Lạm phát tăng thì lãi suất ngân hàng tăng hay giảm

Tin tức truyền thông

Giảm lạm phát để giảm lãi suất - 05/07/2012

Đầu năm, chính sách tiền tệ đã “nóng” với việc tăng tỉ giá và lãi suất vay đã bị đẩy lên 20%/năm. Ông Cao Sỹ Kiêm - nguyên thống đốc Ngân hàng Nhà nước, chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa - phân tích:

- Điều chỉnh tỉ giá là việc phải làm vì cứ giữ sẽ rất bất lợi, nó kéo giãn nguyên tắc thị trường. Định hướng của chúng ta là chính sách tiền tệ phải linh hoạt. Bởi trong năm, biên độ giữa tỉ giá chính thức và thị trường tự do đã giãn quá cao, nên điều chỉnh đợt này buộc phải mạnh vì nếu làm nhỏ giọt sẽ mất lòng tin, không có nhiều ý nghĩa. Tất nhiên, khi điều chỉnh tỉ giá có lợi và hại nhưng lợi nhiều hơn. Cụ thể sau điều chỉnh, tâm lý găm giữ, đầu cơ, đánh quả sẽ được hạn chế. Doanh nghiệp cũng chủ động hơn. Niềm tin, đặc biệt là của các định chế nước ngoài về chính sách điều hành minh bạch, linh động, bám sát yếu tố thị trường của VN cũng tăng. Tuy nhiên, cần lưu ý đặc biệt mặt trái của điều chỉnh tỉ giá lần này sẽ làm tăng giá nhập khẩu, có thể khiến tăng lạm phát. Mà lạm phát cao sẽ lại đẩy đồng tiền VN tiếp tục mất giá.

* Vậy theo ông, cần làm gì để giảm thiệt hại do điều chỉnh tỉ giá?

- Việc điều chỉnh tỉ giá nếu đứng riêng là một giải pháp tiền tệ thì rất đúng. Nhưng kinh nghiệm từ ngay năm 2010 cho thấy: khi điều chỉnh tỉ giá, ngân hàng làm trước, các bộ, ngành khác không có chính sách đi kèm, thống nhất đã tạo sự hỗn loạn về tỉ giá, giá vàng. Nó quay trở lại kéo tâm lý tăng giá, lạm phát lên rất nhanh. Do vậy lần này từ Bộ Kế hoạch - đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công thương phải có chính sách đi kèm để khai thác mặt mạnh, giảm tác động tiêu cực từ tăng tỉ giá. Nói điều chỉnh tỉ giá lợi cho xuất khẩu nhưng nếu thực tế ta không phát triển được xuất khẩu bao nhiêu thì đâu có lợi. Tỉ giá USD tăng mà Bộ Tài chính không có biện pháp gì trong các dự án lớn dùng USD thì cũng không ổn... Phải có chính sách khai thác việc điều chỉnh tỉ giá.

* Doanh nghiệp mong muốn tỉ giá ổn định, vậy cách nào để tỉ giá ổn định, thưa ông?

- Điều chỉnh lần này đúng thị trường nhưng về dài hạn phải bám sát chặt hai mục tiêu: kéo lạm phát xuống và tăng được năng lực sản xuất, giảm nhập siêu. Các chính sách tiền tệ như tỉ giá, lãi suất thật ra có liên hệ với nhau chặt chẽ. Phải tập trung chống lạm phát trước. Các chính sách khác như lãi suất phải rất linh hoạt theo mục tiêu đó. Nhà nước nói phải đi đôi với làm, nói giữ ổn định vĩ mô, chống lạm phát hàng đầu thì hành động phải cho người dân thấy rõ điều đó.

* Chống lạm phát là phải tăng lãi suất. Nhưng lãi suất hiện nay đang quá cao, vượt sức chịu đựng của doanh nghiệp, chẳng lẽ lại tăng thêm lãi suất để chống lạm phát?

- Điều khiến các nhà đầu tư, các tổ chức nước ngoài quan ngại bậc nhất ở VN chính là lạm phát. Mà chống lạm phát, giải pháp hàng đầu là tăng lãi suất để thu tiền về. Điều này sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó về vốn. Đó là mặt trái phải chấp nhận. Doanh nghiệp phải cơ cấu lại, tính toán kỹ khi đầu tư, giảm chi phí để tồn tại chờ đến khi nguồn vốn dồi dào, giá rẻ. Chống lạm phát cao thì giải pháp không thể không “đau” tí nào được. Tuy nhiên, đúng là không thể để lãi suất cao mãi như hiện nay. Nếu lãi suất năm 2011 cứ ở mức 20%/năm, tôi e rằng sản xuất của VN sẽ co lại rất nhanh, kéo theo là giảm việc làm, giảm xuất khẩu, rất nguy hiểm. Phải giảm lãi suất. Kinh nghiệm điều hành của tôi cho rằng trước tiên phải kéo lạm phát xuống, sau đó mới giảm lãi suất tương ứng.

* Liệu có kéo lạm phát xuống được khi mà lạm phát thực tế luôn cao hơn chỉ tiêu?

- Chống lạm phát thì phải thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất, nhưng chỉ thế thì không đủ. Theo tôi phải kéo được chi phí hành chính, bội chi ngân sách, nhập siêu xuống... Nói thật lòng, chi ngân sách lớn hơn thu của VN dù đã giảm nhưng vẫn ở mức 5-6% - gấp đôi mức chung người ta chấp nhận, nền kinh tế nhỏ bé này làm sao chịu được! Lạm phát năm qua của VN đã cao gấp ba lần, lãi suất giờ thì cao gấp 3-4 lần mức đa số doanh nghiệp thế giới phải chịu. Cần lưu ý một điều không kém phần quan trọng là khi chống lạm phát thì bản thân chính sách thắt chặt tiền tệ cũng phải minh bạch và đặc biệt phải linh hoạt. Chỉ thắt ở chỗ có thể gây hậu họa, chứ thắt cả chỗ tạo ra hàng hóa, tạo việc làm, tạo sức mua thì không được.

* Một trong những nguyên nhân khiến lãi suất tăng là một số ngân hàng đã tạo ra các cuộc đua? Phải có giải pháp gì với các cuộc đua tốn kém, có phần tai hại này?

- Ngân hàng vốn ít, họ vay ngân hàng khác qua thị trường liên ngân hàng nhưng nay cũng bị khống chế nên phải tăng lãi suất để huy động. Các ngân hàng khác cũng phải tăng lãi suất theo, lãi suất cho vay tăng nhanh. Theo tôi, để giải quyết, Ngân hàng Nhà nước phải kiểm soát sát, tốt hơn, ngay khi các ngân hàng cần vốn phải bơm ngay tiền cho họ, tránh việc họ phải tăng lãi suất huy động.

Sau đó với những ngân hàng này phải tính đến việc cơ cấu, sáp nhập. So với thế giới, so với nhu cầu nền kinh tế thì số lượng ngân hàng của VN chưa nhiều. Nhưng vấn đề là vốn của nó ít quá. Nên phải yêu cầu các ngân hàng tăng vốn hoặc sáp nhập để tăng năng lực. Các nước rất chú trọng vào chất lượng, khả năng quản trị của ngân hàng. Việc lập các ngân hàng ở VN cần phải siết chặt hơn, chứ như vừa rồi rất dễ tạo thêm nhiều rủi ro cho nền kinh tế.

 Tuổi Trẻ

Các tin tức khác

Ngân hàng lợi nhuận cao, doanh nghiệp khó vì lãi suất - 05/07/2012

Giá vàng sụt giảm 300.000 đồng - 05/07/2012

2011: Lạm phát là thách thức lớn nhất - 05/07/2012

Lãi suất USD tăng, nhiều người đi mua USD - 05/07/2012

Kiều hối: Bức tranh đầy màu sáng - 05/07/2012

Trong bối cảnh chi phí sinh hoạt tại các nền kinh tế phát triển tăng với tốc độ nhanh nhất từ thập niên 1980, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ [Fed], Ngân hàng Trung ương Anh [BOE] và Ngân hàng Trung ương Thuỵ Sỹ [SNB] cùng có hành động nâng lãi suất quyết liệt. Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương Hungary cũng tăng lãi suất.

Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng, tăng mạnh lãi suất để chống lạm phát là “con dao hai lưỡi”, bởi có thể khiến tăng trưởng kinh tế sụt giảm mạnh.

Tờ báo Anh Guardian đã lý giải vì sao cuộc đua nâng lãi suất vừa mới bắt đầu của các ngân hàng trung ương trên toàn cầu khiến giới đầu tư lo ngại:

VÌ SAO PHẢI TĂNG LÃI SUẤT?

Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, gián đoạn chuỗi cung ứng, tình trạng thiếu nhân công, và cuộc chiến tranh Nga-Ukraine đã đẩy giá năng lượng và hàng hoá cơ bản tăng cao, khiến lạm phát không ngừng leo thang trong những tháng gần đây.

Tại các nước giàu thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế [OECD], lạm phát đã lên tới mức 9,2%, cao nhất kể từ năm 1988. Anh đang là nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất trong nhóm 7 nước công nghiệp phát triển [G7], với chỉ số giá tiêu dùng [CPI] của nước này tăng 9% trong tháng 4 so với cùng kỳ năm ngoái - mức tăng cao nhất kể từ năm 1982.

Các ngân hàng trung ương được chính phủ giao nhiệm vụ giữ lạm phát ở mức thấp và ổn định, thường là mức khoảng 2% tại các nền kinh tế phát triển, đồng thời đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh và triển vọng thị trường lao động khả quan.

Ngày 16/6, SNB và BOE cùng tăng lãi suất. Trong đó, SNB nâng lãi suất lên âm 0,25% từ mức âm 0,75% trước đó, một bước nhảy lớn đến nỗi không một chuyên gia kinh tế nào được hãng tin Reuters khảo sát lường trước được. Mức tăng lãi suất 0,25 điểm phần trăm của BOE hoàn toàn nằm trong dự báo của thị trường. Đây là lần nâng lãi suất đầu tiên sau 15 năm của SNB và lần nâng lãi suất thứ 5 liên tiếp của BOE.

Ngân hàng Trung ương Hungary cũng bất ngờ nâng lãi suất 0,5 điểm phần trăm lên 7,25%, trong bối cảnh lạm phát ở nước này đang ở mức hai con số.

Trước đó, vào ngày 15/6, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ [Fed] có đợt nâng lãi suất thứ ba liên tiếp, với mức tăng 0,75 điểm phần trăm - mạnh nhất từ năm 1994. CPI tháng 5 của Mỹ tăng 8,6%, mạnh nhất kể từ tháng 12/1981.

Ngân hàng Trung ương châu Âu [ECB] dự kiến sẽ nâng lãi suất vào tháng 7 và tháng 9, sau khi tuyên bố sẽ dừng chương trình nới lỏng định lượng [QE] từ tháng 7.

LÃI SUẤT TĂNG KIỀM CHẾ LẠM PHÁT NHƯ THẾ NÀO?

Lạm phát là thước đo sự tăng giá hàng hoá tiêu dùng dựa trên một rổ hàng hoá và dịch vụ. Giá cả thường tăng khi nguồn cung bị hạn chế hoặc khi nhu cầu vượt quá nguồn cung.

Lãi suất tăng lên khiến cho việc vay tiền trở nên đắt đỏ hơn, đồng thời khuyến khích việc tiết kiệm. Khi việc vay nợ tốn kém hơn, nhu cầu của người tiêu dùng đối với các hàng hoá và dịch vụ sẽ bị hãm lại. Điều tương tự cũng xảy ra đối với kế hoạch đầu tư sản xuất-kinh doanh và tuyển dụng của doanh nghiệp. Qua đó, lạm phát sẽ dịu đi khi nhu cầu bị nguồn cung vượt lên.

Ngoài ra, lãi suất tăng thường làm đồng tiền tương ứng mạnh lên trên thị trường ngoại hối. Điều này giúp làm giảm chi phí nhập khẩu hàng hoá - điều có thể chính là điểm mấu chốt trong các cân nhắc của BOE khi tăng lãi suất. Khi Fed nâng lãi suất quyết liệt, đồng USD đã tăng giá lên mức cao nhất 2 thập kỷ, còn đồng Bảng tụt xuống mức thấp nhất so với USD kể từ khi Covid trở thành đại dịch vào tháng 3/2020.

“BOE sẽ theo dõi xem điều gì xảy ra với đồng Bảng”, nhà kinh tế học James Smith thuộc ING phát biểu. “Các mặt hàng năng lượng được định giá bằng USD và đang ngày càng tăng. Đồng Bảng mất giá khiến câu chuyện càng tệ hơn”.

Các ngân hàng trung ương cũng tin vào sức mạnh của việc gửi đi các tín hiệu. Thông qua việc tăng lãi suất quyết liệt, họ hy vọng sẽ thể hiện được cam kết đưa lạm phát về mức mục tiêu. Cách này nhằm ngăn chặn kỳ vọng rằng lạm phát sẽ cao dai dẳng. Những kỳ vọng như vậy có thể thúc đẩy người lao động đòi hỏi tăng lương nhiều hơn hoặc khuyến khích các công ty tăng giá bán sản phẩm, từ đó làm cho vòng xoáy tăng giá càng trở nên bất tận.

LÃI SUẤT TĂNG ẢNH HƯỞNG THẾ NÀO ĐẾN CÁC ĐỐI TƯỢNG?

Khi các ngân hàng trung ương tăng lãi suất, các ngân hàng thương mại sẽ đẩy lãi suất cao hơn về phía khách hàng vay tiêu dùng và vay thương mại, cũng như người gửi tiết kiệm. Các ngân hàng thương mại thường chậm hơn trong việc nâng lãi suất tiền gửi, nhưng lại rất khẩn trương tăng lãi suất các khoản vay thế chấp nhà.

Người đi thuê nhà cũng có thể đương đầu với sức ép, vì những chủ nhà đi vay để mua nhà cho thuê sẽ đẩy phần chi phí gia tăng về phía khách thuê.

Khi BOE tăng lãi suất 0,25 điểm phần trăm lên 1% vào tháng 5, các chuyên gia của Hargreaves Lansdown ước tính rằng số tiền mà người vay thế chấp nhà ở Anh phải trả hàng tháng tăng thêm khoảng 40 Bảng.

Trong bối cảnh lãi suất tăng, Văn phòng Trách nhiệm ngân sách Anh [OBR] ước tính số tiền lãi mà các hộ gia đình ở nước này phải trả hàng năm sẽ từ mức 55 tỷ Bảng lên mức 83 tỷ Bảng trong 2 năm tới.

NHỮNG NGUY CƠ TỪ VIỆC TĂNG LÃI SUẤT

Việc ghìm nén nhu cầu tiêu dùng đặt ra nguy cơ tăng trưởng kinh tế bị bóp nghẹt. Với chi phí sinh hoạt tăng vọt vốn dĩ đang đe doạ dẫn tới sự suy giảm tiêu dùng, nỗ lực tăng lãi suất để “hạ nhiệt” lạm phát đẩy rủi ro suy thoái lên một nấc cao hơn.

Thống đốc BOE Andrew Bailey đã cảnh báo rằng ngân hàng trung ương này đang đứng trước một “lối đi rất hẹp” giữa lạm phát cao và tăng trưởng yếu. Tại Mỹ, một số nhà phân tích dự báo Fed có thể buộc phải cắt giảm lãi suất ngay từ đầu năm sau để chống lại nguy cơ suy thoái kinh tế.

Nền kinh tế Anh được dự báo sẽ giảm tốc dần tới mức không còn tăng trưởng trong năm tới, và nước này sẽ tụt xuống đáy về tăng trưởng trong số các nền kinh tế OECD nếu không tính Nga.

Ngoài vấn đề tăng trưởng và lạm phát, một vấn đề khác dược đặt ra là ổn định tài chính.

CÁC CHÍNH PHỦ ĐỐI MẶT RỦI RO GÌ?

Tại Eurozone, lãi suất tăng lên và việc ECB kết thúc chương trình mua trái phiếu đã làm dấy lên những lo ngại về nguy cỡ “rã đám” khối đồng tiền chung, tương tự như trong cuộc khủng hoảng nợ công của khu vực này hồi giữa thập niên trước.

Trong một cuộc họp bất thường vào hôm thứ Tư vừa rồi, ECB đã tìm cách xoa dịu những mối lo này. Cuộc họp diễn ra sau khi lợi suất trái phiếu chính phủ Italy và Hy Lạp tăng vọt do nhà đầu tư đặt cược rằng việc châu Âu cắt giảm các biện pháp kích thích kinh tế sẽ đặt ra áp lực lớn đối với các chính phủ nặng nợ trong khu vực.

Chuyên gia kinh tế trưởng Katherine Neiss thuộc PGIM Fixed Income nói: “Chưa biết liệu khu vực sử dụng đồng Euro có chống chọi được với mức lãi suất trên 0% hay không”.

Các quốc gia đang phát triển với mức nợ USD lớn có thể chịu ảnh hưởng mạnh mẽ, vì lãi suất ở Mỹ tăng lên và đồng USD tăng giá sẽ khiến gánh nặng nợ nần của các nước này trở nên căng thẳng hơn.

Sri Lanka, quốc gia đang chìm trong khủng hoảng kinh tế và chính trị, đã vỡ nợ. Giới phân tích nói rằng một số nước như Ghana và Pakistan cũng có thể đối mặt thách thức lớn.

Video liên quan

Chủ Đề