tác động và một hình vị cơ sở làm xuất hiện một
hình vị láy giống nó toàn bộ hay bộ phận về âm thanh. Cả hình vị cơ sở và
hình vị láy tạo thành một từ mang đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của từ.
Ví dụ: ầm ầm, ào ào, xanh xanh, đo đỏ, rì rầm, rì rào, lênh khênh, khúc
khuỷu, róc rách, líu lo,
Ngoài ra, trong tiếng Việt còn có phương thức tạo từ theo lối chuyển
nghĩa một từ đã có sẵn.
Ví dụ: từ ốc để chỉ sinh vật [con ốc, ốc sên] chuyển nghĩa cho ra từ
ốc để chỉ đồ vật [ốc vít, đinh ốc]; từ ruột để chỉ một bộ phận sinh vật
[ruột con gà] chuyển nghĩa cho ra từ ruột để chỉ một bộ phận của đồ vật
[ruột bút].
Xét về mặt cấu tạo, có thể phân chia từ tiếng Việt thành ba loại lớn như
sau:
- Từ đơn: là những từ có một hình vị , về mặt ngữ nghĩa chúng không
lập thành những hệ thống có một kiểu ngữ nghĩa chung. Chúng ta lĩnh hội và
ghi nhớ nghĩa của từng từ một riêng rẽ. Kiểu cấu tạo không đóng vai trò gì
đáng kể trong việc lĩnh hội ý nghĩa của từ [3, tr.40].
Ví dụ: bố, mẹ, ghế, bàn, cô, thầy, cháu, chó, mèo cây, hoa,
- Từ ghép: là những từ được sản sinh do sự kết hợp của hai hoặc một số
hình vị [hay đơn vị cấu tạo] tách biệt, riêng rẽ,độc lập đối với nhau. Phương
thức ghép có các cách thức cụ thể khác nhau, do đó sản sinh ra các loại từ
ghép không giống nhau về ngữ nghĩa. Phân loại các từ ghép tiếng Việt thực
chất là phát hiện ra các cách thức cụ thể mà phương thức ghép đã vận dụng để
sản sinh ra các từ ghép cho tiếng Việt. Tiếng Việt có một số loại từ ghép như:
từ ghép phân nghĩa, từ ghép hợp nghĩa, từ ghép biệt lập, từ phức Hán Việt,
theo Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng, ngữ nghĩa tiếng Việt. Nhưng nhìn
chung, để dễ hiểu hơn, chúng ta có thể sử dụng cách thức phân chia từ ghép
tiếng Việt thành hai loại lớn là từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ.
20
Từ ghép đẳng lập là từ ghép mà giữa các tiếng có quan hệ bình đẳng,
độc lập ngang hàng nhau, không có tiếng chính, tiếng phụ. Nói cách khác, từ
ghép đẳng lập là từ được ghép từ những tiếng bình đẳng với nhau cả về ngữ
pháp lẫn ngữ nghĩa.
Ví dụ: bạn bè, áo quần, xây dựng, anh chị,....
Từ ghép chính phụ là từ ghép mà giữa các tiếng có quan hệ tiếng chính,
tiếng phụ. Nói cách khác, từ ghép chính phụ là từ ghép mà giữa các tiếng
được ghép lại không bình đẳng với nhau về ngữ pháp, ngữ nghĩa.
Ví dụ: xe cộ, đường sá, chợ búa, viết lách, máy móc, hội hè, trông
nom,
Từ ghép đẳng lập thường được dùng để chỉ lớp khái quát sự vật, hiện
tượng, con người. Còn từ ghép chính phụ để chỉ lớp đối tượng, sự vật, hành
động, cụ thể, tách biệt.
- Từ láy: là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương
thức lặp lại toàn bộ hay bộ phận của âm tiết [hình vị]. Các từ láy có thể phân
thành từng kiểu khác nhau. Trước hết, từ láy được phân chia thành từ láy đôi
và từ láy ba, láy tư.
Sở dĩ chúng ta tách kiểu láy đôi ra khỏi kiểu láy ba, láy tư là vì chúng
ta dựa vào thành tố cấu tạo. Kiểu láy đôi là kiểu từ láy có hai âm tiết. Kiểu láy
ba là kiểu láy có ba âm tiết và láy tư là kiểu láy có bốn âm tiết. Kiểu láy ba
được cấu tạo nên trên cơ sở kiểu lặp hoàn toàn; kiểu láy tư có thể được cấu
tạo nên trên cơ sở kiểu láy bộ phận hoặc láy hoàn toàn.
+ Loại láy đôi có thể phân chia thành hai kiểu láy là láy toàn bộ và láy
bộ phận.
Láy toàn bộ là các tiếng lặp lại nhau hoàn toàn, nhưng cũng có một số
trường hợp, tiếng [âm tiết] đứng trước biến đổi thanh điệu hoặc phụ âm cuối
để tạo ra sự hài hòa về âm thanh .
Ví dụ: xanh xanh, đo đỏ, thăm thẳm, nghiêng nghiêng, tim tím, ào ào,
ầm ầm, chuồn chuồn.
21
Láy bộ phận là kiểu từ láy mà giữa các tiếng có sự giống nhau về phụ
âm đầu hoặc phần vần.
Ví dụ: mập mạp, gọn gàng, phờ phạc, líu lo, róc rách,liêu xiêu, trập
trùng, phập phồng, co ro, lác đác, lúng túng, cập rập, lơ thơ, bồng bềnh, lụp
sụp
+ Từ láy ba, láy tư
Từ láy ba trong tiếng Việt không nhiều lắm về mặt số lượng, với
khoảng 40 từ theo thống kê của Nguyễn Thiện Giáp [2, tr.128]. Nếu xét
phương pháp cấu tạo từ láy ba trên cơ sở từ láy đôi thì có các khả năng: thêm
một yếu tố vào trước láy đôi [X + AB]; thêm một yếu tố vào sau từ láy đôi
[AB + X]; thêm một yếu tố vào giữa láy đôi [A + X + B].
Ví dụ: cỏn còn con, sạch sành sanh, lơ tơ mơ, dửng dừng dưng, cuống
cuồng cuồng,
Cũng như từ láy ba, từ láy tư cũng là loại từ láy xây dựng trên cơ sở từ
láy đôi. Nhưng từ láy tư chủ yếu xây dựng trên cơ sở láy đôi bộ phận.
Ví dụ: róc ra róc rách, lôi thôi lếch thếch, hì hà hì hục, lênh kha lênh
khênh, lủng cà lủng củng, lững thà lững thững, hớt hơ hớt hải, tần ngẩn tần
ngần, lảm nha lảm nhảm, lơ thơ lẩn thẩn,
1.3.2.2 Từ vựng tiếng Việt
Từ vựng không chỉ bao gồm các từ mà còn bao gồm cả các ngữ, tức là
những cụm từ sẵn có tương đương với từ [như các cụm từ cố định, thành ngữ,
tục ngữ...]. Tuy nhiên, "trong các đơn vị từ vựng, từ là đơn vị cơ bản. Ngữ
không phải là đơn vị từ vựng cơ bản vì nó do các từ cấu tạo nên, muốn có các
ngữ, trước hết phải có các từ" [13, tr.191].
Đơn vị từ vựng là đơn vị mà nội dung cơ bản của nó có tính chất vật
chất [tức là có tính chất sự vật chứ không phải có tính chất ngữ pháp], còn sự
tương ứng với những nguyên tắc định hình của các từ riêng biệt vốn có đối
với ngôn ngữ đó. Từ là đơn vị cơ bản của từ vựng. Bên cạnh từ, trong thành
22
phần từ vựng của mỗi ngôn ngữ còn tồn tại nhiều đơn vị từ vựng là các cụm
từ, những đơn vị này thường được gọi là thành ngữ, quán ngữ.
Thành ngữ là những cụm từ mà trong cơ cấu cú pháp và ngữ nghĩa
của chúng có những thuộc tính đặc biệt, chỉ có ở cụm từ đó. Nói cách khác,
thành ngữ là một cụm từ mà ý nghĩa của nó không được tạo thành từ ý nghĩa
của các từ cấu tạo nên nó [13, tr.209]. Ác giả ác báo, Ếch ngồi đáy
giếng, Há miệng chờ sung, Lá lành đùm lá rách, là những thành ngữ
trong tiếng Việt, bởi vì ý nghĩa của chúng không phải là ý nghĩa của các thành
tố hợp lại theo quy tắc cú pháp. Thành ngữ có tính hoàn chỉnh về nghĩa
nhưng lại có tính chất tách biệt của các thành tố trong kết cấu, do đó nó hoạt
động trong câu với tư cách tương đương với một từ cá biệt.
Quán ngữ là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại văn
bản để liên kết hoặc nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. thiết nghĩ,
nói cách khác, nói tóm lại, trước hết, sau cùng, là các quán ngữ
trong tiếng Việt. Về ý nghĩa cũng như về hình thức, các quán ngữ giống như
các cụm từ tự do nhưng chúng được dùng lặp đi lặp lại như một đơn vị có sẵn.
Do đó, quán ngữ chiếm vị trí trung gian giữa cụm từ tự do và cụm từ cố định.
Từ vựng là một trong ba bộ phận chủ yếu cấu thành nên toàn bộ cơ cấu
một ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Do đó, trong quá trình dạy và học
một ngôn ngữ, việc cung cấp và thực hành từ vựng đóng vai trò hết sức quan
trọng; nó thường được tiến hành ở ngay bài học đầu tiên và hầu như quyết
định đối với quá trình hiểu và giao tiếp của người học. "Thụ đắc từ là một
nhiệm vụ quan trọng nhất và to lớn nhất đối với người học một ngôn ngữ..."
Tiểu kết:
Trên cơ sở lí thuyết về từ vựng và đơn vị của từ vựng, chúng ta nhận
thấy cái dễ và khó trong việc sử dụng từ trong giao tiếp, đặc biệt là đối với
người bắt đầu học. Vì vậy, việc dạy về cấu tạo từ phải thực hiện theo nguyên
23
tắc từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, cung cấp cho người học một lượng từ vừa
phải ở những mức độ khác nhau trong những giai đoạn học khác nhau.
Độ khó trong việc hiểu từ, nắm bắt và sử dụng từ lệ thuộc vào nhiều
nhân tố, trong đó nhân tố cấu trúc, nhữ nghĩa và ngữ pháp của từ đều có tầm
quan trọng và khó khăn của nó.
Nói tới tiếng Việt là nói tới cả ba mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của
nó, nhưng so với ngữ âm và ngữ pháp thì từ vựng có tầm quan trọng hàng đầu
bởi vì chính từ vựng mới trực tiếp phản ánh đời sống xã hội. Mọi diễn biến
trong đời sống xã hội đều được ghi nhận trước hết trong từ vựng; ngữ âm và
ngữ pháp chỉ quan hệ với đời sống xã hội một cách gián tiếp thông qua từ
vựng. Do đó, trong quá trình học và dạy tiếng Việt cũng như học và dạy một
thứ tiếng bất kì nào khác, từ vựng đóng một vai trò quan trọng, cần yếu đầu
tiên. Việc tích luỹ từ vựng là quá trình vết dầu loang,có nghĩa là sự tích luỹ
dần và tuỳ theo đối tượng, mục đích việc tích luỹ từ vựng cũng khác nhau. Do
vậy, việc biên soạn giáo trình không thể đáp ứng đồng đều theo yêu cầu của
mỗi người mà chỉ cần đáp ứng yêu cầu của mẫu số chung.
Để đáp ứng yêu cầu cung cấp vốn từ hữu ích cho học viên một cách
nhanh và hiệu quả nhất, giúp học viên nhận diện từ và ghi nhớ từ một cách dễ
dàng thì trong khi biên soạn giáo trình, bên cạnh hệ thống bài học được xác
định, các tác giả cũng cần chú ý xác định hệ thống chủ điểm [chủ đề] một
cách hệ thống nhằm đảm bảo tính tương thích, cập nhật của vốn từ.
24
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH NGUỒN NGỮ LIỆU ĐƯỢC KHẢO SÁT
THEO ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG NGỮ PHÁP CỦA VỐN TỪ
2.1. DẪN NHẬP
2.1.1 Theo cách hiểu truyền thống, phạm trù từ vựng - ngữ pháp của
một ngôn ngữ là hệ thống từ loại của ngôn ngữ đó. Điều này có nghĩa rằng
mỗi phạm trù từ vựng ngữ pháp còn được gọi là một từ loại [theo cách nhìn
của ngữ pháp học].
25
Vấn đề từ loại là một vấn đề xa xưa và cổ truyền bậc nhất của ngữ
pháp học, đúng hơn là của ngữ pháp học truyền thống. Học thuyết về từ loại
ra đời từ thời cổ Hy Lạp, gắn với tên tuổi của nhà triết học Aristot . Thuở ấy
từ loại đã được đặt trong quan hệ với lo - gic, song Aristot đã không gắn từ
loại với chín phạm trù mà ông đề xuất [10, tr. 14]. Và một học thuyết trọn
vẹn về từ loại đã được hình thành vào thời kì Alexandria [thế kỉ 3 - 1 trước
Công nguyên].
Về nguyên tắc phân định từ loại, các nguyên tắc được sử dụng là
nguyên tắc hình thái học và ngữ nghĩa, hoặc là chỉ dùng nguyên tắc hình thái
học, hoặc là sử dụng pha trộn cả hai nguyên tắc này.
Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, không biến đổi về
hình thái, do đó không có biểu hiện về hình thái của từ loại. Trên thực tế, các
bảng phân định từ loại của tiếng Việt cho đến nay vẫn căn cứ vào phương
pháp và kết quả nghiên cứu về từ loại của các ngôn ngữ châu Âu, có nguồn
gốc từ thời Alexandria và được hiệu chỉnh vào thế kỉ 17 trong Ngữ pháp duy
lí và phổ quát của Port Royal, cộng với những điều chỉnh cho thích hợp hơn
với tiếng Việt.
Các từ loại của ngôn ngữ là những lớp từ nhất định của ngôn ngữ ấy
xét ở đặc trưng ngữ pháp. Cho đến nay có cách phân loại khá phổ biến trong
phân định từ loại là phân định vốn từ của một ngôn ngữ thành hai lớp khái
quát là thực từ và hư từ, và tiếp đó là phân chia ra nhiều lớp cụ thể hơn với
những đặc trưng xác định hơn.
2.1.2 Bàn về vấn đề từ loại, từ trước đến nay vẫn có nhiều quan điểm
và có ý kiến còn hồ nghi, đặt câu hỏi rằng, trong tiếng Việt có tồn tại khái
niệm về từ loại hay không? Trong các ngôn ngữ biến hình từ loại được phân
định dựa vào tiêu chí hình thức, còn đối với tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập,
đã có những ứng xử không giống nhau về từ loại. Trong lịch sử nghiên cứu
tiếng Việt có những ý kiến cho rằng từ tiếng Việt không định loại được vì
chúng không có một dấu hiệu hình thức nào cả, nói cách khác là tiếng Việt
26
không có cái gọi là từ loại. Tuy nhiên số đông các nhà nghiên cứu thì cho
rằng tiếng Việt vẫn có từ loại và họ đã ra công tìm tòi các dấu hiệu khách
quan để định loại.
Phủ nhận sự tồn tại của từ loại là nhóm tác giả: Lê Quang Trinh,
Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường. Theo Lê Quang Trinh Trong tiếng Việt,
không có quán từ, danh từ, cũng không có đại từ , động từ không có giống,
không có số: chỉ có tính từ không thôi, những từ đó nhất loạy là đơn âm tiết,
nói chung không biến hình và ý nghĩa của chúng là do những từ đặt trước hay
đặt sau, nghĩa là do tác dụng và vị trí của chúng ở trong câu làm cho biến đổi
đi và rõ ra.... [Dẫn theo[12, tr.189]].
Đến năm 1949, Hồ Hữu Tường đề cập lại vấn đề này. Ông viết: Tiếng
Việt cơ cấu theo một lối khác hẳn so với các ngôn ngữ phương Tây [không có
sự biến đổi hình thái], do đó không có từ loại, mà, tùy thuộc vào vị trí trong
câu mà có tính chất [thuộc tính] nhất định, mỗi từ có thể có nhiều thuộc tính
khác nhau [Dẫn theo[13, tr.189]].
Với những người khẳng định tiếng Việt có từ loại thì từ loại tiếng Việt
được phân định thành thực từ với hư từ và tiếp đó, phân định thành những lớp
từ loại cụ thể.
Khi phân định từ loại tiếng Việt thành có xu hướng khá thống nhất là
căn cứ vào ba tiêu chuẩn sau đây:
- Ý nghĩa khái quát [còn được gọi là ý nghĩa phạm trù chung]
- Khả năng kết hợp [Với tư cách là một tiêu chuẩn thuộc mặt biểu hiện
hình thức]
- Khả năng giữ một hay một số chức vụ cú pháp chủ yếu [tức là khả
năng làm thành phần câu, tiêu chuẩn về chức năng].
Ba tiêu chuẩn này sẽ được vận dụng theo những cách và những mức độ
thích hợp trong quá trình định loại các lớp từ tiếng Việt. Tuy không trực tiếp
nhưng phạm trù từ loại cũng là một tiêu chí đáng được phân tích khi khảo sát
từ vựng trong các giáo trình dạy tiếng.
27