Bằng cách nào Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương

Hướng tiến công chiến lược của Nava trong thu - đông 1953 và xuân 1954 là

Điểm then chốt của kế hoạch Nava là

Đâu được coi là điểm yếu, điểm hạn chế cố hữu của kế hoạch quân sự Nava?

81 điểm

Phương Lan

Mục đích sâu xa của Mĩ khi can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương trong những năm 1950 - 1954 là A. Giúp đỡ cho chính quyền tay sai của Mĩ ở Đông Dương. B. Nhằm ràng buộc chính phủ Bảo Đại. C. Giúp đỡ Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương.

D. Từng bước thay chân Pháp ở Đông Dương.

Tổng hợp câu trả lời [1]

Đáp án D - Ngày 8-5-1950, Mĩ đồng ý viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp nhằm từng bước nắm quyền điều khiển trực tiếp chiến tranh Đông Dương. - Ngày 23-12-1950, Mĩ kí với Pháp Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương nhằm từng bước thay chân Pháp ở Đông Dương. - Từ 1953 đến 1954, trước tình thế sa lầy của Pháp, Mĩ càng can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương, ép Pháp kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị thay thế Pháp. => Mục đích sâu xa của Mĩ khi can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương trong những năm 1950 - 1954 là từng bước thay chân Pháp ở Đông Dương.

Câu hỏi hay nhất cùng chủ đề

  • Để làm phá sản bước thứ nhất kế hoạch Na-va, chủ trương nào sau đây của ta là cơ bản nhất? A. Đánh vào những nơi ta cho là chắc thắng, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch buộc chúng phân tán lực lượng. B. Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phân tán lực lượng địch. C. Phân tán lực lượng địch đến những nơi rừng núi hiểm trở D. Giam chân địch ở Điện Biên Phủ, Sê-nô, Plây cu, Luông-pha-băng
  • Năm 1923, một số địa chủ và tư sản Việt Nam đã tổ chức phong trào đấu tranh nào dưới đây? A. Tẩy chay tư sản Hoa Kiều. B. “Chấn hưng nội hóa”, “bài trừ ngoại hóa”. C. Chống độc quyền cảng Sài Gòn. D. Đòi nhà cầm quyền Pháp trả tự do cho Phan Bội Châu.
  • Hiến chương Liên hợp quốc được thông qua tại Hội nghị nào? A. Hội nghị Ianta B. Hội nghị Xan Phranxixcô C. Hội nghị Pốtxđam. D. Hội nghị Pari.
  • Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc vào thời gian nào và trở thành thành viên thứ bao nhiêu của Liên hợp quốc? A. Ngày 27/9/1977, là thành viên thứ 146. B. Ngày 20/9/1977, là thành viên thứ 146. C. Ngày 20/9/1977, là thành viên thứ 149. D. Ngày 27/9/1977, là thành viên thứ 149.
  • Từ năm 1970 đến năm 1975, nhân dân Campuchia phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược là do A. Campuchia gây xung đột biên giới của Thái Lan – đồng minh của Mĩ. B. Mĩ điều khiển thế lực tay sai lật đổ Chính phủ Xihanúc, xâm lược Campuchia. C. Campuachia lên án Mĩ thành lập khối quân sự SEATO ở Đông Nam Á. D. Chính phủ Xihanúc thực hiện đường lối hoà bình, trung lập.
  • Chiến tranh lạnh tạo nên cục diện căng thẳng ở châu Âu biểu hiện ở điểm nào? A. Sự ra đời các tổ chức kinh tế ở châu Âu. B. Sự hình thành hai nhà nước trên lãnh thổ nước Đức. C. Gây ra cuộc nội chiến ở Trung Quốc trong ba năm. D. Gây nên cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp.
  • Việc gia nhập ASEAN đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn để thực hiện mục tiêu đổi mới đất nước, ngoại trừ việc A. mở rộng, trao đổi và giao lưu văn hóa với bên ngoài. B. thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài để phát triển kinh tế. C. nền kinh tế bị cạnh tranh khốc liệt, bản sắc văn hóa có nguy cơ bị xói mòn. D. hội nhập, học hỏi và tiếp thu được nhiều thành tựu khoa học - kĩ thuật từ bên ngoài.
  • Vấn đề không được đặt ra trước các cường quốc đồng minh để giải quyết trong Hội nghị Ianta là A. khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. B. nhanh chóng đánh bại hoàn toàn các nước phát xít. C. phân chia thành quả giữa các nước thắng trận. D. tổ chức lại thế giới sau chiến tranh.
  • Từ cuối 1953 đến đầu 1954, thực dân Pháp buộc phải phân tán lực lượng ra những vùng nào? A. Lai Châu, Điện Biên Phủ, Sê Nô, Luôngphabang. B. Điện Biên Phủ, Sê Nô, Plâycu, Sầm Nưa C. Điện Biên Phủ, Thakhẹt, Plâycu, Luôngphabang. D. Điện Biên Phủ, Sê Nô, Plâyku, Luôngphabang.
  • Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 của Việt Nam ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nước nào ở Châu Phi A. Tuynidi. B. Ănggôla C. Angiêri. D. Ai Cập.

Tham khảo giải bài tập hay nhất

Loạt bài Lớp 12 hay nhất

xem thêm

Sự kiện nào thể hiện Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương?


A.

Ngày 7-2-1950, Mĩ chính thức công nhận chính phủ Bảo Đại.

B.

Ngày 13-5-1950, Pháp thông qua kế hoạch Rơ-ve.

C.

Tháng 7-1950, Mĩ đặt phái đoàn cố vấn quân sự đặc biệt MAAG ở Việt Nam.

D.

Ngày 23-12-1950, Mĩ kí với Pháp Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương.

Âm mưu chiến lược của Mỹ khi can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương [1945 -1954] của thực dân Pháp là gì?


A.

Biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới.

B.

Khẳng định sức mạnh quân sự của nước Mỹ.

C.

Nắm quyền điều khiển chiến tranh Đông Dương.

D.

Giúp Pháp kéo dài và mở rộng chiến tranh.

137 liên tục chủ động tiến công và phản công địch. Chiến thắng Biêngiới mở ra bước ngoặt cơ bản, đưa cuộc kháng chiến của ta từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy.Chiến thắng Biên giới còn phản ánh kết quả của Đảng và Chính phủ về xây dựng hậu phương kháng chiến. Chính kẻ địchcũng phải thừa nhận: Đây thực sự là một cuộc chiến tranh của một dân tộc có tinh thần đấu tranh cương quyết bảo vệ độc lậpcủa nước mình1.II- Đế quốc Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương – Kế hoạch Đờ Lát đờ Tătxinhi

1. Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương

Từ năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn về chính trị, ngoại giao và quân sự.Uy tín và địa vị của Nhà nước ta được nâng cao trên trường chính quốc tế. Sau khi thiết lập được quan hệ ngoại giao với cácnước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của bạn bè không chỉ về tinh thần mà cả vật chất. Năm 1950, hàngviện trợ của Trung Quốc bắt đầu được chuyển đến Việt Nam.Cùng với sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển; phong trào đấu tranhvì hồ bình và dân chủ cũng ngày càng lan rộng. Tại nước Pháp, phong trào phản đối cuộc chiến tranh bẩn thỉu của thực dânPháp ở Đông Dương ngày càng dâng lên mạnh mẽ. Nhiều nghị sĩ trong Quốc hội lên tiếng chất vấn, cơng kích Chính phủ theođuổi cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Đơng Dương. Nhân dân các nước Angiêri, Marốc, Tuynidi... lên tiếng đòi rút quân đội viễnchinh Pháp ra khỏi Việt Nam.1. Cuộc kháng chiến th.ần thánh của nhân dân Việt Nam. T. 2, tr. 527138 Trước tình thế đó, thực dân Pháp nhận thấy khó có thể tiếptục cuộc chiến tranh nếu khơng có sự giúp sức của đế quốc Mĩ . Vì vậy, dù mâu thuẫn với Mĩ, thực dân Pháp vẫn buộc phải dựavào Mĩ, cầu xin viện trợ Mĩ để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Về phía đế quốc Mĩ, nhân lực Pháp thất bạiở mặt trận Biên giới, chúng tăng thêm viện trợ cho Pháp và can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, nhằm ngănchặn phong trào cách mạng lan xuống Đông Nam Á, từng bước thay chân Pháp, độc chiếm Đông Dương.Tháng 12-1950, Mĩ, Pháp cùng với các Chính phủ bù nhìn Việt, Miên, Lào kí Hiệp định phòng thủ chung Đơng Dương.Với Hiệp định này, Mĩ cam kết sẽ viện trợ quân sự cho chính quyền bù nhìn ba nước để phòng thủ Đơng Dương. Cuối tháng1-1951, Thủ tướng Pháp Plêven và Tổng Tham mưu trưởng quân đội viễn chinh Pháp Ala hội đàm với Tổng thống MĩTruman về viện trợ cho Đông Dương. Pháp yêu cầu Mĩ cung cấp tối đa vũ khí và các trang bị cần thiết cho quân đội bù nhìn.Tháng 9-1951, Mĩ và Chính phủ bù nhìn Bảo Đại kí hiệp ước tay đơi dưới tên gọi Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt - Mĩ, nhằmchuyển thẳng một phần viện trợ của Mĩ cho Chính phủ Bảo Đại. Thơng qua đó, Mĩ từng bước nắm chặt ngụy quyền Bảo Đại.Tháng 12-1951, Mĩ cùng Bảo Đại kí tiếp bản Hiệp nghị an ninh chung.Dựa vào các bản hiệp định trên, viện trợ của Mĩ chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong ngân sách chiến tranh Đông Dương: Năm1950: 52 tỉ phrăng 19 ngân sách Năm 1951: 62 tỉ phrăng 16 -Năm 1952: 200 tỉ phrăng 35 - Năm 1953: 285 tỉ phrăng 43 -139 Năm 1954: 555 tỉ phrăng 73 -1. Từ năm 1950 đến năm 1953, đế quốc Mĩ đưa vào ĐôngDương khoảng 400.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh. Riêng trong hai năm 1952 - 1953, số tiền Mĩ cho Pháp vay là314 triệu đơla.Các phái đồn viện trợ kinh tế, cố vấn quân sự Mĩ cũng lần lượt sang Việt Nam.Tháng 5-1950, phái đoàn viện trợ Mĩ đếnSài Gòn. Tháng 9-1950, phái đồn cố vấn qn sự Mĩ MAAG được thành lập ở Việt Nam. Năm 1952, các Phòng Thơng tin Mĩđược đặt ở nhiều nơi trong vùng thực dân Pháp chiếm đóng. Các tướng, tá, chính khách Mĩ ở Đơng Dương ngày càng tăng.Các trung tâm và trường huấn luyện của Mĩ bắt đầu tuyển chọn và đưa người Việt Nam sang học tại Mĩ .2 - Kế hoạch Đờ Látđờ TátxinhiĐược Mĩ viện trợ, thực dân Pháp tập trung lực lượng phòng ngự và bình định vùng tạm chiếm, nhất là khu vực đồng bằngBắc Bộ; đồng thời chuẩn bị mở các cuộc phản công với hi vọng giành lại quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chínhBắc Bộ. Ngày 6-12-1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Đờ Lát đờ Tátxinhi De Lattre de Tassigny - Tư lệnh lục quân KhốiTây Âu - sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao uỷ Đông Dương. Đây là lần đầu tiên sau 5 năm chiến tranh xâmlược Đơng Dương, Chính phủ Pháp tập trung quyền hành cả quân sự và chính trị vào tay một viên tướng để thống nhất chỉđạo chiến tranh. Đờ Lát vạch ra một kế hoạch quân sự gồm 4 điểm chủ yếu: Gấp rút tập trung quân Âu - Phi để xây dựngthành một lực lượng cơ động chiến lược mạnh; đồng thời phát triển ngụy quân với quy mô lớn.1. Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội 1974, tr.427.140 - Xây dựng quân đội quốc gia của chính quyền bù nhìn BảoĐại. - Xây dựng tuyến cơng sự phòng thủ bao quanh trung du vàđồng bằng Bắc Bộ nhằm đối phó với chủ lực của ta và ngăn chặn ta đưa nhân lực, vật lực ra vùng tự do.- Tiến hành chiến tranh tổng lực, bình định vùng tạm bị chiếm và vùng du kích; đồng thời phá hoại hậu phương khángchiến và chuẩn bị tấn công ra vùng tự do. Tư tưởng chủ đạo của kế hoạch Đờ Lát là tập trung nỗ lựccủa đội quân viễn chinh Pháp vào chiến trường Bắc Bộ, làm cho Bắc Bộ trở thành cái then cửa của vùng Đông Nam Á chốnglại phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ ở khư vực này. Tiếp theo kế hoạch Rơ ve, Kế hoạch Đờ Lát càng thể hiệnrõ sự can thiệp của Mĩ vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương và viện trợ Mĩ từ lúc này đã trở thành một điều kiện hếtsức quan trọng để thực hiện Kế hoạch Đờ Lát. vừa phải lo đối phó với các chiến dịch tiến công của quân đội ta và ra sức cànquét để ổn định vùng tạm chiếm, thực dân Pháp vừa đẩy mạnh tốc độ thực hiện kế hoạch Đờ Lát.Về chính trị, với việc Bảo Đại lên ngơi Quốc trưởng và chính phủ Trần Văn Hữu làm lễ tuyên thệ 3-1951, thực dânPháp coi như đã hoàn thành việc lập chính quyền tay sai. Chúng ra sức tuyên truyền cho nền độc lập giả hiệu và tô son trát phấncho chính quyền bù nhìn. Để tập trung quyền hành trong tay, Trần Văn Hữu lần lượt thanh trừng lực lượng Đại Việt củaNguyễn Hữu Trí ở Bắc Bộ, cách chức Phan Văn Giáo, thủ hiến Trung phần, bao vây phong toả vùng kiểm soát của lực lượngCao Đài, thay thế khu tự trị công giáo ở Bùi Chu, Phát Diễm bằng tổ chức hành chính quân sự của ngụy quyền. Chính phủTrần Văn Hữu tiếp tục công nhận các công sở do Pháp bàn giao, tổ chức bộ máy hành chính từ tỉnh, huyện xuống tới xã, thôntrong vùng tạm chiếm.141 Cùng với việc củng cố bộ máy ngụy quyền, thực dân Pháp vàtay sai còn tập hợp và tranh thủ các đảng phái phản động; đồng thời tổ chức thêm nhiều đoàn thể tổ chức chính trị lừa bịp nhưThanh niên kháng chiến hải ngoại, Thanh niên lao động, Thanh niên diệt cộng, Đồn thanh niên kiến quốc... để lơikéo quần chúng, phá hoại kháng chiến. Chúng dùng bọn cha cố phản động nắm giáo dân, bắt phu, bắt lính, phá hoại việc thựchiện các chính sách của ta, nhất là ở những vùng tập trung đồng bào công giáo.Ở vùng Tây Nguyên, thực dân Pháp nham hiểm và xảo quyệt đẩy mạnh việc thực hiện ba chính sách lớn chính sách cómặt; chính sách muối, kí ninh, dụng cụ và chính sách khơng can thiệp để khống chế nhân dân các dân tộc vùng Tây Nguyên.Thông qua bộ máy cai trị từ tỉnh xuống buôn làng, qua các cuộc hành quân và nhất là bằng chính sách độc quyền nắm và phânphát muối, thuốc chữa bệnh, công cụ sản xuất, thực dân Pháp ra sức kìm kẹp nhân dân, buộc họ phải theo chúng chống lại khángchiến.Trong các vùng tạm chiếm, với việc đẩy mạnh thực hiện chính sách Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của thực dânPháp, nhân dân ta phải đóng góp rất nặng nề. Ở Bắc Bộ, ngoài việc tăng các loại thuế, thực dân Pháp đặt ra nhiều thứ thuế mới:thuế đò, thuế bến, thuế nhà ngói dọc đường, thuế binh bị quốc phòng... Chúng còn triệt để thi hành chính sách tam quangcướp sạch, đất sạch, phá sạch, hòng triệt phá nguồn cung cấp cho kháng chiến. Tháng 3-1951, ở Bắc Bộ, thực dân Pháp mởchiến dịch cướp phá thóc lúa. Chúng ra lệnh binh lính phải theo dõi từng bước việc gặt hái của nơng dân, kiểm sốt chặt chẽ cácchợ và đường giao thông, bắt nông dân phải tập trung thóc gạo bán cho nhà chức trách. Mỗi khi càn quét, chúng ra sức cướpphá; không lấy được hết, chúng đổ thóc gạo xuống sơng, ao, hồ. Ở một số nơi, chúng bắt dân tập trung thóc gạo lên đồn rồi phátăn từng ngày, cho quân gặt cướp ở các vùng giáp ranh.142 Ở vùng Bình - Trị - Thiên, thực dân Pháp liên tiếp tiến hànhcác trận phá lúa, các chiến dịch vét thóc gạo. Tại Liên khu V, địch tiến hành cuộc chiến tranh gạo rất gay gắt hòng baovây lương thực vùng tự do. Tại Nam Trung Bộ, địch càn quét dữ dội vùng đồng bằng tạm chiếm ven biển, nhất là ở Ninh Thuận,Khánh Hoà để vơ vét thóc gạo. Hàng ngàn dân bị dồn vào các khu chiêu an, khu tập trung. Nhiều cơ sở kháng chiến bị vỡ.Hệ thống đồn lốt tháp canh của địch trước đây bố trí theo tuyến, nay chuyển sang bố từ theo diện. Phong trào kháng chiến ở Liênkhu V, nhất là ở vùng tạm chiếm đứng trước nhiều khó khăn gay gắt. Lúc này ta chỉ nắm được 9.000 trên tổng số 180.000dân ở Khánh Hoà, 10.000 trên 12.000 dân ở Ninh Thuận và 40.000 trên 950.000 dân ở Bình Thuận1. Hầu hết thóc gạo, lương thực trong vùng tạm chiếm đều bị giặc Pháp chiếm đoạt,làm cho nạn đói trở nên trầm trọng. Ở Nam Bộ, thực dân Pháp kiểm soát được phần lớn mạng lưới giao thông, nên càng đẩymạnh “chiến tranh kinh tế”. Chúng thường xuyên cho tàu chiến tiến sâu vào các sông và kênh rạch, bắn phá bừa bãi các làngxóm ven sơng, gây cho nhân dân ta nhiều tổn thất về người và cửa.Dựa vào viện trợ của Mĩ, thực dân Pháp đẩy nhanh việc xây dựng quân đội ngụy, hồn chỉnh hệ thống vành đai phòng thủbao quanh đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Tháng 5-1951, Bộ Quốc phòng ngụy được tổ chức lại, đặtbên cạnh cơ quan cố vấn Pháp do tướng Đờ Latua De Latour phụ trách. Từ sau khi Bảo Đại kí đạo dụ tổng động viên 15-7-1951, giặc Pháp và ngụy quyền tay sai ráo riết thực hiện dồn dân, bắt lính. Kết hợp với biện pháp vây bắt, cưỡng bức, chúngdùng nhiều thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo thanh niên vào lính. Bằng những thủ đoạn này, trong đợt tổng động viên, địchđã bắt được 6 vạn người vào lính và tốp sĩ quan người Việt đầu1. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp…Tập 2, Sđd, tr.112143 tiên được tập trung huấn luyện, làm nòng cốt xây dựng quânđội quốc gia. Sau sáu tháng kể từ khi ban hành lệnh tổng động viên, quân dội quốc gia đã có 45 tiểu đồn, tăng 24 tiểu đồnso với đầu năm 1951, trong đó có 28 tiểu đoàn được tổ chức thành 4 sư đoàn bộ binh. Các sư đoàn này đều do sĩ quan Phápchỉ huy và chịu sự chỉ huy hành quân của các bộ chỉ huy quân sự các miền của Pháp.Một số cơ quan và đơn vị binh chủng được tổ chức, như cơng binh, pháo binh, nha qn cụ, tồ án quân sự, hiến binh quốcgia... Các trường huấn luyện sĩ quan cũng được chấn chỉnh lại. Trường võ bị liên quân ở Huế chuyển vào Đà Lạt. Một trườngvõ bị đào tạo sĩ quan trù bị được mở tại Nam Định. Các sĩ quan trù bị sau khi huấn luyện được đưa về các đơn vị tiểu đoàn ViệtNam BVN, thay thế các sĩ quan người Pháp. Một số trường đào tạo hạ sĩ quan và chỉ huy chuyên môn cũng được mở.Song song với việc xây dựng và phát triển lực lượng chính quy, Pháp và tay sai cũng chú ý chấn chỉnh và tăng cường tổchức quân sự. Ở các địa phương. Ở tỉnh, thường có một đại đội bảo chính đồn, đặt bên cạnh tiểu đội qn Liên hiệp Pháp. Ởquận, có từ một đến hai trung đội do quận trưởng chỉ huy. Ở tổng, tổng dũng nắm các đội hương dũng, các đội vũ trang ởthôn ấp. Tất cả các lực lượng này vẫn phải đặt dưới sự điều khiển của cơ quan chỉ huy quân sự của Pháp ở địa phương.Lực lượng ngụy quân mới xây dựng chủ yếu làm nhiệm vụ chiếm đóng, thay thế cho lực lượng quân viễn chinh rút ra làmnhiệm vụ tác chiến. Nhờ đó, thực dân Pháp đã rút được một bộ phận quân tinh nhuệ tổ chức thành các binh đoàn cơ động làmnhiệm vụ tác chiến trên các chiến trường. Đến tháng 10-1951, trên tồn Đơng Dương, Pháp đã tổ chức được 7 binh đoàn cơđộng GM và 9 tiểu đoàn dù dự bị chiến lược, nâng lực lượng cơ động chiến lược lên gấp ba lần so với năm 1950. Mặc dù vậy,để đối phó với chiến tranh du kích phát triển ngày càng mạnh mẽ ở vùng sau lưng địch và giữ đất ở vùng đồng bằng đông dân,144 nhiều của, thực dân Pháp vẫn phải dành phần lớn binh lực đểlàm nhiệm vụ chiếm đóng. Năm 1951, lực lượng chiếm đóng tăng từ 77 tiểu đồn lên 109 tiểu đồn chính quy, chiếm 67tổng số qn tồn Đơng Dương.Coi chiến trường Bắc Bộ là cái then cửa của vùng Đông Nam Á, thực dân Pháp bố trí ở chiến trường này một binh lựckhá lớn: 54 lực lượng pháo binh và lính dù, 50 lực lượng pháo binh, 42 cơ giới thiết giáp, 71 lực lượng công binh1. Tại Bắc Bộ, Pháp tiếp tục xây dựng tuyến phòng thủ mạnhgồm hệ thống công sự bằng bê tông cốt thép boongke gồm 800 lô cột lập thành hàng chục cứ điểm lớn, nhỏ do 25 tiểu đồn línhÂu - Phi tinh nhuệ chiếm đóng, kéo dài từ Hòn Gai, Đơng Triều, Lục Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh, qua Vĩnh Phúc, Sơn Tây, HàĐơng, đến Ninh Bình. Ở vòng ngồi, song song với phòng tuyến boongke là một vành đai trắng có chiều rộng từ 5 - 10 km.Trên khắp chiến trường từ Nam đến Bắc, quân địch đẩy mạnh bình định ở những vùng chúng kiểm sốt. Chúng liên tiếpmở các chiến dịch càn quét với quy mô lớn. Ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, dựa vào tổ chức ngụy quyền và lực lượngphản động trong các giáo phái, địch mở các cuộc hành quân diệt du, quét cán, càn thanh diệt du kích, quét cán bộ, cànthanh niên, đồng thời đánh phá vùng du kích của ta.Ở vùng biển Hải Phòng, Kiến An, địch khẩn trương xây dựng thêm nhiều công sự boongke kiểu mới, mở rộng sân bay Cát Binhằm biến khu vực Hải Phòng - Kiến An - Đồ Sơn - Quảng Yên thành pháo đài mạnh ven biển. Chúng thay đổi chỉ huy và cànquét dữ dội, đánh phá các cơ sở của ta.Tại Nam Sách Hải Dương, ngụy quyền tổ chức thí điểm đội quân thứ hành chính lưu động GAMO, một tổ chức hành1.Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Tập 2... Sđd, tr. 92.145 chính - chính trị - quân sự chuyên làm nhiệm vụ bình định,thành phần gồm sĩ quan, binh lính, gián điệp, chỉ điểm, nhân viên hành chính, y tế giáo đục, văn hố... Thơng qua đội qnnày, chúng truy qt cơ sở kháng chiến, lập lại ngụy quyền, dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, lơi kéo quần chúng.Ở Thái Bình, Hà Nam, Hà Đông... địch ráo riết thực hiện thủ đoạn chiêu an. Chúng thành lập các tổ chức cứu tế xã hội,trại hồi cư”, hội giúp đỡ đồng bào hồi cư” nhằm mua chuộc, lôi kéo cán bộ và nhân dân ở vùng tự do về vùng tạm chiếm.Chúng dồn dân vào các khu tập trung gọi là đại xã để dễ dàng kìm kẹp, khống chế nhân dân và cô lập lực lượng kháng chiến.Tại vùng đồng bằng Nam Trung Bộ, Pháp phát triển đồn bốt, tháp canh, kết hợp quân ứng chiến với quân chiếm đóng; ràolàng, dồn dân, tập trung lúa của dân vào đồn, phát triển tề điệp để khống chế và kiểm soát dân. Ở vùng chiếm đóng Bắc QuảngNam, đầu năm 1950 có 125 tháp canh, đến cuối năm tăng lên 174; ở Khánh Hồ, năm 1951 địch đóng 109 đồn và 213 thápcanh, lùa dân vùng này đi gặt lúa vùng khác đưa về đồn, tối bắt dân ngủ ở đồn. Ở Ninh Thuận, địch bắt dân rào hết các làng1. Đối với Tây Nguyên, để nắm được địa bàn chiến lược quantrọng này, từ tháng 2-1951, thực dân Pháp đã tách Tây Nguyên khỏi Trung phần, thành lập khu độc lập trực thuộc Bộ Tổng chỉhuy quân viễn chinh. Tại đây, chúng thành lập các trung đội xung kích xun sơn”, các tiểu đồn sơn chiến gồm người dântộc ít người để tác chiến ở vùng núi. Ngồi ra, chúng còn thực hiện một thủ đoạn mới rất thâm độc là phát triển các ổ vũ trangphản động ở các địa phương, gọi là Gum để biến dần người dân bình thường thành người lính chống lại kháng chiến.Tại Nam Bộ, cùng với chính sách kìm kẹp và cướp đoạt, thực1.Nam Trung Bộ kháng chiến 1945 - 1975. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1995, tr. 146.146 dân Pháp và tay sai ra sức lợi dụng các tôn giáo để mê hoặc vàlôi kéo quần chúng chống lại kháng chiến. Chúng thành lập các đội quân giáo phái và chuyển giao cho Bộ tham mưu ngụy chỉhuy để sử dụng vào kế hoạch bình định, càn quét. Bằng nhiều thủ đoạn nham hiểm và tàn bạo, đến cuối năm 1951, thực dânPháp đã bắt hàng vạn thanh niên, có cả thiếu niên 14 - 15 tuổi, vào lính. Trong các thành phố lớn, địch cũng ráo riết bình định.Ở Hà Nội, từ tháng 7-1951, tiếp theo những cuộc vây càn lớn, địch chuyển sang đánh phá sâu vào các tổ chức của ta. Chúngcài cắm tay chân vào các đoàn thể, các cơ sở kháng chiến của ta để hoạt động phá hoại. Một số đơn vị bảo chính đồn đượcchúng điều động trở lại đóng bốt để làm chỗ dựa cho bọn tay sai lập hội tề, bảo an: ở thành phố Hải Phòng, ngồi hàng ngàn línhcơ động, còn có cả một hệ thống cảnh sát, mật vụ, chỉ điểm cài cắm khắp các ngõ phố, nhà máy , bến cảng . . .Thực dân Pháp còn huy động lực lượng cơ động mở các cuộc càn lớn để tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta, phá nát các làngchiến đấu và căn cứ du kích dập tắt phong trào chiến tranh du kích đang ngày một lan rộng ở khắp các tỉnh thuộc đồng bằngBắc Bộ. Kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi đã gây cho ta nhiều khó khăn mới, nhất là ở vùng sau lưng địch. Tại một số vùng, nhiềulàng xóm bị tàn phá, cơ sở kháng chiến bị tổn thất, phong trào đấu tranh của nhân dân bị giảm sút. Chỉ riêng cuộc càn quét củađịch vào đầu tháng 10-1951, chúng đã chiếm lại khu vực ba huyện Tiên Hưng - Duyên Hà - Hưng Nhân, với 363 làng, gồm280.000 dân. Căn cứ du kích liên hồn ba huyện ở phía bắc tỉnh Thái Bình trở thành vùng tạm chiếm.Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt hoạt động của kháng chiến.III- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thử II của Đảng Cộng sản Đông Dương 2-1951Bước vào những năm 50 của thế kỉ XX, tình hình thế giới và147 trong nước có nhiều chuyển biến lớn. Hệ thống các nước xã hộichủ nghĩa đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Hội đồng tương trợ kinh tế SEV - thành lập từ tháng 1-1949, với mụctiêu phối hợp hoạt động kinh tế để củng cố và phát triển sự hợp tác giữa các nước, phát triển một cách có kế hoạch nền kinh tếquốc dân và nâng cao đời sống nhân dân - ngày càng có nhiều nước tham gia.Ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, cơn bão táp cách mạng tiếp tục phát triển, từ Đông Nam Á sang Trung Đông vàchâu Phi. Phong trào bảo vệ hồ bình thế giới trở thành phong trào quần chúng rộng rãi. Từ ngày 16 đến ngày 22-11-1950, Đạihội hồ bình thế giới lần thứ hai được tổ chức tại Vácsava, với sự tham gia của hơn 2.000 đại biểu thuộc 81 nước. Đại hội đãthông qua Lời hiệu triệu gửi nhân dân tồn thế giới, đòi chấm dứt chiến tranh ở Triều Tiên,Việt Nam..., đòi cấm chế tạo và sử dụng bom nguyên tử, đòi giải trừ quân bị... Đại hội cũng quyết định thành lập Hội đồnghoà bình thế giới, gồm đại biểu của tất cả các dân tộc. Ở trong nước, sau gần 16 năm kể từ Đại hội lần thứ I củaĐảng 3-1935, tình hình đã có nhiều chuyển biến rất căn bản. Qua hơn 5 năm chiến đấu, lực lượng kháng chiến đã lớn lênnhiều về mọi mặt, nhất là về quân sự. Từ sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhândân ta phát triển sang thời kì mới. Hậu phương kháng chiến được nối liền với phe xã hội chủ nghĩa. Cuộc kháng chiến củanhân dân hai nước bạn Lào và Campuchia cũng giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược.Tuy nhiên, cuộc kháng chiến của ta lúc này gặp nhiều khó khăn mới do âm mưu của đế quốc Pháp, Mĩ .Tình hình trên đòi hỏi cuộc kháng chiến phải tăng cường hơn nữa tính chất tồn diện và sự lãnh đạo của Đảng.Mặt khác, từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng148 ta trở thành Đảng cầm quyền. Nhưng do hồn cảnh vơ cùngphức tạp và để giữ vững khối đoàn kết, Đảng ta tuyên bố tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Điều này ảnh hưởngđến vai trò lãnh đạo của Đảng Yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến đòi hỏi phải có sự lãnh đạo cơng khai của Đảng.Xuất phát từ những lí do trên, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II tại xã VinhQuang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 76 vạn đảng viên trong cả nước.Sau bài Diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã thảo luận Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn vềcách mạng Việt Nam của Trường Chinh, báo cáo về Tổ chức và Điều lệ Đảng, các báo cáo bổ sung về mặt trận dân tộc thốngnhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, kinh tế tài chính...Báo cáo chính trị đã khẳng định những thắng lợi to lớn của cách mạng, bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng quacác thời kì vận động cách mạng; khẳng định đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng; cán bộ, đảng viên của Đảng là nhữngchiến sĩ dũng cảm, tận tụy hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Báo cáo cũng nghiêm khắc vạch rõ những khuyết điểmtrong cán bộ, đảng viên, đó là việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê nin còn yếu, tư tưởng chưa vững vàng, lề lối làm việc còn quanliêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, cơng thần... Trên cơ sở đó Báo cáo chính trị nêu nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng ViệtNam là Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mĩ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hồ bình thế giới.Để thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu đó, phải động viên tinh thần yêu nước, ra sức thi đua ái quốc, đẩy mạnh xây dựng lựclượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mặt trận đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, thực hiện chính sách ruộng149 đất.Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam trình bày tồn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xãhội ở Việt Nam; phân tích tính chất xã hội Việt Nam từ sau Cách mạng thảng Tám là phức tạp và phát triển không đều, cótính chất dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến...1. Trong xã hội nổi lên mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc xâm lược, mâu thuẫn giữa số đôngnhân dân với giai cấp địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa lao động với tư bản trong nước. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Namvới đế quốc xâm lược là mâu thuẫn chính. Kẻ thù chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lượcthực dân Pháp và can thiệp Mỉ và bọn bù nhìn Việt gian bán nước, đại biểu quyền lợi cho đại địa chủ phong kiến và tư sảnmại bản. Do đó, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, đánh đổ bọn bù nhìn Việt gianphản nước, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm chongười cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam2. Bản báo cáo phân tích mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phảnphong, khẳng định lực lượng cách mạng ở Việt Nam là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, rồi đến giaicấp tư sản dân tộc; ngoài ra là những phần tử cá biệt xuất thân từ giai cấp địa chủ phần nhiều là tiểu địa chủ đang đi với nhândân, được gọi là nhân sĩ dân chủ và thân sĩ yêu nước...3. Đại hội đề ra những chính sách cơ bản về cơng tác xây dựng1.Bàn về cách mạng Việt Nam: Xem: Trường Chinh tuyển tập 1937 - 1954. NXB Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 456, 459, 469.2.2.Bàn về cách mạng Việt Nam. Xem: Trường Chinh Tuyển tập 1937 - 1954. NXB Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 456, 459, 469.150 và củng cố chính quyền, tăng cường quân đội, mở rộng mặt trậnđoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, phát triển kinh tế - tài chính, văn hố - giáo dục... nhằm đẩy mạnh kháng chiến tồndiện.Xuất phát từ tình hình cụ thể và yêu cầu cách mạng của ba nước Đông Dương, Đại hội quyết định thành lập ở mỗi nướcmột Đảng Mác - Lê nin riêng biệt, có cương lĩnh thích hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc.Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng có nhiệm vụ lãnh đạocuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, giúp đỡ và phối hợp với các Đảng cách mạng vào và Campuchia, đưa sự nghiệpkháng chiến của ba dân tộc anh em trên bán đảo Đơng Dương giành thắng lợi hồn tồn.Đại hội thơng qua Tun ngơn, Chính cương, Điều lệ mới của Đảng; quyết định xuất bản báo Nhân dân làm cơ quan ngônluận của Đảng. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 19 uỷviên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 7 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết1. Hồ Chí Minh được bầu giữ chức Chủ tịch Đảng và Trường Chinh được bầu lại làmTổng Bí thư của Đảng. Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ hai được tiến hành trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâmlược của nhân dân ta có nhiều chuyển biến mới. Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm vận động cách mạng của Đảng, đồngthời nêu rõ những nhiệm vụ trước mắt của tồn Đảng, tồn dân và tồn qn, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến đi tới thắnglợi. Đại hội được gọi là Đại hội kháng chiến thắng lợi .1. Bộ Chính trị gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh và 1 uỷ viên dự khuyết là Lê Văn Lương.151IV- Xây dựng và củng cố hậu phương kháng chiến về mọi mặtHậu phương có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố thường xun có tính chất quyết định thắng lợicủa chiến tranh. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hậu phương, Đảng ta sớm đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về xâydựng hậu phương vững mạnh toàn diện.Hậu phương chiến tranh nhân dân là một hệ thống căn cứ, bao gồm các cơ sở chính trị ở thành thị và nơng thơn, các khu dukích và căn cứ du kích trong vùng tạm bị địch chiếm; các vùng tự do rộng lớn nằm trên khắp lãnh thổ đất nước.Trải qua 5 năm kháng chiến, hậu phương căn cứ địa được mở rộng. Ngoài vùng tự do liên hồn nối thơng từ Liên khu ViệtBắc xuống Liên khu III vào Liên khu IV, còn có vùng tự do gồm nửa tỉnh Quảng Nam và các tỉnh Quảng Ngài, Bình Định, PhúYên cùng với các khu căn cứ Ba Tơ, Trà Bồng, Di Lăng, Minh Long, Bắc Ái, Sơn Hà tạo thành hậu phương trực tiếp của chiếntrường Liên khu V và một phần Nam Bộ. Các chiến khu Đ, Đồng Tháp, Dương Minh Châu, U Minh của Nam Bộ vẫn đượcgiữ vững.Ở vùng tự do, nơi có những điều kiện thuận lợi, nhân dân ta đã xây dựng chế độ mới, phù hợp với bước đi của cách mạngnước ta. Chế độ mới được xây dựng trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; cả về cơ sở vật chất và ý thức tưtưởng. Đây chính là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của hậu phương kháng chiến.Về kinh tế: Kháng chiến càng kéo dài, càng trở nên quyết liệt, nhu cầucung cấp cho mặt trận quân sự ngày càng lớn. Những thắng lợi giành được trên lĩnh vực kinh tế trong những năm 1948 - 1950tuy to lớn, nhưng cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.152 Từ năm 1950, các chiến dịch đánh vận động ngày càngnhiều; do đó nhu cầu cung cấp cho kháng chiến tăng lên gấp bội. Riêng trong chiến dịch Biên giới, để bảo đảm chiến đấu cho gần30.000 người tham gia, ta đã phải chuẩn bị 2.250 tấn lương thực, 190 tấn súng đạn, 660 tấn các loại thực phẩm, quân trang, quândụng và huy động hơn 120.000 dân công tương đương với 1.700.000 ngày công. Trừ 100 tấn lương thực, thực phẩm huyđộng tại chỗ, còn tồn bộ phải huy động dân cơng kết hợp với bộ đội vận tải bằng ô tô và một số xe thô sơ vận chuyển từ hậuphương tới .Trong khi đó, kinh tế, tài chính của chúng ta còn gặp nhiều khó khăn năm 1950 tổng số thu chỉ bằng 23 tổng số chi.Nước ta bị chia cắt thành nhiều vùng; nền kinh tế trong căn cứ địa Việt Bắc rất thấp kém, rừng núi chiếm nhiều, đất canh tác ít,lại bị địch bao vây, phong toả, phá hoại.Việc tổ chức và chính sách kinh tế, tài chính của ta còn mang nặng tính du kích, chưa có sự quản lí thống nhất. Do vậy, nhândân tuy hăng hái đóng góp cho kháng chiến, nhưng tiền của còn rải rác ở các địa phương. Phần thu của Nhà nước không đảm bảocho số chi ngày càng tăng của cuộc kháng chiến.Năm 1951, sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn nghiêm trọng. Thiên tai lũ lụt xảy ra làm cho mùa màng ở nhiều nơi bị thiệt hạinặng. Riêng tỉnh Nghệ An bị thiệt hại từ 20 đến 40 hoa màu; Hà Tĩnh hư hỏng 80 diện tích khoai lang, 40 diện tích lúa,1.000 tấn muối bị ngập nước. Bình - Trị - Thiên gần như bị mất tồn bộ diện tích lúa và hoa màu, giặc Pháp lại ra sức tàn phá;riêng trong một trận càn ở huyện Phong Điền, chúng bắn chết một lúc 300 con trâu, bò... Ở Liên khu V, do hạn hán kéo dài vàmột số cơng trình thuỷ lợi bị địch phá hoại, nên sản lượng lương thực giảm sút. Nạn đói đe doạ cả bốn tỉnh Quảng Nam, QuảngNgãi, Bình Định, Phú Yên...Vấn đề thiếu lương thực trước đây hầu như chỉ đặt ra đối với Việt Bắc, lúc này trở thành khó khăn chung của cả nước.153 Tình hình trên đòi hỏi phải có sự chuyển hướng mạnh mẽ vềkinh tế tài chính. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp mới tồn diện và có hiệu quả. Với tưtưởng chỉ đạo Tất cả để chiến thắng, Đảng đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế nhằm đảm bảo cung cấp cho nhu cầu của cuộckháng chiến và phá tan âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch.Để phát triển tiềm lực kháng chiến, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 1 3-1951 xác định phương hướng cụ thể: muốnkháng chiến trường kì phải ln ln tăng cường tiềm lực kinh tế, tài chính; phải cơi kinh tế, tài chính là nhiệm vụ rất quantrọng; các cấp phải tăng cường lãnh đạo kinh tế, chính sách kinh tế là tăng gia sản xuất, chính sách tài chính là tăng thu giảm chi,giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn tư nhân để phát triển công thương nghiệp, phát triển công thương, mở mangmậu dịch với nước bạn...Tháng 4-1951, Hội đồng Chính phủ mở cuộc vận động Thi đua sản xuất, lập cơng nhằm phục vụ nhu cầu kháng chiến.Chính phủ quyết định thành lập và kiện toàn các cơ quan chỉ đạo kinh tế như Khuyến nông, Khai hoang, Tín dụng, Lâmchính, Địa chính, Thuỷ nơng...Hưởng ứng cuộc vận động Thi đua sản xuất, lập công, cả nước dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất rất sơi nổi.Diện tích trồng cây lương thực và hoa màu tăng lên nhiều so với các năm trước.Riêng toàn Liên khu Việt Bắc đã cày cấy thêm 25.913 mẫu lúa và 12.698 mẫu hoa màu. Uỷ ban kháng chiến - hành chínhLiên khu Việt Bắc lập quỹ luân chuyển có vốn 26 triệu đồng giúp các tỉnh mua sắm nơng cụ. Cơ quan nơng chính cấp 37 tấnthóc giống cho các địa phương làm vụ mùa.Với khẩu hiệu Tự làm lấy ăn để đánh giặc, quân và dân Nam Bộ đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự cấp tự túc. Bộ đội miền Đông154 trung bình mỗi năm sản xuất tự túc 4 tháng, có đơn vị dành 6tháng cho sản xuất Bộ đội miền Tây mùa mưa sản xuất, mùa khô đi chiến đấu. Tại chiến khu Đ, nhân dân tổ chức khai hoanglàm rẫy trên những vùng đất dọc sông Bé, xây dựng được 7 nông trường trồng lúa, ngô, khoai, sắn...1. Từ năm 1952, cuộc Đại vận động sản xuất và tiết kiệm đượcphát động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Cuộc vận động được toàn dân hưởng ứng sơi nổi. Cán bộ các cơ quan, xínghiệp, học sinh và các đơn vị bộ đội cũng tích cực tham gia sản xuất lương thực và thực phẩm.Nhờ có những biện pháp tích cực trên, sản xuất lương thực khơng ngừng tăng lên. Tính riêng trong vùng tự do, năm 1951sản xuất được 2.727.600 tấn lương thực, năm 1952 tăng lên 2.852.900 tấn và năm 1953 là 2.916.000 tấn.Để tạo điều kiện cho nông dân phát triển sản xuất nơng nghiệp, Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện cuộc cách mạngruộng đất từng bước theo đường lối riêng biệt, phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam.Từ năm 1949, Đảng và Chính phủ đề ra sắc lệnh giảm tô, giảm tức xố nợ, hỗn nợ; chia lại ruộng đất cơng cho cơngbằng, hợp lí; tạm chia, tạm giao ruộng đất vắng chủ, ruộng đất tịch thu của thực dân Pháp và Việt gian... cho nơng dân khơngcó ruộng và thiếu ruộng. Việc thực hiện chính sách giảm tơ đã đạt kết quả lớn. Tính từ Liên khu IV trở ra, đến năm 1953, đã có397.000 ha ruộng đất được giảm tô 25.Cùng với việc thực hiện giảm tô, tháng 6-1951, Hội đồng Chính phủ quyết định về thể lệ tạm thời sử dụng công điền,công thổ; xác định nguyên tắc sử dụng công điền công thổ là phải làm lợi cho tăng gia sản xuất, củng cố đồn kết nơng thơn,1. Viện lịch sử quân sự: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp... Tập. 2, sđd, tr. 101.155 sát với tình hình địa phương, dân chủ và công bằng. Theo quyđịnh của Chính phủ, cơng điền được chia cho tất cả nông dân nam, nữ từ 16 tuổi trở lên, trừ các phần tử Việt gian đã thành án.Những người ngụ cư mà tự nguyện trực tiếp canh tác và nếu nhân dân đều bằng lòng thì cũng được chia; thương binh, bệnhbinh, gia đình tử sĩ được ưu đãi. Gia đình có con em đi lính cho Pháp cũng được chia ruộng để sản xuất.Ngày 5-3-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh ban hành Bản điều lệ tạm thời sử dụng công điền công thổ gồm 7 chương,quy định nguyên tắc chia, đối tượng được chia, cách chia, nghĩa vụ và quyền hạn của người được lĩnh cơng điền cơng thổ...Chính phủ chủ trương tiếp tục khuyến khích địa chủ khơng phải là Việt gian, nhất là địa chủ lớn ở Nam Bộ hiến ruộng choNhà nước. Theo quyết định của Hội nghị Hội đồng Chính phủ từ ngày 18 đến ngày 20~8-1952, Chính phủ chỉ nhận ruộnghiến của những người có thừa ruộng. Còn đối với những người chỉ đủ hoặc thiếu ruộng nhưng đã hiến ruộng thì Chính phủ sẽtrả lại. Chính phủ cũng quyết định không nhận ruộng hoang, chỉ nhận ruộng cày cấy được và giao cho Uỷ ban kháng chiến hànhchính các địa phương được quyền nhận ruộng hiến. Số ruộng hiến sẽ được chia cho dân cày thiếu ruộng trong thời hạn 10năm.Trong kháng chiến, nhiều địa phương đã triển khai thực hiện chính sách tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian đểtạm cấp cho nông dân. Tuy nhiên, trong khi xác định và thực hiện chính sách tịch thu loại ruộng đất này lại chưa có sự thốngnhất giữa các địa phương về quan niệm. Để khắc phục tình trạng đó, ngày 9-10-1952, Bộ Canh nông ra Thông tư số 22 - CN -RĐ, giải thích rõ thế nào là ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian. Thơng tư còn nhấn mạnh các địa phương phải tạm cấp hếtsố ruộng đất này cho dân cày, không được giữ lại cho chính quyền, đồn thể. Thời hạn tạm cấp là 10 năm và chính quyền địaphương phải có trách nhiệm giúp đỡ dân nghèo về giống, vốn,156 dụng cụ để họ sản xuất có kết quả trên ruộng đất được tạm cấp.Ngày 14-12-1952, Liên bộ Canh nông - Nội vụ - Tư pháp ra thơng tư giải thích thêm về thể lệ sử dụng ruộng đất vắng chủ”để Uỷ ban kháng chiến hành chính các liên khu và Hà Nội áp dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương mình.Từ nhiều nguồn khác nhau, số ruộng đất được tạm cấp, tạm giao cho nông dân lao động chiếm một diện tích khá lớn. Theosố liệu thống kê ở 3.035 xã ở miền Bắc, việc chia ruộng đất cho nông dân đạt được kết quả như sau:- Số ruộng đất của thực dân Pháp đã được tịch thu chia cho nông dân là 26.800 ha.- Số ruộng đất của địa chủ được đem chia cho nông dân là 156.600 ha.- Số ruộng đất tịch thu của nhà chung đem chia cho nông dân là 3.200 ha.- Số ruộng đất công và nửa công được chia là 289.300 ha. Đến năm 1953, địa chủ chiếm 2,3 dân số và chỉ còn chiếm18 tổng số ruộng đất. Nông dân lao động chiếm 92,5 dân số và nắm trong tay 70,7 tổng số ruộng đất.Như vậy, từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước cải cách ruộng đất, do việc thực hiện một cách có hệ thống những cảicách dân chủ, trong nơng thơn đã có những chuyển biến khá lớn về chế độ sở hữu ruộng đất cũng như về quan hệ các giai cấp. Sựchiếm hữu ruộng đất của thực dân, địa chủ đã bị thu hẹp rất nhiều. Trong khi đó quyền sở hữu ruộng đất của nơng dân đượcmở rộng, đời sống của nông dân được cải thiện từng bước, xu hướng trung nơng hố xuất hiện ở nơng thơn.Sự chuyển biến đó khẳng định đường lối tiến hành cải cách, dần dần thu hẹp phạm vi bóc lột của địa chủ phong kiến, đồngthời sửa đổi chế độ ruộng đất trong phạm vi khơng có hại cho sự đồn kết dân tộc của Đảng và Chính phủ ta là đúng đắn, sáng157 tạo, phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.Từ năm 1953, cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn cuối cùng với những tháng lợi to lớn trên.các mặt trận. Đảng vàChính phủ chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất.Tháng 1-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 4 để kiểm điểm việc thi hành chính sách ruộng đấttrong quá trình kháng chiến và đề ra 5 cơng tác chính trong năm 1953 là: Phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảmtức, đẩy mạnh công tác chỉnh quân, tăng cường công tác kinh tế tài chính, cơng tác vùng sau lưng địch; trong đó cơng tác chínhsố một là phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức. Hội nghị thông qua bản Dự thảo cương lĩnh của Đảng Laođộng Việt Nam về chính sách ruộng đất.Tháng 11-1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban tháp hành Trung ương Đảng và Hội nghị đại biểu tồn quốc của đảng thơng quaCương lĩnh ruộng đất; đồng thời quyết định tổ chức thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do. Tháng 12-1953, tạt kì họp lầnthứ 3, Quốc hội thơng qua Luật cải cách ruộng đất.Từ tháng 4 đến tháng 8-1953, đợt 1 cuộc phát động quần chúng giảm tô được thực hiện trong 22 xã thuộc Liên khu ViệtBắc và Liên khu IV Đến tháng 9-1954, chúng ta đã tiến hành 5 đợt giảm tô trong 830 xã ở miền Bắc.Cùng với giảm tô, từ 25-11-1953, cải cách ruộng đất được thực hiện thỉ điểm trong 6 xã thuộc huyện Đại Từ TháiNguyên. Đến tháng 5-1954, đợt 1 cải cách ruộng đất được tiến hành trong 47 xã thuộc tỉnh Thái Nguyên và 6 xã thuộc tỉnhThanh Hố.Cuộc vận động giảm tơ và cải cách ruộng đất được tiếp tục thực hiện trên quy mô rộng lớn ở miền Bắc sau khi hồ bình lậplại. Trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm phải một số sai lầm như đấu tố cả những địa chủ kháng158 chiến, những người thuộc tầng lớp trên có cơng với cách mạng;quy nhầm một số nông dân, cán bộ, bộ đội, đảng viên thành địa chủ.Sai lầm trong cải cách ruộng đất được Đảng và Chính phủ phát hiện và có chủ trương, biện pháp sửa sai ngay khi kết thúccải cách. Nhờ đó mà hậu quả được hạn chế và ý nghĩa của cải cách ruộng đất vẫn hết sức to lớn.Việc thực hiện chính sách ruộng đất trong kháng chiến đã từng bước xoá bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến, giảiphóng lực lượng sản xuất khỏi sự trói buộc của quan hệ sản xuất đã quá lạc hậu, đem lại niềm phấn khởi trong nơng dân. Thơngqua đó, nơng dân càng tích cực đẩy mạnh sản xuất, hăng hái tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp khángchiến.Cùng với nông nghiệp, các ngành sản xuất công nghiệp vượt qua mọi khó khăn để bảo đảm nhu cầu của kháng chiến.Cơng nghiệp quốc phòng đã sản xuất được các loại vũ khí mới súng SKZ, súng phóng bom, súng Badôka, súng cối....Trong những năm 1951-1953, từ Liên khư IV trở ra, chúng ta sản xuất được 1.310 tấn vũ khí đạn dược.Ngành cơng nghiệp cơ khí sản xuất máy công cụ và tư liệu sản xuất được chú trọng và phát triển, phục vụ cho nhu cầu sảnxuất cũng như đời sống của nhân dân, phá tan âm mưu phong toả của địch. Bên cạnh hàng chục nhà máy cơ khí quốc doanh,còn có hàng nghìn cơ sở cơ khí nhỏ của tiểu thủ cơng nghiệp, sản xuất hàng vạn sản phẩm công cụ cầm tay phục vụ sản xuấtnơng nghiệp. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, các địa phương trong cả nước đều tích cực đẩy mạnh sản xuất hàng tiêudùng, bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho cán bộ, bộ đội và nhân dân. Các tỉnh Liên khu IV mở thêm nhiều xưởng sản xuất giấy, xàphòng, xưởng dệt, phát triển các khung dệt gia đình, khuyến khích nghề ươm tơ, dệt lụa. Liên khu V mở rộng diện tích trồng159 bơng, phát triển mạnh nghề dệt lụa, dệt vải. Các tỉnh ở Nam Bộtiếp tục phát triển nghề dệt vải, chiếu, làm nước mắm, làm đường, xà phòng, sản xuất giấy gòn, giấy sáp và nhiều thứ thuốcchữa bệnh...Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Chính phủ thực hiện chủ trương tăng thu giảm chi, thống nhất quản lí tài chính để tránhlạm phát, giữ giá hàng, đấu tranh kinh tế với địch, mở mang mậu dịch đối ngoại; chấn chỉnh cơng tác tài chính, ngân hàng vàphát hành giấy bạc mới, thành lập mậu dịch quốc doanh.Ngày 1-5-1951, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 13SL về cải cách chế độ đảm phụ, bãi bỏ các thứ đóng góp cũ như thuếcơng lương, thuế điền thổ, bãi bỏ việc mua thóc định giá và đặt ra thuế nơng nghiệp thu bằng thóc. Thuế nơng nghiệp được đề ratheo nguyên tắc đảm bảo cung cấp cho nhu cầu kháng chiến, phù hợp với khả năng đóng góp của mỗi tầng lớp ở nơng thơn,khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, thống nhất và đơn giản chế độ đảm phụ cho dân, thực hiện đóng góp cơngbằng. Từ năm 1951 đến năm 1954, từ Liên khu IV trở ra, Nhà nước thu được 1.322.620 tấn thóc thuế nơng nghiệp. Với biểuthuế luỹ tiến, chúng ta đã giảm nhẹ phần đóng góp của nơng dân lao động.Thắng lợi của việc thực hiện thuế nông nghiệp là thắng lợi rất căn bản của ta về kinh tế. Nhờ đó, phong trào tăng gia sản xuấtđược thúc đẩy mạnh mẽ. Nhà nước đã tập hợp những số liệu dầu tiên về dân số, diện tích, sản lượng của từng địa phương làm cơsở để chủ động xây dựng kế hoạch kinh tế kháng chiến. Qua chỉ đạo tổ chức thực hiện thuế nông nghiệp, bộ máy kinh tế của Nhànước hoạt động có hiệu quả hơn.Cùng với việc thống nhất các đảm phụ ở nông thôn và thuế nơng nghiệp, ngày 22-7-1951, Chính phủ ra sắc lệnh bãi bỏ thúcmôn bài, thuế lãi doanh nghiệp, thuế lợi tức tổng hợp và các thứ thuế gián thu hiện hành, đặt thuế cơng - thương nghiệp và thuếhàng hố. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ ban hành hai bản160 điều lệ tạm thời về thuế công thương nghiệp và thuế hàng hoá.Các bản điều lệ quy định thể thức tính và thu thuế theo các nguyên tắc: 1 Động viên đóng góp theo khả năng của cácngành cơng thương nghiệp: 2 Khuyến khích những hoạt động cơng thương có lợi cho sản xuất, cho nhân dân và cho cơng cuộckháng chiến kiến quốc; 3 Thực hiện đóng góp hợp lí và giản tiện.Chính sách thuế nhập khẩu, thuế sát sinh... cũng được ban hành.Ngành thuế được xây dựng để phụ trách các thứ thuế thu bằng tiền.Các chi sở thuế được thành lập. Nhờ đó, số thuế cơng thương nghiệp và thuế hàng hố thu bằng tiền trong 5 tháng cuối năm1951 tăng gấp 6 lân so với 6 tháng đầu năm1. Ngày 6-5-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 15SLthành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nhằm phát hành giấy bạc ngân hàng, điều hồ sự lưu thơng tiền tệ; quản lí ngân quỹquốc gia, quản lí ngoại tệ, quản lí kim dụng bằng các thể lệ hành chính, đấu tranh tiền tệ với địch. Đến ngày 10-6-1951, Chínhphủ phát hành giấy bạc Ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng ra đời cùng với giấy bạc Ngân hàng Việt Nam đã khẳng định nền tàichính của một quốc gia độc lập. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra dời đã góp phần giải quyết những khó khăn về kinh tế, tàichính, đẩy mạnh kháng chiến.Mậu dịch Quốc doanh cũng được thành lập theo Sắc lệnh 22SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày 14-5-1951, nhằm thựchiện nhiệm vụ cung cấp hàng hoá cần thiết cho kháng chiến và đời sống nhân dân, phục vụ sản xuất, quản lí thị trường, tổ chứctrao đổi hàng hoá với các nước bạn; đồng thời đấu tranh kinh tế với địch.1.Lịch sử Chính phú Việt Nam... Sđd. tr. 210.161 Ngày l-7-1951, những chi điếm mậu dịch đầu tiên được tổchức ở thị xã Thái Nguyên, Tuyên Quang. Mậu dịch bán hàng nội hoá với giá rẻ hơn cho nhân dân, gây được ảnh hưởng tốttrong quần chúng. Mậu dịch đã cung cấp 35 nhu yếu phẩm cho bộ đội.Từ sau chiến thắng Biên giới, con đường thông thương giữa nước ta với quốc tế được mở rộng, nên hoạt động ngoại thươngcó bước phát triển mới. Giá trị hàng xuất khẩu năm 1951 tăng 7 lần so với năm 1950.Nhờ chính sách kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp phát triển, chính sách thuế mới cơng bằng, hợp lí, quản lí tài chínhchặt chẽ, cho nên giá cả thị trường từng bước được ổn định, thu chi trong ngân sách dần dần cân bằng đến năm 1953, số thu đãvượt chi 16, nạn lạm phát được khắc phục.Những kết quả trên mặt trận kinh tế, tài chính đã góp phần quyết định cho sự thắng lợi của cuộc kháng chiến thần thánh củadân tộc. Về chính trị:Để có hậu phương vững mạnh về mọi mặt, phải lấy xây dựng chính trị làm nhiệm vụ hàng đầu. Sự vững chắc của hậu phươngphụ thuộc trước hết vào sự giác ngộ cách mạng, sự nhất trí về chính trị, tinh thần của nhân dân; ở chế độ ưu việt, uy tín vànăng lực hoạt động của các tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể quần chúng. Sự vững mạnh về chính trị vừa là nền tảng, vừa làđòn bẩy để nay dựng hậu phương vững mạnh.Với quan điểm đó, trong kháng chiến, Đảng và Chính phủ rất coi trọng cơng tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng, làm choquần chúng giác ngộ về mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng, nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ và quyết tâm kháng chiến.Chính phủ có nhiều biện pháp để kiện tồn bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân các cấp theo nguyên tắc thực sự dân162 chủ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiện toàn các cơ quanNhà nước, trước hết là Hội đồng nhân dân, Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp các cơ quan kinh tế, cơng an. Các cơ quanchính quyền được tổ chức, sắp xếp lại biên chế cho phù hợp theo phương hướng tinh giản, gọn và có hiệu quả. Hội đồngnhân dân cấp tỉnh và cấp xã được bầu lại. Trong năm 1952, một số nơi đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và xã khoáIII, đồng thời kiện toàn Uỷ ban kháng chiến hành chính theo tinh thần các thơng tư, sắc lệnh của Chính phủ.Trên cơ sở kiện tồn Hội đồng nhân dân, Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp được củng cố, đặc biệt là cấp Liên khu.Chính quyền cấp cơ sở cũng được xây dựng gọn nhẹ, thu hút thêm những thành phần cơ bản trong nhân dân lao động thamgia.Củng cố và tăng cường chính quyền cấp xã là cơng việc được Chính phủ quan tâm đặc biệt, coi đó là một nhiệm vụ quantrọng, cấp bách trong quá trình xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước nói chung. Chính phủ đã có nhiều sắc lệnh, nghị định,thơng tư về kiện tồn, củng cố chính quyền cấp xã.Ngày 23-3-1951, Bộ Nội vụ ra Thông tư số 62 về Kế hoạch củng cố chính quyền cấp xã, làm cho chính quyền cấp xã thựcsự trong sạch và vững mạnh. Thông tư chỉ rõ: Mọi cơng dân Việt Nam đều có quyền tham dự chính quyền, tham gia ý kiếnvào cơng việc chính quyền, song về thực tế, không thể cùng tham gia trong các cơ quan chính quyền, do đó cơng dân cóquyền bầu một số người thay mặt mình ở những cơ quan ấy. Hội đồng nhân dân xã là cơ quan chính quyền tối cao quyết định mọicơng việc của xã. Hội đồng nhân dân tự chọn một số uỷ viên vào Uỷ ban kháng chiến hành chính để thi hành những nghịquyết của mình. Do vậy, Uỷ ban kháng chiến hành chính là ban chấp hành của Hội đồng nhân dân, quyền chấp hành đều tậptrung vào Uỷ ban kháng chiến hành chính xã và theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Giúp việc cho Uỷ ban kháng chiến hành163 chính xã có văn phòng và các bộ phận chuyên môn.Đầu tháng 11-1951, Bộ Nội vụ tổ chức Hội nghị tổng kết củng cố xã xây dựng Đề án củng cố xã và trình Hội đồng Chínhphủ thơng qua tháng 12-1951. Từ sau đó, cơng tác củng cố chính quyền cấp xã tiếp tục được đẩy mạnh. Ngày 14-6-1952,Chính phủ ra Sắc lệnh số 95SL quy định số lượng, thể lệ bầu cử và chỉ định Uỷ ban kháng chiến hành chính xã.Nhờ tập trung củng cố cấp xã, nhiều nơi đã có thể bỏ được cấp thơn, tạo điều kiện củng cố các đoàn thể quần chúng, cảitiến lề lối làm việc, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo điều hành mọi mặt công tác kháng chiến, kiến quốc ở cơ sở.Việc chấn chỉnh tổ chức chính quyền các cấp đã tạo nên những chuyển biến mới cả về tổ chức và lề lối làm việc, pháthuy được tinh thần làm chủ và khí thế hăng hái tham gia kháng chiến của mọi tầng lớp nhân dân.Các cơ quan chuyên môn cũng được củng cố. Ngày 10-10- 1950, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 438 về việc tổ chức trongphạm vi cả nước Ban công an xã. Ban công an xã trực thuộc hệ thống Việt Nam công an vụ dưới quyền điều khiển của Uỷ bankháng chiến hành chính xã và chấp hành mệnh lệnh của cấp trên theo ngành dọc, có nhiệm vụ bảo vệ tài sản của nhân dân, giữgìn an ninh và vệ sinh công cộng trong xã, ngăn ngừa và bài trừ các tệ nạn xã hội.Ngày 3-1-1952, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 9 về việc thành lập Công an huyện trên phạm vi cả nước. Công an huyện cónhiệm vụ bảo vệ trị an, đề phòng phản gián, bảo vệ các cơ quan ở huyện, điều tra tội phạm theo yêu cầu của Uỷ ban kháng chiếnhành chính tỉnh, huyện và tồ án nhân dân; tổ chức và hướng dẫn công an xã phát triển công an nhân dân.Ngày 15-10-1952, Hội đồng Chính phủ đã họp bàn về việc thành lập Bộ Công an. Ngày 16-2-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minhkí Sắc lệnh số 141SL về việc đổi Nha Công an thuộc Bộ Nội vụ164 thành Thứ Bộ Công an, đặt dưới quyền lãnh đạo của một Thứtrưởng. Thứ Bộ Cơng an có nhiệm vụ chống gián điệp, phản động ở trong nước để bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ quânđội nhân dân và các đoàn thể nhân dân, bảo vệ nền kinh tế, biên giới, chống đặc vụ và gián điệp... Đến tháng 8-1953, Hội đồngChính phủ quyết định đổi Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an. Từ đây, Bộ Công an tách khỏi Bộ Nội vụ, trở thành một Bộ củaChính phủ.Trên lĩnh vực tư pháp, chúng ta đấu tranh chống những khuynh hướng sai lầm; sửa đổi lại thành phần các cấp toà án. Dovậy, ngành Tư pháp được chấn chỉnh và củng cố, trở thành một công cụ chuyên chính sắc bén của chính quyền dân chủ nhândân.Khối đoàn kết toàn dân được củng cố và mở rộng. Từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951, Đại hội thống nhất hai Mặt trận Việt Minhvà Liên Việt được triệu tập. Thành công của Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt làmột sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của khối đoàn kết toàn dân: ... rừng cây đại đoàn kết ấy đã nởhoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan rộng khắp tồn dân và nó có một cái tương lai Trường xuân bất lão1. Tiếp theo Đại hội Đảng và Đại hội thống nhất Việt Minh -Liên Việt theo sáng kiến của Đảng ta, Hội nghị đoàn kết nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia được tổ chức vàongày 11-3-1951, gồm đại biểu Mặt trận Liên - Việt, Mặt trận Khơ me Itxarắc, Mặt trận Lào Itxala. Hội nghị nhất trí khẳngđịnh: Ba dân tộc có chung một kẻ thù là thực dân Pháp và can thiệp Mĩ. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định thành lập khốiLiên minh Việt - Miền - Lào dựa trên nguyên tắc tự nguyện,1.Hồ Chí Minh: Tồn tập. Tập VI. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội 1995. tr.181.165 bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau. Sự ra đờiLiên minh Việt - Miền - Lào là một thắng lợi mới của chiến lược đại đoàn kết ba dân tộc anh em trên bán đảo Đơng Dương,đồn kết các lực lượng hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ thế giới của Đảng và Chính phủ ta, tạo nên sức mạnh của khối đoànkết quốc tế nhằm đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi.Về văn hoá - giáo dục - y tế. Đảng và Chính phủ rất chú trọng xây dựng phong trào vănnghệ quần chúng, khai thác vốn văn hoá, văn nghệ dân tộc; tổ chức và hướng dẫn văn nghệ sĩ đi vào thực tế sản xuất và chiếnđấu, phục vụ kháng chiến. Ngày 6-6-1951, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Nha Thơng tin trực thuộc Thủ tướng Chínhphủ. Cuối năm này, Hội đồng Chính phủ chủ trương kiện tồn Ban Văn hố xã hội, thành lập Nha Văn nghệ, đặt Quốc gia ấnCục vào Ban Văn xã.Ngày 24-2-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 83SL hợp nhất Nha Thông tin và Vụ Văn học nghệ thuật thành NhaTuyên truyền và Văn nghệ trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Ngày 15-3-1953, Chính phủ ra Sắc lệnh số 14SL thành lậpQuốc doanh Điện ảnh và Chiếu bóng Việt Nam. Cùng với sự ra đời của ngành Điện ảnh, các đội chiếu bóng được thành lập. Cácbộ phim Việt Nam kháng chiến, Việt Nam trên đường thắng lợi . . . được xây dựng.Phong trào bình dân học vụ tiếp tục được Chính phủ quan tâm chỉ đạo. Ngày 24-2-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thưnhắc nhở Nha Bình dân học vụ phải làm cho tất cả đồng bào Việt Nam từ 8 tuổi trở lên đều biết đọc, biết viết và lúc đó mớilà thắng lợi hồn tồn trên mặt trận diệt dốt. Đến năm 1952, khoảng 14 triệu người đã thoát nạn mù chữ.Phong trào bổ túc văn hoá được đẩy mạnh. Khắp các cơ quan, các khu vực dân cư, các đơn vị bộ đội và dân công đều tổchức các lớp học bổ túc văn hoá. Đến tháng 9-1953, trong các166 vùng tự do đã có 10450 lớp bổ túc văn hố, với 335.946 họcviên. Một số trường phổ thông lao động ở Trung ương và địa phương được thành lập.Giáo dục phổ thông phát triển mạnh theo hướng cải cách giáo dục năm 1950. Tháng 7-1951, Đại hội Giáo dục toàn quốc đượctổ chức. Đại hội xác định phương châm giáo dục là phục vụ kháng chiến, chủ yếu là tiền tuyến; phục vụ nhân dân, chủ yếulà công - nông - binh.Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, ngày 30-10-1951, Bộ Quốc gia Giáo dục ra Thông tư số 49TT-TKV quy định tổ chứctrường phổ thông 9 năm. Các cấp quản lí giáo dục phổ thơng trung học được quy định rõ: ở Trung ương có Nha Giáo dục phổthông được thành lập trên cơ sở hợp nhất Nha Tiểu học và Nha Trung học; ở Liên khu là Khu Giáo dục phổ thông; ở tỉnh là TyGiáo dục phổ thông.Ngày 3-11-1951, Bộ Quốc gia Giáo dục ra nghị định bãi bỏ các Hội giúp việc giáo dục tỉnh và xã; tổ chức tại mỗi tỉnh mộtTiểu ban giáo dục có nhiệm vụ nghiên cứu chủ trương, chính sách giáo dục của Chính phủ và tình hình giáo dục địa phươngđể định ra chương trình, kế hoạch giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương. Thành phần Tiểu ban giáodục gồm đại biểu Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh, Trưởng ty giáo dục phổ thông, Trưởng ty bổ túc văn hoá.Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục, Nhà nước coi trọng việc chấn chỉnh hệthống các trường sư phạm. Theo hướng ấy, Bộ Quốc gia Giáo dục ra một loạt nghị định về củng cố, sắp xếp lại hệ thống cáctrường chuyên nghiệp nói chung và trường sư phạm nói riêng. Nghị định số 233NĐ 1-10-1951 sáp nhập Trường Sư phạm sơcấp Việt Bắc vào Trường Sư phạm trung cấp Trung ương; Nghị định số 234NĐ 1- 10-1951 thành lập Khu học xá trung ươnggồm 3 trường: Trường Khoa học cơ bản, Trường Sư phạm cao cấp, Trường Sư phạm trung cấp Trung ương; Nghị định số167 276NĐ 11-10-1951 bãi bỏ Ban Sư phạm Đại học Khoa học vàthành lập Trường Sư phạm cao cấp để đào tạo giáo viên cấp III Cho Các trường phổ thông; Nghị định số 277NĐ 11-10-1951mở lớp Dự bị đại học một năm vào đầu năm học 1952 tại Liên khu IV, gồm hai ban: Ban Khoa học xã hội các mơn học: Triếthọc và chính trị, Văn chương Việt Nam, Sinh ngữ, Lịch sử văn học thế giới, Sử, Địa, Kinh tế và Ban Khoa học tự nhiên cácmôn học: Tốn, Lí, Hố, Vạn vật.Tính đến năm 1953, trong các vùng tự do có 769.640 học sinh phổ thông từ cấp I đến cấp III. Năm 1954, số học sinh tănglên 1132.196 người. Trong khoảng ba năm 1951 - 1953, Nhà nước đã đào tạo được 7.000 cán bộ kĩ thuật. Đó là không kểhàng ngàn cán bộ, sinh viên tốt nghiệp đại học và học sinh tốt nghiệp phổ thông được đưa đi đào tạo dài hạn ở nước ngoài,nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc. Trong cả nước đã hình thành 3 trung tâm đại học vàcao đẳng: Việt Bắc, Khu IV và Khu học xá Trung ương l . Công tác chăm lo, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý.Hệ thống bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng rộng khắp. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được phátđộng rộng rãi trong tồn dân. Nạn đói và bệnh dịch được đẩy lùi về cơ bản. Nếp sống mới nảy nở, ngày càng lan rộng khắp cácvùng tự do.Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, giáo dục đã làm tăng thêm sức mạnh của hậu phươngkháng chiến. Đây chính là một nhân tố rất căn bản, có tính quyết định hắng lợi của quân đội ta trên mặt trận quân sự.Lịch sử Chính phủ Việt Nam... Sđd, tr. 223.V- Những Chiến dịch giữ vững và phát triển quyền chủ động đánh địch trên chiến trườngSau chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, quân ta tiếp tục giữ168 vững quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính,liên tục mở các chiến dịch tiến cơng và phản công lớn. Phưng hướng của ta mở chiến dịch là nhằm vào trung du và đồng bằng,trước mắt là đánh trung du.Trung du và đồng bằng lúc này bao gồm 15 tỉnh, thành, rộng khoảng 21.000 km2 và 8.000.000 dân khơng kể Hồ Bình, PhúThọ, hình thành một khu tam giác với nhiều điểm tập trung đông dân cư.Trung du là tuyến chính diện của địch đối mặt với căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc; là dải đất tiếp giáp giữa vùng tạm bị địchchiếm với vùng tự do Việt Bắc. Miền này bao gồm phần đất của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Nam Thái Nguyên, BắcNinh, Bắc Giang, Quảng Yên, Hòn Gai, kéo dài từ tây sang đông khoảng gần 300 km.Sau khi ta giải phóng biên giới, mở rộng vùng tự do ở phía bắc Bắc Bộ, vùng trung du trở thành tuyến phòng thủ chủ yếucủa địch, cùng với tuyến sơng Đáy ở phía tây - nam tạo thành một vành đai bao quanh đồng bằng, ngăn chặn mọi sự xâm nhậpcủa ta vào đồng bằng Bắc Bộ.Đối với địch, trung du là bàn đạp thuận tiện để chúng tập trung lực lượng, tổ chức tiến công, uy hiếp Việt Bắc. Sau đồngbằng, trung du cũng là nơi đơng dân nhiều của, có khả năng cung cấp cho nhu cầu chiến tranh. Mặt khác, trung du là nơi cóphong trào kháng chiến mạnh, lực lượng vũ trang địa phương phát triển và đã từng lập nhiều thành tích trong chiến đấu. Nếuđánh vào trung du, ta sẽ thu hẹp được phạm vi chiếm đóng của địch, phá kế hoạch củng cố và bình định đồng bằng của chúng,làm thất bại âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt.Xuất phát từ tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược về nhiều mặt trên đây, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mởchiến dịch Trung du mang mật danh là chiến dịch Trần Hưng169 Đạo, nhằm mục đích: Tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng khulương thực, phát triển chiến tranh du kích, tranh thủ thời gian phá kế hoạch củng cố của địch, tạo điều kiện mới để tiêu diệtđịch nhiều hơn nữa. Hướng chính của chiến dịch là vùng trung du, từ Việt Trì đến Bắc Giang, trong đó hướng tiến cơng chủyếu nhằm vào khu vực Vĩnh Yên, Phúc Yên. Vùng duyên hải Đông Bắc và Liên khu III là những hướng phụ có nhiệm vụ phốihợp trực tiếp trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch.Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 2 đại đoàn Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312, 5 trung đoàn bộ đội chủ lực, 4 đại đội pháobinh, 2 đại đội cơng binh, 4 tiểu đồn bộ đội địa phương. Cùng với đồng bào một số tỉnh Việt Bắc, hàng vạn dân công chuyênchở hàng trăm tấn gạo ở vùng địch hậu trung du vượt qua mạng lưới đồn bốt địch đày đặc ra phục vụ tiền tuyến. Tổng cộng tồnchiến dịch, ta đã huy động 27.658 dân cơng thường trực, 272.259 dân công từng đợt và chuẩn bị được 4.960 tấn lươngthực, 416 tấn đạn dược, vũ khí. Trải qua 23 ngày đêm chiến đấu từ 25-12-1950 đến 17-1-1951, quân ta đã loại khỏi vòng chiếnđấu 5.000 địch, diệt 30 vị trí và 40 tháp canh, thu nhiều vũ khí các loại.Qua chiến đấu ở trung du, bộ đội ta có bước trưởng thành mới.Lần đầu tiên tác chiến ở một vùng đồi núi thấp nơi địch có điều kiện phát huy thế mạnh, chiến dịch Trung du là một mốcquan trọng, đánh dấu một bước tiến vững chắc của bộ đội ta về kĩ thuật. Bên cạnh những thắng lợi và ưu điểm, ta cũng có mộtsố khuyết điểm và hạn chế. Nhiệm vụ mở rộng khu lương thực mới đạt được ở mức thấp. Việc phát động chiến tranh du kíchlàm chậm, chưa tận dụng được tất cả khả năng mới do thắng lợi của chủ lực tạo nên. Địch bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực quantrọng, nhưng ta cũng có nhiều thương vong sau chiến dịch Trung du, thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng 26-2-1951, Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh mở chiến dịch Đường 18170 mang mật danh là chiến dịch Hoàng Hoa Thám, nhằm mụcđích: Tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích. Hướng chính của chiến dịch là Đường 18, hai hướng phụ làVĩnh Yên và Liên khu III.Trên hướng Đường 18, chúng ta sử dụng 2 đại đoàn Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312, 2 trung đoàn bộ đội chủ lực, 4 đạiđội pháo binh, 2 tiểu đồn cơng binh phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến cơng địch. Phục vụ chiến dịch có hơn57.000 dân cơng, 2.280 tấn lương thực, thực phẩm; 226 tấn đạn dược. Phương châm lác chiến là đánh điểm diệt viện.Trải qua 14 ngày đêm chiến đấu từ ngày 23-3 đến 7-4- 1951, tính chung cả mặt trận chính và mặt trận phối hợp, quânvà dân ta đã tiêu diệt, làm bị thương và bắt trên 3.900 địch; diệt và bức địch rút 133 vị trí, tháp canh; bắn rơi 1 máy bay; phá huỷ1 xe tăng, 45 xe cơ giới1. Bộ đội ta hi sinh 600 người, bị thương trên 1700 người .Đánh giá kết quả chiến dịch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: Trong chiến dịch này, ta đã tiêu diệt một bộ phậnsinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, gây được ảnh hưởng chính trị và học tập được nhiều kinh nghiệm quý báu vềtác chiến với binh lực lớn ở một chiến trường xa và đánh vào một trung tâm của địch. Tuy nhiên, ta đã khơng hồn thànhnhiệm vụ thật đầy đủ, địch thiệt hại nhưng ta cũng bị tiêu hao.Sau chiến dịch Đường 18, tiếp tục kế hoạch tiến công địch ở Trung du và đồng bằng, ngày 20-4-1951, Bộ Chính trị Trungương Đảng quyết định mở cuộc tiến công ở khu vực Hà - Nam - Ninh, lấy tên là chiến dịch Quang Trung, nhằm tiêu diệt thêmmột bộ phận sinh lực địch, phá tan khối ngụy quân, thúc đẩy chiến tranh du kích phát triển, giành lại kho người, kho của ở1.Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Tập 2. Sách đã dẫn, tr. 62.171 đồng bằng. Trung ương Đảng nhấn mạnh: Chiến dịch QuangTrung là một chiến dịch đầu tiên được mở ở đồng bằng, cách xa căn cứ địa chính; địa thế có nhiều khó khăn cho ta, thuận lợi chođịch. Trong chiến dịch này, ta không những phải thắng về quân sự, mà còn phải thắng cả về chính trị; cần phải hết sức tranh thủdân; chú trọng việc vận động ngụy binh, vận động đồng bào công giáo, thi hành chính sách của Đảng trong các vùng có thểgiải phóng.Lực lượng sử dụng trong chiến dịch gồm 3 đại đoàn bộ binh Đại đoàn 308, Đại đoàn 304 và Đại đoàn 320, 5 đại đội pháobinh, một số đơn vị công binh, trinh sát và lực lượng vũ trang địa phương. Nếu so với địch, về lực lượng bộ binh, ta nhiều hơnhai lần, nhưng địch có ưu thế tuyệt đối về cơ giới, máy bay, tàu chiến và do điều kiện cơ động thuận lợi, chỉ trong thời gianngắn, chúng có thể điều thêm một số binh đồn cơ động đến, nhanh chóng làm thay đổi lực lượng.Với tinh thần Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, nhân dân các địa phương, từ Việt Bắc đến Liên khu III, Liênkhu IV, đều hăng hái đóng góp sức người, sức của cho chiến dịch. Chỉ trong thời gian ngắn, riêng tỉnh Hà Nam đã huy độngđược 160 tấn gạo và 130 con trâu, bò, lợn. Nhân dân ba tỉnh huy động trên 100.000 dân công làm nhiệm vụ vận tải, dẫn đường,chuyển thương, phục vụ thương binh, bắc cầu, đào đắp công sự; huy động 4.400 thuyền, mảng chở bộ đội qua sông trong suốtchiến dịch1. Sau 24 ngày đêm chiến đấu từ ngày 28-5 đến 20-6-1951, tađã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 4.000 địch, diệt và bức địch rút hơn 30 vị trí, phá huỷ hơn 30 xe lội nước, thu hơn 1.000 vũkhí và phương tiện chiến tranh. Tuy nhiên, lực lượng của ta cũng bị tổn thất nặng.1.Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Tập 2. Sđd, tr. 71.172 Tính chung trên các chiến trường tồn quốc trong 6 thángđầu năm 1951, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm bị thương gần 40.000 địch. Riêng ở Bắc Bộ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu32.000 tên địch trong ba Chiến dịch Trung du, Đường 18 và Hà - Nam - Ninh, số địch bị diệt là 17.000 tên. Ta thu gần 10.000súng các loại.Tuy nhiên, vì địa bàn ba chiến dịch trên khơng lợi cho ta, mà có lợi cho địch trong việc phát huy ưu thế về binh khí kĩ thuậtvà cơ động, nên kết quả chiến đấu bị hạn chế. Địch bị thiệt hại nặng, nhưng ta cũng bị tiêu hao lớn; có chiến dịch khơng đạtđược mục tiêu đề ra. Cả ba chiến dịch đã gây trở ngại cho địch trong việc thực hiện kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi, nhưng sứcchiến đấu của bộ đội ta cũng bị giảm sút. Ta không phát huy được thế chủ động chiến lược giành được từ chiến dịch Biêngiới; chưa phá được phòng tuyến của địch, chưa làm thay đổi được cục diện chiến trường đồng bằng Bắc Bộ.Về phía thực dân Pháp, sau một thời gian đối phó với các cuộc tiến cơng của ta ở Trung du, Đường số 18 và Hà - Nam -Ninh, chúng tăng cường chiến tranh tổng lực, đánh phá dữ dội cơ sở kháng chiến trong vùng tạm chiếm, cướp đoạt tài sản,giành giật nhân lực, vật lực, chống lại chiến tranh du kích, gây cho ta nhiều khó khăn mới. Các căn cứ du kích và khu du kíchcủa ta ở đồng bằng bị đánh phá nặng nề; nhiều vùng bị chúng chiếm đóng trở lại. Hàng ngàn vị trí, tháp canh của địch đượcdựng khắp nơi. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong vùng tạm bị địch chiếm gặp rất nhiều khó khăn.Trước tình hình trên, nhằm phá tan âm mưu thâm độc của địch, đưa những hoạt động kháng chiến ở vùng sau lưng địch,nhất là chiến tranh du kích vượt qua khó khăn để phát triển đi lên, Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảngtừ ngày 27-9 đến 5-10-1951 tập trung bàn về nhiệm vụ và phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng dukích. Hội nghị nêu rõ: Cơng tác vùng tạm bị chiếm và vùng du173 kích là một cơng tác rất quan trọng; đề ra mục đích, phươngchâm và nhiệm vụ của tồn bộ cơng tác ở vùng sau lưng địch là nhằm vào vận động quần chúng đấu tranh, vận động binh línhđịch, thực hành chiến tranh du kích, phá chính sách bình định của Pháp và chính quyền tay sai.Hội nghị chia vùng sau lưng địch thành vùng tạm chiếm và vùng du kích, hoạt động theo hai phương châm khác nhau:Vùng tạm bị địch chiếm lấy xây dựng cơ sở, đấu tranh chính trị và kinh tế làm chính; vùng du kích lấy đấu tranh vũ trang làmchính, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và kinh tế.Vùng sau lưng địch lúc này có ba cơng tác chính: Dân vận, vận động ngụy binh và đẩy mạnh chiến tranh du kích, trong đódân vận là gốc của mọi cơng tác. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai đánh dấu bướcphát triển của Đảng về công tác chỉ đạo mặt trận vùng sau lưng địch. Nghị quyết Hội nghị có tác dụng hướng dẫn kịp thời cuộcđấu tranh gay go, ác liệt của nhân dân vùng sau lưng địch chống lại chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiếntranh nuôi chiến tranh của kẻ thù.Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ hai, quân và dân trong cả nước đẩy mạnh mọi mặt hoạt động, chuyểnhướng mạnh mẽ công tác trong vùng sau lưng địch, phối hợp chặt chẽ chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, giànhthắng lợi mới.Trong khi đó, từ cuối năm 1951, sức ép từ nhau phía một lần nữa lại đè nặng lên Chính phủ Pháp. Cùng với gánh nặng chiếntranh ở thuộc địa, Chính phủ Pháp phải góp 10 sư đồn cho khối Bắc Đại Tây Dương NATO. Điều này càng làm cho tình hìnhkinh tế - xã hội của nước Pháp trở nên căng thẳng. Sức ép về chính trị của nhân dân Pháp cũng như của các phe phái trongQuốc hội đã lên đến tột đỉnh.174 Trong hoàn cảnh ấy, những người cầm đầu Chính phủ Phápmuốn có một thắng lợi qn sự vang dội để vừa xoa dịu dư luận, trấn an tinh thần binh sĩ, vừa để tranh thủ viện trợ của Mĩ. Việcvạch ra kế hoạch đánh chiếm Hoà Bình của Bộ chỉ huy qn đội Pháp ở Đơng Dương chính là nhằm mục đích ấy.Tỉnh Hồ Bình có 15 vạn dân, nằm ở phía tây nam đồng bằng Bắc Bộ. Thị xã Hồ Bình là trung tâm chính trị của đồng bàodân tộc Mường, cách Hà Nội 75 km. Sau thất bại trên mặt trận Biên giới thu - đông 1950, quân Pháp đã phải rút khỏi HồBình. Một vùng tự do rộng lớn ở phía tây, cửa ngõ nối liền vùng tự do với đồng bằng Bắc Bộ qua Chợ Bến, qua sông Đà, đãđược giải phóng. Trong gần một năm sau đó, nhân lực, vật lực từ các tỉnh Thanh Hố, Nghệ An, Hà Tĩnh vượt qua Đường 6được chuyển ra phía bắc chi viện cho các chiến dịch lớn.Đánh chiếm Hồ Bình, Đờ Lát hi vọng lập lại hành lang đông - tây ngăn chặn con đường giao thông của kháng chiến từ Bắcvào Nam, buộc chủ lực của đối phương phải tham chiến; qua đó giành thắng lợi quân sự để ổn định quân ngụy và dựng lại XứMường tự trị.Sau khi củng cố thế phòng ngự, tăng cường lực lượng và đẩy mạnh bình định, ngày 9-11-1951, Đờ Lát sử dụng một lực lượngcơ động chiến lược mạnh gồm 20 tiểu đoàn bộ binh, 7 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp, 2 đại đội xe tăng và nhiều tàuthuyền mở cuộc hành qn Tuylíp Tulipe, tiến cơng Chợ Bến, cắt đường di chuyển của bộ đội ta từ Việt Bắc xuống đồng bằng.Ngày 14-11, chúng mở cuộc hành quân Lôtuýt Lotus đánh chiếm Hồ Bình. Trong ngày 15-11, chúng đã hồn thành việcchiếm đóng các vị trí then chốt trong khu vực Hồ Bình - Đường 6 - Sơng Đà - Ba Vì. Ngay sau khi đặt chân lên HồBình, địch đã xây dựng hệ thống phòng ngự dã chiến với 28 cứ điểm lớn nhỏ bằng đất, gỗ, có hàng rào dây thép gai bao bọc.Mỗi cứ điểm có từ 1 - 2 đại đội bộ binh chốt giữ. Lần đầu tiên trên chiến trường Đông Dương, một hình thức tổ chức chiếm175 đóng quy mơ tương đối lớn xuất hiện ở khu vực Hoà Bình -Sơng Đà - Đường 6. Ngày 24-11-1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉthị số 22 về Nhiệm vụ phá cuộc tấn cơng Hồ Bình của địch. Sau khi vạch rõ âm mưu của địch, Chỉ thị khẳng định: Địchđánh ra Hồ Bình là một cơ hội tốt để ta diệt địch, bởi vì lực lượng chúng bị phân tán trên một tuyến dài đi sâu vào vùng tựdo của ta, vốn khơng lợi cho chúng về địa hình. Hơn nữa, đây cũng là một dịp rất thuận lợi cho ta đẩy mạnh chiến tranh nhândân ở vùng sau lưng địch, khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán lực lượng của địch.Trên cơ sở đó, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch đánh địch trên cả hai mặt trận: chính diện Hồ Bình và saulưng địch trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Lực lượng tham gia đánh địch ở mặt trận Hồ Bình có 3 đạiđoàn 308, 312 và 304; ở mặt trận sau lưng địch có 2 đại đồn 316 và 320. Ngồi ra, lực lượng bộ đội địa phương và dânquân, du kích cũng được điều động phối hợp.Chỉ sau mấy ngày địch chiếm đóng, thị xã Hồ Bình bị vây chặt trong một vòng đai lửa của quân ta, khiến địch phải núp kíndưới hầm. Trên phòng tuyến sơng Đà, nhiều đoàn tàu chiến của địch bị đánh đắm. Các vị trí kiên cố nhất, như Ba Vì, Đá Chông,Tu Vũ lần lượt bị quân ta tiêu diệt.Trải qua hơn hai tháng chiến đấu từ ngày 10-12-1951 đến 25-2- 1952, trên cả hai mặt trận, quân và dân ta đã tiêu diệt vàbắt khoảng 22.000 địch. Riêng mặt trận vùng sau lưng địch, tá đã tiêu diệt 15.000 tên; san phẳng, bức hàng và bức rút hơn1.000 đồn bốt, tháp canh của địch chiếm 23 tổng số đồn bốt, tháp canh. Ta đã giải phóng hồn tồn khu vực Hồ Bình -Sơng Đà rộng 2.000 km2, với 15 vạn dân; làm chủ hồn tồn phía tây đồng bằng Bắc Bộ; bảo vệ tồn vẹn con đường giaothơng chiến lược của kháng chiến từ Việt Bắc đến Nam Bộ; phá tan âm mưu thâm độc chia rẽ đồng bào các dân tộc và chính176 sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôichiến tranh của địch ở Hồ Bình. Các căn cứ du kích được mở rộng và nối liền thành một thế liên hoàn từ Bắc Giang xuốngBắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hàm Đơng. Phần lớn kết quả bình định đồngbằng Bắc Bộ trong cả năm 1951 của địch bị phá vỡ. Âm mưu phản công tiêu diệt bộ đội chủ lực ta, giành lại quyền chủ độngchiến lược của địch bị đập tan.Chiến thắng Hồ Bình là chiến thắng qn sự tình nhất của ta từ sau chiến thắng Biên giới thu - đơng 1950. Nó đã làm tan vỡtồn bộ kế hoạch quân sự của Tướng Đờ Lát đờ Tátxinhi, cắt đứt mọi hi vọng giành quyền chủ động của qn Pháp từ đó vềsau.Chiến thắng Hồ Bình có ý nghĩa chiến lược lớn cả về chính trị và quân sự. Với chiến thắng này, ta đã đánh bại kế hoạchquân sự được chuẩn bị khá công phu của địch, đẩy địch vào thế lúng túng, bị động về chiến dịch, dẫn đến phòng ngự bị động vềchiến lược; chấm dứt thời kì địch có thể dễ dàng thực hiện các cuộc hành quân đánh chiếm sâu vào các vùng giải phóng. Vùngcăn cứ du kích, khu du kích liên hồn, rộng lớn được hình thành, gồm các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Chính sáchdùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch bị giáng một đòn mạnh.Chiến thắng Hồ Bình phản ánh kết quả của Đảng và Chính phủ trong chính sách xây dựng hậu phương kháng chiến, chínhsách xây dựng khối đồn kết tồn dân. Đây cũng là thành công nổi bật của Đảng ta trong việc chỉ dạo tiến công địch trên cả haihướng chiến lược chủ yếu, kết hợp chặt chẽ mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch.Chiến thắng Hồ Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường Bình - Trị - Thiên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ đẩymạnh chiến tranh du kích, liên tục tiến công, phát triển lực lượng kháng chiến, mở rộng thêm nhiều vùng căn cứ, làm thay177 đổi cục diện chiến trường theo chiều hướng ngày càng có lợicho ta. Sau khi thất bại trong chiến dịch Hồ Bình, thực dân Pháphuy động lực lượng chủ lực mở các cuộc càn quét ở vùng chúng tạm chiếm trong suốt 5 tháng liền, với hi vọng cứu vãn nguy cơở đồng bằng.Quy mô các cuộc càn quét lần này rất lớn. Riêng trong chiến dịch Mécquya Mercure - Thuỷ ngân từ 25-3 đến 26-4-1952đánh vào vùng tây nam Thái Bình, thực dân Pháp sử dụng tới 5 binh đoàn tương đương 20 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn cơgiới, 40 khẩu pháo, 6 tàu chiến, 40 ca nô và một số quân dù bao vây càn quét khu vực bốn huyện: Thái Ninh, Kiến Xương, TiềnHải và một phần huyện Vũ Tiên, rộng khoảng 700 km2, nơi đặt cơ quan của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 và Tỉnh uỷ Thái Bình.Trước âm mưu và hành động của địch, chúng ta tổ chức lực lượng chiến đấu, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống bắt thanhniên vào lính, mở rộng cơ sở kháng chiến. Tính chung, trên chiến trường cả nước, từ sau chiến dịch Hồ Bình đến hết mùahè năm 1952, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 20.000 tên địch; san bằng, bức rút, bức hàng trên 900 vị trí; thunhiều vũ khí, quân trang1. Cùng với việc tổ chức chống địch càn quét, bảo vệ vùng tựdo, chúng ta tiến hành chỉnh Đảng, chỉnh quân, tăng cường lực lượng kháng chiến về mọi mặt.Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3, ngày 11-5-1952, Trung ương mở lớp chỉnh Đảng đầu tiên. Khaimạc lớp học, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Trung ương rất mong rằng, trong cuộc chỉnh huấn này, các đồng chí cố gắng thiđua học tập rèn, luyện để trở thành những cán bộ gương mẫu,1Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954. Tập 2...Sđd, tr. 197.178 xứng đáng với lòng trơng mong tin cậy của Đảng, của Chínhphủ, của quân đội và của nhân dân, trở nên những chiến sĩ đắc lực nhất trong sự nghiệp xây dựng Đảng và giúp Đảng đưakháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công1. l 2 Hồ Chí Minh: Tồn tập. Tập 5. NXB Chính trị quốcgia, Hà Nội, 1995, tr. 480. sau chỉnh huấn chính trị mùa hè năm 1952, quân đội ta tiến hành chấn chỉnh tổ chức, biên chế vàtrang bị. Đến đây, đội quân chủ lực trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh đã có 6 đại đồn bộ binh 308, 304, 312, 316, 320 và 325, 2trung đoàn bộ binh 148 và 246, 1 đại đồn cơng binh, pháo binh 351. Liên khu III có Trung đồn 46. Việt Bắc có Trungđồn 238. Liên khu V có trung đồn 803. Nam Bộ có Tiểu đồn 302, Tiểu đồn 307.Tại các đơn ví, chỉnh huấn quân sự được đẩy mạnh. Thơng qua chính huấn, trình độ chiến thuật, kĩ thuật của bộ đội đượcnâng cao theo yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu sắp tới. Công tác xây dựng hậu phương kháng chiến được đẩy lênmột bước. Phong trào sản xuất và tiết kiệm nhanh chóng được tồn dân hưởng ứng mạnh mẽ.Để động viên các tầng lớp nhân dân phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đẩy mạnh cuộc kháng chiến sang giai đoạnmới, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Hội nghị thi đua toàn quốc, toàn quân.Ngày 1-5-1952, Đại hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu tồn quốc lần thứ nhất khai mạc, gồm có 154 đại biểu ưu túcủa giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang. Đại hội long trọng tuyên dương 7 anh hùng: Cù Chính Lan liệtsĩ, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh.Phong trào thi đua yêu nước như một luồng sinh khí mới cổ1179 vũ quân và dân ta nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượtkhó khăn gian khổ, tiếp tục lập cơng trên các mặt trận. Trong khi cuộc vận động chỉnh Đảng, chỉnh qn đang diễnra sơi nổi, thì Tổng Qn uỷ, Bộ Tổng tư lệnh đã hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến Thu - Đông 1952 với hướng tiến công chính làTây Bắc Bậc Bộ. Đây là nơi địch sơ hở, nhưng lại rất hiểm yếu, khi bị tiến công, nhất định chúng sẽ đưa lực lượng từ nơi khácđến đối phó.Tây Bắc là chiến trường rừng núi rộng lớn nằm ở phía tây bắc Bắc Bộ nước ta. Phía tây là biên giới Việt - Lào, giáp haitỉnh Phong Xa Lì và Sầm Nưa. Phía đơng giáp căn cứ địa Việt Bắc. Phía bắc là biên giới Việt - Trung, đối diện với tỉnh LàoCai là tỉnh Vân Nam. Phía nam là tỉnh Hồ Bình, nối liền với các tỉnh thuộc Liên khu III, Liên khu IV.Miền Tây Bắc gồm 4 tỉnh: Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu với dân số khoảng 440.000 người. Đường vào Tây Bắc chỉcó hai trục lớn: Đường 41 từ Hồ Bình đi Mộc Châu; Đường 13 từ Yên Bái vào Nghĩa Lộ.Ở vùng Tây Bắc, sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, tàn quân Pháp vẫn lén lút hoạt động. Sau Cách mạng thángTám, lợi dụng chính quyền nhân dân còn rất non yếu, cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng hầu như chưa có, thực dân Pháp dựavào bọn phản động trong thổ ti, lang, đạo và quân Tưởng, đưa tàn quân từ Trung Quốc về thiết lập các vị trí chiếm đóng. Vìvậy, Tây Bắc sớm trở thành vùng địch tạm chiếm.Thực hiện chủ trương chuyển hướng tiến công chiến lược, từ tháng 4-1952, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thịtiến hành công tác chuẩn bị chiến dịch, với quyết tâm tiêu diệt địch, giải phóng Tây Bắc.Lực lượng địch ở Tây Bắc có 8 tiểu đồn và 43 đại đội, 1 1 khẩu pháo được bố trí phân tán trên 14 cứ điểm.Lực lượng chủ lực của ta tham gia chiến dịch có 3 đại đồn180 308, 312 và 316, 6 đại đội sơn pháo 75 mm 24 khẩu, 3 đạiđội cối 120 mm 12 khẩu... Lực lượng vật chất đảm bảo cho chiến dịch có khoảng 9.000tấn lương thực, thực phẩm; 120 tấn vũ khí, đạn dược và dụng cụ thuốc men. Số dân công được huy động khoảng 194.400 người,chủ yếu làm nhiệm vụ vận tải từ hậu phương ra tiền tuyến. về nhân lực, vật lực, Trung ương giao cho các tỉnh Yên Bái, TuyênQuang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên trực tiếp phục vụ hướng Nghĩa Lộ; các tỉnh Sơn La, Hồ Bình, Thanh Hố, Nghệ An, HàNam... trực tiếp phục vụ hướng Đường 41 đi Sơn La.Chiến dịch Tây Bắc nhằm thực hiện 3 mục tiêu: tiêu diệt địch, giải phóng đất, tranh thủ dân; trong đó, mục tiêu quantrọng hơn cả là tiêu diệt địch. Trong khi bộ đội ở Tây Bắc tiến vào vị trí tập kết thì ở đồngbằng Liên khu III, quân ta tổ chức hoạt động nghi binh, làm lạc hướng phán đoán của địch.Ngày 14-10-1952, quân ta nổ súng tiến công Nghĩa Lộ, mở màn chiến dịch. Trải qua hai tháng chiến đấu, đến ngày 10-12-1952, chiến dịch kết thúc thắng lợi. Trên cả hai mặt trận Tây Bắc và đồng bằng Bắc Bộ, quân tađã tiêu diệt và làm bị thương 13.000 dịch riêng Tây Bắc là 6.029 tên; phá vỡ toàn bộ hệ thống ngụy quân, ngụy quyền; đậptan âm mưu lập Xứ Thái tự trị của địch; giải phóng 810 đất đai vùng Tây Bắc, gồm toàn bộ tỉnh Nghĩa Lộ, gần hết tỉnh SơnLa trừ Nà Sản, 4 huyện phía nam tỉnh Lai Châu và 2 huyện thuộc tỉnh Yên Bái, rộng 28.500 km2, với 250.000 dân. Thế uyhiếp của địch đối với Việt Bắc từ phía tây và đối với Thượng Lào từ phía đơng bị phá vỡ. Chiến thắng Tây Bắc làm cho binhlính địch thêm hoang mang, lo sợ. Các nhà chỉ huy quân sự Pháp ở Đông Dương cảm thấy bế tắc, bi quan trước sự tiến triểncủa cuộc chiến tranh ngày càng bất lợi cho chúng.Chiến thắng Tây Bắc có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự,181 chính trị và kinh tế. Với chiến thắng Tây Bắc, hình thái chiếntrường thay đổi theo hướng có lợi cho ta. Ta đã giữ vững và từng bước mở rộng quyền chủ động về chiến lược; các lựclượng vũ trang nhân dân của ta tích luỹ thêm kinh nghiệm tác chiến trên quy mơ lớn, sự hiệp đồng tác chiến cao giữa các binhchủng trên chiến trường rừng núi; đặc biệt, thông qua chiến đấu và chiến thắng, bộ đội chủ lực của ta quen dần cách đánh hệthống cứ điểm mạnh. Sau chiến thắng Tây Bắc, nhân dân các dân tộc Tây Bắc ra sức xây dựng. củng cố vùng mới giải phóng;truy lùng thổ phỉ, biệt kích, khắc phục sản xuất. Các đại đoàn chủ lực bước vào đợt huấn luyện, tập đánh cứ điểm mạnh, chuẩnbị cho đợt tác chiến mới.Trong khơng khí chiến thắng trên chiến trường cả nước, những ngày cuối tháng 1-1953, Ban Chấp hành Trung ươngĐảng họp Hội nghị lần thứ 4. Hội nghị nhận định: Bộ đội ta tiến bộ nhiều về tinh thần, về chiến thuật cũng như kĩ thuật, trình độtác chiến ngày một nâng cao ở cả địa hình đồng bằng, trung du và miền núi.Hội nghị đề ra phương châm tác chiến: Tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồngthời phải hoạt động ở sau lưng địch. Hội nghị xác định nhiệm vụ chính trong năm 1953 là: tiêudiệt sinh lực địch, phá âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; bồi dưỡng lực lượng nhândân, lực lượng kháng chiến. Sau chiến thắng Tây Bắc, cách mạng Việt Nam có điều kiện phối hợp với cách mạng Lào hơntrước. Trên cơ sở phân tích tình hình mọi mặt, Tổng Qn uỷ đề nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng cho phối hợp với quân vàdân Lào mở chiến dịch Thượng Lào, tiến công Sầm Nưa nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đấtđai; phối hợp với nhân dân và quân giải phóng Pathét Lào chống kẻ thù chung, giúp Chính phủ kháng chiến Lào xây dựng nhữngcăn cứ du kích, mở rộng ảnh hưởng trong nhân dân để đưa cuộc182 kháng chiến Lào phát triển đi lên. Đồng thời, phá thế bố tríchiến lược của địch ở miền Bắc Đơng Dương, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó, ngăn chặn âm mưu củng cố TâyBắc và bình định đồng bằng của địch.Lực lượng của ta tham gia chiến dịch Thượng Lào gồm có 4 đại đồn 308, 316, 312 và 304 và Trung đoàn 148. Ngoài ra,con có 7 đại đội pháo binh, 2 tiểu đồn súng phòng khơng 12,7 mm, 1 tiểu đồn thơng tin. Ngày 3-4-1953, Chủ tịch Hồ ChíMinh gởi thư động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch: Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọngvà vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình...1. Theo kế hoạch tác chiến, hướng chính của Chiến dịch là SầmNưa; hướng phối hợp là lưu vực sông Nậm Hu và Xiêng Khoảng.Ngày 9-4-1953, các đơn vị tham gia chiến dịch được lệnh vượt biên giới đến vị trí tập kết.Ngày 12-4-1953, phát hiện các đơn vị đi đầu của quân ta đang tiến về hướng Sầm Nưa, Tướng Xalăng đã vội ra lệnh chotoàn bộ quân Pháp bỏ thị xã rút chạy. Trước tình hình đó, bộ đội ta kịp thời chuyển phương án vận động từ xa đến bao vây, đánhđịch trong công sự vững chắc, sang phương án vận động truy kích tiêu diệt địch, bắt đầu từ ngày 13-4-1953.Trải qua hơn một tháng vận động truy kích tiêu diệt địch, ngày 18-5-1953, chiến dịch Thượng Lào kết thúc. Trong chiếnđịch này, ta và bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 2.800 địch bằng 115 tổng số lực lượng địch ở Lào, giải phóng trên4.000 km2, gồm tồn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và Phong Xa Lì chiếm 15 diện tích Bắc Lào với hàng1.Hồ Chí Minh: Tồn tập. Tập 7 - NXB Chính tả quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 64.183 chục vạn dân.Với chiến thắng Thượng Lào, lực lượng kháng chiến của bạn mở rộng được địa bàn đứng chân. Từ nay, hậu phương khángchiến của cách mạng Lào được nối thông với vùng tự do của Việt Nam. Lực lượng vũ trang Pathét Lào được tôi luyện vàtrưởng thành.Thắng lợi của Chiến dịch Thượng Lào là thắng lợi của tinh thần quốc tế vơ sản, của tình đồn kết chiến đấu đặc biệt giữanhân dân hai nước Việt - Lào. Về phía ta, thế chiến lược mới do chiến thắng Thượng Làotạo ra, một lần nữa củng cố thêm quyền chủ động chiến lược của quân đội ta khơng chỉ ở chiến trường chính Bắc Bộ, mà cả trêntồn miền Bắc Đơng Dương.Đối với thực dân Pháp, sau những thất bại liên tiếp ở Tây Bắc, Thượng Lào, hệ thống bố trí chiến lược của chúng co lạimột cách nguy hiểm. Trên chiến trường Bắc Đông Dương, lực lượng cơ động của Pháp bị căng mỏng và phân tán, buộc chúngphải làm nhiệm vụ đóng giữ những vị trí chiến lược. Kế hoạch nhằm giành lại quyền chủ động chiến lược của Đờ Lát, đượcXalăng dốc sức thực hiện, đến đây hoàn toàn phá sản.Trong tình thế khủng hoảng, bị động về quân sự, Tướng Xalăng bị triệu hồi. Chính phủ Pháp cử Tướng Nava sang thaylàm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, đem theo một kế hoạch mới hòng giành một thắng lợi quyếtđịnh về quân sự, kết thúc cuộc chiến tranh. Thực dân Pháp lại bước vào một kế hoạch phiêu lưu mới ở Đông Dương trong tìnhhình có nhiều khó khăn.Tóm lại, trong hơn hai năm, kể từ sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, quân và dân ta đã trải qua một thời kì chiến đấurất sơi động, hồn thành xuất sắc ba nhiệm vụ chiến lược: tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, phá kếhoạch bình định của địch; tạo ra những tiền đề cho bước phát184 triển nhảy vọt của cuộc kháng chiến.Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, quân và dân ta từng bước phát triển thế tiếncông với quy mô ngày càng lớn bằng cả chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy để giành ưu thế quân sự, giữ vững và pháthuy quyền chủ động chiến lược.Trên đà thắng lợi của chiến dịch Biên giới, quân đội ta liên tiếp mở các chiến dịch tiến công và phản công, cùng với hàngchục đợt hoạt động trên khắp các chiến trường toàn quốc, ở trung du, đồng.bằng, miền núi. Các chiến dịch tiến công, phảncông của ta trong thời kì này đều phát triển với quy mơ ngày càng lớn, trên những địa bàn khá rộng và trong thời gian dài. Bộđội ta tiến bộ rõ rệt về trình độ đánh cơng kiên và đánh vận động.Với thắng lợi của các chiến dịch Hồ Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, căn cứ địa Việt Bắc, Tây Bắc, Thượng Lào được đánhthông, tạo thành một thế trận liên hồn; hậu phương kháng chiến khơng ngừng được mở rộng. Cuộc kháng chiến của nhân dân banước Đông Dương ngày càng phát triển mạnh mẽ.CÂU HỎI – BÀI TẬP1- Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950 được mở ra trong hồn cảnh thế giới và Đơng Dương như thế nào? Diễn biến, kếtquả, ý nghĩa. 2- Chứng minh: Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950 đã mởđầu giai đoạn phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp.3- Sự can thiệp của Mĩ, âm mưu của Pháp - Mĩ ở Đông Dương sau thất bại trong chiến dịch Biên giới thu - đơng 1950 làgì? 4- Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ II của Đảng họp tronghoàn cảnh như thế nào? Nội dung và ý nghĩa của dại hội.185 5- Hậu phương kháng chiến phát triển mọi mặt như thế nàotrong giai đoạn 1950 - 1953? 6- Vẽ lược đồ chiến dịch Biên giới thu - đông 1950.

Video liên quan

Chủ Đề