Khi đường kính mạch máu lúc nghỉ ngơi giảm ½, kháng lực đối với dòng máu tăng bao nhiêu lần ?

/vi/tin-tuc/thong-tin-suc-khoe/suc-khoe-tong-quat/dac-diem-sinh-ly-cua-mach-mau/

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa II Lê Đăng Vân - Bác sĩ Nội tổng hợp - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng. Bác sĩ đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực nội khoa.

Mạch máu tạo thành một hệ thống trong cơ thể người và là một phần của hệ tuần hoàn, mạch máu có dạng ống, nối tiếp nhau tạo thành một vòng khép kín dẫn máu từ tim đến các cơ quan và ngược lại. Ngoài ra, mạch máu còn có tác dụng vận chuyển các dưỡng chất, oxy, CO2, nước đến các cơ quan trong cơ thể.

  • Hệ phân bổ: Bao gồm động mạch chủ và những động mạch khác, chứa ít máu và có áp lực lớn.
  • Hệ tiểu động mạch: Năng lượng phân lớn sinh ra ở đây đo áp lực động mạch bị triệt tiêu.
  • Hệ trao đổi: Có tác dụng trao đổi chất với dịch ngoại bào.
  • Hệ dự trữ: Bao gồm các tĩnh mạch, tĩnh mạch chủ và nhĩ phải, tại đây có chứa lượng máu lớn và áp lực thấp.

Áp lực máu phụ thuộc vào thể tích máu trong toàn bộ tĩnh mạch của mỗi người trong hệ tim mạch. Một người trưởng thành bình thường có thể tích máu khoản 5 lít, 60% trong số đó được chứa trong hệ tĩnh mạch và hệ tiểu tĩnh mạch. nếu thể tích máu giảm trên 10% thì áp lực máu sẽ giảm. Sự tăng thể tích máu như ứ nước sẽ làm tăng áp lực máu.

Tốc độ trung bình của máu tỷ lệ nghịch với thiết diện ngang của mạch máu. Tốc độ máu cao ở động mạch chủ và giảm dần ở các mạch máu nhỏ. Tốc độ máu thấp nhất ở vị trí mao mạch, nơi có thiết diện ngang gấp 1000 lần so với động mạch chủ.

Khi tim trái đưa máu vào động mạch chủ tạo ra áp lực lớn, máu được tuần hoàn đến tim phải, lúc này nơi chịu áp lực thấp là tâm nhĩ phải. Từ đó có thể thấy càng xa tim thì áp lực càng giảm.

Khi tim phải tống máu lên tuần hoàn phổi, lực cản của dòng chảy tuần hoàn này ít hơn nhiều so với tuần hoàn hệ thống, do vậy áp lực tống máu sẽ yếu hơn tim trái.

Xem thêm: Phát hiện sớm bệnh mạch vành để phòng ngừa nhồi máu cơ tim

Hệ động mạch

Động mạch có chức năng đưa máu từ tim đến các mao mạch trên toàn cơ thể người. Các động mạch chủ từ tim phân thành nhiều động mạch nhỏ hơn, sau đó lại phân chia tiếp thành các động mạch nhỏ hơn gọi là các tiểu động mạch. Các tiểu động mạch dẫn máu đến các mô, điều hoà và phân phối vào những mao mạch phù hợp với những cấu trúc tổ chức trong cơ thể.

Đặc điểm sinh lý của hệ động mạch:

Tính đàn hồi: Khi tim đập ngắt quãng nhưng máu vẫn chảy liên tục. Trong thời kỳ tâm thu, máu sẽ được nhận thế năng khi được tống vào động mạch. Trong thời kỳ tâm trương, nó quay lại trạng thái ban đầu trả lại thế năng vừa nhận được đấy máu đi. Nhờ tính đàn hồi này mà máu đi liên tục tuần hoàn khắp cơ thể.

Tính có thắt: Lớp có trơn của thành mạch có thể thay đổi đường kính do bị chi phối bởi thần kinh, nhất là những tiểu động mạch. Đặc tính có thắt khiến lượng máu được phân phối đến các cơ quan trong cơ thể tùy theo hoạt động và nhu cầu của con người như vận động hay nghỉ ngơi.

Hệ mao mạch đảm bảo các chức năng chính của hệ mạch, là nơi trao đổi oxy, CO2, các chất dinh dưỡng từ máu và các tổ chức trong cơ thể. Để đảm bảo được chức năng này máu cần lưu thông chậm lại trong mạng lưới mao mạch.

Mao mạch

Đặc điểm cấu trúc, chức năng:

  • Hệ mao mạch gồm những mạch máu dài và mỏng, đầu mao mạch có cơ vòng tiền mao mạch co nhiệm vụ kiểm soát lượng máu vào mao mạch.
  • Ngoài những mao mạch thực sự còn những đường nối thông trực tiếp giữa tiểu tĩnh mạch và tiểu động mạch. Đường này rộng và ngắn, luôn mở nên gọi là mạch thẳng và có kênh rộng.

Động lực máu trong mao mạch:

  • Máu chảy trong mao mạch do sự chênh lệch áp suất từ tiểu động mạch đến tiểu tĩnh mạch.
  • Lưu lượng máu qua mao mạch tuỳ thuộc vào sự hoạt động của tổ chức cũng như được điều hoà bởi cơ thắt tiền mao mạch cũng như sức cản của động mạch nhỏ và tiểu động mạch đến các tổ chức.

Sự trao đổi chất qua mao mạch

  • Sự trao đổi chất diễn ra ở những mao mạch thất sự, khoảng 5% tổng lượng máu ở hệ mao mạch tham gia trao đổi chất.
  • Các chất cần trao đổi đi qua thành mao mạch, đi vào dịch kẽ rồi vào các tế bào, các tế bào thải chất theo hướng ngược lại.

Điều hòa tuần hoàn mao mạch:

Sự thay đổi lưu lượng tuần hoàn phụ thuộc vào hai yếu tố sau:

  • Hệ thần kinh thực vật kiểm soát sức cản ngoại biên bằng cách tác dụng lên cơ trơn của thành tiểu động mạch.
  • Những chất chuyển hoá tại chỗ hiện diện trong tổ chức làm co giãn các cơ thắt tiền mao mạch.

Cử động hô hấp là một trong các yếu tố giúp máu chảy về tim

Đặc điểm cấu trúc chức năng

  • Từ mao mạch, máu đi vào những mạch máu có thành mỏng gọi là tiểu tĩnh mạch, những tiểu tĩnh mạch tập trung lại thành tĩnh mạch lớn.
  • Thành tĩnh mạch có cấu tạo 3 lớp: lớp trong cùng là tế bào nội mạc, lớp giữa gồm sợi liên kết và sợi cơ, lớp ngoài mỏng gồm sợi liên kết chun giãn.
  • Tĩnh mạch có tính giãn cao, có thể chứa một lượng máu lớn với sự thay đổi ít áp lực ở bên trong.

Các yếu tố giúp máu chảy về tim

  • Yếu tố tim
  • Van tĩnh mạch
  • Sức co cơ vân
  • Cử động hô hấp

Động lực máu trong tuần hoàn tĩnh mạch

  • Máu chảy trong tĩnh mạch có áp lực thấp nên không đủ đưa về tim.
  • Tốc độ máu trong tĩnh mạch lớn ước chừng 10cm/s bằng 1⁄4 ở động mạch chủ.
  • Lưu lượng của tĩnh mạch tăng hay giảm còn phụ thuộc vào tổ chức hoạt động hay là nghỉ ngơi.

Điều hòa tuần hoàn tĩnh mạch

  • Các tĩnh mạch có thể co giãn như động mạch nhưng khả năng giãn nhiều hơn co do thành tĩnh mạch có ít sợi cơ trơn.
  • Các yếu tố ảnh hưởng đến tuần hoàn tĩnh mạch:

+ Nhiệt độ lạnh làm co tĩnh mạch, nhiệt độ cao làm giãn tĩnh mạch.

+ Các chất khí

+ Một số loại thuốc như adrenalin gây co mạch, nicotin gây giãn tĩnh mạch.

Mọi thắc mắc hãy liên hệ Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec để được tư vấn và giải đáp.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để được giảm ngay 20% phí khám bệnh lần đầu trên toàn hệ thống Vinmec [áp dụng từ 1/8 - 30/9/2022]. Quý khách cũng có thể quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn tư vấn từ xa qua video với các bác sĩ Vinmec mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

XEM THÊM:

Điển hình, bệnh động mạch ngoại vi gây cơn đau cách hồi, đó là một cảm giác đau, tức nặng, chuột rút, khó chịu, hoặc mệt mỏi ở chân xảy ra khi đi bộ và giảm khi nghỉ ngơi. Đau cách hồi thường xảy ra ở bắp chân nhưng có thể xảy ra ở bàn chân, bắp đùi, hông, mông, hoặc, hiếm khi, cánh tay. Đau cách hồi là sự biểu hiện của thiếu máu có thể hồi phục liên quan gắng sức, tương tự như cơn đau thắt ngực. Khi PAD tiến triển, quãng đường có thể đi mà không có triệu chứng có thể giảm, và bệnh nhân bị PAD nặng có thể bị đau trong suốt thời kỳ nghỉ ngơi, phản ánh tình trạng thiếu máu không hồi phục. Đau khi nghỉ ngơi thường là tồi tệ hơn ở vùng xa, trầm trọng thêm khi chân nâng cao [thường gây đau vào ban đêm], và giảm đi khi chân ở thấp dưới mức tim. Đau có thể bỏng rát, siết chặt, mặc dù triệu chứng này không đặc hiệu.

Khoảng 20% bệnh nhân mắc bệnh động mạch ngoại vi không có triệu chứng, đôi khi vì họ không hoạt động đủ để gây thiếu máu cục bộ. Một số bệnh nhân có triệu chứng không điển hình [ví dụ đau hông hay đau khớp].

PAD nhẹ thường không gây ra dấu hiệu. PAD từ trung bình đến nặng thường gây giảm hoặc mất các mạch ngoại biên [khoeo, chày sau, mu chân]; Siêu âm Doppler thường có thể phát hiện dòng máu khi mạch không thể sờ thấy.

Khi dưới mức tim, bàn chân có thể xuất hiện màu đỏ sẫm. Ở một số bệnh nhân, nâng bàn chân làm mất màu sắc và làm trầm trọng thêm cơn đau thiếu máu cục bộ; khi chân được hạ xuống, đổ đầy tĩnh mạch kéo dài [>15 giây]. Phù nề thường không có trừ khi bệnh nhân giữ chân bất động và giữ nguyên ở vị trí giảm đau. Bệnh nhân có PAD mãn tính có thể có làn da mỏng, nhợt nhạt với lông ít hoặc không có. Chân phía xa và bàn chân lạnh. Các chân bị ảnh hưởng có thể có mồ hôi nhiều và tím, có thể là do sự kích thích dây thần kinh giao cảm.

Khi thiếu máu nặng, loét có thể xuất hiện [thường là ở ngón chân hoặc gót chân, thỉnh thoảng ở chân hoặc bàn chân], đặc biệt là sau chấn thương. Các vết loét có xu hướng được bao quanh bởi các mô đen, hoại tử [hoại tử khô]. Họ thường rất đau, nhưng những người bị bệnh thần kinh ngoại vi do tiểu đường hoặc nghiện rượu có thể không cảm thấy đau nữa. Nhiễm trùng của vết loét thiếu máu [hoại tử ướt] xảy ra dễ dàng, gây ra viêm tế bào nhanh.

Mức độ tắc nghẽn động mạch ảnh hưởng đến vị trí của các triệu chứng. Bệnh động mạch chủ chậu có thể gây đau cách hồi ở đùi, mông hoặc cẳng chân; đau hông; và ở nam giới có rối loạn cương dương [hội chứng Leriche]. Bệnh động mạch ở đùi khoeo đau cách hồi xảy ra ở bắp chân; mạch bên dưới động mạch đùi yếu hoặc không có. Bệnh động mạch ở các vị trí xa hơn, mạch đùi khoeo vẫn có thể có có, nhưng các mạch chân mất.

Bệnh tắc nghẽn động mạch đôi khi ảnh hưởng đến các cánh tay, đặc biệt là động mạch ngoại động trái gần, gây ra sự mệt mỏi của tay với tập thể dục và đôi khi thuyên tắc vào tay.

Video liên quan

Chủ Đề