Bộ máy nhà nước Việt Nam ai đứng đầu

50 nhân sự lãnh đạo các cơ quan Nhà nước khóa XV đều tham gia Trung ương khóa XIII, trong đó có 8 Ủy viên Bộ Chính trị là: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Thủ tướng Phạm Minh Chính; Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; trong khối Chính phủ có Phó thủ tướng Phạm Bình Minh; Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Phan Văn Giang; Đại tướng, Bộ trưởng Công an Tô Lâm; khối Quốc hội có Phó chủ tịch Trần Thanh Mẫn. Ủy viên Bộ Chính trị còn lại là Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình.

Hai vị tham gia Ban Bí thư Trung ương là Ủy viên Bộ Chính trị, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình; Phó thủ tướng Lê Minh Khái.

6 nhân sự lãnh đạo các cơ quan Nhà nước là nữ, gồm: Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân; Bộ trưởng Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng; Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh; Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga; Trưởng Ban công tác đại biểu Nguyễn Thị Thanh.

Về trình độ học vấn, có ba giáo sư là Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ (giáo sư kinh tế); Đại tướng, Bộ trưởng Công an Tô Lâm (giáo sư khoa học an ninh); Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long (giáo sư y học). Ngoài ra còn có 5 phó giáo sư; 14 tiến sĩ; 23 thạc sĩ; một kỹ sư; 4 cử nhân.

Người trẻ nhất nhiệm kỳ khóa XV là Bộ trưởng Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị (45 tuổi). Người nhiều tuổi nhất là Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc (67 tuổi).

Độ tuổi trung bình nhiệm kỳ này là 57,2 cao hơn đầu nhiệm kỳ trước 0,7 tuổi (56,5).

Nhà nước Việt Nam gồm hệ thống cơ quan, đứng đầu là Đảng Cộng sản, bao gồm: cơ quan lập pháp (Quốc hội ở cấp trung ương và Hội đồng Nhân dân các cấp địa phương), cơ quan hành pháp (Chính phủ ở cấp trung ương và Ủy ban Nhân dân các cấp địa phương), cơ quan tư pháp (Tòa án Nhân dân Tối cao ở cấp trung ương và Tòa án Nhân dân các cấp địa phương), và cơ quan kiểm sát (Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cấp trung ương và Viện Kiểm sát Nhân dân các cấp địa phương).

Bài viết này của Le & Tran Trial Lawyers sẽ đem đến cho độc giả một cái nhìn tổng quan về hệ thống cơ quan nhà nước Việt Nam.

Quốc hội

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, nắm quyền lực Nhà nước cao nhất.  Quốc hội có ba chức năng chính là thực hiện quyền lập hiến và lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.  Chức năng và nhiệm vụ của Quốc hội được quy định chi tiết tại Hiến pháp 2013.

Chủ tịch nước

Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam, thay mặt Nhà nước trong các vấn đề đối nội và đối ngoại.  Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội và chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.  Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.  Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch nước.  Chức năng, nhiệm vụ của Chủ tịch nước được quy định tại Hiến pháp 2013.

Chính phủ

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.  Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.  Trong đó:

  • Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
  • Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.
  • Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật.

Bộ và Cơ quan ngang Bộ

Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.

Theo Nghị quyết 03/2011/QH13, Chính phủ gồm có 22 Bộ và cơ quan ngang Bộ.

Các Bộ bao gồm 18 Bộ sau đây:

  1. Bộ Quốc phòng;
  2. Bộ Công an;
  3. Bộ Ngoại giao;
  4. Bộ Nội vụ;
  5. Bộ Tư pháp;
  6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
  7. Bộ Tài chính;
  8. Bộ Công thương;
  9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
  10. Bộ Giao thông vận tải;
  11. Bộ Xây dựng;
  12. Bộ Tài nguyên và Môi trường;
  13. Bộ Thông tin và Truyền thông;
  14. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;
  15. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
  16. Bộ Khoa học và Công nghệ;
  17. Bộ Giáo dục và Đào tạo;
  18. Bộ Y tế.

Các cơ quan ngang Bộ bao gồm Ủy ban Dân tộc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, và Văn phòng Chính phủ.

Ủy ban Nhân dân

Ủy ban Nhân dân do Hội đồng Nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng Nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, Hội đồng Nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.  Hội đồng Nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng Nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

Chức năng nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban Nhân dân, Hội đồng Nhân dân các cấp được quy định cụ thể tại Luật Tổ chức Chính quyền Địa phương.

Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban Nhân dân gồm có các sở và cơ quan tương đương sở.  Cơ cấu tổ chức của sở gồm phòng chuyên môn, nghiệp vụ; thanh tra (nếu có); văn phòng (nếu có); chi cục và tổ chức tương đương (nếu có); đơn vị sự nghiệp công lập (nếu có).

Tòa án Nhân dân

Tòa án Nhân dân là cơ quan xét xử của Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Tổ chức Tòa án Nhân dân bao gồm Tòa án Nhân dân Tối cao; Tòa án Nhân dân Cấp cao; Tòa án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án Nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; và Tòa án Quân sự.

Viện Kiểm sát Nhân dân

Viện Kiểm sát Nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Việt Nam.  Viện Kiểm sát Nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Hệ thống Viện Kiểm sát Nhân dân bao gồm Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; Viện Kiểm sát Nhân dân Cấp cao; Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Viện Kiểm sát Nhân dân Cấp tỉnh); Viện Kiểm sát Nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (Viện Kiểm sát Nhân dân Cấp huyện); và Viện Kiểm sát Quân sự Các cấp.

Trong đó, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; Viện Kiểm sát Nhân dân Cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Nhân dân cấp cao; Viện Kiểm sát Nhân dân Cấp tỉnh, Viện Kiểm sát Nhân dân Cấp huyện thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình.

Chính trị Việt Nam đi theo nguyên mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa, đơn đảng. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo cao nhất trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Hiến pháp mới được thông qua vào tháng 11 năm 2013, tái khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chính trị và xã hội, phác thảo việc tái tổ chức chính phủ và tăng cường cải cách thị trường trong nền kinh tế. Dù Việt Nam là một quốc gia đơn đảng, việc đi theo đường lối tư tưởng chính thống của Đảng đã giảm bớt phần quan trọng và ưu tiên với mục tiêu phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh tổ quốc.[1][2][3]

Cách tổ chức chính trị ở Việt Nam được sắp xếp theo trục dọc với Đảng Cộng sản giữ địa vị trên hết, không như mô hình tam quyền phân lập như các tổ chức chính phủ dân chủ nghị viện khác. Mô hình khác biệt này được Ủy ban Pháp luật Quốc hội Việt Nam xác nhận.[4] Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng trong Hội nghị Trung ương lần thứ năm của Đảng cộng sản Việt Nam năm 2012 tại Hà Nội đã thẳng thừng bác bỏ nguyên tắc tam quyền phân lập vốn là nền tảng chính trị của hầu hết các quốc gia trên thế giới, ông cho rằng "quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".[5]

Cựu Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam, Nguyễn Đình Lộc (tại nhiệm từ năm 1992 đến 2002) thì cho là Việt Nam tuân theo mô hình "quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có phân công, phối hợp giữa các quyền lực đó" với một đảng lãnh đạo và cầm quyền.[6]

Quyền lực quan trọng nhất bên trong Chính phủ Việt Nam – ngoài Đảng Cộng sản – là các cơ quan hành pháp do hiến pháp năm 2013 quy định: các chức vụ chủ tịch nước và thủ tướng. Chủ tịch nước Việt Nam hoạt động với tư cách nguyên thủ quốc gia, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang và Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh kiêm Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang. Thủ tướng Việt Nam lãnh đạo một chính phủ hiện gồm 4 phó thủ tướng và 22 bộ trưởng và các ủy ban, tất cả các chức vụ và ủy ban trên đều được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước bổ nhiệm.

Dưới đây là Sơ đồ tổ chức hệ thống chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:

Hiến pháp 2013 tái khẳng định vai trò ưu tiên của Đảng Cộng sản, tuy nhiên, cũng theo bản hiến pháp đó thì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là tổ chức duy nhất nắm quyền lập pháp. Cơ quan này có trách nhiệm to lớn trong việc giám sát mọi chức năng của Chính phủ.

Tổng Bí thư là chức danh dành cho người lãnh đạo cao nhất trong hệ thống chính trị tại [[Việt Nam|Việt Nam[cần dẫn nguồn]]], kiêm nhiệm chức danh Bí thư Quân ủy Trung ương là người lãnh đạo tối cao của [[Quân đội nhân dân Việt Nam|Quân đội Nhân dân Việt Nam[cần dẫn nguồn]]]. Chủ tịch nước với vai trò là Nguyên thủ quốc gia, là người đại diện về mặt Nhà nước, là nhân vật quyền lực số 2 trong hệ thống chính trị[cần dẫn nguồn]. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành pháp, là nhân vật quyền lực số 3[cần dẫn nguồn]. Chủ tịch Quốc hội đứng đầu Quốc hội, tức cơ quan lập pháp, là nhân vật quyền lực số 4[cần dẫn nguồn].

Từng được coi là một cơ quan chỉ để phê chuẩn[cần dẫn nguồn], Quốc hội đã vươn ra tiếp nhận vai trò quan trọng hơn trong việc thực thi quyền lực thông qua trách nhiệm lập pháp, nhất trong những năm 2000 trở đi[cần dẫn nguồn]. Tuy nhiên, Quốc hội vẫn là đối tượng chịu sự lãnh đạo của Đảng. Khoảng gần 90% đại biểu Quốc hội là Đảng viên. Số còn lại dù không phải là Đảng viên, nhưng phải được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thông qua mới có thể tranh cử vào Quốc hội.

Quốc hội họp 2 lần 1 năm, mỗi lần kéo dài từ 7–10 tuần; đại biểu Quốc hội có nhiệm kỳ 5 năm.

Việt Nam có một cơ quan tư pháp riêng biệt, nhưng nhánh này có vai trò khá mờ nhạt[cần dẫn nguồn]. Nói chung, số lượng luật sư còn ít và các thủ tục tòa án còn nhiều vấn đề bất cập[cần dẫn nguồn]. Tuy nhiên từ năm 2016, hệ thống tư pháp ngày càng được cải thiện rõ rệt và có vai trò rất quan trọng trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam[cần dẫn nguồn].

Những viên chức chủ chốt
Chức vụ Tên Đảng Từ
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Đảng Cộng sản Việt Nam 19/1/2011
Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng Đảng Cộng sản Việt Nam 6/2/2021

Bộ Chính trị với 18 thành viên hiện nay, được bầu ra vào tháng 1 năm 2021 và do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, quyết định chính sách của Đảng; Ban Bí thư gồm 14 người giám sát việc thi hành chính sách hàng ngày. Dù đã có một số nỗ lực nhằm giảm sự chồng chéo và hạn chế sự can thiệp lẫn nhau giữa các vị trí của Đảng và chính quyền, cách quản lý này hiện vẫn đang được áp dụng và mở rộng. Các thành viên chính của Bộ Chính trị như Nguyễn Xuân Phúc, Phạm Minh Chính, Vương Đình Huệ hiện cũng giữ các vị trí cao trong Chính phủ và Quốc hội. Ngoài ra, Đảng ủy Quân sự Trung ương của Đảng, 1 thành viên từ Bộ Chính trị và các ủy viên Trung ương Đảng trong quân đội, quyết định chính sách quốc phòng.

Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành 5 năm/lần để đưa ra phương hướng lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Đại hội gần nhất tính đến hiện nay (2021) là Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII diễn ra từ ngày 25 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2 năm 2021 tại Hà Nội với sự tham gia của 1587 đại biểu.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng với 180 Ủy viên chính thức, 20 Ủy viên dự khuyết, do Đại hội Đại biểu toàn quốc của đảng bầu ra, họp (thường kỳ) 2 lần/năm.

Năm 2021, Đại hội Đảng nhóm họp 1587 đảng viên từ các tỉnh thành. Danh sách ứng cử viên được Trung ương Đảng Cộng sản soạn ra và đại hội sẽ bỏ phiếu chọn 180 người (2021) vào Trung ương và 18 người vào Bộ Chính trị, đứng đầu là Tổng Bí thư. Đây là những nhân vật quyền lực nhất trong đảng.[7]

Những viên chức chủ chốt
Chức vụ Tên Đảng Từ
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc Đảng Cộng sản Việt Nam 5/4/2021
Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân Đảng Cộng sản Việt Nam 6/4/2021

Đứng đầu Nhà nước là Chủ tịch nước Việt Nam do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội với nhiệm kỳ 5 năm.

Nhà nước Việt Nam bao gồm 4 cơ quan là:[cần kiểm chứng]

  • Cơ quan quyền lực nhà nước (lập pháp), tức Quốc hội Việt Nam;
  • Cơ quan hành chính nhà nước (hành pháp), tức Chính phủ Việt Nam;
  • Cơ quan xét xử nhà nước (tư pháp), tức Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam;
  • Cơ quan kiểm sát nhà nước (công tố), tức Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam[cần dẫn nguồn];

Lập pháp

Những viên chức chủ chốt
Chức vụ Tên Đảng Từ
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ Đảng Cộng sản Việt Nam 31/3/2021
Các Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn Đảng Cộng sản Việt Nam 1/4/2021
Nguyễn Khắc Định Đảng Cộng sản Việt Nam 1/4/2021
Nguyễn Đức Hải Đảng Cộng sản Việt Nam 1/4/2021
Trần Quang Phương Đảng Cộng sản Việt Nam 20/7/2021

Quốc hội Việt Nam theo mô hình đơn viện. Đại biểu Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm.

Đứng đầu Quốc hội là Chủ tịch Quốc hội Việt Nam do các đại biểu bầu ra.

Với Việt Nam là một quốc gia độc đảng, điều này có nghĩa là chỉ có một đảng chính trị duy nhất theo luật pháp quy định có quyền nắm quyền cai trị. Chiếu theo Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 thì đảng đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên nhiều người Việt Nam trong và ngoài nước, nhất là những người bất đồng chính kiến, cho rằng không có một điều luật nào trong các văn bản hiện hành cấm các chính đảng khác thành lập và hoạt động tại Việt Nam[cần định rõ]. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức chính trị ngoại vi của Đảng Cộng sản Việt Nam[cần kiểm chứng] đứng làm trung gian để thông qua và thanh lọc chọn ra danh sách những người có quyền ứng cử. Trong số 500 đại biểu Quốc hội thì chỉ có khoảng 10% đại biểu không phải là Đảng viên.

Hành pháp

Những viên chức chủ chốt
Chức vụ Tên Đảng Từ
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính Đảng Cộng sản Việt Nam 05/04/2021
Các Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh Đảng Cộng sản Việt Nam 13/11/2013
Vũ Đức Đam Đảng Cộng sản Việt Nam 13/11/2013
Lê Văn Thành Đảng Cộng sản Việt Nam 08/04/2021
Lê Minh Khái Đảng Cộng sản Việt Nam 08/04/2021

Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội Việt Nam và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất – trực thuộc Chủ tịch nước. Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội và Chủ tịch nước. Chính phủ phải chấp hành:

1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội

2. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước

Chính phủ Việt Nam được thành lập trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội mỗi khóa và có nhiệm kỳ là 5 năm.

Đứng đầu Chính phủ Việt Nam là Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội và được Quốc hội phê chuẩn; các Phó thủ tướng do Thủ tướng chỉ định và trình cho Quốc hội phê chuẩn. Các thành viên Chính phủ do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo đề xuất của Thủ tướng và được Quốc hội phê chuẩn.

Tư pháp

Những viên chức chủ chốt
Chức vụ Tên Đảng Từ
Chánh án tối cao Nguyễn Hòa Bình Đảng Cộng sản Việt Nam 8/4/2016
Các Phó Chánh án tối cao Nguyễn Trí Tuệ Đảng Cộng sản Việt Nam 21/6/2017
Nguyễn Văn Du Đảng Cộng sản Việt Nam 8/6/2018
Dương Văn Thăng Đảng Cộng sản Việt Nam 8/6/2019
Nguyễn Văn Tiến Đảng Cộng sản Việt Nam 27/8/2020
Phạm Quốc Hưng Đảng Cộng sản Việt Nam 7/4/2022

Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam là cơ quan xét xử cao nhất của nhà nước – trực thuộc Chủ tịch nước[cần kiểm chứng]. Tòa án trên nguyên tắc là cơ quan xét xử độc lập với Chính phủ và Quốc hội. Tuy nhiên, Hiến pháp Việt Nam không chấp nhận quy chế tam quyền phân lập, tức là không tách riêng ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp ra, và không cho phép ba nhánh khống chế lẫn nhau[cần kiểm chứng].

Đứng đầu Tòa án tối cao là Chánh án tối cao, do Chủ tịch nước chỉ định[cần kiểm chứng] và Quốc hội phê chuẩn.

Những viên chức chủ chốt
Chức vụ Tên Đảng Từ
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Việt Nam) Lê Minh Trí Đảng Cộng sản Việt Nam 8/4/2016
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Huy Tiến Đảng Cộng sản Việt Nam 5/9/2018
Tạ Quang Khải Đảng Cộng sản Việt Nam 10/1/2020
Nguyễn Duy Giảng Đảng Cộng sản Việt Nam 5/6/2020
Nguyễn Hải Trâm Đảng Cộng sản Việt Nam 5/6/2020
Nguyễn Quang Dũng Đảng Cộng sản Việt Nam 19/10/2020

Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan kiểm sát và công tố nhà nước cao nhất[cần dẫn nguồn]- trực thuộc Chủ tịch nước[cần kiểm chứng].

Cán bộ đứng đầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm.

Hiện nay, cả ba nhánh này đều phải phối hợp trong công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo thống nhất và toàn bộ của Chủ tịch nước. Do vậy, tính độc lập của ngành tòa án còn khá nhiều hạn chế. Tòa án thường phải nghe theo các cơ quan điều tra (Bộ Công an)[cần dẫn nguồn] và cơ quan tố tụng (Viện kiểm sát nhân dân tối cao - trực thuộc Chủ tịch nước[cần kiểm chứng]).

Những viên chức chủ chốt
Chức vụ Tên Đảng Từ
Chủ tịch Mặt trận Đỗ Văn Chiến Đảng Cộng sản Việt Nam 12/4/2021
Tổng Thư ký Mặt trận Lê Tiến Châu Đảng Cộng sản Việt Nam 30/6/2021

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị Việt Nam, là tổ chức liên minh và liên hiệp các tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo, và các đoàn thể thanh thiếu niên tại Việt Nam. MTTQVN dưới sự quản lý của Chủ tịch nước[cần dẫn nguồn].

Trong các cuộc bầu cử quốc hội tại Việt Nam, các ứng cử viên đều phải được Mặt trận Tổ quốc phê chuẩn để đưa vào danh sách ứng cử viên. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc còn đảm nhiệm việc giám sát cuộc bầu cử.

Đứng đầu MTTQVN là Chủ tịch Mặt trận[cần dẫn nguồn]do Ủy ban Trung ương MTTQVN chọn ra với nhiệm kỳ 5 năm.

Không có các đảng chính trị đối lập hợp pháp ở Việt Nam, dù một số nhóm đối lập có tồn tại và hoạt động ở nước ngoài, bên trong các cộng đồng người Việt tại các nước như Pháp và Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, sau năm 2006, có một số đảng đối lập hoạt động công khai, dù không được Nhà nước Việt Nam chấp nhận và bị đặt ngoài vòng pháp luật. Những nhóm nổi bật gồm có Đảng Việt Tân, Đảng Vì dân, Đảng Thăng tiến Việt Nam, Đảng Dân chủ, Đảng Nhân dân Hành Động và Chính phủ Việt Nam tự do. Chính phủ Việt Nam tự do đã tuyên bố chịu trách nhiệm về một số hành động khủng bố bên trong Việt Nam.

Mặc dù có những ý kiến muốn lập ra những chính đảng khác hoạt động trong nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 10 tháng 9 năm 2013 đã khẳng định lập trường không chấp nhận một số điểm cơ bản, trong đó có việc không chấp nhận "hình thành tổ chức chính trị đối lập".[8]

Các đảng chính trị cũ gồm Việt Nam Quốc dân Đảng, Đảng Cần lao, và Việt Nam Duy tân Hội ở thời thuộc địa.

Ngoài ra còn có một số nhóm tự nhận đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam mà phía chính quyền cho rằng do một số thế lực thù địch, phản động, phản bội Tổ quốc lập ra, mà không trực thuộc Mặt trận Tổ quốc, như Khối 8406, Liên minh Dân chủ, Nhân quyền Việt Nam, Câu lạc bộ Nhà báo Tự do.

Việt Nam được chia thành 58 tỉnh: An Giang, Bắc Giang, Bắc Kạn, Bạc Liêu, Bắc Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bến Tre, Bình Định, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Cao Bằng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Giang, Hải Dương, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hoà Bình, Hậu Giang, Hưng Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Lào Cai, Long An, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Ninh Thuận, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sóc Trăng, Sơn La, Tây Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Thừa Thiên-Huế, Tiền Giang, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Yên Bái.

Và 5 thành phố trực thuộc trung ương (cấp Trung ương): Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.

Việt Nam là thành viên của Liên Hợp Quốc, Cộng đồng Pháp ngữ, ASEAN và APEC. Năm 2005, Việt Nam tham gia khai trương Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, với mục đích để thay thế ASEAN trong tương lai. Việt Nam được phép gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 7 tháng 11 năm 2006.

Ngoài ra Việt Nam còn tham gia ACCT, AsDB, ESCAP, FAO, G77, IAEA, IBRD, ICAO, ICRM, IDA, IFAD, IFC, IFRCS, ILO, IMF, IMO, Inmarsat, Intelsat, Interpol, IOC, IOM (quan sát viên), ISO, ITU, NAM, OPCW, UN, UNCTAD, UNESCO, UNIDO, UPU, WCL, WCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, WTO.

Nguyên Chủ tịch Quốc hội, Nguyễn Văn An[9] nhận xét rằng: "Từ chỗ đánh giá Cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành, chúng ta phải chuyển ngay sang Cách mạng xã hội chủ nghĩa theo luận thuyết cách mạng không ngừng. Luận thuyết cách mạng không ngừng là đúng, còn cái sai là ở chỗ chúng ta đánh giá cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành tới mức phải chuyển ngay sang cách mạng xã hội chủ nghĩa". Ngoài ra, ông còn cho rằng "Với thể chế như hiện nay ở Việt Nam thì mọi thành công hay thất bại đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng." Cũng theo ông An, mặc dù "Hiến pháp và Pháp luật đã ghi rất rõ: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật là tối thượng. Song trong thực tiễn thì không ít trường hợp chỉ thị, nghị quyết của Đảng mới là tối thượng. Thực chất chúng ta có hai hệ thống quyền lực song song, đó là hệ thống của Đảng và hệ thống Nhà nước đi kèm theo là hai hệ thống tòa nhà của hai cơ quan đảng và nhà nước cồng kềnh chưa từng có... Quốc hội là nhánh lập pháp có quyền lực cao nhất, song cũng còn nhiều hình thức, thực chất là Trung ương, Bộ Chính trị quyết... Chính phủ là nhánh hành pháp song cũng rất yếu, chủ yếu là chấp hành chỉ thị nghị quyết của Đảng".

Từ năm 2016, Việt Nam bắt đầu thực hiện cải cách hệ thống bằng cách hợp nhất một số cơ quan Đảng và Chính phủ tại địa phương (ví dụ như Ban dân vận hợp nhất với sở truyền thông, hợp nhất chức danh chủ tịch xã và bí thư đảng ủy xã) để tinh giản biên chế, hạn chế sự cồng kềnh của bộ máy chính quyền, tránh chồng chéo về chức năng giữa các đơn vị.

Không theo tam quyền phân lập

Quyền lực nhà nước ở Việt Nam được phân công ra làm ba nhánh song lại thống nhất ở sự chỉ đạo của Đảng... cần phải được khắc phục theo quy luật thống nhất theo Hiến pháp và Pháp luật, tức là thống nhất ở nơi dân. Nếu hiểu ba nhánh quyền lực nhà nước đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật là đúng, còn nếu hiểu thống nhất trực tiếp ở ban lãnh đạo hoặc cá nhân lãnh đạo cụ thể nào đó thì lại là sai... Mọi chủ trương chính sách của đảng phải được cụ thể hoá bằng Hiến pháp và Pháp luật. Chấp hành Hiến pháp và Pháp luật tức là chấp hành sự lãnh đạo của Đảng. Xã hội sẽ được nhà nước quản trị bằng pháp luật, chứ không quản trị bằng chỉ thị, nghị quyết trực tiếp của đảng. Theo ông Đinh Thế Huynh, Thường trực Ban bí thư: "Việt Nam chúng tôi không có nhu cầu đa nguyên đa đảng, và dứt khoát không đa nguyên đa đảng. Điều đơn giản là Việt Nam đã có lúc đa đảng; tức là năm, 1946 khi chúng tôi Tổng tuyển cử lần đầu tiên thì cũng đã có mấy đảng tham gia. Nhưng khi thực dân Pháp quay lại xâm lược đất nước chúng tôi thì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam kháng chiến để bảo vệ tổ quốc. Và bây giờ thì Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc".[10]

Phe cánh, trách nhiệm tập thể

Chính quyền Việt Nam có hai nhược điểm là:[11] vấn nạn phe cánh, và cơ chế trách nhiệm tập thể.

Theo nhà phân tích David Koh của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore thì tư tưởng phe cánh đã ăn sâu vào trong cơ chế, trong nền văn hóa người Việt nên không thể gỡ ra được. Còn về trách nhiệm tập thể, cơ chế tập thể chịu trách nhiệm khiến cho trách nhiệm của cá nhân lãnh đạo trở nên không tách bạch, khi họ làm sai thì thường đổ lỗi cho tập thể.

  • Các dạng chính phủ
  • Chính trị Hoa Kỳ
  • Chính trị Trung Quốc
  • Xã hội chủ nghĩa

  1. ^ “HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ”.
  2. ^ “Head of Government in Vietnam - GOVERNMENT IN VIETNAM”. Facts and Details: Home. Vietnam is a one-party state with a collective style of leadership. The Vietnamese Communist Party (VCP) has a monopoly on power. A three-person collective leadership consists of the VCP general secretary, the prime minister, and the president.
  3. ^ “Preamble of the Constitution of the Socialist Republic of Vietnam”. Government of the Socialist Republic of Vietnam. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2012.
  4. ^ "Mục đích của việc sửa đổi Hiến pháp?" theo BBC
  5. ^ "Hội nghị TW khẳng định Điều 4 Hiến pháp" theo BBC
  6. ^ "Đảng không phải là muôn thuở" theo BBC
  7. ^ "In Vietnam, people have virtually no say in choosing leaders"”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016.
  8. ^ "Hội nghị Trung ương 8 không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập" theo RFI
  9. ^ “Nguyên Chủ tịch Quốc hội khuyến nghị đổi mới hệ thống chính trị”. TuầnViệtNam.net. ra ngày 08/12/2010. 7 tháng 12 năm 2010-nguyen-chu-tich-quoc-hoi-khuyen-nghi-doi-moi-he-thong-chinh-tri Bản gốc Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 08/12/2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= và |date= (trợ giúp)
  10. ^ "Việt Nam không có nhu cầu đa nguyên đa đảng" - VTC News
  11. ^ "Dàn lãnh đạo Việt Nam nên về hưu tất"

  • Ashwill, Mark; Thai, Ngoc Diep (2005). Vietnam Today: A Guide To A Nation At A Crossroads. Intercultural Press. ISBN 9781931930093. 
  • Brocheux, Pierre (2007). Ho Chi Minh: a Biography. Cambridge University Press. ISBN 9780521850629. 
  • East, Roger; Thomas, Richard (2003). Profiles of People in Power: The World's Government Leaders. Routledge. ISBN 9781857431261.  Đã bỏ qua tham số không rõ |url-access= (trợ giúp)
  • Porter, Gareth (1993). Vietnam: The Politics of Bureaucratic Socialism. Cornell University Press. ISBN 9780801421686. 
  • Gillespie, John Stanley (2006). Transplanting Commercial Law Reform: Developing a 'Rule of Law' in Vietnam. Ashgate Publishing. ISBN 9780754647041. 
  • Hasan, Samiul; Onyx, Jenny (2008). Comparative Third Sector Governance in Asia: Structure, Process, and Political Economy. Springer. ISBN 9780387755663. 
  • Napier, Nancy K.; Vuong, Quan Hoang (2013). What We See, Why We Worry, Why We Hope: Vietnam Going Forward. Boise State University CCI Press. ISBN 9780985530587. 
  • Quinn-Judge, Sophie (2002). Ho Chi Minh: The Missing Years, 1919–1941. University of California Press. ISBN 9780520235335. 
  • Rowley, Chris (2008). The Changing Face of Management in South East Asia. Taylor & Francis. ISBN 9780415405447. 
  • Van, Canh Nguyen; Cooper, Earle (1983). Vietnam under Communism, 1975–1982. Hoover Press. ISBN 9780817978518. 

  •  Cổng thông tin Việt Nam

  • Hiến pháp Việt Nam năm 1992
  • Website của Đảng cộng sản Việt Nam

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chính_trị_Việt_Nam&oldid=68527229”