Cách giải độc thuốc tây

Dị ứng thuốc là một biến chứng rất hay gặp trong quá trình điều trị, biểu hiện lâm sàng đa dạng, phong phú với những tổn thương ở da, niêm mạc và cả ở các cơ quan nội tạng. Mọi loại thuốc đều có thể gây ra những phản ứng dị ứng, tuy nhiên dị ứng thuốc tây hay gặp nhất như thuốc kháng sinh, thuốc chống co giật, chống viêm không steroid và các thuốc điều trị gout là những thuốc có tỷ lệ gặp cao nhất gây ra các phản ứng dị ứng.

Các dấu hiệu và triệu chứng dị ứng thuốc kháng sinh thường xảy ra trong vòng một giờ sau khi dùng thuốc, hoặc thậm chí có thể xảy ra vài giờ, vài ngày hoặc vài tuần sau đó.

Các dấu hiệu và triệu chứng dị ứng thuốc bao gồm:

  • Mề đay. Các loại thuốc đều có thể gây mày đay, hay gặp nhất là kháng sinh, huyết thanh, vắc xin, NSAID... Mày đay thường là biểu hiện hay gặp và ban đầu của phần lớn các trường hợp dị ứng thuốc. Sau khi dùng thuốc vài phút, chậm có thể hàng ngày, người bệnh có cảm giác nóng bừng, râm ran một vài chỗ trên da như côn trùng đốt, sau đó xuất hiện những sẩn phù màu hồng hoặc đỏ đường kính vài milimet đến vài centimet, ranh giới rõ, mật độ chắc, hình tròn hoặc bầu dục, xuất hiện ở nhiều nơi, có thể chỉ khu trú ở đầu, mặt cổ, tứ chi hoặc toàn thân. Ngứa là cảm giác khó chịu nhất, xuất hiện sớm, thường làm người bệnh mất ngủ, càng gãi càng làm sẩn to nhanh hoặc xuất hiện những sẩn phù khác. Đôi khi kèm theo có khó thở, đau bụng, đau khớp, chóng mặt, buồn nôn, sốt cao. Mày đay dễ tái phát trong thời gian ngắn, ban vừa mất đi đã xuất hiện trở lại.
  • Viêm da dị ứng tiếp xúc thường do thuốc và hoá chất gây ra chủ yếu là thuốc bôi và mỹ phẩm. Viêm da dị ứng tiếp xúc thực chất là chàm [eczema], thương tổn cơ bản là mụn nước kèm theo có ngứa và tiến triển qua nhiều giai đoạn. Bệnh thường xảy ra ít giờ sau tiếp xúc với thuốc, biểu hiện ngứa dữ dội, nổi ban đỏ, mụn nước, phù nề ở chỗ tiếp xúc với thuốc.
  • Đỏ toàn thân. Thường gây ra do các thuốc như penicillin, ampicillin, streptomycin, sulfamid, chloramphenicol, tetracyclin, các thuốc an thần, NSAIDs... 4 - Đỏ da toàn thân là tình trạng đỏ da diện rộng trên ≥ 90% diện tích cơ thể hoặc toàn thân như tôm luộc, gồm 2 giai đoạn: đỏ da và bong vẩy trắng. Bệnh xuất hiện 2-3 ngày, trung bình 6-7 ngày, đôi khi 2-3 tuần lễ sau khi dùng thuốc. Người bệnh ngứa khắp người, sốt cao, rối loạn tiêu hoá, nổi ban và tiến triển thành đỏ da toàn thân, trên da có vẩy trắng, kích thước không đều, các kẽ tay kẽ chân nứt chảy nước vàng, đôi khi bội nhiễm có mủ.

Các triệu chứng khác bao gồm:

  • Phát ban da
  • Ngứa
  • Sốt
  • Sưng
  • Khó thở
  • Khò khè
  • Sổ mũi
  • Ngứa, chảy nước mắt
  • Sốc phản vệ

Các dấu hiệu và triệu chứng của sốc phản vệ bao gồm:

  • Co thắt đường thở và cổ họng, gây khó thở
  • Buồn nôn hoặc quặn bụng
  • Nôn hoặc tiêu chảy
  • Bồn chồn, hoảng hốt
  • Mạch nhanh nhỏ khó bắt
  • Hạ huyết áp
  • Mất ý thức

Các loại thuốc đều có thể gây mày đay, hay gặp nhất là kháng sinh

Mặc dù bất cứ ai cũng có thể có phản ứng dị ứng với thuốc kháng sinh nhưng nếu có một vài yếu tố có thể làm tăng nguy cơ hơn, bao gồm:

  • Tiền sử dị ứng với các chất khác, chẳng hạn như dị ứng thực phẩm hoặc sốt hoa cỏ [tên tiếng Anh là Hay fever]
  • Phản ứng dị ứng với một loại thuốc khác
  • Tiền sử gia đình bị dị ứng thuốc
  • Tăng tiếp xúc với chính loại thuốc kháng sinh gây dị ứng đó, vì dùng liều cao, sử dụng lặp đi lặp lại hoặc sử dụng kéo dài
  • Một số bệnh thường liên quan đến phản ứng dị ứng thuốc, chẳng hạn như nhiễm HIV hoặc virus Epstein-Barr

Gọi ngay 115 khi bạn hoặc người thân sau khi sử dụng thuốc mà có các triệu chứng của dị ứng như:

  • Khó thở hoặc thở khò khè
  • Co thắt trong cổ họng hoặc cảm giác rằng đường thở đang đóng lại
  • Khàn giọng hoặc khó nói
  • Sưng môi, lưỡi hoặc cổ họng
  • Buồn nôn, đau bụng hoặc nôn
  • Nhịp tim nhanh hoặc mạch đập
  • Lo lắng hay chóng mặt
  • Mất ý thức
  • Phát ban và khó thở
  • Các triệu chứng khác của phản ứng dị ứng nghiêm trọng [sốc phản vệ]

Các bước xử lý tiếp theo bao gồm:

  • Ngưng sử dụng loại thuốc gây dị ứng hoặc nghi ngờ gây dị ứng
  • Tiêm ngay thuốc epinephrine tự động. Chích thuốc epinephrine vào bắp thịt đùi phía ngoài, chích xuyên qua quần áo nếu cần thiết
  • Đặt người bệnh nằm ngửa, đầu thấp, chân cao. Nếu bị buồn nôn hoặc ói, cho người bệnh nằm nghiêng một bên, người bệnh không nên ngồi dậy hoặc đứng lên.
  • Không nên để người bệnh một mình
  • Nếu các triệu chứng của người bệnh không đỡ hơn hoặc bị tệ hơn, tiêm epinephrine lần thứ 2 sau liều thứ nhất 5 phút.
  • Người nhà cần chắc chắn sẽ đưa được người bệnh đến bệnh viện

Ngưng sử dụng loại thuốc gây dị ứng hoặc nghi ngờ gây dị ứng

Một vấn đề cần lưu ý mang tính nguyên tắc là khuyến cáo tuyệt đối không để bệnh nhân tiếp xúc với các loại thuốc điều trị và phòng bệnh đã gây nên hiện tượng dị ứng cho bản thân họ và hạn chế sử dụng các loại thuốc khác. Về điều trị, có thể sử dụng các loại thuốc chống dị ứng kháng histamin anti H1 thế hệ 2 như cetirizin, fexofenadin, astemisol, loratadin...; trường hợp dị ứng thuốc nặng hơn có thể kết hợp với thuốc corticoid như prednisolon, methylprednisolon tiêm truyền; đồng thời cũng phối hợp với các thuốc điều trị triệu chứng.

Trong một số trường hợp nên bù nước và chất điện giải khi có yêu cầu, kể cả thuốc lợi tiểu. Nếu có hiện tượng bội nhiễm có thể sử dụng kháng sinh, nên lựa chọn loại kháng sinh thích hợp và bảo đảm sử dụng hợp lý, an toàn. Để phòng ngừa sốc phản vệ có thể xảy ra, cần xử trí kịp thời các trường hợp bị đỏ da, hội chứng Stevens-Johnson, hội chứng Lyell; việc xử lý can thiệp thực hiện giống như các trường hợp nặng do dị ứng thuốc, chú ý đến công tác hộ lý, hỗ trợ, giúp đỡ.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 [phím 0 để gọi Vinmec] hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

Bài viết tham khảo nguồn: Webmd.com; Mayoclinic.org

XEM THÊM:

Trong hầu hết các trường hợp, các xét nghiệm thường không giúp ích nhiều trong chẩn đoán. Các xét nghiệm tiêu chuẩn, sẵn có để xác định các loại thuốc thông thường do lạm dụng [thường được gọi là sàng lọc độc chất] là xét nghiệm định tính, không phải định lượng. Các xét nghiệm này có thể cho kết quả dương tính giả hoặc âm tính giả, và chỉ kiểm tra được một só chất nhất định. Ngoài ra, sự hiện diện của một loại thuốc bị lạm dụng không nhất thiết cho thấy rằng loại thuốc đó đã gây ra các triệu chứng hoặc dấu hiệu của bệnh nhân [tức là một bệnh nhân gần đây đã sử dụng opioid trên thực tế có thể bị chết vì viêm não hơn là do thuốc]. Sàng lọc ma túy trong nước tiểu thường được sử dụng nhiều nhất nhưng chỉ có giá trị giới hạn và thường phát hiện nhóm thuốc hoặc chất chuyển hóa hơn là các thuốc cụ thể. Ví dụ, xét nghiệm opioid nước tiểu không phát hiện được fentanyl hoặc methadone nhưng phản ứng với một lượng rất nhỏ morphine hoặc các chất tương tự codeine. Xét nghiệm được sử dụng để xác định cocaine phát hiện ra một chất chuyển hóa hơn là cocaine chính nó.

Đối với hầu hết các chất, không thể dễ dàng xác định được nồng độ trong máu hoặc không giúp cho hướng dẫn điều trị. Đối với một vài chất [ví dụ:, acetaminophen, aspirin, carbon monoxide, digoxin, ethylene glycol, iron, lithium, methanol, phenobarbital, phenytoin, theophylline], nồng độ chất trong máu có thể giúp hướng dẫn điều trị. Nhiều nhà chức trách khuyên nên đo nồng độ acetaminophen ở tất cả các bệnh nhân có uống nhiều chất, vì uống acetaminophen là rất phổ biến, thường không có triệu chứng trong giai đoạn đầu, và có thể gây độc muộn mức độ nghiêm trọng, mà có thể ngăn ngừa được bằng chất giải độc đặc hiệu. Đối với một số chất, các xét nghiệm máu khác [ví dụ PT cho quá liều warfarin, nồng độ methemoglobin đối với một số chất] giúp hướng dẫn điều trị. Đối với bệnh nhân có tình trạng rối loạn ý thức hoặc các dấu hiệu sinh tồn bất thường hoặc ăn phải độc chất xác định, các xét nghiệm nên bao gồm điện giải, BUN, creatinine, áp lực thẩm thấu máu, glucose, xét nghiệm đông máu và khí máu động mạch. Các xét nghiệm khác [ví dụ nồng độ methemoglobin, nồng độ carbon monoxide, CT sọ não] có thể được chỉ định đối với một số trường hợp nghi ngờ chất độc cụ thể hoặc tình trạng lâm sàng rõ ràng.

Đối với những trường hợp ngộ độc chất cụ thể [ví dụ như do sắt, chì, asen, các kim loại khác, hoặc nuốt các gói cocaine hoặc các loại thuốc bất hợp pháp khác - được gọi là người đựng ma túy Thuốc ở dạng gói hoặc dạng viên nén ], chụp Xquang bụng có thể nhìn thấy sự có mặt và vị trí của các chất nuốt vào.

Đối với trường hợp ngộ độ các thuốc ảnh hưởng đến tim mạch hoặc ngộ độc chất không rõ,điện não đồ và theo dõi tim mạch được chỉ định.

Nếu nồng độ trong máu của một chất hoặc triệu chứng ngộ độc tăng lên sau khi thuyên giảm với ban đầu hoặc tồn tại trong một thời gian dài một cách bất thường, bezoar Bezoars , chất giải phóng kéo dài, hoặc tiếp xúc lại [ví dụ, tiếp xúc bí mật với thuốc được sử dụng lại] cần được nghi ngờ.

Video liên quan

Chủ Đề