Những cải cách về chính trị của Hồ Quý Ly

Câu hỏi: Hồ Quý Ly có những cải cách gì về chính trị?

A. Đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp

B. Thay đổi toàn bộ các quan lại trong triều bằng những người họ hàng thân thích của mình

C. Lược bỏ các đơn vị hành chính cấp địa phương như huyện, xã

D. Phân chia lại các đơn vị hành chính trong toàn quốc và quy định công việc cụ thể của bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương

Đáp án A.

Hồ Quý Ly đổi tên một số trấn: đổi trấn Thanh Hóa làm trấn Thanh Đô, trấn Quốc Oai làm trấn Quảng Oai,… Quy định lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện.

Năm 1400, Hồ Quý Ly soán ngôi họ Trần, lập ra triều nhà Hồ. Năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, trở thành Thái thượng hoàng cùng vua trị nước. Nói đến những chính sách của nhà Hồ thì phải bắt đầu ngay từ lúc Hồ Quý Ly trở thành quyền thần lũng đoạn triều chính nhà Trần. Hồ Quý Ly được ghi nhận là một nhà cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam. Dưới bàn tay của ông, Đại Việt chuyển mình mạnh mẽ từ mô hình nhà nước quý tộc sang mô hình nhà nước quan liêu, với mức độ tập trung quyền lực vào triều đình trung ương được tăng cường lên một mức độ mới. Công cuộc cải cách thời kỳ này vừa có những nét tiến bộ vừa tồn tại không ít những sai sót.

Về tuyển chọn nhân sự, Hồ Quý Ly đã mở đường cho những người có năng lực nhưng không thuộc dòng dõi quý tộc tham gia vào những việc quốc gia quan trọng. Năm 1375, ông đã tham mưu cho vua Trần Duệ Tông xuống chiếu tuyển chọn các quan viên biết luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì đều có thể làm tướng, không nhất thiết phải là người tôn thất. Thực ra đầu thời Trần cũng có những danh tướng xuất thân ngoài hoàng tộc mà nằm quyền cao như Lê Tần, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái…

Tuy nhiên đó là những trường hợp riêng lẻ, cá biệt chứ chưa là chính sách của triều đình. Dưới sự cầm quyền của Hồ Quý Ly, việc học hành thi cử cũng được định lại quy củ hơn, rộng đường cho những người trí thức tiến thân bằng con đường khoa cử. Phép thi cử thời Hồ được lấy làm chuẩn mực cho nước Việt xuyên suốt mấy trăm năm sau. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Chính sách của Hồ Quý Ly quả thực đã giúp cho nguyên khí của Đại Việt được mạnh thêm. Tuy nhiên, điều đó không bù đắp nổi những nguyên khí bị mất mát trong cuộc đổi ngôi.

Tầng lớp quý tộc Trần vốn có rất nhiều người được đào tạo tốt về thuật cai trị và binh pháp đã bị giết hoặc phải ẩn dật. Kể cả những quan lại tài giỏi không thuộc hoàng tộc nhưng chống đối lại uy quyền của họ Hồ cũng không tránh khỏi họa. Như danh tướng Nguyễn Đa Phương là người mà chính Hồ Quý Ly tiến cử, cùng Hồ Quý Ly sát cánh chống quân Chiêm Thành nhưng rồi sau cũng vì hiềm khích mà bị Hồ Quý Ly gièm pha khiến Đa Phương bị Nghệ Tông giết.

Năm 1396, để trưng thu nguyên liệu đồng trong dân phục vụ cho việc đúc súng, Hồ Quý Ly lệnh cho dân đổi hết tiền đồng sang tiền giấy mang tên Thông Bảo Hội Sao. Những ai làm tiền giả hoặc còn chứa và sử dụng tiền đồng sẽ bị xử tội chết, tịch thu gia sản. Xét ra việc lưu hành tiền giấy vừa giúp tiết kiệm nguyên liệu, vừa có phương thức giao dịch tiến bộ. Tuy nhiên chính sách tiền giấy của Hồ Quý Ly phạm phải lỗi cơ bản là đi ngược nguyên tắc tiền tệ phải có đủ cơ sở để nhân dân tin tưởng vào giá trị giao dịch của nó. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa chưa thực sự phát triển hoàn thiện, tự thân tiền đồng được đảm bảo giá trị bằng vật liệu làm ra tiền. Khi đổi sang tiền giấy, tâm lý người dân thời kỳ này đa phần cho rằng giấy là vật liệu giá trị thấp, dẫn đến hoài nghi về tiền tệ mới. Điều đó khiến cho đời sống nhân dân bị xáo trộn rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín của triều đình với nhân dân.

Năm 1397, Hồ Quý Ly muốn tách vua khỏi đất căn bản để dễ bề soán ngôi nên đổi trấn Thanh Hoa làm trấn Thanh Đô, cho xây dựng thành An Tôn, ép vua Trần Thuận Tông phải dời đô về đó. Kinh đô mới gọi là Tây Đô. Kinh đô cũ là Thăng Long đổi thành lộ Đông Đô. Về việc này, một số quan lại đã không đồng tình, hết sức can gián. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng biểu: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ[ chỉ Thăng Long] có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị [tức sông Hồng], núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa, các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu... Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”. Kể cả Hành khiển Phạm Cự Luận là người tâm phúc của Quý Ly cũng khuyên không nên. Nhưng bất chấp tất cả, Hồ Quý Ly vẫn cho dời đô.

Cũng trong năm 1397, Hồ Quý Ly xuống lệnh định lại cơ chế các địa phương “Lộ trông coi phủ, phủ trông coi châu, châu trông coi huyện. Các việc hộ tịch, tiền thóc, ngục tụng đều làm chung thành sổ sách của một lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng cứ mà khảo xét”. Trách nhiệm các cấp liên đới nhau từ trên xuống dưới, việc quản lý của triều đình nhờ đó mà dễ dàng hơn. Xuyên suốt thời kỳ chuyên chính đến khi soán ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly nhiều lần thay đổi hành chính ở các địa phương, cốt là để việc cai trị của triều đình trung ương được thông suốt, hạn chế tình trạng cát cứ địa phương.

Để chia nhỏ thế lực của giới quý tộc, Hồ Quý Ly ban hành chính sách “hạn điền”: “Đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế; đến thứ dân thì số ruộng là 10 mẫu. Người nào có nhiều nếu có tội, thì cho tùy ý được lấy ruộng để chuộc tội, bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. Số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước”.Hồ Quý Ly sai quan làm lại sổ ruộng đất rất kỹ. Những ruộng quá hạn làm sổ mà chưa kê khai, cắm tên chủ trên mảnh ruộng thì bị sung công. Chính sách hạn điền trên thực tế là một cuộc cải cách ruộng đất nhằm thâu tóm thêm ruộng công cho nhà nước, giảm số ruộng tư, hạn chế thế lực của các địa chủ lớn.

Một chính sách khác để kìm chế giới quý tộc cũ là chính sách “hạn nô”: “Chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên, mỗi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư 3 đời. Nô người nước ngoài thì không theo lệ này”. Hạn nô hoàn toàn không phải là một chính sách để giải phóng nô lệ mà chẳng qua chỉ là một thủ đoạn chính trị của Hồ Quý Ly nhắm vào giới quý tộc cũ. Các chính sách hạn điền, hạn nô có mặt lợi là gần như ngay lập tức nó đánh quỵ nền tảng kinh tế, xã hội của những tàn dư triều đại cũ, giúp cho nhà Hồ nhanh chóng ổn định đất nước, tránh khỏi những nguy cơ nội chiến tiềm tàng. Mặt trái của nó là đã động vào những nhóm lợi ích cơ bản của xã hội Đại Việt đương thời, làm cho họ Hồ khi lên ngôi mất đi sự ủng hộ của các tầng lớp nắm giữ tài lực, cũng là tầng lớp có uy tín, có thế lực nhất trong đất nước.

Nhìn chung, có thể nói Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và có những tư tưởng tiến bộ so với thời đại. Tuy nhiên, vì trong tình thế chuyển giao triều đại đòi hỏi phải có những biện pháp bất thường, Hồ Quý Ly đã có nhiều bước đi nóng vội, thậm chí sai lầm. Những điều đó đã xoáy sâu khoảng cách giữa triều đình và nhân dân, tai hại nhất là nó gây nên một cuộc khủng hoảng lòng tin lớn trong xã hội. Thiếu lòng tin, sức mạnh của đất nước cũng suy giảm trước những bão táp phía trước.

Hồ Quý Ly là nhân vật lịch sử được bàn luận đến nhiều trong lịch sử và thời đại, với nhiều ý kiến trái chiều người khen - chê khác nhau. Những cải cách của Hồ Quý Ly vốn đã quá nổi tiếng trong cuộc luận bàn lịch sử, bởi cả tính phiêu lưu của nó lẫn ấn tượng về một quyết tâm chính trị - hành chính - kinh tế - quân sự vượt trước thời đại, cũng vì thế, đã không thể dung hợp với thời đại. Tư tưởng chính trị Hồ Quý Ly được thể hiện qua những chính sách và hành động như thế nào? Câu hỏi này sẽ được giải đáp qua cuốn sách Tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly của PGS. TS. Nguyễn Hoài Văn và ThS. Lê Anh Quân. Cuốn sách sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ những vấn đề lịch sử về tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước ta hiện nay.

Cuốn sách kết cấu gồm 3 chương, trình bày cơ sở hình thành tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly, đồng thời đi sâu phân tích nội dung lớn trong tư tưởng của ông: xây dựng Nhà nước quân chủ Nho giáo trung ương tập quyền thống nhất; đề cao độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; chống giáo điều Nho giáo, đề cao văn hóa dân tộc; đề cao pháp trị. Trên cơ sở đó, các tác giả đã phân tích khá cụ thể những bài học lịch sử và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.

Một tư tưởng đổi mới táo bạo, dám nghĩ, dám làm

Là người có tinh thần yêu nước, nhà lãnh đạo chính trị có tư tưởng đổi mới, táo bạo, Hồ Quý Ly đã gắn bó cả cuộc đời mình với số phận dân tộc. Từ một người có vị trí cao trong triều đình nhà Trần, rồi trở thành vị quân vương của triều Hồ, Hồ Quý Ly đã ý thức được trách nhiệm nặng nề của mình là cần phải nhanh chóng phát triển đất nước, đặc biệt chống lại nguy cơ đe dọa nền độc lập đến từ phương Bắc. Có thể thấy rằng tư tưởng chính trị về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia đã được ông nhận thức và thực hiện ở tầm tư duy mới. Đó là, một dân tộc muốn thoát khỏi thân phận yếu hèn, muốn tồn tại được bên cạnh một quốc gia lớn mạnh thì không có cách nào khác là phải tự mình mạnh lên, tự mình tìm tòi, đổi mới, sáng tạo để tự cường dân tộc. Hồ Quý Ly cũng đã khởi xướng và tổ chức thực hiện nhiều chính sách cải cách nhằm tạo ra sức mạnh kinh tế - quốc phòng cho đất nước. Hồ Quý Ly đã tích cực thực hiện một nội dung tư tưởng chính trị Việt Nam truyền thống đó là dựng nước đi đôi với giữ nước. Cùng với nhiều chính sách kinh tế mới mẻ như hạn điền, hạn nô đánh mạnh vào lợi ích của giai cấp quý tộc Trần. Đặc biệt ông cho rằng để xây dựng và ổn định một Nhà nước thì cần phải cai trị bằng thể chế mới, chính sách mới, ông coi trọng nhân tài và trí tuệ, đồng thời ông hướng tới việc cai trị Nhà nước bằng pháp luật. Đó là tư tưởng chính trị tiến bộ của Hồ Quý Ly.

Ngoài ra, Hồ Quý Ly còn tiến hành nhiều chính sách cải cách khác như: đề cao chữ Nôm và văn hóa dân tộc. Hồ Quý Ly muốn người Việt Nam phải dùng chữ Việt Nam. Đây là tư tưởng cho thấy nhận thức vượt thời đại của Hồ Quý Ly cũng như một tinh thần dân tộc sâu sắc. Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Quý Ly còn được nhớ tới bởi trên lĩnh vực quân sự, ông đã xây dựng được một quân đội có thể nói là lớn nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

Không phải viết bằng ngòi bút chê bai, hay chỉ trích mà dưới góc độ người nghiên cứu, các tác giả lần lượt bóc tách, phân tích từng nội dung tư tưởng chính trị đó của Hồ Quý Ly trong chương 2 của cuốn sách với những nội dung cụ thể, để giúp người đọc có cái nhìn khách quan, công bằng và toàn diện hơn về tư tưởng của Hồ Quý Ly.

Bài học lớn từ công cuộc đổi mới của Hồ Quý Ly

Sự nghiệp chính trị của Hồ Quý Ly chưa trọn vẹn và công cuộc cải cách của ông cũng thất bại cùng với sự kết thúc của vương triều nhà Hồ vào năm 1407, nhưng Hồ Quý Ly cũng đã có những đóng góp nhất định đối với yêu cầu đổi mới cũng như yêu cầu cải cách để phát triển đất nước trong những thời điểm cần thiết khi thực tiễn đòi hỏi đối với một nhà lãnh đạo tầm quốc gia, đặc biệt đối với người đứng đầu đất nước. Bằng việc nghiên cứu, phân tích những nội dung tư tưởng chính trị Hồ Quý Ly, các tác giả đã giúp chúng ta có cơ hội được tiếp cận, nhìn nhận, đánh giá và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, có ý nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước ta.

Trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, tư tưởng đổi mới, cải cách để tự cường dân tộc luôn có vị trí quan trọng. Chính vì vậy, tư tưởng chính trị của ông thông qua những chính sách cải cách của ông trên nhiều lĩnh vực có vị trí đặc biệt trong lịch sử nước ta thời kỳ trung đại – mở đầu cho thời kỳ xây dựng Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền Nho giáo toàn trị. Bài học lớn nhất được rút ra từ công cuộc đổi mới của Hồ Quý Ly đó chính là bài học mất lòng dân. Hồ Quý Ly đã không thấy được những hậu quả trái chiều do cuộc cải cách mang lại đã làm ảnh hưởng đến việc đoàn kết dân tộc và tập hợp lực lượng. Ngày nay, đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hơn bao giờ hết chúng ta cần phải biết phát huy sức mạnh của Nhân dân, được Nhân dân ủng hộ mới thành công.

Lịch sử đã qua đi, công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly cũng đã lùi sâu vào quá khứ hơn 600 năm, nhưng những bài học sâu sắc rút ra từ chính lịch sử cho tới ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự của nó. Cuốn sách Tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly sẽ là cứ liệu khoa học góp phần làm sáng rõ hơn những nội dung quan trọng của lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, đặc biệt là tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, tư tưởng đề cao dân, dựa vào dân.

Video liên quan

Chủ Đề