Mục tiêu của địch trong mùa khô năm 1965 đến Nam 1966 là gì

Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Vậy Chiến lược chiến tranh cục bộ là loại hình chiến tranh gì?

Chúng tôi sẽ giúp quý bạn đọc giải đáp vấn đề này thông qua bài viết dưới đây:

Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, Mỹ phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.

Chiến lược chiến tranh cục bộ là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng quân Mỹ, đồng minh và quân đội Sài Gòn với phương tiện chiến tranh hiện đại. Chiến lược chiến tranh cục bộ có âm mưu và thủ đoạn như sau:

+ Thủ đoạn:

Mỹ nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực có thể áp đảo quân chủ lực ta bằng chiến lược: “tìm diệt”, giành thế chủ động trên chiến trường, đẩy ta về phòng ngự, buộc ta phải phân tán nhỏ…làm cho chiến tranh tàn lụi dần.

Với ưu thế về quân sự, Mỹ cho mở cuộc hành quân “tìm, diệt”vào Vạn Tường và 2 cuộc phản công 2 mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 nhằm “tìm diệt”và “bình định”vào vùng căn cứ kháng chiến.

+ Âm mưu:

Nhằm nhanh chóng tạo ưu thế về quân sự, giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy lùi lực lượng cách mạng của ta về phía phòng ngự, buộc ta phải phân tán nhỏ, hoặc lui về biên giới, làm cho chiến tranh tàn lụi dần.

Nhân dân ta chiến đấu chống chiến lược chiến tranh cục bộ như thế nào?

Nhân dân ta chiến đấu chống chiến lược chiến tranh cục bộ bằng sức mạnh của cả dân tộc, của tiền tuyến và hậu phương, với ý chí quyết chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, mở đầu là các thắng lợi ở Núi Thành [Quảng Nam], Vạn Tường [Quảng Ngãi].

– Trận Vạn Tường:

+ Ngày 18/08/1965: Mỹ huy động 9000 quân với nhiều xe tăng, xe bộc thép, máy bay, …tấn công Vạn Tường.

+ Kết quả: Sau 1 ngày chiến đấu, ta loại khỏi vòng chiến 900 địch, nhiều xe tăng, nhiều máy bay, …

+ Ý nghĩa: Vạn Tường được coi là “Ấp Bắc” đối với Mỹ, mở đầu cho cao trào “tìm Mỹ đánh, tìm ngụy diệt” trên khắp miền Nam.

– Cuộc tấn công 2 mùa khô

+ Mùa khô thứ nhất: 1965 – 1966:  

Mỹ huy động 72 vạn quân [22 vạn Mỹ và đồng minh], mở 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm diệt” lớn, nhắm vào hai hướng chiến lược chính: Liên khu V và Đông Nam Bộ với mục tiêu đánh bại quân chủ lực giải phóng.

Ta tấn công khắp nơi, giành nhiều thắng lợi, loại khỏi vòng chiến 104.000 địch [có 45.500 Mỹ và đồng minh], bắn rơi 1430 máy bay.

+ Mùa khô thứ hai: 1966 – 1967

Mỹ huy động 98 vạn quân [44 vạn Mỹ và đồng minh], mở 895 cuộc hành quân, có 3 cuộc hành quân “bình định” và “tìm diệt” lớn, lớn nhất là Gian-xơn Xi-ti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu [Bắc Tây Ninh] nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta.

Ta tấn công khắp nơi, đập tan cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” của Mỹ, loại khỏi vòng chiến 151.000 địch [73.500 Mỹ và đồng minh], bắn rơi 1231 máy bay.

So sánh chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ

– Sự giống nhau:

+ Đều là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

+ Đều chung mục tiêu là chống phá cách mạng miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.

+ Đều có sự tham gia và chi phối của tiền của, vũ khí và cố vấn quân sự Mỹ.

+ Đều bị thất bại.

– Sự khác nhau:

+ Lực lượng

Chiến tranh cục bộ: Quân Mỹ, quân một số nước đồng minh và quân đội Sài Gòn.

Chiến tranh đặc biệt: Lực lượng chủ lực là quân đội Sài Gòn, có sự hỗ trợ của cố vấn quân sự Mỹ.

+ Phạm vi thực hiện

Chiến tranh cục bộ: Toàn Việt Nam

Chiến tranh đặc biệt: Miền Nam.

+ Âm mưu:

Chiến tranh đặc biệt: âm mưu cơ bản của chiến lược chiến tranh đặc biệt là “dùng người Việt đanh người Việt”

Chiến tranh cục bộ: Nhằm nhanh chóng tạo ưu thế về quân sự, giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy lùi lực lượng cách mạng tiến tới tiêu diệt.

+ Thủ đoạn:

Chiến tranh đặc biệt: Mỹ đề ra kế hoạch Staley – Taylor, bình định miền Nam trong 18 tháng. Tăng viện trợ quân sự cho Diệm, tăng cường cố vấn Mỹ và lực lượng quân đội Sài Gòn; Tiến hành dồn dân lập “Ấp chiến lược”, trang bị hiện đại, sử dụng phổ biến các chiến thuật mới như “trực thăng vận” và “thiết xa vận”. “Ấp chiến lược” được Mĩ và Ngụy coi như “xương sống” của “chiến tranh đặc biệt”, Thành lập Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam [MACV]; Mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành nhiều hoạt động phá hoại miền Bắc, phong tỏa biên giới, vùng biển nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam

Chiến tranh cục bộ: Ồ ạt đổ quân viễn chinh Mỹ, quân thân Mĩ và phương tiện chiến tranh hiện đại vào Việt Nam; Tiến hành 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô [1965 – 1966 và 1966 – 1967] bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào “Đất thánh Việt cộng”; Kết hợp với chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiêu hủy tiềm lực kinh tế – quốc phòng miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc, từ Bắc vào Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.

Trên đây là nội dung bài viết về Chiến lược chiến tranh cục bộ là loại hình chiến tranh gì? Chúng tôi hi vọng rằng những chia sẻ từ bài viết sẽ hữu ích và giúp quý bạn đọc hiểu rõ được nội dung này.

40 năm đã trôi qua, sự kiện lịch sử Tết Mậu Thân 1968 vẫn còn những nhận xét, đánh giá khác biệt trong giới sử học, mà một trong những điều nổi lên là đi sâu tìm hiểu kỹ hơn nữa quá trình hình thành ý đồ chiến lược và mục đích đích thực của cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam trong việc mở cuộc tiến công lịch sử này - cuộc tiến công táo bạo nhất: đồng loạt đánh vào toàn bộ các đô thị trên toàn miền nam!

Căn cứ các nguồn tư liệu hiện có liên quan tới quá trình hoạch định cuộc tổng tiến công, trong đó có những tư liệu mới xuất hiện, bài viết này hy vọng góp phần làm rõ thêm ý đồ chiến lược của đòn tiến công Tết Mậu Thân 1968.

Quá trình hình thành chủ trương chiến lược Tết Mậu Thân 1968

Sau khi đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 của quân Mỹ trên chiến trường, làm thất bại một bước quan trọng chương trình "bình định" của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, từ những tháng đầu của năm 1967, trên cơ sở phân tích tình hình mọi mặt có liên quan và theo dõi sát diễn biến thực tế chiến trường, Quân ủy T.Ư nhận thấy một tình thế mới có lợi cho ta, bất lợi cho địch đã xuất hiện. Kế hoạch chiến lược Ðông Xuân 1967 - 1968 lập tức được khởi thảo nhằm mục đích tận dụng thời cơ đó để đưa sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ tiếp tục phát triển.

Tháng 5-1967, cuộc họp của Bộ Chính trị, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá tình hình, xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Ðông Xuân 1967 - 1968.

Tháng 6-1967, trên cơ sở nhận định những thắng lợi của quân và dân ta ở cả hai miền là to lớn, toàn diện, làm thất bại một bước rất cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ", đẩy Mỹ vào thế lúng túng, bị động cả về chiến lược lẫn chiến dịch, Hội nghị Bộ Chính trị chủ trương: "Trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn"[1]. Nhưng tương đối ngắn là bao lâu? Chưa ai có thể hình dung được. Rõ ràng là Bộ Chính trị đã thể hiện quyết tâm rất lớn trong chủ trương tổ chức các trận đánh tiêu diệt từ ba đến năm lữ đoàn Mỹ, ba đến năm sư đoàn quân đội Sài Gòn. Xét về mặt cách làm, thì việc "định mức" thắng lợi như vậy là việc vẫn thường thấy trước mỗi chiến dịch được mở ra trong các đợt tiến công quân sự trước đây; có khác chăng là ở chỗ đến thời điểm tháng 6-1967, những chiến thắng giòn giã vừa qua đã cho phép đưa ra "định mức" cao hơn.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết tháng 6-1967 của Hội nghị Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu đã cử cán bộ tới các chiến trường, các mặt trận chỉ đạo thí điểm cách đánh tiêu diệt gọn các đơn vị quân Mỹ. Ðây được xem như một cuộc diễn tập nhằm thăm dò khả năng quân ta trước một đối thủ mạnh, được "trang bị tận răng" như quân đội Mỹ. Thế nhưng, điểm lại hai năm đánh Mỹ, bộ đội ta đã diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch, trong đó có một số trận tiêu diệt gọn được những đơn vị cấp chiến thuật của chúng, nhất là với quân ngụy Sài Gòn. Song, nhìn chung, ngoài tiểu đoàn Mỹ bị tiêu diệt ở thung lũng Iađrăng tháng 11-1965, bộ đội ta chưa đánh tiêu diệt gọn được một đơn vị Mỹ nào khác, vì hỏa lực phi  pháo địch mạnh, sức cơ động của chúng nhanh, chỉ huy cấp chiến dịch của quân Mỹ thường không đi cùng với đơn vị trên địa bàn tác chiến. Do đó, vấn đề nâng mức đánh tiêu diệt từng đơn vị cấp chiến dịch, chiến lược khó có thể thực hiện được - nhất là đối với quân Mỹ.

Tháng 7-1967, trong khi Bộ Tổng tham mưu đã cử cán bộ tới các chiến trường, các mặt trận chỉ đạo thí điểm cách đánh tiêu diệt gọn các đơn vị quân Mỹ, thì tại Tổng hành dinh, Bộ Chính trị đã có nhiều cuộc họp với lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường, với các ngành, các cấp có liên quan để cùng tính toán, bàn bạc, cân nhắc, hoàn chỉnh dần từng bước chủ trương chiến lược đã đề ra tháng 6-1967. Nhờ đó, kế hoạch chiến lược lại tiếp tục được bổ sung.

Kết quả từ các cuộc họp tháng 7-1967 đã khiến Bộ Chính trị nhận rõ hơn nữa rằng, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6-1967 đã đặt ra khả năng, giao cho "Tổ kế hoạch" lựa chọn:

a] Nếu cứ mở các đợt hoạt động quân sự như trước, đánh theo cách đánh cũ thì khó tận dụng được thời cơ có lợi để tạo nên chuyển biến lớn trên chiến trường, cuộc chiến vẫn sẽ diễn ra trong thế nhùng nhằng, giằng co.

b] Nhưng mặt khác, trước đối thủ có hỏa lực mạnh và dồi dào, tính cơ động cao, khả năng tiếp ứng nhanh, lại chiếm uy thế áp đảo trên không, trên sông, trên biển như quân Mỹ thì phương án bao vây để tiêu diệt lớn đội quân này - như đã từng làm ở Ðiện Biên Phủ là không hiện thực.

Trong khi "Tổ kế hoạch" còn chưa tìm được giải pháp thì một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt trong Bộ Chính trị, Quân ủy T.Ư chủ trương: Ðột ngột chuyển hướng tiến công chiến lược của ta từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng vào sào huyệt địch ở đô thị trên toàn miền nam[2]. Ngay lập tức, kế hoạch chiến lược mà Bộ Tổng tham mưu đang triển khai được hình thành lại.

Tháng 10-1967, trong năm ngày, từ ngày 20 đến 24-10, Bộ Chính trị họp bàn cụ thể hơn về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968. Ðây là hội nghị rất quan trọng để quyết định kế hoạch tiến công táo bạo Tết Mậu Thân lịch sử. Trên cơ sở thảo luận rất kỹ dự thảo và các báo cáo trên đây, Bộ Chính trị nhận định: "Mỹ đang thất bại lớn, vì có tăng quân cũng không giải quyết được gì, mà tình hình càng bế tắc, càng bị cô lập thêm, mâu thuẫn càng sâu sắc". Tuy nhiên, "Mỹ còn rất ngoan cố... đang cố gắng tăng cường lực lượng để giữ cho tình hình không xấu đi"[3]. Chớp thời cơ này, Bộ Chính trị quyết định một phương thức tiến công, một cách đánh mới có hiệu lực cao: Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền nam. Toàn bộ ý định chiến lược này được giữ bí mật nghiêm ngặt: a] không đưa ra bàn bạc ở Trung ương; b] trong Bộ Tổng tham mưu, chỉ ai được phân công làm kế hoạch mới biết về chủ trương mới này.

Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, chính thức thông qua kế hoạch chiến lược năm 1968.

Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư Ðảng lần thứ 14 họp, đã thông qua Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 

Thực hiện quyết tâm chiến lược đó, Bộ  Chính trị chỉ rõ: Trên mặt trận ngoại giao, cần có phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp và "phải mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta"[4]. Phát biểu ý kiến trong Hội nghị, đồng chí Lê Duẩn lưu ý rằng, mặc dù Mỹ đang bị động, đang lâm vào thế khó khăn, "nhưng nó là kẻ mạnh... nên ta phải biết thắng nó". Muốn thế, chúng ta không thể đánh theo lối cũ, "mà phải chuyển qua một giai đoạn mới, tức là giai đoạn tổng công kích - tổng khởi nghĩa, có khả năng đè bẹp ý chí xâm lược của nó; làm cho nó tan rã thực sự, buộc nó phải đi đến ngồi với ta, thương lượng với ta"[5].

Như vậy, chủ trương mở cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 là nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương ngừng ném bom miền bắc, buộc phải đi đến ngồi với ta, thương lượng với ta chính là chủ trương "biết thắng Mỹ" vừa với sức ta, mở ra một giai đoạn mới vừa đánh vừa đàm, phù hợp với truyền thống quân sự Việt Nam.

Gần 20 năm sau, chúng ta bắt gặp những suy nghĩ như sự gợi ý phản biện cho công tác nghiên cứu khoa học về sự kiện lịch sử nổi tiếng này của đồng chí Lê Ðức Thọ, khi đồng chí nói chuyện tại Viện Lịch sử quân sự về nhiều vấn đề, nhằm gợi ý để các nhà nghiên cứu có thể viết cuốn sách Tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự. Về sự kiện Tết Mậu Thân, đồng chí viết: "Bây giờ tổng kết lại thì thấy: Ngày đó, nếu mục đích trong cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân mà chúng ta đề ra chỉ là đánh địch thiệt hại nặng, nhất là nhằm vào những vị trí ở trung tâm đầu não địch để chúng phải ngồi vào bàn đàm phán thì, ta có cần phải mở cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành chủ quyền như chúng ta đã đề ra để đến nỗi bị tiêu hao quá nhiều lực lượng như thế không?... Vì thế, sau này thảo luận về Tết Mậu Thân, có ý kiến cho rằng: Chỉ cần mở một trận tập kích chiến lược hoặc là một cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên cả ba vùng chiến lược, nhằm mục tiêu như đã đề ra thì cũng làm cho địch thiệt hại nặng nề và đủ buộc địch phải xuống thang  chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán"[6].

Mục tiêu chiến lược đòn tiến công Tết Mậu Thân 1968

Từ những gợi ý của đồng chí Lê Ðức Thọ, chúng ta nhìn lại một cách khái quát tình hình quân sự, chính trị ngoại giao của chúng ta từ năm 1965 đến 1968, qua đó, đi sâu tìm hiểu mục tiêu chiến lược của đòn tiến công Tết Mậu Thân - 1968.

Trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, những năm từ 1965 đến 1968, về mặt quân sự và ngoại giao, đã diễn ra như sau:

Về quân sự

a] Phía Mỹ, cả ba quân chủng lục quân, không quân, hải quân đã được huy động tối đa vào cuộc chiến hòng nhanh chóng khuất phục ý chí kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Những tháng năm ấy, ở miền nam, Mỹ có trong tay hơn một triệu quân [gồm quân Mỹ, quân một số nước đồng minh của Mỹ và quân đội Sài Gòn], đã liên tiếp tung ra hai cuộc phản công chiến lược [mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967], đánh ra các hướng chiến trường, đánh sâu vào hệ thống căn cứ địa kháng chiến của cách mạng miền nam. Trên miền bắc, không quân và hải quân Mỹ gia tăng hoạt động cả về quy mô và cường độ, đánh phá dữ dội toàn bộ hệ thống mục tiêu quân sự và dân sự.

b] Phía Việt Nam, trong khói lửa chiến tranh, quân và dân trên cả hai miền vẫn bền gan chiến đấu, giữ vững chiến lược tiến công, làm thất bại một bước quan trọng các mục tiêu chiến lược trong cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ, khiến cho Mỹ không thể dễ dàng đạt được mục tiêu chiến lược đề ra ban đầu là giành thắng lợi trong khoảng thời gian ngắn.

Về ngoại giao

Trong những năm này, cả hai phía Mỹ và Việt Nam đều chú trọng đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao. Các hoạt động này được mỗi bên tính toán kỹ lưỡng, nhằm những mục tiêu xác định, gắn chặt với nhịp độ chiến tranh và đều chịu sự tác động của sức ép quốc tế và trong nước.

a] Phía Mỹ: Một tài liệu lịch sử từ phía Mỹ cho biết, "các quan chức Mỹ về sau tổng kết lại là từ năm 1965 đến năm 1967, đã có tới 2.000 nỗ lực nhằm bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình. Không bên nào tỏ ra thờ ơ với những nỗ lực như vậy, nhưng cũng không bên nào muốn có những nhượng bộ cần thiết để biến các cuộc đàm phán thành hiện thực"[7].

b] Phía Việt Nam: Nếu chính quyền Mỹ chịu sức ép ngày càng tăng ở trong nước và trên thế giới, đã nhiều lần toan mở đường đi vào thương lượng thì Việt Nam cũng đang trong hoàn cảnh phức tạp, phải tính toán sao cho vừa giữ được độc lập chủ quyền, vừa tranh thủ được tối đa sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Trong khi đó:

- "Do đánh giá cao sức mạnh của Mỹ, Liên Xô tìm mọi cách hướng Việt Nam đi vào thương lượng với Mỹ khi điều kiện chưa chín muồi"[8]. Từ  năm 1965 đến 1968, Liên Xô đã 24 lần truyền đạt ý kiến của Mỹ cho phía Việt Nam về đàm phán.

- Còn Trung Quốc, bằng suy nghĩ, kinh nghiệm của riêng mình, lại muốn thuyết phục Việt Nam kiên trì đường lối trường kỳ đánh Mỹ...

Vì thế, một mặt chúng ta vẫn ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc, nhưng mặt khác, chúng ta vẫn phải kiên quyết giữ vững đường lối độc lập, tự chủ. Do vậy, từ cuối năm 1966, đầu 1967, Ban Chấp hành T.Ư Ðảng ta đã chủ trương tạo điều kiện mở ra cục diện vừa đánh vừa đàm, nghĩa là không ngả theo gợi ý cụ thể của cả Liên Xô và Trung Quốc. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 [tháng 1-1967], Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trình bày Ðề cương báo cáo về công tác đấu tranh ngoại giao, trong đó chỉ rõ: "Ðể đánh bại kẻ thù hết sức ngoan cố và xảo quyệt là đế quốc Mỹ xâm lược, ta phải giữ vững quyết tâm cao độ, nắm vững phương châm chiến lược, đồng thời phải biết cách đánh thắng địch, vận dụng sách lược khôn khéo, giành thắng lợi từng bước"[9].

Ðó là điều giải thích vì sao nếu như từ năm 1966 trở về trước, lập trường của phía Việt Nam là Mỹ phải rút quân ra khỏi miền nam, chấm dứt hoàn toàn mọi hành động chống phá miền bắc trước khi có bất cứ cuộc nói chuyện nào giữa hai bên thì, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 [tháng1-1967], Ðảng ta mềm dẻo hơn trong sách lược, bắt đầu chủ trương hé mở khả năng phía Việt Nam sẽ đi vào đàm phán nếu Mỹ chấm dứt ném bom miền bắc, chứ chưa bao gồm điều kiện Mỹ phải rút hết quân ra khỏi miền nam như trước đây. Lường trước những vấn đề sẽ nảy sinh do chủ trương mới, Hội nghị Trung ương 13 đã nêu rõ rằng, phải "có kế hoạch vận động, giải thích, thuyết phục những nước anh em có thể nghi ngờ ta thương lượng non, do đó tỏ thái độ trực tiếp hoặc gián tiếp không đồng tình với ta; hoặc quá nặng về đàm phán giải quyết vấn đề đi đến thúc ép ta sớm đi đến giải pháp chính trị trong khi tình hình chưa chín muồi; cần hết sức tránh không để quân thù lợi dụng sự bất đồng về sách lược giữa ta và các nước anh em"[10].

Thế nhưng, đáp lại thiện chí trên đây của phía Việt Nam, phía Mỹ vẫn kiên quyết đòi ta "có đi có lại", đưa ra điều kiện buộc ta phải công khai cam kết không lợi dụng việc Mỹ ngừng ném bom để chi viện cho miền nam. Phía Mỹ đưa ra yêu sách như vậy, khác nào đặt kẻ xâm lược và người bị xâm lược ngang nhau... Thư của Tổng thống Mỹ Johnson gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8-2-1967, đã thể hiện rõ sự ngoan cố của Mỹ [11].

Thực vậy, Tổng thống Mỹ Johnson vừa gửi thư tới Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8-2-1967 thì, ngày 14-2-1967, đã cho phép không quân và hải quân Mỹ nối lại các cuộc đánh phá miền bắc với quy mô và cường độ ngày càng mở rộng, ngày càng khốc liệt. Ðó là điều buộc Việt Nam phải tính toán, chọn lựa phương án giáng một đòn quyết liệt, buộc Mỹ phải ngừng ném bom miền bắc trong năm bản lề này. Chúng ta muốn hòa bình, muốn đàm phán nhưng không thể ảo tưởng đàm phán trong thế yếu mà ngược lại chỉ có thể đàm phán trên thế thượng phong, thế áp đảo về quân sự.

Ðây là bài toán vô cùng nan giải, bởi vì tương quan lực lượng khi chúng ta quyết định "Tết Mậu Thân" như sau:

- Về phía Mỹ, lực lượng quân sự địch trên chiến trường đang tới đỉnh cao - hơn một triệu hai mươi vạn quân chủ lực; bộ máy chiến tranh vẫn còn hiệu lực; tiềm lực chiến tranh vẫn rất dồi dào; ý chí xâm lược của giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn chưa bị lung lay.

- Về phía Việt Nam, đến thời điểm ấy, chỉ có 27 vạn bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương Quân giải phóng trên chiến trường miền nam.

Cần nhấn mạnh một điều tưởng như mâu thuẫn là, tại sao khi bàn về mối tương quan lực lượng giữa ta và địch, ngày 24-10-1967, Hội nghị Bộ Chính trị đã nhận định rằng với một tương quan lực lượng quá chênh lệch như vậy thì dù cho"đánh vào thị xã mà giữ lại [thì] ta cũng chưa làm được"; "khả năng đánh tiêu diệt của ta còn yếu", mà mặt khác, lại đi tới quyết tâm mở cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa? Ấy là vì Bộ Chính trị đã nhất trí nhận định, "Mỹ còn rất ngoan cố... đang cố gắng tăng cường lực lượng để giữ cho tình hình không xấu đi"[12], để yên ổn đón chờ năm bầu cử, rồi sẽ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến. Ðiều đó có nghĩa là Mỹ đang ở thế phòng ngự. Chớp thời cơ này, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa, không thể đánh theo lối cũ, theo kiểu "tuần tự nhi tiến", đánh theo mùa, đợt mà phải Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền nam, nhằm "Làm thay đổi tình hình, thay đổi cục diện, chuyển biến chiến lược" trên chiến trường, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán.

Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư Ðảng lần thứ 14 họp, đã thông qua Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện tổng khởi nghĩa - tổng công kích giành thắng lợi, quyết định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 

Ðể thực hiện quyết tâm chiến lược đó, Bộ Chính trị chỉ rõ: Trên mặt trận ngoại giao, cần có phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp và "phải mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta"[13]. Phát biểu ý kiến trong Hội nghị, đồng chí Lê Duẩn lưu ý rằng, mặc dù Mỹ đang bị động, đang lâm vào thế khó khăn, "nhưng nó là kẻ mạnh... nên ta phải biết thắng nó". Muốn thế chúng ta không thể đánh theo lối cũ, "mà phải chuyển qua một giai đoạn mới, tức là giai đoạn tổng công kích - tổng khởi nghĩa, buộc nó phải đi đến ngồi với ta, thương lượng với ta"[14].

Khi nói "chúng ta không thể đánh theo lối cũ" là đồng chí Lê Duẩn đã một lần nữa tâm đắc với ý kiến từ các cuộc họp tháng 6-1967 đã khiến Bộ Chính trị nhất trí, đó là: Nếu cứ mở các đợt hoạt động quân sự như trước, đánh theo cách đánh cũ thì cuộc chiến vẫn sẽ diễn ra trong thế nhùng nhằng, giằng co, khó có thể tạo nên chuyển biến lớn trên chiến trường; còn phương án bao vây để tiêu diệt lớn đội quân này như đã từng làm ở Ðiện Biên Phủ là không hiện thực.

Như thế, kế hoạch Tổng tiến công Tết Mậu Thân được khởi xướng, là nhằm giải đáp bài toán của lịch sử trên đây.

Nghiên cứu kỹ Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị Bàn về kế hoạch chiến lược mùa thu: tổng công kích - tổng khởi nghĩa Ðông Xuân Hè 1967 - 1968, Nghị quyết của cơ quan chỉ đạo chiến lược cũng như một số bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Ðảng, Nhà nước và quân đội lúc bấy giờ, chúng ta nhận thấy quả thật chủ trương chiến lược táo bạo của Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa đã thấm tới từng câu chữ, chẳng hạn:

Ðồng chí Trường Chinh cho rằng cần phải "tranh thủ thời cơ, tích cực chuẩn bị để tiến hành công kích - khởi nghĩa làm thay đổi tình hình, thay đổi cục diện, chuyển biến chiến lược, thực hiện các Nghị quyết của T.Ư bằng công kích - khởi nghĩa..."; Ðồng chí Phạm Văn Ðồng cũng "đồng ý nhất loạt công kích - khởi nghĩa ở các khu trọng điểm, các nơi khác làm được như thế nào phải hết sức làm"; Ðồng chí Lê Ðức Thọ cho rằng "Tóm lại, ta đã tạo ra điều kiện chín muồi công kích và khởi nghĩa"...;  Ðồng chí Tố Hữu cho rằng, "kế hoạch của ta dựa trên đánh giá tình hình địch - ta, vì vậy kế hoạch của ta có cơ sở vững chắc... vì vậy có nhiều khả năng ta chắc thắng; Ðồng chí Lê Thanh Nghị tuy đã lưu ý "công tác chuẩn bị còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để chuẩn bị cho quần chúng, qua báo cáo thấy khu trọng điểm còn yếu... về công kích thì cứ làm, song về khởi nghĩa ở khu trọng điểm Sài Gòn nếu chuẩn bị không đầy đủ mà cứ làm thì phải cân nhắc kỹ, vì làm không chắc thì sau đó còn quần chúng thì sẽ thế nào? Nói như vậy là để chuẩn bị thật kỹ cho khởi nghĩa ở khu trọng điểm"... Nhưng đồng chí vẫn hoàn toàn "nhất trí với bản báo cáo của Quân ủy T.Ư".

Tựu trung, ý tưởng của các đồng chí trong cuộc họp này đều gặp gỡ, đi đến hoàn toàn nhất trí với chủ trương tổng công kích - tổng khởi nghĩa nhằm tập trung sức mạnh tổng hợp của chiến tranh cách mạng miền Nam, kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, nhằm vào toàn bộ mục tiêu hiểm yếu của địch trên chiến trường, đặc biệt bằng cách đánh hiểm, đánh vào yết hầu, đánh vào tim óc của địch, vào thời điểm nhạy cảm nhất trong đời sống chính trị của nước Mỹ, buộc giới lãnh đạo Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán, mở ra một giai đoạn mới - giai đoạn vừa đánh vừa đàm, nhằm kết thúc cuộc chiến theo truyền thống quân sự Việt Nam.

Tết Mậu Thân và tác động rộng lớn của nó đã hiện thực hóa mục tiêu chiến lược này của cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam về các mặt sau đây:

1. Phơi bày toàn bộ quá trình thất bại của Mỹ trên chiến trường cả về quân sự, chính trị; sự bất lực của một đạo quân đông tới gần 1 triệu 30 vạn, được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, trước sức tiến công và cách đánh của đối phương.

2. Làm lộ rõ những sai lầm về chiến lược cũng như cách thức điều hành chiến tranh của giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn và giới tướng lĩnh Mỹ trên chiến trường.

3. Tết Mậu Thân 1968 còn là sự biểu dương ý chí, nghị lực, sức mạnh và nghệ thuật điều hành chiến tranh của phía Việt Nam; làm bộc lộ những giới hạn trong sức mạnh quân sự, kinh tế của Mỹ; làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới chiến lược toàn cầu mà Mỹ theo đuổi từ lâu. Khi Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 nổ ra, Thượng nghị sĩ Mỹ Xten-nít - Chủ tịch Tiểu ban điều tra về tình hình sẵn sàng chiến đấu của Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã phát biểu ý kiến: "Nếu Mỹ thua ở Việt Nam thì Mỹ thua một cuộc chiến tranh. Nhưng nếu Mỹ lạc hậu một cách tuyệt vọng trong lĩnh vực chiến lược hạt nhân thì Mỹ có thể mất cả sự tồn tại của mình"[15].

4. Vì lẽ đó, cho dù Mỹ là một nước lớn, một nước chưa hề bại trận trong lịch sử 200 năm lập nước, nhưng "Tết Mậu Thân 1968" đã gây nên những chấn động dữ dội giữa lòng nước Mỹ, khiến cho đông đảo các tầng lớp xã hội Mỹ - kể cả các quan chức cấp cao, các nghị sĩ, các tập đoàn tài phiệt đầy thế lực, phải thay đổi quan điểm, không còn hậu thuẫn cho chính sách chiến tranh của chính quyền Johnson nữa.

5. Và cuối cùng, tất cả những điều đó đã buộc Tổng thống Mỹ Johnson, vào đêm 31-3-1968, chẳng những đã phải công khai tuyên bố: Mỹ đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền bắc [từ vĩ tuyến 20 trở ra], sẵn sàng cử đại diện đi vào đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà hơn thế, còn quyết định rút dần quân Mỹ ra khỏi miền nam Việt Nam khi chưa một mục tiêu nào của cuộc chiến tranh này được thực hiện. Việc trút bỏ gánh nặng chiến tranh xuống vai chính quyền và quân đội Sài Gòn - một lực lượng vốn đã bại trận trước khi quân Mỹ buộc phải tham chiến và ngày càng phụ thuộc vào sự hiện diện của quân Mỹ thì, về thực chất, đã làm cho Mỹ phải phụ thuộc vào chính kẻ đã và đang phụ thuộc vào mình. Ðây là bảo đảm cho thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam.

Với tất cả những lý do đó, cho dù sau Tết Mậu Thân 1968, cuộc chiến vẫn còn kéo dài và rất quyết liệt - phải năm năm sau Mỹ mới rút hết quân và bảy năm sau, chính quyền Sài Gòn mới sụp đổ hoàn toàn, nhưng với quyết định ngày 31-3-1968 của Tổng thống Mỹ Johnson, về thực chất, số phận cuộc chiến giữa đế quốc Mỹ và nhân dân Việt Nam đã được định đoạt.

Trên ý nghĩa này, vào năm 1971, khi nhìn lại "Tết Mậu Thân", Ðôn O-bớc-đoi-phơ đã viết: "Vì cuộc chiến chưa đến hồi kết thúc và chung cuộc chưa rõ ràng, tầm quan trọng đầy đủ về cuộc tiến công Tết Mậu Thân đang nằm ngoài tầm nhận thức của chúng ta". Nhưng dù vậy, "một điều xem ra đã rõ: Lịch sử sẽ chẳng quên đi sự kiện này. Ðối với mọi loại người và mọi cách suy nghĩ khác nhau, đây là một sự kiện có tính chất bước ngoặt, một trong những bước ngoặt lớn trong thời đại chúng ta"[16].

Khi một sự kiện lịch sử kết thúc, là lúc bắt đầu công việc của các nhà nghiên cứu. Ðại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói: "Lịch sử, nói chính xác hơn, là hiện thực lịch sử chỉ xảy ra một lần, duy nhất và không thể chữa lại, nhưng nhận thức lịch sử cũng như viết sử, có thể làm đi làm lại nhiều lần"[17]. Những năm qua, giới sử học trong nước và nước ngoài đã có nhiều công trình, nhiều cuộc hội thảo sôi nổi về sự kiện Tết Mậu Thân. Bằng những tư liệu hiện có trên tay, qua bài viết này, chúng tôi muốn hệ thống lại theo mạch thời gian các nghị quyết, chủ trương mà Bộ Chính trị từng bước cân nhắc, bổ sung để đi đến quyết định táo bạo trong việc xác định mục tiêu chiến lược của đòn tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.

Qua những văn kiện này, chúng ta càng thấy rõ hơn, mục tiêu chiến lược trên đây đã được sự nhất trí rất cao của tập thể Bộ Chính trị, Quân ủy T.Ư, và lãnh đạo chỉ huy các chiến trường, mà biểu hiện cao nhất là cuộc họp Bộ Chính trị tháng 12-1967, do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Không khí nhất trí cao độ của tập thể Bộ Chính trị đã thể hiện thành lời hiệu triệu qua bài thơ Chúc mừng năm mới của Bác:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng trận tin vui khắp nước nhà

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

Tiến lên!

Toàn thắng ắt về ta!

_____

[1] Lịch sử Ðảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, H, 1995, tr.384-385.

[2] Lê Ngọc Hiền, Ghi nhớ về xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện đòn tiến công chiến lược Mậu Thân 1968 [Bài đăng trong kỷ yếu Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968], NXB Quân đội nhân dân, H, 1998, tr.111-112.

[3] Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị bàn về kế hoạch chiến lược mùa Thu: tổng công kích - tổng khởi nghĩa Ðông - Xuân - Hè 1967 - 1968.

[4] Văn kiện Ðảng toàn tập, tập 29 [1968], Sđd.

[5] Văn kiện Ðảng toàn tập, tập 29, Sđđ.

[6] Ðồng chí Lê Ðức Thọ nói về một số vấn đề Tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự. Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 2-1988.

[7] G.C. Hơ-ring: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Sđđ, tr. 210.

[8] Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, NXB. Chính trị Quốc gia, H, 1995, tr.66.

[9] Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðảng toàn tập, tập 28 [1967] NXB. Chính trị Quốc gia, H, 2003, tr. 124, 125.

[10] Văn kiện Ðảng toàn tập, tập 29, Sđd, tr.23.

[11] Về bức thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8-2-1967, G. C. Hơ-ring viết: "Với tâm trạng điên khùng, Johnson quay lại lập trường cũ là Hà Nội phải ngừng thâm nhập  trước khi ông ta ngừng ném bom". Tại sao việc ngừng ném bom đối với phía Mỹ lại trở nên quan trọng đến vậy? Trả lời cho câu hỏi này, các nhà nghiên cứu Mỹ chỉ rõ: "Cuộc ném bom được duy trì không phải vì có người nghĩ rằng nó có hiệu lực mà Johnson cho rằng, nó cần thiết để làm yên lòng một số phe phái trong nước; và vì rằng, ngừng ném bom có thể được coi là một biểu hiện của sự yếu kém" [G. C. Hơ-ring: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Sđđ, tr. 215, 229].

[12] Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị bàn về kế hoạch chiến lược mùa Thu: Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Ðông - Xuân - Hè 1967 - 1968, Tư liệu đã dẫn.

[13] Văn kiện Ðảng toàn tập, tập 29 [1968], NXB. Chính trị Quốc gia, H,.2004, tr.63

[14] Văn kiện Ðảng toàn tập, tập 29, Sđd, tr.23

[15] Thất bại của đế quốc Mỹ, NXB. Quân đội nhân dân, H, 1979, tr. 128.

[16] Ðôn O-bớc-đoi-phơ: Tết, Sđd,  tr. 180.

[17] Võ Nguyên Giáp, Ðiện Biên Phủ xưa và nay, Tạp chí Xưa & Nay, số tháng 5 - 1994.

Video liên quan

Chủ Đề