Luyện tập thao tác lập luận so sánh tuthienbao

Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ, trang 31 SGK Văn 11 - Loigiaihay Luyện tập Thao tác lập luận bác bỏ - Soạn bài online Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ - Ngữ văn 11, tập 2 - Để Học Tốt thao tác lập luận bác bỏ lớp 11, luyện tập thao tác lập luận bác bỏ nâng cao, luyện tập thao tác lập luận bác bỏ trang 31, luyện tập thao tác lập luận bình luận, giáo án luyện tập thao tác lập luận bác bỏ, luyện tập thao tác lập luận bác bỏ tuthienbao, luyện tập thao tác lập luận bác bỏ cadasa, bác bỏ quan niệm muốn học giỏi môn ngữ văn chỉ cần đọc nhiều sách học thuộc nhiều thơ văn

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đất nước ta đang từng ngày đổi mới và phát triển trong xu thế hội nhập. Mục tiêu đặt ra trước mắt, đó là đào tạo ra những con người toàn diện, tích cực và chủ động. Đây không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành Giáo dục [GD] mà là của toàn xã hội. Nhưng ngành giáo dục giữ vai trò chủ chốt, với một trọng trách vô cùng lớn lao. Quá trình đổi mới ở nước ta đã diễn ra bắt đầu từ những năm 1960- 1980 của thế kỷ XX, với khẩu hiệu “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Cho đến nay, vấn đề đổi mới phương pháp dạy - học càng trở nên bức thiết. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta đã ra chỉ thị đổi mới chương trình [CT] và sách giáo khoa [SGK]. Đối với môn Ngữ văn, việc đổi mới đã đem đến một hiệu quả không nhỏ trong quá trình dạy- học Ngữ văn từ cấp THCS đến THPT. Sự hợp nhất cả ba phần Văn - Tiếng Việt – Làm văn trong một cuốn sách Ngữ văn đã thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa các phần này. Lần đầu tiên phần Làm văn đã tìm được chỗ đứng cho mình. Mục đích cuối cùng của việc học môn Ngữ văn, và đặc biệt là phần Làm văn ở trường phổ thông là giúp học sinh có thể tạo lập được những văn bản hay, có tính sáng tạo. Để đạt được mục đích này, việc cung cấp cho học sinh hệ thống tri thức về văn bản là cần thiết. Tuy nhiên, muốn học sinh độc lập tạo ra được văn bản có tính sáng tạo thì việc cung cấp tri thức là chưa đủ, mà điều quan trọng là phải hình thành và củng cố cho các em các kĩ năng, các thao tác tạo lập văn bản. Văn nghị luận đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Học sinh được làm quen với văn nghị luận ở cấp THCS, lên đến THPT, văn nghị luận là một kiểu bài trọng tâm và chiếm phần lớn thời lượng chương trình Làm văn. Đây là một kiểu bài rất khó, đòi hỏi học sinh phải có óc tư duy lôgic. Bởi đặc trưng của văn nghị luận là phải lập luận để làm sáng tỏ 1 một vấn đề nào đấy. Nếu không có lập luận, thì vấn đề đó sẽ trở nên thiếu tính thuyết phục, khiến người đọc không tin vào những điều mà người nói muốn dẫn dắt người đọc hướng tới. Như vậy, sẽ không đạt được đích của giao tiếp. Cho nên, đã là văn nghị luận là phải lập luận và lập luận phải chặt chẽ, sáng rõ. Đặc điểm của lập luận là người viết sử dụng ngôn ngữ để nêu vấn đề, trình bày lí lẽ và qua đó đánh giá sự đúng – sai, đưa ra các phán đoán, nêu ra kiến giải, phát biểu ý kiến, thể hiện rõ lập trường, quan điểm của bản thân.Việc trình bày lí lẽ được người viết thể hiện thông qua các phương thức tư duy lôgic như khái niệm, phán đoán, suy lí và hệ thống các dẫn chứng nhằm đạt được mục đích khiến người đọc tin theo. Bởi vậy, lập luận được sử dụng rất nhiều trong các văn bản, nhằm để thuyết phục người đọc. Lập luận là đặc trưng cơ bản của văn bản nghị luận. Lập luận như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong bài văn nghị luận ở trường phổ thông. Dạy văn nghị luận cho học sinh chính là dạy cho các em các thao tác lập luận.Việc sử dụng tốt các thao tác lập luận sẽ giúp học sinh tạo lập được những văn bản nghị luận hay, đầy tính sáng tạo. Đây cũng chính là mục đích cuối cùng của việc dạy các thao tác lập luận cho học sinh. Qua đó chúng ta có thể đánh giá được năng lực hoàn thành từng thao tác lập luận cụ thể trong quá trình tạo lập văn bản của học sinh. Chính vì vậy mà sách giáo khoa [SGK] Ngữ Văn từ THCS đến THPT đã đưa các thao tác lập luận thành từng nội dung cụ thể [Ở SGK Làm văn trước đây các thao tác này không được học một cách rõ ràng, cụ thể], nhằm giúp học sinh có cái nhìn rõ hơn, hiểu sâu hơn bản chất bản chất của từng thao tác lập luận, và từ đó biết cách kết hợp các thao tác lập luận đó vào quá trình tạo lập văn bản. Trong phần Làm văn cấp THCS, SGK Ngữ văn đã cung cấp cho học sinh hai thao tác lập luận là: Thao tác lập luận chứng minh và thao tác lập luận giải thích. Đến cấp THPT, SGK Ngữ văn 11, phần Làm văn giới thiệu tiếp bốn thao tác lập luận nữa là: Thao tác lập luận phân tích; Thao tác lập luận so sánh; Thao tác lập luận bác bỏ; Thao tác lập luận bình luận. Bốn thao 2 tác này là bốn nội dung trọng tâm trong phần Làm văn của sách Ngữ văn 11. Theo trình tự sắp xếp trong SGK Ngữ văn 11 thì thao tác lập luận phân tích được học trước tiên. Đây cũng chính là dụng ý của những người biên soạn CT và SGK. Bởi thao tác lập luận phân tích là thao tác quan trọng nhất, nó là thao tác cơ bản và luôn luôn hiện diện trong tất cả các thao tác còn lại. Dường như thao tác này xuyên suốt trong cả quá trình học Văn - Tiếng Việt – Làm văn. Hơn nữa, thao tác lập luận phân tích là một nội dung mới lần đầu tiên được đưa vào dạy ở trường phổ thông theo tinh thần đổi mới, hiện đại nên rất khó đối với giáo viên. Bên cạnh đó lại chưa có một công trình nào, chuyên đề nào nghiên cứu về cách dạy học thao tác lập luận phân tích theo hướng tích hợp và tích cực, cho nên chúng tôi đã mạnh dạn đi nghiên cứu vấn đề này với mong muốn phần nào giúp cho người giáo viên bớt đi những khó khăn, lúng túng khi dạy bài “Thao tác lập luận phân tích” trong SGK Ngữ văn 11. Chúng tôi cũng có một tham vọng là khi tìm được ra cách thức dạy thao tác này thì lấy đó làm cơ sở ban đầu để áp dụng vào dạy ba thao tác còn lại. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Dạy học thao tác lập luận phân tích cho học sinh lớp 11 theo hướng tích hợp và tích cực”. 2. Lịch sử vấn đề Thao tác lập luận phân tích là một thao tác của hoạt động tư duy nhằm giúp con người nhận thức hiện thực, tìm ra chân lí, và cũng là để trình bày nhận thức của con người về hiện thực đó. Thao tác lập luận phân tích bao giờ cũng gắn liền với thao tác tổng hợp. Chúng như hai mặt của một tờ giấy. 1. Theo cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của Hoàng Phê [chủ biên] đã đưa ra một định nghĩa về phân tích như sau: “Phân chia, thật sự hay bằng tưởng tượng, một đối tượng nhận thức ra thành các yếu tố, trái với tổng hợp”. Trong cuốn “Lôgic học đại cương” của tác giả Vương Tất Đạt cũng đưa ra một khái niệm về phân tích như sau: Phân tích là sự phân chia trong tư tưởng 3 đối tượng nào đó thành các bộ phận hợp thành nó”. Có thể tách ra các dấu hiệu để nghiên cứu riêng rẽ từng dấu hiệu. Như vậy định nghĩa của từ điển Tiếng Việt với khái niệm của lôgic học đều có quan điểm chung về phân tích là: sự phân chia đối tượng thành các yếu tố, bộ phận. Và từ lâu, loài người đã nhận ra rằng bất cứ một đối tượng nào cũng đều do nhiều bộ phận hợp thành. Mỗi bộ phận lại có nhiều tính chất riêng, đặc trưng riêng để phân biệt nó với các bộ phận khác. Bởi vậy, để hiểu biết sâu hơn bản chất của đối tượng, ta cần phải biết rõ ràng, cụ thể về từng bộ phận hợp thành ấy. Để đạt được điều đó chúng ta phải tiến hành phân tích. Theo hai tác giả S.N Vinơgrađôp và A.F Kuzơmin trong tác phẩm “Lôgic học” của mình cũng đã nhận ra một điều là loài người từ mấy nghìn năm trước đã chú ý thấy rằng, bất cứ đối tượng nào cũng có nhiều bộ phận cấu thành, mỗi bộ phận đều có đặc trưng riêng của nó và con người đã hình thành cho mình năng lực có thể phân tích đối tượng thành những bộ phận được hợp thành trong tư duy. Từ đó hai tác giả này cho rằng: “Phân tích là phương pháp lôgic mà chúng ta dùng trong tư duy để phân chia đối tượng và hiện tượng, vạch rõ các bộ phận và tính chất của chúng”. Bất cứ một đối tượng nào dù đơn giản hay phức tạp, nếu chúng ta không phân tích nó, thì cũng không thể nào nghiên cứu được nó. Và phân tích cũng không thể tách rời tổng hợp, bởi tổng hợp là phương pháp mà chúng ta sử dụng trong tư duy để tổng hợp các bộ phận của đối tượng, hiện tượng đã được phân giải khi phân tích thành một chỉnh thể. Với tác giả Đ.P Gorki trong cuốn “Lôgic học” của mình, tuy không trực tiếp bàn về phân tích nhưng tác giả đã bàn đến vấn đề phân chia khái niệm [khái niệm ở đây được hiểu là khái niệm về một đối tượng]. Tác giả cho rằng: “điều quan trọng khi phân chia khái niệm là tìm ra dấu hiệu để có thể đứng trên quan điểm đó chia ngoại diên của khái niệm cần phân chia thành những bộ phận lấp đầy ngoại diên của nó”. Chẳng hạn khi ta chia ngoại diên của khái niệm “cây thân gỗ” theo dấu hiệu cấu tạo của lá cây thân 4 gỗ. Cũng có thể chia chính ngoại diên của khái niệm đó theo dấu hiệu độ dài của thân [những cây cao và những cây thấp], theo dấu hiệu sinh trưởng của chúng ở một vùng địa lí nào đó, theo những dấu hiệu nói lên chúng thuộc về các loài, các ho, các giống thực vật khác nhau…Hoặc có thể phân chia các thành viên của một tập thể [chẳng hạn các học sinh của một trường hay một lớp] theo dấu hiệu lứa tuổi, theo dấu hiệu thành phần, dân tộc… Khái niệm có ngoại diên bị phân chia được gọi là khái niệm bị phân chia. Những lớp mà ta thu được sau khi phân chia ngoại diên xuất phát được gọi là các thành phần phân chia. Dấu hiệu mà ta dựa trên đó để phân chia một khái niệm thành những lớp tương ứng được gọi là cơ sở của sự phân chia. Chúng ta cũng thấy rằng, những lớp thu được sau khi phân chia lại có thể được phân chia thành những lớp con. Chẳng hạn, đầu tiên có thể phân chia các số thành những số thực và những số ảo. Rồi các con số thực lại có thể phân chia thành những số hữu tỷ và những số vô tỷ, các số hữu tỷ có thể phân chia thành những số nguyên và những số phân… hình thức phân chia như vậy được gọi là sự phân chia liên tiếp. Như vậy, sự phân chia theo tác giả là thao tác lôgic dùng để phát hiện ra các loài nằm trong ngoại diên của khái niệm. Quan niệm của tác giả mang tính khái quát và trừu tượng, nhưng từ đó chúng ta có thể hiểu rằng muốn nhận thức một đối tượng thì cần phải phân chia đối tượng đó ra và khi phân chia phải có cơ sở, có nguyên tắc chứ không phải là sự phân chia một cách bừa bãi. 2. Phân tích có mặt trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Phân tích cũng đã được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông như một thao tác chủ đạo. Tất cả các bộ môn, từ khoa học tự nhiên [toán, lí, hoá…] đến khoa học xã hội [văn, sử, địa…] đều sử dụng đến thao tác phân tích. Đặc biệt trong môn Ngữ văn, phân tích là một thao tác cơ bản để cảm thụ tác phẩm văn học, phân tích ngôn ngữ và tạo lập văn bản. 5 Trong Làm văn, khi bàn về thao tác lập luận phân tích, tác giả Nguyễn Quang Ninh [chủ biên], Nguyễn Thị Ban - Trần Hữu Phong trong cuốn “Luyện cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh phổ thông” của mình đã đưa ra nhận định: Phân tích là sự phân chia đối tượng thành nhiều bộ phận nhỏ, nhiều khía cạnh nhỏ để lần lượt khảo sát, xem xét. Các tác giả cũng khẳng định rằng việc phân chia đối tượng không thể tùy tiện mà phải tuân theo một nguyên tắc: phân chia phải phản ánh đúng nhất tổ chức của đối tượng; phải đáp ứng tốt nhất cho mục đích của lập luận; phải phân chia theo cùng một tiêu chí; phải phân chia theo nguyên tắc cấp bậc. Ở đây, tác giả không chỉ đưa ra quan niệm về phân tích mà còn đưa ra nguyên tắc phân tích, từ đó ta có định hướng cho việc phân tích làm sao vẫn đảm bảo được tính thống nhất, tính tổng thể của đối tượng. Cùng quan điểm với các tác giả Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Thị Ban và Trần Hữu Phong, tác giả Nguyễn Quốc Siêu cũng khẳng định rằng nói tới phân tích là phải nói đến tổng hợp. Bởi vì trong phân tích có tổng hợp, trong tổng hợp có phân tích. Phân tích và tổng hợp xuyên suốt cả quá trình tư duy. Theo tác giả thì phân tích chính là phân chia, tách rời một sự vật, hoặc vấn đề tương đối phức tạp, to lớn để nhận thức, mổ xẻ ra để quan sát, từ đó mà khiến lớn hóa nhỏ, khó thành dễ, mờ ám thành sáng rõ, làm cho cái ẩn dấu hiện ra, để tiện cho việc nắm vững sự vật, nắm vững vấn đề. Như vậy là tác giả đã diễn giải một cách tường minh bản chất của phân tích. Và để phân tích được thì phải có phương pháp. Tác giả đã đưa ra ba phương pháp phân tích: phân tích trong quá trình phát triển của sự vật; phân tích từ bản thân sự vật, hoặc mối liên hệ xung quanh nó; phân tích sự vật từ bề ngoài vào trong [nghĩa là phân chia từng lớp, quan sát từng lớp để dần dần nhận thức sự vật hoặc vấn đề từ ngoài vào trong, từ bề mặt vào trung tâm nhằm cuối cùng phát hiện bản chất của nó]. Trong giáo trình “Làm văn” của hai tác giả Đình Cao – Lê A cho rằng phân tích nghĩa là đi tìm hiểu các mặt nội dung bao hàm trong một ý kiến, 6 một nhận định, một luận điểm nào đó, đồng thời chỉ ra mục đích chính xác và giá trị đạt được của chúng. Các tác giả cũng khẳng định rằng phân tích phải gắn liền với tổng hợp. Phân tích và tổng hợp là hai quá trình luôn luôn gắn chặt với nhau, hỗ trợ cho nhau trong việc nhận thức đối tượng. Có phân tích phải có khái quát, tổng hợp thì đối tượng được phân tích mới có ý nghĩa. Phân tích chính là một thao tác lập luận, một thao tác của tư duy. Vậy mà trước đây, khi nghiên cứu về thao tác lập luận phân tích, các tác giả đã đồng nhất thao tác này với kiểu bài nghị luận. Trong các SGK cũ vẫn coi phân tích như một kiểu bài trong văn nghị luận. Hai tác giả Trần Thanh Đạm, Lương Duy Cán trong SGK Làm văn 10 [sách chỉnh lí năm 2000] đã dựa vào các thao tác nghị luận chủ yếu được sử dụng để chia văn nghị luận thành các kiểu bài: Phân tích, chứng minh, bình luận…Những bài mà phối hợp nhiều thao tác nghị luận được coi là kiểu bài hỗn hợp. Căn cứ vào nội dung nghị luận, phân tích văn học còn được chia ra thành phân tích một tình tiết nghệ thuật, phân tích nhân vật, phân tích một đoạn văn, đoạn thơ, phân tích một tác phẩm hoàn chỉnh, phân tích một giai đoạn văn học, một trào lưu văn học… Cùng quan điểm với tác giả Trần thanh Đạm, Lương Duy Cán, các tác giả Phan Trọng Luận, Nguyễn Xuân Nam, Lê A trong SGK Làm văn 11 [NXB GD, 1992] và SGK Làm văn 11 [chỉnh lí năm 2000] cũng căn cứ vào đối tượng để chia ra thành các kiểu bài: phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự, phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình… Tuy nhiên, trong giáo trình “Làm văn” của hai tác giả Đình Cao – Lê A quan niệm phân tích là một dạng nghị luận – dùng thuật ngữ phân tích với tư cách là một phương pháp tư duy khoa học – có hàm nghĩa rộng, và phương pháp phân tích đều có mặt trong các phương pháp khác như chứng minh, giải thích, bình luận…Các tác giả đã dùng từ phân tích để phân biệt với các phương pháp nghị luận khác [Giải thích, bình luận…]. Các tác giả cũng khẳng định rằng: trên thực tế , không có một bài nghị luận nào chỉ hoàn 7 toàn sử dụng một trong những dạng thức chứng minh, giải thích, phân tích hay bình luận…mà phải sử dụng một cách tổng hợp các dạng thức đó. Tiếp đó, trong cuốn “Làm văn” của hai tác giả Lê A, Nguyễn Trí cũng nhấn mạnh một lần nữa quan điểm về phân tích: “Khi phân chia các kiểu bài văn nghị luận có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng trên thực tế, cơ sở lí thuyết để phân thành các kiểu bài đó là dựa trên các thao tác tư duy”[Tr 142]. Theo các tác giả, việc phân chia kiểu bài chỉ dựa vào các thao tác nghị luận chủ yếu là chưa thoả đáng. Sự phân chia như vậy giúp cho học sinh dễ nhận biết bản chất từng thao tác cụ thể, nhưng lại khiến cho các em có cách hiểu bó hẹp, khiên cưỡng khi làm văn nghị luận. Bởi trên thực tế không có một bài nghị luận nào chỉ đơn thuần sử dụng một thao tác lập luận mà nó là sự kết hợp nhiều thao tác lập luận. Vậy nếu đánh đồng thao tác lập luận phân tích với kiểu bài phân tích sẽ dẫn đến cách hiểu hạn hẹp về đối tượng này, như thế sẽ không phát huy được năng lực phân tích của học sinh trong quá trình làm văn nghị luận. Ta phải thấy rằng thao tác lập luận này có mặt trong quá trình viết mọi bài văn nghị luận và luôn luôn kết hợp chặt chẽ với các thao tác khác. Cho nên không nên đồng nhất thao tác lập luận phân tích với kiểu bài phân tích. Việc các tác giả đồng nhất xem phân tích như một kiểu bài là một quan niệm không còn phù hợp trong dạy học làm văn hiện nay. Vì nó đã trở nên xưa cũ và chỉ phù hợp với kiểu làm văn truyền thống. Hiện nay, phương pháp dạy học đã có sự thay đổi, chương trình và SGK cũng được đổi mới cho phù hợp. Kiểu dạy học làm văn truyền thống không còn, mà thay vào đó là dạy làm văn theo xu hướng tích hợp và tích cực. Các tác giả biên soạn SGK Ngữ văn phần Làm văn đã tách các thao tác lập luận thành từng bài riêng với mục đích giúp học sinh nắm bắt bản chất của từng thao tác lập luận, từ đó có cách hiểu rộng hơn, sâu hơn về mỗi thao tác và đồng thời giúp các em biết cách vận dụng các thao tác này vào quá trình viết bài văn nghị luận. Trong SGK Ngữ văn 11, tác giả Lê A [chủ biên phần Làm văn bộ sách cơ bản], Đỗ Ngọc Thống [chủ biên phần Làm văn bộ 8 sách nâng cao] đã thống nhất quan điểm: không dựa vào các thao tác lập luận để chia nhỏ văn nghị luận ra thành nhiều loại: Chứng minh, phân tích, bình giảng, bình luận…mà khẳng định rằng một thao tác lập luận có thể được sử dụng ở nhiều kiểu bài nghị luận khác nhau. Đặc biệt là thao tác lập luận phân tích, không chỉ có mặt trong các kiểu bài, thậm chí nó còn có mặt trong tất cả các thao tác lập luận khác như chứng minh, giải thích, so sánh, bác bỏ, bình luận. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với thực tế viết văn, lại vừa tạo điều kiện để luyện tập cho học sinh biết cách sử dụng các thao tác lập luận trong suốt quá trình học văn nghị luận từ THCS đến THPT. 3. Cho đến nay, thao tác lập luận phân tích mới chỉ được đề cập mang tính định hướng chung trong các sách giáo viên [SGV] [bộ cơ bản và bộ nâng cao] và trong tài liệu bồi dưỡng giáo viên, lớp 11, môn Ngữ văn, còn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về thao tác này. Và cũng chưa có một công trình nghiên cứu nào đưa ra cách dạy học thao tác lập luận phân tích theo hướng tích hợp và tích cực. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ này, chúng tôi sẽ đi vào nghiên cứu thao tác lập luận phân tích theo hướng tích hợp và tích cực nhằm góp phần mở ra một hướng tiếp cận mới trong quá trình dạy các thao tác lập luận, mà cụ thể là dạy bài “Thao tác lập luận phân tích” trong SGK Ngữ văn 11. 3. Mục đích - Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dạy học thao tác lập luận phân tích nhằm hệ thống hoá những cơ sở lí thuyết và thực tiễn của thao tác lập luận, góp phần vào tạo lập văn bản nghị luận, qua đó vận dụng vào quá trình dạy học làm văn nghị luận ở trường phổ thông. Đây là cơ sở để người dạy có thể hiểu rõ hơn các kiến thức cần dạy và người học có điều kiện để hiểu rõ hơn những công việc cần phải tiến hành, những cách thức sử dựng thao tác lập luận phân tích trong quá trình tạo lập văn bản nghị luận. Việc tổ chức dạy học thao tác lập luận phân tích có hiệu quả sẽ nâng cao được kết quả dạy học văn nghị luận nói riêng, và dạy học Làm văn nói chung được thuận lợi. 9 Việc nghiên cứu đề tài: “Dạy học thao tác lập luận phân tích cho học sinh lớp 11 theo hướng tích hợp và tích cực” nhằm giải quyết những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu, xác định cơ sở lí thuyết và thực tiễn cho thao tác lập luận phân tích. Xác định rõ vị trí, vai trò, tác dụng và cách thức thực hiện thao tác đó trong quá trình tạo lập văn bản. - Đề xuất nội dung, cách thức tổ chức dạy học thao tác lập luận phân tích ở lớp 11. - Tổ chức thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của những đề xuất trong luận văn đã đề ra. 4. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ đã đề ra ở trên chúng tôi chọn nghiên cứu dạy thao tác lập luận phân tích cho học sinh lớp 11 theo hướng tích hợp và tích cực. Phạm vi tập trung ở những bài liên quan đến thao tác lập luận phân tích. Chủ yếu nhằm vào chương trình SGK chuẩn và kết hợp với sách nâng cao. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng sách giáo viên, các tài liệu tham khảo liên quan đến chuyên ngành phương pháp, các sách tài liệu về văn nghị luận, về tâm lí giáo dục, về lôgic học… nhằm phục vụ hiệu quả cho việc thực hiện thành công đề tài này. 5. Các phương pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: *Phương pháp phân tích Đây là phương pháp nền móng trong quá trình thực hiện đề tài. Với dề tài này, chúng tôi thu thập thông tin trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có để rút ra những kết luận khoa học cần thiết. 10 [...]... những thao tác nhất định, những thao tác đó được gọi là thao tác lập luận Vậy thao tác lập luận là thao tác được sử dụng để thực hiện một hành động lập luận Trong lí thuyết Làm văn người ta đưa ra một số những thao tác lập luận cụ thể như: thao tác lập luận chứng minh; thao tác lập luận giải thích; thao tác lập luận phân tích; thao tác lập luận so sánh; thao tác lập luận bác bỏ; thao tác lập luận bình luận. .. 1, triển khai nội dung dạy học về thao tác lập luận phân tích trong SGK Ngữ văn11 Qua đó chúng tôi xây dựng quy trình dạy học thao tác này Chương 3: sau khi trình bày những vấn đề cơ bản của việc tổ chức dạy học về thao tác lập luận phân tích, chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm bài Thao tác lập luận phân tích và bài “Luyện tập thao tác lập luận phân tích trong SGK Ngữ văn 11 Thông qua việc tổ chức... đề xuất cho việc dạy thao tác lập luận phân tích ở SGK Ngữ văn 11 12 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 PHÂN TÍCH VÀ THAO TÁC LẬP LUẬN PHÂN TÍCH TRONG VĂN NGHỊ LUẬN 1 Phân tích với tư cách là một thao tác của tư duy 1.1 Quan niệm phân tích trong lôgic học Khi nghiên cứu về phân tích, lôgic học đã cho rằng: để nghiên cứu đối tượng nào đó, xây dựng khái niệm khoa học về nó, thì trước tiên cần phải phân tích, tức... vấn đề 2.3 Thao tác lập luận phân tích Trong văn nghị luận, thao tác lập luận phân tích có quan hệ với thao tác lập luận lôgic Vì vậy, thao tác lập luận phân tích chính là một thao tác tư duy lôgic Một mặt nó dùng để nhận thức hiện thực, mặt khác nó lại được dùng để trình bày nhận thức của chúng ta về hiện thực Nhưng xét ở góc độ tư duy lôgic ta thấy thao tác lập luận phân tích và tổng hợp chủ yếu... là không còn phù hợp nữa Mà người ta nhận thấy quá trình tạo lập một văn bản nghị luận là quá trình vận dụng tổng hợp các thao tác lập luận Thao tác lập luận phân tích chỉ là một trong số những thao tác được sử dụng trong quá trình tạo lập văn bản nghị luận mà thôi 2.5 Nội dung của thao tác lập luận phân tích Như ở trên chúng tôi đã đề cập, thao tác lập luận phân tích có đối tượng và phạm vi rất rộng... phẩm… Thao tác lập luận phân tích không chỉ là thao tác chính trong kiểu bài phân tích, mà trong các kiểu bài chứng minh, giải thích, bình luận thao tác phân tích vẫn có mặt Ở kiểu bài chứng minh, thao tác phân tích được dùng để phân tích dẫn chứng nhằm làm sáng tỏ hơn cho vấn đề Ở kiểu bài giải thích, bình luận thao tác này góp phần phân tích, mổ xẻ vấn đề cần bình luận hay giải thích Cách gọi theo. .. Phần nội dung của luận văn được triển khai trong ba chương, trong đó mỗi chương được chúng tôi trình bày các phương diện khác nhau của đề tài Cụ thể: Chương 1: tập trung trình bày hệ thống cơ sở lý luận về phân tích và thao tác lập luận phân tích trong văn nghị luận và những vấn đề cơ bản nhất của thao tác lập luận phân tích Chương 2: căn cứ vào cơ sở lý luận về thao tác lập luận phân tích đã được triển... hợt và thiếu tính khoa học 33 2.4 Vị trí, vai trò của thao tác lập luận phân tích trong quá trình làm văn nghị luận Như đã nói ở trên, thao tác lập luận phân tích không bao giờ đứng độc lập, tách biệt trong quá trình tạo lập văn bản mà nó có sự kết hợp với các thao tác khác như: chứng minh, giải thích, so sánh, bác bỏ, bình luận Lập luận phân tích như một sợi chỉ xuyên suốt trong quá trình tạo lập. .. và giá trị đạt được của chúng Nói tóm lại, phân tích là một thao tác vô cùng quan trọng, cần thiết cho tất cả các ngành khoa học Tổng hợp là một thao tác trí tuệ kết hợp các bộ phận thuộc tính và mối quan hệ của đối tượng thành một tổng thể, giúp ta nhận thức đối tượng một cách bao quát hơn Nếu phân tích là tách nhỏ các mặt nội dung để tìm hiểu thì tổng hợp là thao tác ngược lại với thao tác phân tích. .. và căn cứ vào những tri thức về thao tác lập luận phân tích trong chương trình Ngữ văn THPT - Tổ chức dạy học ở trường THPT - Thông qua quá trình dạy học, đánh giá nhận thức của học sinh, từ đó đưa ra một số đề xuất về việc giảng dạy các thao tác lập luận trong sách Ngữ văn 11 Đồng thời khẳng định mức độ thành công của đề tài 6 Bố cục của luận văn Để triển khai nội dung nghiên cứu, chúng tôi chia luận . văn 11, phần Làm văn giới thiệu tiếp bốn thao tác lập luận nữa là: Thao tác lập luận phân tích; Thao tác lập luận so sánh; Thao tác lập luận bác bỏ; Thao tác lập luận bình luận. Bốn thao 2 tác. lý luận về phân tích và thao tác lập luận phân tích trong văn nghị luận và những vấn đề cơ bản nhất của thao tác lập luận phân tích. Chương 2: căn cứ vào cơ sở lý luận về thao tác lập luận phân. lập luận phân tích theo hướng tích hợp và tích cực. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ này, chúng tôi sẽ đi vào nghiên cứu thao tác lập luận phân tích theo hướng tích hợp và tích cực nhằm

- Xem thêm -

Xem thêm: dạy học thao tác lập luận phân tích cho học sinh lớp 11 theo hướng tích hợp và tích cực, dạy học thao tác lập luận phân tích cho học sinh lớp 11 theo hướng tích hợp và tích cực,

Chủ Đề