Để giảm thiểu phát thải các khí gây hiệu ứng nhà kính hóa kỳ tập Trung vào

Với vai trò là chủ nhà của COP26, Vương quốc Anh đang cho thấy những bước đi mạnh mẽ trong việc giảm thiểu lượng phát thải CO2 trong bầu khí quyển, hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và ngăn chặn cuộc khủng hoảng khí hậu.

Tháng 5 vừa qua, một dự án trị giá 30 triệu bảng Anh - được Tổ chức Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo Vương quốc Anh tài trợ - đã chính thức được công bố nhằm thử nghiệm các phương pháp để cụ thể hóa nỗ lực trên một cách hiệu quả và khả thi trên diện tích đất 100 ha. Đây là một trong những cuộc thử nghiệm lớn nhất trên thế giới.

Theo đó, dự án sẽ được triển khai trên khắp Vương quốc Anh, sử dụng cây xanh, than bùn, đá vụn và than củi để thu khí CO2 từ không khí.

Trồng cây để bù đắp lượng khí thải CO2 ở Carlisle, Cumbria, tây bắc xứ Anh. [Ảnh: The Guardian]

Trồng cây để bù đắp lượng khí thải CO2 ở Carlisle, Cumbria, tây bắc xứ Anh. [Ảnh: The Guardian]

Các vùng đất than bùn bị thoái hóa ở dãy núi Pennines [phía bắc xứ England] và ở khu vực tây xứ Wales sẽ được tái tạo độ ẩm và phủ cây xanh, trong khi các mảnh đá hấp thu CO2 khi chúng vỡ vụn trong đất sẽ được thử nghiệm tại các trang trại ở Devon, Hertfordshire và miền trung xứ Wales. Loại than củi đặc biệt, hay còn được gọi là than sinh học, sẽ được chôn tại bãi xử lý nước thải, trên các khu mỏ cũ và các bờ kè đường sắt.

Việc thử nghiệm sử dụng cây xanh trên quy mô lớn để thu CO2 sẽ được tiến hành trên khắp lãnh thổ Vương quốc Anh. Trong khi đó, thử nghiệm cuối cùng sẽ đo lường tiềm năng loại bỏ carbon của các loại cây năng lượng như cây liễu và cỏ Miscanthus ở quy mô thương mại. Những loại cây này sẽ được đốt cháy để lấy năng lượng, với lượng khí thải CO2 bị giữ lại và lưu trữ dưới lòng đất.

Theo kết luận của các nhà khoa học tại Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu, không có cách nào giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu trong phạm vi là 1,5oC như mục tiêu thế giới đang hướng đến mà không cắt giảm lượng khí thải và loại bỏ hàng tỷ tấn CO2 mỗi năm từ nay đến năm 2050. Các cố vấn khí hậu chính thức của Vương quốc Anh ước tính, để đạt phát thải ròng bằng 0 vào giữa thế kỷ này, lượng CO2 mà Vương quốc Anh cần phải loại bỏ hằng năm sẽ vào khoảng 100 triệu tấn.

Phối cảnh một nhà máy thu CO2 trực tiếp từ không khí quy mô lớn. [Ảnh: Insider]

Phối cảnh một nhà máy thu CO2 trực tiếp từ không khí quy mô lớn. [Ảnh: Insider]

Việc loại bỏ carbon được coi là cần thiết vì sẽ rất khó để ngăn chặn tất cả khí thải từ các lĩnh vực như hàng không, nông nghiệp và xi măng vào năm 2050. Các thử nghiệm mới là một phần của chương trình chính phủ trị giá 110 triệu bảng Anh, trong đó cũng bao gồm các thử nghiệm sử dụng công nghệ để tách CO2 trực tiếp từ không khí.

Là nước phát thải CO2 lớn thứ 2 thế giới, Mỹ cũng đang có những bước đi quan trọng trong nỗ lực loại bỏ CO2 khỏi khí quyển. Ngày 17/8 vừa qua, Bộ Năng lượng Mỹ [DOE] đã công bố khoản tài trợ 24 triệu USD cho 9 dự án nghiên cứu nhằm khám phá và phát triển các phương pháp thu nhận và lưu trữ carbon mới từ không khí.

Bộ trưởng Năng lượng Jennifer M. Granholm cho biết: “Tìm cách loại bỏ và lưu trữ carbon trực tiếp từ không khí là điều cần thiết tuyệt đối trong cuộc chiến chống khủng hoảng khí hậu của chúng ta. Khoản đầu tư vào nghiên cứu công nghệ thu giữ carbon thông qua các trường đại học và phòng thí nghiệm của Bộ sẽ đưa Mỹ trở thành nước đi đầu trong lĩnh vực đang phát triển này, tạo ra việc làm được trả lương cao và giúp biến tương lai không carbon của chúng ta thành hiện thực”.

Một nhà máy thu giữ CO2 của Climeworks tại Thụy Sĩ. [Ảnh: Climeworks]

Một nhà máy thu giữ CO2 của Climeworks tại Thụy Sĩ. [Ảnh: Climeworks]

Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc hạn chế lượng phát thải carbon là không đủ, và các phương pháp tiếp cận sáng tạo như thu giữ CO2 trực tiếp từ không khí sẽ là cần thiết để đối phó với cuộc khủng hoảng khí hậu.

Theo đó, khoản tài trợ 24 triệu USD được trao cho hai phòng thí nghiệm quốc gia và bảy trường đại học, trong đó có Đại học Bang Bắc Carolina A&T, với các dự án nghiên cứu các vật liệu, hóa chất và quy trình mới chiết xuất CO2 từ không khí, bên cạnh đó là những nghiên cứu kết hợp giữa tính toán và thực nghiệm về thu giữ CO2 để cô lập hoặc tái sử dụng.

Tháng 9/2020, Na Uy công bố khoản tài trợ 1,8 tỷ USD cho dự án thu giữ và lưu trữ carbon [CCS] quy mô đầy đủ đầu tiên trên thế giới, với tên gọi “Longship”.

Theo đó, số tiền sẽ được dùng để triển khai các cơ sở thu giữ carbon tại một nhà máy xi măng ở miền nam Na Uy [do công ty xi măng Heidelberg của Đức vận hành] và một nhà máy đốt rác ở Oslo [do công ty năng lượng Fortum của Phần Lan vận hành]. Theo Fortum, dự án này sẽ giúp loại bỏ lượng CO2 tương đương phát thải của 60 nghìn xe ô tô ra khỏi bầu khí quyển mỗi năm.

Cả hai cơ sở đặt mục tiêu thu giữ khoảng 400 nghìn tấn khí thải CO2.

Dự án sẽ giúp thu carbon từ khí quyển. [Ảnh: Getty Images]

Dự án sẽ giúp thu carbon từ khí quyển. [Ảnh: Getty Images]

“Longship” cũng bao gồm dự án Northern Lights - một liên doanh giữa các đại gia dầu khí Equinor, Shell và Total. Dự án Northern Lights chịu trách nhiệm vận chuyển CO2 lỏng bằng tàu từ các nhà máy thu giữ đến một cơ sở trên đất liền ở bờ biển phía tây của Na Uy [Øygarden, hạt Vestland] để lưu trữ tạm thời. Sau đó, theo đường ống dẫn, số CO2 này được đưa đến một bể chứa dưới đáy đại dương ở Biển Bắc.

Thủ tướng Na Uy Erna Solberg cho biết đây là một “cột mốc quan trọng” trong nỗ lực chống biến đổi khí hậu của chính phủ Na Uy. “Dự án sẽ giúp cắt giảm khí thải, và thúc đẩy phát triển công nghệ mới cũng như tạo ra nhiều việc làm mới”.

Nỗ lực loại bỏ carbon không chỉ nhận được sự quan tâm từ chính phủ các nước, mà còn đang ngày càng thu hút sự chú ý và chung tay của doanh nghiệp và các nhà đầu tư.

Nhà sản xuất iPhone Apple mới đây đã công bố một quỹ đầu tư trị giá 200 triệu USD với mục tiêu loại bỏ khí thải carbon khỏi bầu khí quyển và hỗ trợ các dự án trồng rừng. Restore Fund [hay còn gọi là Quỹ phục hồi], do Apple phối hợp triển khai cùng Cơ quan Bảo tồn quốc tế và Tập đoàn tài chính Goldman Sachs. Đây là nỗ lực nhằm loại bỏ một triệu tấn CO2 khỏi bầu khí quyển mỗi năm, tương đương với lượng khí thải do khoảng hơn 200 nghìn phương tiện chở khách hằng năm thải ra. Dự án này đã chứng minh với các tập đoàn khác về khả năng thu lợi nhuận từ đầu tư vào môi trường.

Mục tiêu của dự án nhằm giảm khí thải carbon trong bầu khí quyển và sinh lợi nhuận.

Mục tiêu của dự án nhằm giảm khí thải carbon trong bầu khí quyển và sinh lợi nhuận.

Ngày 22/4 vừa qua, cuộc thi XPRIZE tập trung vào công nghệ loại bỏ carbon đã chính thức được khởi động với tổng giá trị giải thưởng lên tới 100 triệu USD – được tài trợ bởi Giám đốc điều hành công ty Tesla, ông Elon Musk, và Quỹ Musk.

Cuộc thi sẽ kéo dài 4 năm trên phạm vi toàn cầu, thách thức các đội tham gia từ khắp nơi trên thế giới trình diễn các giải pháp thu giữ CO2 từ khí quyển hoặc đại dương và cô lập chúng một cách lâu dài và bền vững. Để giành được giải thưởng lớn, các giải pháp phải chứng minh quy mô xử lý ít nhất 1.000 tấn CO2 mỗi năm; mô hình hóa chi phí ở quy mô 1 triệu tấn mỗi năm; và đưa ra một lộ trình để đạt được quy mô giga tấn mỗi năm trong tương lai.

Các đội tham gia có thể phát triển và giới thiệu các cách tiếp cận dựa trên tự nhiên hoặc công nghệ, miễn là chứng minh được khả năng đạt phải thải ròng âm, cô lập CO2 lâu dài, và có lộ trình bền vững tiến tới quy mô xử lý giga tấn CO2 với chi phí thấp.

Bài & ảnh: THÀNH NAM, HÀ NGUYỄN

Nhiệt độ tăng nhanh do khí nhà kính

Tại TP Hồ Chí Minh, nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển châu Á [ADB] cho thấy, những năm gần đây, nhiệt độ trung bình hằng năm ở thành phố đã tăng gấp đôi so đồng bằng sông Cửu Long. Nhiệt độ tăng cao ở TP Hồ Chí Minh trùng hợp sự gia tăng phát thải khí nhà kính do tình trạng đô thị hóa phát triển mạnh mẽ thời gian qua.

Theo Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh, kết quả mô phỏng theo mô hình tích hợp châu Á - Thái Bình Dương [AIM] cho thấy, lượng phát thải khí nhà kính tại TP Hồ Chí Minh vào năm 2030 sẽ tăng khoảng 2,6 lần so năm 2016.

Theo đánh giá của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản [JICA], mức tiêu thụ điện của các tòa nhà thương mại tại TP Hồ Chí Minh đến năm 2030 có thể lên tới 14 tỷ kWh, tương đương với mức phát thải khí CO2 gần 12 triệu tấn. Trong chín tòa nhà điển hình được khảo sát thì có ba trung tâm thương mại và ba khách sạn có lượng tiêu thụ năng lượng trên 500 TOE/năm. Cường độ năng lượng của khách sạn ở mức 345kWh/m²/năm; đối với các trung tâm thương mại là 340kWh/m²/năm. Đây được xem là những nguyên nhân chính gây hiệu ứng nhà kính, làm biến đổi khí hậu. Trong khi, nhận thức của cộng đồng, doanh nghiệp và người dân về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính còn hạn chế.

Để giảm phát thải khí nhà kính, hiện Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh phối hợp các sở, ngành, đơn vị thực hiện các hoạt động của dự án SPI-NAMA [hoạt động giảm nhẹ khí thải khí nhà kính], cùng sự hỗ trợ của Bộ Tài nguyên và Môi trường và JICA. Cùng với đó, hiện thành phố đang trong quá trình xây dựng đô thị thông minh, trong đó việc giám sát tác động các chỉ số môi trường và giám sát của người dân được triển khai nhiều nơi, góp phần bảo vệ môi trường sống lành mạnh cho mọi người.

Ông Nguyễn Toàn Thắng, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh cho biết, thành phố đang tiếp tục tham gia dự án SPI-NAMA với mục tiêu là phân tích và đề xuất các chính sách nhằm thực hiện hiệu quả kế hoạch hành động về biến đổi khí hậu, với trọng tâm là các cơ sở có mức phát thải lớn và thí điểm dự án tăng cường hiệu quả năng lượng cho tòa nhà cao tầng. Đồng thời, dự án sẽ tiếp tục thực hiện hoạt động kiểm kê khí nhà kính cấp thành phố; tiếp tục xây dựng hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm tra mức giảm nhẹ phát thải khí nhà kính cho hoạt động giao thông [chủ yếu là các cụm cảng biển] và năng lượng [tòa nhà thương mại].

Trong khi đó, trao đổi với Thời Nay, ông Hà Minh Châu, Phó Chánh văn phòng Biến đổi khí hậu TP Hồ Chí Minh cho biết, với vai trò là trung tâm điều phối của dự án, Văn phòng Biến đổi khí hậu thành phố sẽ kết nối các sở, ban, ngành trên địa bàn thành phố để cho nhóm nghiên cứu nắm bắt thông tin, dữ liệu cụ thể, từ đó có những nhận định chính xác và đưa ra các giải pháp hữu hiệu. Giảm phát thải khí nhà kính không chỉ giúp thành phố có cơ hội hướng đến mục tiêu phát triển xanh, bền vững, mà còn là điển hình cho cả nước để các tỉnh thành khác triển khai theo. Từ đó, cùng chung tay thực hiện cam kết giảm khí nhà kính theo thỏa thuận chung Paris về biến đổi khí hậu.

Loay hoay với việc cắt giảm phát thải khí CO2

Kết quả tính toán ban đầu, kịch bản phát triển thông thường năm 2030, TP Hồ Chí Minh phát thải hơn 160 nghìn tấn CO2. Tuy nhiên, nếu thực hiện năm hoạt động giảm thiểu phát thải khí nhà kính trong các lĩnh vực nông nghiệp, cao ốc, dân dụng, giao thông và năng lượng tái tạo thì đến năm 2030, lượng phát thải tại thành phố chỉ còn gần 113 nghìn tấn CO2, giảm 21% so tính toán ban đầu.

Theo bà Nguyễn Thị Thanh Mỹ, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh, giai đoạn sau năm 2020, thành phố sẽ tiếp tục kiểm kê khí nhà kính hai năm/lần vào các năm chẵn; triển khai các nội dung của kế hoạch thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; xây dựng quy trình cung cấp dữ liệu định kỳ từ các nguồn phát thải khí nhà kính lớn và từ các đơn vị triển khai các hành động giảm nhẹ khí nhà kính...

Cùng chung tay các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính, ngành Điện lực TP Hồ Chí Minh cũng đã cho triển khai lắp đặt hệ thống điện mặt trời khắp nơi trên địa bàn. Theo tính toán của Tổng công ty Điện lực thành phố [EVNHCMC], hiệu quả ước tính giảm lượng phát thải khí nhà kính mà khách hàng sử dụng từ năng lượng điện mặt trời tại thành phố hiện tương đương 85 nghìn tấn khí CO2.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, Trung tâm Công nghệ và Quản lý môi trường TP Hồ Chí Minh đã đề xuất các giải pháp như: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ biogas để xử lý phế thải chăn nuôi, sử dụng khí thải từ xử lý phế thải chăn nuôi để làm nhiên liệu sạch thay thế nhiên liệu hóa thạch; ứng dụng công nghệ ủ yếm khí chất thải chăn nuôi gia súc, gia cầm... Đối với các hoạt động sử dụng đất, thành phố cần đẩy mạnh trồng rừng, phục hồi rừng, xúc tiến tái sinh và làm giàu rừng trên các vùng đất quy hoạch cho lâm nghiệp theo chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2020 - 2030.

Ông Nguyễn Toàn Thắng cho biết, đối với dự án SPI-NAMA đã tiến hành thử nghiệm áp dụng hệ thống báo cáo carbon cho chín tòa nhà để xây dựng kế hoạch giảm phát thải cho các tòa nhà và doanh nghiệp công nghiệp sử dụng năng lượng lớn nhằm đưa ra các khuyến nghị cho nhà đầu tư và doanh nghiệp thực hiện sử dụng năng lượng tiết kiệm. Đồng thời, thu thập dữ liệu từ 17 cảng biển nhằm ước tính lượng giảm phát thải khí nhà kính từ các hoạt động cảng biển của ngành giao thông.

Theo tính toán của nhóm nghiên cứu JICA, hiện các cảng trên địa bàn thành phố đang phát thải một khối lượng lớn khí CO2 ra môi trường. Đây là nguyên nhân chính gây hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu. Cụ thể, cảng Bến Nghé mỗi năm thải trên 5.000 tấn CO2; cảng Sài Gòn - Hiệp Phước khoảng 7.750 tấn CO2/năm; cảng container khoảng 101 tấn CO2/năm... Các phương tiện tàu biển, nhất là tàu quá cũ, lạc hậu - phát thải nhiều khí độc do hiệu suất đốt cháy nhiên liệu thấp và chưa có hệ thống xử lý khí thải, đang là nguồn gây ô nhiễm rất lớn đối với môi trường biển…

Theo Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải [Bộ Giao thông vận tải], hiện Bộ đã có Thông tư 48 quy định các điều kiện hoạt động của tàu biển, nhằm thích ứng biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp. Cụ thể, bắt buộc các chủ tàu sử dụng nhiên liệu đúng quy định, nghiên cứu chuyển dần sang việc sử dụng nhiên liệu sạch trong tương lai. Đi đôi việc cơ cấu lại đội tàu biển quốc gia hợp lý [tức là loại bỏ dần tàu cũ, tàu gây nhiều ô nhiễm] để hình thành đội tàu trẻ hiện đại, có sức cạnh tranh cao trên thị trường hàng hải thế giới… Đây cũng được xem là những điều kiện thuận lợi để TP Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường khu vực cảng biển, trong đó có các hành động giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Dự án SPI-NAMA gồm ba hoạt động chính: Đánh giá xu hướng phát thải khí nhà kính và tiềm năng phát thải; xác định và xếp thứ tự ưu tiên tiềm năng giảm nhẹ [giảm phát thải khí nhà kính] cho lĩnh vực năng lượng [tòa nhà và công nghiệp] và giao thông; xem xét các phương án chính sách để thúc đẩy việc triển khai và hành động giảm phát thải khí nhà kính. Đến nay, cả ba hoạt động trên đều được các bên có liên quan triển khai đúng tiến độ, đạt chất lượng cao.

Video liên quan

Chủ Đề