Đàn tỳ bà là gì

Trong tập bản thảo viết tay về nhạc Huế, Cụ Ưng Dự, mà tôi tin rằng bây giờ người cháu nội là nhạc sĩ Vĩnh Tuấn còn lưu giữ, Cụ viết rằng:

Tiến thủ viết Tỳ, thoái thủ viết Bà.

[Tay đánh tới gọi là Tỳ, tay đánh lui gọi là Bà].

Ðây là một cây đàn có nhiều nét đẹp.

Nó được đề cập đến nhiếu trong thi ca thời xưa.

Từ:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi

Dục ẩm Tỳ Bà mã thượng thôi

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?

Rồi đến Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị và Truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du.

Nhưng trong tất cả các mô tả này, đàn Tỳ Bà đàn theo lối Trung Quốc, có cả hai thế tay đánh xuống, đánh lên; và gảy những ngón tay trên bốn dây:

Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.

Trong khi đó, đàn Tỳ Bà Việt Nam có lối đàn hoàn toàn khác hẳn.

Nhạc sĩ đánh đàn Tỳ Bà cũng như đàn Nguyệt, thường chỉ đánh xuống, mà không có khảy ngược lên, và thay vì đàn cả năm ngón theo kiểu Trung Quốc, nhạc công chỉ dùng một ngón trỏ, một cây tăm tre, hoặc một mảnh ngà voi chuốt mỏng để gảy đàn, và nhất là không bao giờ khảy rung [tremolo] như lối chúng ta khảy đàn măng-đô-lin.

Trong các loại đàn dây cổ nhạc, đàn Ty Bà có hình dáng đẹp nhất.

Thân đàn có hình quả lê, đầu cán đàn là một con dơi xòe cánh nhìn thẳng xuống cần đàn trang trí bắng ba đợt sóng gọi là Thủy Ba, và các phiếm chỉ được gắn bắt đầu từ phần trên của bụng đàn, dùng làm hộp cọng hưởng khuyếch âm[resonant chamber].

Cũng như nàng Kiều của Cụ Nguyễn Du, hồng nhan đa truân, cây đàn Tỳ Bà vì là cây đàn đẹp nên chịu nhiều tai họa nhất trong số các cây đàn cổ nhạc Huế.

Cũng như nàng Kiều của Cụ Nguyễn Du, hồng nhan đa truân, cây đàn Tỳ Bà vì là cây đàn đẹp nên chịu nhiều tai họa nhất trong số các cây đàn cổ nhạc Huế

Trước hết, các cô gái đẹp thường thích mặc áo thụng đội khăn vành theo kiểu Công Chúa, ôm đàn Tỳ Bà để chụp hình.

Người đạo diễn do không hiểu biết cây đàn này nên bảo cô người mẫu để tay lên cần đàn trong tư thế đánh đàn.

Cô người mẫu vung vít lướt tay trên phần Thủy Ba là phần không có phiếm !

Tai họa thứ hai:

Phiếm đàn bị tự tiện cải tạo!

Thời xưa, trong ba cây đàn của Ban AVT nổi tiếng, chỉ có cây Nhị của Lữ Liên là thứ thiệt, và Lũ Liên là tay đàn Nhị thứ thiệt.

Còn cây đàn Tỳ và cây đàn Ðoản đều bị cải tạo, gắn phiếm tuốt từ trên xuống dưới!

Nhưng điều này cũng vui thôi, chỉ tội cho cây đàn bị cải tạo oan ức thôi.

Còn ngày nay thì tai họa trầm trọng hơn nhiều, vì trong ban cổ nhạc Huế cách mạng hiện đại [!?] có những cây đàn Tỳ Bà y hệt đàn của Vân Sơn dùng ngày xưa trong Ban AVT.

Người ta đưa đoàn nhạc Huế rá ngoại quốc biểu diễn và được thính giả ngoại quốc nhiệt liệt hoàn nghênh những cây đàn Tỳ Bà cải tạo thành măng-đô-lin này!

Tai họa chót:

Bản đàn

Ðàn Tỳ Bà có bài bản, có biến tấu riêng của nó.

Các nhạc công bây giờ đàn Tỳ Bà hệt như đàn Nguyệt là cả một chuyện tai họa. Xin đưa ra đây một thí dụ để minh chứng, lấy hai câu trong bản Lưu Thủy:

Lời ca bài Thiên Thai, điệu Lưu Thủy:

Giòng lác giòng Ðào Nguyên

Ðây Lâm Tuyền hợp quần bạn Tiên

Lòng bản [đàn Nguyệt lên dây Họ 5, Họ = G] là:

Họ Xự-Xang Họ Xự Xang

Xê-Cống-Xê-Xang Họ Xê-Xang Họ Xư Xang

Nhìn vào biểu sau đây, ta sẽ thấy bản đàn Tỳ Bà có nhiều nốt hơn so với bản đàn Nguyệt và thấp hơn một bát độ.

Bản đàn Tỳ Bà Lưu Thủy này thực chất là biến tấu bè Trầm [Alto] để đệm cho đàn Nguyệt chứ không phải là bản đàn độc tấu, cho nên khi chơi chung với đàn Nguyệt thì hay tuyệt vời.

Nhưng nếu có ai không biết mà cho cây đàn Tỳ Bà đàn một mình thì sẽ là một thất bại lớn, chẳng khác nào ta để cho một ca sĩ  một mình ca bè 2 [bè phụ] của một bài ca soạn cho hai giọng!         

1 2 3 4 5 6 7
Lời Ca Giòng lạc giòng Ðào Nguyên
Nguyệt G2 A2-C2 G2 A2 C2
Tỳ Bà G1-F1 E1-G1 A1 C1 C2
Lời Ca Ðây Lâm Tuyền hợp quần bạn  Tiên
Nguyệt D2-E2 D2-C2 G2 D2-C2 G2 A2 C2
Tỳ Bà B1-A1-A1 A1-A1-C1 G1 E1 G1-A1 C1 C2

 NGUYỄN ĐỨC MAI

Nguồn: Giaocam.saigonline.com

Âm cao trong trẻo, âm trung nhẹ nhàng còn âm trầm thì dày, dải âm của nó rất rộng vì thế mà thanh âm phong phú, thể hiện được rất nhiều đề tài và cung bậc cảm xúc, mệnh danh là nữ hoàng của các nhạc cụ dân gian – đó chính là đàn Tỳ bà.

Cấu trúc đàn tỳ bà thể hiện tam tài, tứ quý và ngũ hành

Đàn tỳ bà có chiều dài 3 thước 5 tấc [khoảng 11,6cm], 3 thước tượng trưng cho tam tài [Thiên, Địa, Nhân], 5 tấc thể hiện ngũ hành [Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ], 4 sợi dây thể hiện cho tứ quý [bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông].

Đàn Tỳ Bà được chế tác bằng gỗ ngô đồng ở mặt trước, mặt sau là gỗ gụ hay đàn hương. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn [hoặc thủ đàn] cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.

Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, hoặc sử dụng gân bò, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon hoặc thép.

Thiếu nữ bên đàn Tỳ bà

Đàn tỳ bà xuất hiện từ bao giờ?

Tỳ bà đã xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa [琵琶], theo một số ghi chép là khoảng hơn 2000 năm lịch sử, qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa khác nhau tuỳ theo từng vùng hoặc từng quốc gia: Nhật Bản với tên gọi Biwa, ở Triều Tiên là Bipa,…

Cái tên “pipa/tỳ bà” trong tiếng Trung Quốc quả thực do hai chữ “tỳ” [Pi/琵] và “bà” [Pa/琶] tạo thành. Hai chữ này là các phương pháp đánh đàn của người Trung Quốc cổ - “pi” là dùng tay phải gẩy dây đàn về phía trước, và “pa” là gẩy ngược lại. Và vì vậy mà thuật ngữ “pipa” thường được dùng trong tiếng Trung để miêu tả hai phương pháp gẩy đàn khác nhau.

Đàn tỳ bà, vua của các nhạc cụ dân gian.

Nếu như bạn có thể tưởng tượng về một cảnh giới cao hơn, một nơi mà những tiên nữ sống tự do tự tại… có thể bạn sẽ khám phá ra nguyên lai của đàn tỳ bà hay đàn luýt của Trung Quốc. Người ta tin rằng đàn tỳ bà là một nhạc cụ thần thánh mà các vị thần dùng để truyền cấp cho nhân loại tính thiên chân và thuần khiết.

Quan niệm truyền thống của Trung Quốc về “văn hóa thần truyền” cho rằng nền văn minh phong phú của Trung Quốc là do thần truyền xuống. Văn tự tiếng Trung, y dược, nông nghiệp, tơ lụa, và nhạc khí đều được coi là do các vị thần truyền cấp cho.

Đàn Tỳ bà du nhập sang Việt Nam từ trước thời nhà Trần.

Tỳ Bà đã du nhập sang nước Việt từ rất sớm. Bằng chứng là hình chạm các nhạc công trên tảng đá vuông dùng làm chân cột chùa Phật Tích, Bắc Ninh, có chạm hình đàn Tỳ Bà giữa hai nhạc công dùng ống Sênh, và ống Tiêu thổi dọc. Trong khi đàn tranh có vóc dáng mà không thấy những con nhạn căng dây, đứng giữa hai nhạc công thổi ống Sênh và ống Sáo ngang.

Chạm khắc dàn nhạc tại chân cột chùa Vạn Phúc, Phật Tích – Bắc Ninh

Tỳ bà lần đầu tiên được nêu danh trong lịch sử Việt Nam, khi Lê Tắc ghi trong An Nam chí lược tên dàn tiểu nhạc dùng ngoài cung đình nhà Trần. Đàn tỳ bà của Việt Nam là dạng rất cổ xưa của đàn PiPa, vốn từ Ba Tư dưới dạng đàn Barbat theo con đường tơ lụa vào Trung Quốc

Nhạc công đờn Tỳ Bà [bên trái] chạm ở chân cột chùa Phật Tích

Nguyễn Ánh tức vị Hoàng Đế năm 1802 lấy niên hiệu là Gia Long, đặt quốc hiệu là Việt Nam, từ năm 1802 người Trung Hoa đổi tên An Nam Quốc Nhạc lại thành Việt Nam Quốc Nhạc.

Nhà Nguyễn chấn chỉnh nhạc cung đình. Lập Dàn Đại Nhạc gồm Kèn, Trống là chính. Và Dàn Nhã Nhạc cũng gọi là Tiểu Nhạc hay Ti Trúc Tế Nhạc, vì dàn nhạc gồm những nhạc khí mắc dây tơ và cây sáo trúc. Tỳ Bà có mặt trong dàn nhạc cung đình. Đàn Tranh, đàn Nguyệt, đàn Nhị, đàn Tam và đàn Tỳ Bà trở thành ban Ngũ Tuyệt của ca nhạc thính phòng Huế [tiền thân của Ca Huế], đồng thời lưu truyền trong nhạc dân gian và tồn tại cho đến nay.

Các kỹ thuật diễn tấu biểu đạt nhiều cung bậc cảm xúc

Kỹ thuật gảy đàn tỳ bà có độ khó khá cao, là một trong những loại nhạc cụ dân gian có sức biểu cảm phong phú nhất, lịch thiệp và hàm chứa thông điệp không thể diễn tả bằng lời.

Tư thế đàn: Ngồi thấp: xếp chân trên chiếu. Ngồi cao: thẳng trên ghế, đàn được đặt gần như thẳng đứng.

 

Nhạc sư Bửu Lộc đờn tỳ bà           Phạm Thúy Hoan đờn tỳ bà

Kỹ thuật tay phải: Tay phải gảy đàn, cách sử dụng móng tay để đàn có nhiều kỹ thuật phức tạp nhưng sinh động.

Kỹ thuật tay trái: Kỹ thuật tay trái của đàn tỳ bà có các ngón nhấn, ngón vuốt, ngón mổ, bấm hợp âm, đặc biệt đàn tỳ bà có lối đánh song thinh [song thanh]: 2 đồng âm ở hai dây khác nhau.

Các kỹ thuật ngón đàn chính: Ngón phi, ngón nhấn, ngón vuốt, ngón chụp, ngón mổ, ngón vỗ, và kỹ thuật chồng âm hợp âm.

Vị trí độc tấu hoặc lĩnh tấu trong các Dàn nhạc dân tộc Việt Nam

Màu âm đàn Tỳ Bà trong sáng, vui tươi, thể hiện tính chất tươi sáng và trữ tình. Màu âm hơi giống đàn Nguyệt nhưng có phần hơi đanh và khô hơn, nhất là ở những khoảng âm cao.

 

Đàn tỳ bà trong nhã nhạc cung đình huế

Vì thế, đàn Tỳ Bà thường để độc tấu các bản nhạc cổ truyền Dân tộc, khả năng độc tấu rất phong phú hay sử dụng trong các Ban nhạc Tài tử, Phường Bát âm, Dàn nhạc Cung đình Huế, Dàn nhạc Cải lương, đặc biệt gần đây được đưa vào Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp hòa tấu và Dàn nhạc Giao hưởng Dân tộc.

Đàn tỳ bà trong Dàn nhạc tổng hợp dân tộc

Mặc dù đàn tỳ bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc. Ngày nay số người biết sử dụng tỳ bà theo phong cách truyền thống Việt Nam chỉ có số ít, bạn có muốn tham gia bảo tồn lưu giữ những thanh âm chứa đựng đầy cung bậc cảm xúc này?

Kỳ Văn   
Nguồn: dkn.tv

Video liên quan

Chủ Đề