Doanh tứ là ai

Content from WikiPedia website
Text is available under the Creative Commons Attribution-ShareAlike License; additional terms may apply.

Đăng nhập

Đăng nhập để trải nghiệm thêm những tính năng hữu ích

Zalo

  • Nóng

  • Mới

  • VIDEO

  • CHỦ ĐỀ

Thiên hạ, vạn vạn người, chẳng ai giống ai. Hoàng đế cũng vậy. Lịch sử hàng ngàn năm phong kiến Trung Quốc, chứng kiến những vị Vua kiệt xuất nhưng cũng chẳng thiếu những Hoàng đế tầm thường, vô năng. Có Hoàng đế cả đời chỉ chăm lo việc nước nhưng cũng đầy rẫy những “Hôn quân” chìm đắm trong tửu sắc.

Tấn Vũ Vương sức khỏe vô địch

Thể trạng của một Hoàng đế Trung Quốc, theo đó, cũng vô cùng. Có người sinh ra đã bệnh tật, lại không lo rèn luyện thân thế, chỉ mải mê hưởng thụ, sớm chết yểu. Có Vua lại sở hữu sức khỏe trời ban, lại yêu thích võ nghệ, nên mạnh mẽ vô cùng.

Theo Sử kí Tư Mã Thiên, Phần “Tần bản kỉ” thì chỉ xét riêng về sức khỏe và thể lực, Tần Vũ Vương Doanh Đảng, vị quân chủ thứ 32 của nước Tần – thời còn là chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, xứng đáng xếp hạng nhất.

Doanh Đảng là con trai của Tần Huệ Vương Doanh Tứ. Năm 311 trước Công nguyên [TNC], Tần Huệ Vương qua đời, Doanh Đảng chính thức nối ngôi, lấy hiệu Tần Vũ vương. Khác với đa số các hoàng tử, con em Hoàng thân quốc thích, Doanh Đảng từ bé đã yêu thích võ nghệ, đam mê việc cưỡi ngựa, đánh trận.

Càng lớn, Doanh Đảng không chỉ sở hữu cơ thể cường tráng, lực lưỡng mà còn có sức khỏe vượt xa người thường. Theo mô tả [có phần ước lệ] của Sử kí Tư Mã Thiên, Doanh Đảng cao gần 9 thước [tầm khoảng 2m ngày nay], dùng một tay nâng vật nặng 100 cân, lên xuống 50 lần mà mặt không đổi sắc.

Tự hào vể sức khỏe vô địch nên Doanh Đảng chỉ thích giao du, kết nạp những lực sĩ. Dưới trướng của ông gồm những “tay đồ tể” bậc nhất nước Tần bấy giờ như Nhâm Bỉ, Ô Hoạch hay Mạch Thuyết đều được trọng dụng, phong cho chức tước.

Chuộng võ hơn văn nên ngay sau khi lên ngôi kế vị cha, Tần Vũ Vương đã dẹp bỏ tước hiệu tướng quốc của chính trị gia bậc nhất thời đó là Trương Nghi. Sau khi ép Trương Nghi phải từ quan, trở về cố quốc Ngụy, Tần Vũ Vương đặt ra tả hữu thừa tướng. Cam Mậu [tả thừa tướng], Sư Lý Tát [hữu thừa tướng] đều là những tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc.

Ở ngôi Hoàng đế, Tần Vũ Vương cũng để lại dấu ấn đậm nét, tất cả đều là những trận đánh. Năm 308 TCN, Tần Vũ Vương đích thân chỉ huy trận chiến Nghi Dương, công phá nước Hàn, chém hơn 6 vạn quân Hàn, buộc Hàn Tương Vương phải sai sứ đến tạ tội với nước Tần.

Cái chết… lãng xẹt vì cậy khỏe

Sau trận thắng để đời trước quân Hàn, quân Tần của Vũ Vương tiếp tục vượt sông Hoàng Hà, xây thành Vũ Toại. Nước Ngụy hoảng sợ, Ngụy Tương Vương phải sai thái tử đến triều kiến Tần Vũ Vương. Tiếp đó, Tần Vũ Vương đem 10 vạn quân đánh nước Sở, thắng liên tiếp nhiều trận, chiếm được thành Thương Ô [thuộc Quý Châu ngày nay], lập ra quận Kiểm Trung, giúp Tần mở rộng thanh thế và bờ cõi.

Năm 307 TCN, Vũ Vương sai Sư Lý Tát đem quân vào tận kinh thành Lạc Dương của nhà Chu. Chu Noãn Vương Cơ Diên sợ thế quân Tần phải đích thân ra tiếp kiến. Trong cuộc nói chuyện với Cơ Diên, Vũ Vương yêu cầu được xem hết Cửu đỉnh của Nhà Chu.

Cửu đỉnh là bộ gồm chín cái đỉnh [vạc] tượng trưng cho quyền lực phong kiến tại các nước Á Đông. Triều đại phong kiến Trung Quốc, Việt Nam... xem cửu đỉnh như là quốc bảo.

Theo truyền thuyết thì sau khi Hạ Vũ chia "thiên hạ" thành chín châu [cửu châu], lấy đồng của các châu đúc thành chín đỉnh [cửu đỉnh], khắc tinh hoa phong cảnh của chín châu vào Cửu Đỉnh, mỗi Cửu Đỉnh tượng trưng cho một châu, toàn bộ cất giữ tại kinh đô nhà Hạ.

Vì thế, Cửu Đỉnh trở thành biểu trưng cho quyền uy của chính quyền phong kiến và sự thống nhất quốc gia. Từ đó có câu nói "Có được Cửu Đỉnh là có được thiên hạ".

Sau khi xem xong một lượt, Vũ Vương quyết định chọn Đỉnh Ung để mang về nước, một hành động khẳng định quyền lực vượt trội của nước Tần, giờ đã không còn cam phận chư hầu nhà Chu nữa. Tuy nhiên, cũng chính từ đây đã xảy ra một việc, dẫn tới cái chết của Tần Vũ Vương sau này.

Cậy khỏe nên Tần Vũ Vương đã đưa ra lời thách đấu với lực sĩ Mạnh Thuyết, thi xem ai nâng được cao hơn cái đỉnh [Đỉnh Ung] này. Mạnh Thuyết thi trước nhưng không thể nhấc hết cả 3 chân đỉnh lên.

Tới lượt của Vũ Vương, đúng là không hổ danh vị Vua sức khỏe vô địch, ông đã nâng được đỉnh Chủ lên cao khoảng 2 gang tay so với mặt đất. Nếu như nâng thành công rồi mà đặt xuống ngay thì đã không xảy ra chuyện lớn. Đằng này, Vũ Vương trong tiếng hò reo cổ vũ của bày tôi, lại cố giữ đỉnh lâu, đến nỗi quá sức, bị đỉnh rơi vào chân, gãy luôn xương bánh chè.

Màn biểu dương sức mạnh quân chủ của Vũ Vương kết thúc theo cách thảm hại nhất, ông nhanh chóng được đưa về kinh đô chữa trị. Nhưng đến tháng 8 năm 307 TCN, Tần Vũ Vương vì vết thương quá nặng nên qua đời, thọ 23 tuổi, chỉ ở ngôi được 4 năm. Các lực sĩ Nhâm Bỉ, Ô Hoạch, Mạnh Thuyết hùa theo vua Tần trong cuộc thi nâng đỉnh, sau khi vua băng hà, đã bị xử trảm hết.

Tần Vũ Vương được an táng ở Vĩnh Lăng [nay thuộc Thiểm Tây]. Tần Vũ Vương không có con trai. Vì vậy triều thần nước Tần đón em ông là Doanh Tắc đang làm con tin ở nước Yên về lập làm vua, tức là Tần Chiêu Tương Vương sau này.

Tuyên Thái hậu

Tuyên Thái hậu không rõ năm sinh, mất năm 265 TCN, là Thái Hậu nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Bà là phi tần của Tần Huệ Văn vương Doanh Tứ, và là mẫu thân của Tần Chiêu Tương vương Doanh Tắc.

Tên thật, song thân và thời gian sinh cũng như thời niên thiếu của Tuyên Thái hậu không được ghi chép lại. Chỉ biết bà họ Mị, người nước Sở. Bà làm phi tần của Tần Huệ Văn vương, có hiệu là"Bát Tử", nên còn được gọi làMị Bát Tử.

Nếu ai đã từng quan tâm và yêu thích bộ phim "Mị Nguyệt truyện" do Tôn Lệ thủ vai chính, thì có thể biết thêm rằng Mị Bát Tử chính là nguyên mẫu để người ta xây dựng nên bộ phim này.

Tạo hình của Tôn Lệ trong phim "Mị Nguyệt truyện" được cho là lấy hình tượng từ Tuyên thái hậu.

Năm 325 TCN, Mị Bát Tử sinh hạ công tử Tắc [tức Tần Chiêu Tương vương sau này]. Sau đó, bà tiếp tục sinh hạ thêm cho Tần Huệ Văn vương 2 công tử nữa là công tử Thị và công tử Khôi.

Năm 311 TCN , Tần Huệ Văn vương qua đời, Công tử Đãngtức Tần Vũ vương lên kế thừa ngôi vị. Tuy nhiên, Tần Vũ vương chỉ ở ngôi được 4 năm thì chết vì tai nạn. Tần Vũ vương không có con trai dẫn đến việc các em trai của Tần Vũ vương thi nhau tranh đoạt vương vị. Lúc bấy giờ, thực lực mạnh nhất là công tử Tráng - người con trai lớn nhất còn sống của Huệ Văn vương. Thế nhưng khi Triệu Vũ Linh vương [vị vua thứ sáu của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc] can thiệp vào chính trị của nước Tần, ông đã cho quân hộ tống con trai cả của Mị Bát Tử là công tử Tắc, vốn đang đang làm con tin ở nước Yên, quay về nước Tần. Mị Bát Tử dựa vào thế lực của người em cùng mẹ khác cha với mình là Đại phu Ngụy Nhiễm, bấy giờ đang tạm cầm quyền chăm lo triều chính, để đưa công tử Tắc lên ngôi, lấy danh hiệu là Tần Chiêu Tương vương. Với thân phận mẫu sinh của Hoàng đế, Mị Bát Tử được tôn làm Tuyên Thái hậu.

Vị thái hậu thay con nhiếp chính suốt 40 năm

Sau khi Tần Chiêu Tương Vương lên ngôi, lấy cớ Hoàng đế tuổi còn nhỏ chưa thể chấp chính, vì thế Tuyên Thái Hậu thay mặt toàn quyền đứng ra xử lý triều chính.

Sau khi lên nắm quyền, Tuyên Thái hậu nhất mực trọng dụng và phong cho Ngụy Nhiễm làm Thừa tướng; Nhương hầu Mị Nhung, em ruột của bà, được phong làmHoa Dương quân; còn hai người con khác của bà là Công tử Khôi và Công tử Phất cũng lần lượt được phong là Kinh Dương quânvàCao Lăng quân. Sử sách gọi đây là bộ "Tứ quý" cùng với Tuyên Thái Hậu nắm toàn bộ quyền lực, lấn át hoàn toàn Tần Chiêu Tương vương.

Tuyên Thái Hậu nắm toàn bộ quyền lực, lấn át hoàn toàn Tần Chiêu Tương vương [Ảnh minh họa]

Tuyên Thái Hậu chưa nhiếp chính được bao lâu thì năm 305 TCN, công tử Tráng liên hợp đại thần và các công tử khác nổi loạn nhằm lật đổ Tần Chiêu Vương. Rất may, nhờ vào tài chí nhanh nhạy của mình, Tuyên Thái hậu đã cùng Thừa tướng Ngụy Nhiễm đánh bại tất cả, xử tử Huệ Văn hậu, công tử Ung, công tử Tráng.

Sau khi dẹp yên nội loạn, nước Tần dưới sự dẫn dắt của Tuyên Thái Hậu dần dần đi vào bình ổn, đồng thời trở nên nổi tiếng với đội quân hùng mạnh và thiện chiến của mình.

Đến năm 293 TCN, hai nước Hàn, Ngụy lo sợ trước sự lớn mạnh của quân Tần nên đã liên minh 24 vạn quân đánh Tần. Mặc dù khi đó quân đội nước Tần chỉ có 13 vạn quân nhưng đều thuộc hàng tinh binh, thiện chiến nên hai nước Hàn, Ngụy không dám liều mình tấn công mà chỉ dám kéo quân đến giáp biên nước Tần, đào hào, đắp thành tại các con sông gần đó. Tướng quân nước Tần khi đó là Bạch Khởi biết được hai nước Hàn, Ngụy vẫn còn sự hiềm khích lẫn nhau nên đã dùng kế cho hai nước trở mặt, bỏ mặc lẫn nhau. Quân Hàn cho rằng quân Ngụy không thực lòng liên minh nên đem quân về nước, nước Ngụy thân cô thế nên bị quân Tần đuổi giết, toàn bộ tan tác. Nước Tần thừa thắng xông lên, tiến quân về phía nước Hàn tiêu diệt toàn bộ quân đội nước Hàn. Kết quả 24 vạn quân của Hàn, Ngụy bị quân Tần tiêu diệt, chủ tướng Công Tôn Hỉ của liên quân cũng bị bắt sống. Hai nước Hàn, Ngụy phải đem lễ sang xin cầu hoà và cắt đất xin quy thuận nước Tần. Đây có thể nói là một trận chiến có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp nước Tần củng cố nền tảng cho sự thống nhất thiên hạ của mình sau này.

Đến năm 287 TCN, năm nước Tề, Triệu, Ngụy, Hàn và Sở cậy thế liên minh muốn chống lại nước Tần, nhưng lại một lần nữa, liên minh năm nước theo kế hợp tung của Công Tôn Diễn bị thất bại phải tan quân rút lui ở Thành Cao.

Có thể nói, dưới bàn tay cai trị của Tuyên Thái hậu, nước Tần đã phát triển và vươn hẳn lên một vị thế mới.

Thoái vị nhưng tên tuổi mãi lưu danh trong sử sách

Năm 271 TCN, một người nước Ngụy có tên là Phạm Thư đã đến nước Tần, và đượcTần Chiêu Tương vương đem lòng trọng dụng. Phạm Thư tâu với Tần Chiêu Tương vương rằng "Tứ quý" và Thái hậu quyền lực lớn, lấn át cả vua là điều không được và khuyên Hoàng đế nên tước lại quyền hành. Tần Chiêu Tương vương đồng ý nghe theo, phế quyền lực của Tuyên Thái hậu, bắt lui về cung riêng; sau đó đuổiNgụy Nhiễm về phong ấp, đuổi Hoa Dương quân, Cao Lăng quân và Kính Dương quân ra biên cương.

Hơn 40 năm nhiếp chính và đưa nước Tần phát triển hưng thịnh, Tuyên Thái Hậu thật sự xứng danh là nữ Hoàng Đế đầu tiên của Trung Quốc [Ảnh minh họa]

Thế nhưng khi Tuyênthái hậu bị "tước quyền", tính ra bà cũng đã nhiếp chính được hơn 40 năm. Suốt quãng thời gian ấy,Tần Chiêu Tương vương chỉ sống ở Lục Anh cung và Li cung, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Ông ở đó trên danh nghĩa chữa bệnh, chẳng một lần được nhúng tay vào triều chính. Nước Tần khi ấy hưng thịnh và trở thành tiền đề vững chắc cho sự xưng bá "Thất hùng" sau này thực chất đều do một tayTuyên Thái Hậu gây dựng mà ra.

Có thể thấy, tuy Tuyên Thái Hậuchỉ buông rèm nhiếp chính chứkhông tự mình xưng đế như Võ Tắc Thiên, nhưng nếu so với quãng thời gian cai trị thiên hạ 15 năm của Võ Mỵ Nương thì 40 năm của Tuyên Thái Hậu lại dài hơn rất nhiều. Không những thế, trong những năm tháng trị vì ấy, Tuyên Thái Hậu còn là người có công nhiều lần dẹp yên nội loạn, đuổi tan giặc ngoài,bình ổn đất nước vàmở mang bờ cõi.

Video liên quan

Chủ Đề