Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình học tập của học sinh Tiểu học

Như các bạn đã biết, cấp 1 tiểu học là giai đoạn tiền đề cho việc học tập sau này, định hướng về phương pháp học tập cũng như dần dần rèn cho mình ý thức tự học ở trẻ. Cũng bởi vậy, đây là giai đoạn quan trọng nhất hình thành nên tư tưởng và quan điểm học tập trong suốt lộ trình học tiếp theo. Nắm chắc các kiến thức ở tiểu học sẽ giúp các em dễ dàng làm quen với môi trường kiến thức cao hơn như trung học cơ sở và trung học phổ thông. Cũng bởi vậy, công việc gia sư tại nhà cho các em học sinh tiểu học cũng vừa dễ dàng về mặt kiến thức mà cũng lại không kém phần gian nan về việc uốn nắn thái độ học tập cho các em.

Thuận lợi khi gia sư tại nhà học sinh tiểu học

Ở giai đoạn này, kiến thức không quá đặt nặng, mọi thứ đều dừng ở mức cơ bản, đơn giản nên gia sư không cần phải bổ trợ nhiều kiến thức giáo án cho mỗi buổi dạy. Phần lớn các em học sinh tiểu học đều rất ngoan, vâng lời và tin tưởng vào gia sư có thái độ tích cực hơn.

Các em học sinh tiểu học lại khá dễ dàng thích nghi với môi trường học tập mới nên khi đi dạy kèm tại nhà gia sư không phải mất thời gian khi thay đổi cách học cho các em.

Bên cạnh những thuận lợi, tất nhiên làm sao có thể thiếu những khó khăn khi gia sư dạy kèm tại nhà cho học sinh tiểu học

Học sinh tiểu học thường thiếu sự tập trung trong học tập do tính ham chơi. Các em dễ xúc động và có các hành vi phản kháng lại việc dạy học của gia sư ngay khi không vừa ý mình. Vì vậy các bạn gia sư giỏi thôi chưa đủ mà còn cần phải thật sự kiên nhẫn khi dạy cho các em.

Các em mới bắt đầu thích nghi với việc học tập, việc học quá nhiều sẽ khiến các em quá tải,  vì vậy mỗi buổi gia sư chỉ nên dạy một lượng kiến thức vừa đủ cho các em ghi nhớ.

Các em có tính bắt chước và học theo mọi lời nói cử chỉ của người lớn. Gia sư là người tiếp xúc trực tiếp với các em khi học, gia sư cần chú trọng tới lời nói của mình, mọi cử chỉ hành vi không đúng của gia sư có thể ảnh hưởng đến các em như nói bậy, nói tục, thái độ...

Bản tính của trẻ nhỏ luôn tò mò, hiếu kỳ với những thứ mới thế nên các em học sinh tiểu học rất hay đặt các câu hỏi nhiều lúc kỳ quặc làm gia sư ... không thể hiểu nổi. Các gia sư sẽ khá mất thời gian để giải thích các vấn đề chẳng liên quan đến việc học tập.

Mỗi một công việc đều đòi hỏi có một yêu cầu, tiêu chuẩn riêng, có khó khăn riêng. Gia sư là một công việc đòi hỏi nhiều yêu cầu khi truyền tải các kiến thức cho học sinh. Bên cạnh kiến thức bài vở, gia sư giỏi cần có một kỹ năng truyền đạt và tâm huyến với nghề.

Chúc các bạn luôn thành công trong công việc gia sư của mình!

Với kinh nghiệm tư vấn và cung cấp gia sư giỏi dạy kèm tại nhà trong suốt 15 năm qua, nhận được sự tin tưởng của phụ huynh và học sinh, gia sư Đức Minh tiếp tục vẫn là địa chỉ trung tâm gia sư uy tín hàng đầu tại Hà Nội. Liên hệ trung tâm gia sư Đức Minh để được tư vấn tìm gia sư giỏi dạy kèm tại nhà theo yêu cầu môn học, trình độ. 

Gia sư Đức Minh - Trung tâm gia sư uy tín tại Hà Nội

Phụ huynh liên hệ: 02473022666   -   DĐ: 0913876686  -  0965876686 

Gia sư liên hệ: 0968042289  -   01234090588

Email: 

Thầy/cô hãy trao đổi, thảo luận để chia sẻ những thuận lợi và khó khăn khi xác định đường phát triển năng lực chung của học sinh tiểu học.

Trả lời:

Đường phát triển năng lực là sự mô tả mức độ phát triển khác nhau mà người học cần hoặc đạt được. Khi xác định đường phát triển năng lực chung cho học sinh tiểu học, tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:

* Thuận lợi:

- Cơ sở để xác định đường phát triển năng lực chung cho từng nội dung đánh giá chính là những yêu cầu cần đạt về năng lực chung được quy định trong chương trình GDPT 2018. Vì vậy, giáo viên dễ dàng xây dựng được các bậc thang trong đường phát triển.

* Khó khăn:

- Đường phát triển năng lực không có sẵn mà giáo viên phải tự xác định và xây dựng thông quá trình quá trình giảng dạy và đánh giá dựa trên từng năng lực của học sinh. Chính vì vậy để sự đánh giá được chính xác, người giáo viên phải xây dựng thêm thang đo cho từng bậc thang trong đường phát triển.

PHÒNG GIÁO DỤC QUẬN ....TRƯỜNG MẪU GIÁO ....-----------Bài tập nghiệp vụ sư phạmPHÂN TÍCH NHỮNG KHÓ KHĂN ĐỐIVỚI HỌC SINH LỚP 11.LÝ DO CHON ĐỀ TÀILớp 1 có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục phổthông nói chung và trong bậc tiểu học nói riêng. Từ mẫu giáo lên lớp 1 làmột bước ngoặc quan trọng đối với học sinh. Quá trình chuyển đổi hoạtđộng chủ đạo từ vui chơi ở mẫu giáo sang hoạt động học tập ở tiểu học sẽgây cho trẻ rất nhiều khó khăn, trong đó có những khó khăn về tâm lý. Vìvậy nếu hiểu được những khó khăn tâm lý của trẻ em và có biện pháp giúptrẻ khắc phục thì trẻ sẽ thích nghi với hoạt động học tập tốt hơn, tiếp thu sựgiáo dục được thuận lợi hơn. Từ đó giúp trẻ đạt kết quả cao trong hoạt độnghọc tập và phát triển tốt tâm lý cũng như nhân cách của trẻ.Trẻ mẫu giáo 5 tuổi bước vào học lớp 1 là việc trẻ được chuyển sangmột lối sống mới vố những hoạt động mới, những mối quan hệ mới củanhững học sinh thực thụ, không giống như ở mẫu giáo trẻ vừa học vừa chơi,nếu như ở mẫu giáo không chuẩn bị tốt cho trẻ những kiến thức cần thiếtnhư : Thể chất, tâm lý xã hội … Thì khi bước vào lớp 1 trẻ sẽ bỡ ngỡ khôngthích ứng với cuộc sống và học tập ở trường phổ thông, trẻ ít được tiếp xúcvới những người xung quanh dẫn đến trẻ rất nhút nhát sợ thầy cô sợ bạn bè.Hiện nay nước ta hiện nay có hơn một triệu học sinh đi học lớp 1 vàthu hút được sự quan tâm chú ý của các bậc phụ huynh cũng như của xã hội.Tuy nhiên áp lực từ phía phụ huynh từ phía nhà trường tới trẻ đi học lớp 1trên thực tế vẫn đang diễn ra dẫn đến những khó khăn tâm lý cho trẻ khi đihọc.Qua khảo sát thử cũng như quan sát trên học sinh lớp 1, Qua tròchuyện với các giáo viên dạy lớp 1 , chúng tôi nhận thấy. Học sinh khi họclớp 1 gặp rất nhiều khó khăn tâm lý và những khó khăn này cản trở hoạtđộng học tập và sinh hoạt của trẻ trong nhà trường từ trước đến nay đã cónhiều công trình nghiên cứu về học sinh lớp 1, song những khó khăn tâm lýcủa trẻ còn ít được nghiên cứu, Bởi vậy, nghiên cứu những khó khăn tâm lýcủa trẻ đầu lớp 1 là cần thiết để giúp các bậc phụ huynh, các thầy cô giáo,những người làm công tác giáo dục, nhận thức được các khó khăn tâm lý củatrẻ khi vào học lớp 1 và cò biện pháp thích hợp nhằm khắc phục và hạn chếkhó khăn tâm lý cho trẻ đầu lớp 1.Đối với một số các bậc phụ huynh việc con em họ vào lớp một chỉnhư một sự tự nhiên, không cần băn khoăn suy nghĩ, “ Đến tuổi nhà nước bắtđi học chữ thì đi học thôi ”, “ Rồi sẽ tự biết con chữ, còn nếu không có điềukiện học tiếp hoặc không học được nữa thì nghỉ học ”. Không cần chuẩn bịtâm thế, không cần biết đến sức khỏe trẻ là gì - đó chính là những nguyênnhân dẫn đến tình trạng trẻ lưu ban, ngồi nhầm lớp, bỏ học giữa chừng.Trước thực trạng này, chúng tôi thấy cần thiết phải có những nghiên cứu vềnhững khó khăn và có biện pháp giải quyết khi chuẩn bị cho trẻ vào học lớpmột2. Mục đích nghiên cứuTừ nghiên cứu lý luận và thực tiễn, phát hiện những khó khăn tâm lýcủa trẻ đầu lớp 1 và một số nhân tố dẫn tới những khó khăn đó. Trên cơ sởkết quả nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp tác động đến giáo viên và chamẹ học sinh nhằm giúp học sinh khắc phục khó khăn tâm lý và học tập tốt.3. Đối tượng nghiên cứuKhó khăn tâm lí của học sinh đầu lớp 1.Điều khó khăn nhất của trẻ từ Mầm non lên Tiểu học là trẻ đang ởtrong môi trường học tập mà các hoạt động chơi là chủ yếu, khi bước vàobậc học Tiểu học bé bắt đầu làm quen với cách học, tư duy và các hoạt độngkhác, bé làm quen với sách vở, đồ dùng học tập và các nội quy của nhàtrường. Trẻ phải thực hiện các quy định đi học đúng giờ, chuẩn bị đầy đủ đồdùng học tập, tính chuyên cần, cố gắng trong học tập, có tính độc lập trongcuộc sống, sinh hoạt trường.“Hành trang cho bé vào lớp 1” không chỉ là việc biết chữ. Nhiều trẻđến tuổi đi học lớp 1 nhưng không biết tự đi vệ sinh hoặc không biết xúccơm ăn, chưa có những thói quen tự phục vụ bản thân trong những việc đơngiản do chưa từng được bố mẹ chuẩn bị cho những thói quen này. Và chínhnhững biểu hiện "vụn vặt" này khiến trẻ thấy tự ti trước bạn bè và sợ đi học.Môi trường học tập thay đổi một cách cơ bản: Trẻ phải tập trung chú ýtrong thời gian liên tục từ 30 – 35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếukỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Trẻ bắt đầu kiềm chếdần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấphành nội quy học tập. Tính nhạy và sức bền vững, tính khéo léo của các thaotác của đôi bàn tay để tập viết được phát triển nhanh. Tất cả những điều đóđều là thử thách đối với trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những thử thách đóthì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựatrên sự hiểu biết về tri thức khoa học.Khác với thời gian biểu ở khối mầm non chủ yếu là ăn ngủ và chơi,lên đến tiểu học, các học sinh cần có đầy đủ năng lượng cho trí não duy trìsự tập trung tiếp nhận được kiến thức.Đồng thời, do điều kiện ăn ở, sinh hoạt ở trường tiểu học có sự khácbiệt rất lớn với trường mầm non nên trẻ cần có một sức khỏe tốt, ổn định đểcó thể đi học đều dặn.4. Những áp lực từ bên ngoài có thể có đối với trẻÁp lực từ phía nhà trường: Mục tiêu thành tích của nhà trường, mốiquan hệ với giáo viên không tốt hoặc sự thiên vị, so sánh giữa các học sinhcủa giáo viên hoặc đối xử phân biệt giữa các học sinh có thể có những tácđộng tiêu cực đến trẻ.Áp lực từ phía gia đình: Khi học mầm non, trẻ đến trường hoàn toànlà để vui chơi, bố mẹ chưa đặt cao mục tiêu giáo dục, thành tích cho con.Tuy nhiên, khi lên học tiểu học, nhiều phụ huynh quan tâm quá nhiều đếnthành tích học tập, điểm số… đã vô tình tạo nên áp lực cho trẻ. Nhiều phụhuynh còn sắp xếp cho con mình một lịch học chính, học thêm dày đặc, épcon học khiến trẻ không còn thời gian vui chơi, thư giãn. Nhiều cha mẹ cònchạy đua thành tích cho con vào trường chuyên.Khó khăn tự phục vụ: Trẻ phải tự đi vệ sinh, tự rửa tay, mặc quầnáo, sắp xếp sách vở vào ba lô, cất sách vở ở đúng ngăn, kiểm tra sách vởtrước khi về…Trẻ cần được làm quen với môi trường lớp 1, được nghe kể, biết vềmôi trường mới và nhiệm vụ của mình khi đi học.Khó khăn tính kỷ luật: Có khả năng kiềm chế bản thân, không chạylung tung, tập trung chú ý được trong khoảng thời gian 30-35 phút, chấphành được những nội quy của trường tiểu học.Khó khăn về nhận thức : Nhận biết số, cộng trừ trong phạm vi 10,nhận biết mặt chữ và ghép vần, biết cách cầm bút và viết được nét sổ ngang,sổ dọc…gây cho trẻ sự lung túng và nhiều trẻ không thực hiện được dẫn đếnkết quả học tập kém.Trẻ phải chuẩn bị tâm thể sẵn sàng đi học: Học cả buổi, về nhàphải viết bài, kỹ năng trả lời khi cô giáo gọi lên phát biểu, trẻ cần học cáchyêu quý sách vở, cất và giữ gìn cẩn thận.Khó khăn trong cách ứng xử các tình huống: Một số trẻ bố mẹ đếnđón muộn, bị bạn đánh, mắc lỗi khi học bài…trẻ không biết xữ lý như thếnào ngoài khóc hoặc đánh lại bạn, sợ bị bỏ rơi…. Gây ức chế tâm lý cho trẻ.Trong đời người thường có những mốc quan trọng ảnh hưởng lớnđến sự phát triển của các giai đoạn tiếp theo. Bắt đầu lớp 1 là một trongnhững mốc quan trọng. Đó là khi các con của chúng ta bắt đầu đặt lớp móngđầu tiên cho “ Ngôi nhà tri thức” của mình.Thông thường ở những mốc quan trọng đó, con người thường gặp gỡnhững điều mới lạ, thú vị, nhưng cũng phải đương đầu với nhiều thách thứckhó khăn, thời gian bắt đầuhọc lớp 1 cũng vậy, con trẻ sẽ tìm thấy nhiềuđiều thích thú, nhưng cũng gặp không ít bỡ ngỡ khó khăn.Tâm thế sẵn sang của học sinh đầu lớp 1 là trạng thái chủ quan củahọc sinh thể hiện sự sẵn sàng tham gia hoạt động học tập, tâm thế sẵn sàngđi học được thể hiện trong các mặt cảm xúc, tình cảm , ý chí và định hướngcho các quy trình tâm sinh lý của học sinh diễn ra theo một cách nhất địnhkhi tham gia vào hoạt động học tậpMặc dầu các cháu đã từng trãi qua đời học sinh ở mẫu giáo. Nhưngmôi trường học tập ở mẫu giáo khác xa so với tiểu học nói chung và lớp 1nói riêng. Ở mẫu giáo hoạt động vui chơi là hoạt động chính, tính kỹ luậtkhông đòi hỏi cao, các cháu chủ yếu tham gia những hoạt động tập thể, ítphải mang, sữ dụng, bảo quản dụng cụ học tập cá nhân, tư thế ngồi họctương đối tự do, thoải mái,…..Trong khi đó ở lớp 1 hoạt động học tập [ Laođộng trí tuệ ] là hoạt động chính, các cháu phải thực hiện nhiều hoạt động cánhân như : Viết bài, làm toán, học đọc….Đòi hỏi tính kỹ luật, khả năng tậptrung học tập cao . Các cháu phải tự chuẩn bị các dụng cụ học tập của mình,biết sữ dụng và giữ gìn chúng lâu dài, có nhiều điều bố mẹ muốn làm giúpcon cũng không được, bởi vì trẻ phải tự làm mới có ích cho mình, ở một gócđộ nào đó có thể so sánh việc trẻ vào học lớp 1 với một người lớn sắp ra ởriêng phải chuẩn bị nhiều đồ đạc và phải tự lo liệu cuộc sống của mình.Kết quả của một số nghiên cứu cho thấy học sinh lớp 1 gặp một sốkhó khăn trong việc thực hiện nề nếp học tập trong thời gian đầu như :Khó khăn trong học tập :Khó khăn này thường bắt gặp ở trẻ khi đã vào học được vài tuần, lúcđầu là tâm lý sẵn sàn đi học, trẻ háo hức, vui vẽ đến trường, mong chờ ngàykhai giảng, tự hào với vị thế mới… Lúc này trẻ chưa ý thức được việc họchành nghiêm túc mà tự do hoàn cảnh tạo ra cảm xúc mới lạ [ Mặc đồngphục, đeo cặp sách, thức dậy sớm, tự chuẩn bị đồ dùng …].Xong không ittrường hợp sau đó trẻ lại chán nản, vì quá trình dạy học ở lớp 1 diễn ra nhưmột quá trình vận động trí tuệ để thu nhận tri thức khoa học, phương thứchọc tập khác. Do đó sau vài tuần, vẽ bề ngoài của nhà trường đã mất đi sựquyến rũ, hấp dẫn, trẻ thường lơ đễnh, làm việc riêng, không còn hứng thúhọc tập. Để khôi phục hứng thú của trẻ, đòi hỏi phải có sự kiên trì của giáoviên và phụ huynhKhó khăn thường gặp nhất: “ Phải giơ tay xin phép cô khi muốn phátbiểu ý kiến”. Do mới vào lớp 1 nên việc giơ tay xin phát biểu ý kiến ở nhiềutrẻ chưa thành thói quen [ Nhất là với những trẻ chưa học qua lớp mẫugiáo ], Ở một số trẻ thói quen này tuy đã hình thành ở lớp mẫu giáo nhữngsau ba tháng nghĩ hè thói quen này không được duy trìMột số phụ huynh bắt ép, tạo áp lực cho trẻ phải học trước chươngtrình lớp 1 trước khi trẻ ào học lớp 1 như : Tập cho trẻ viết chữ , dạy trẻlàm tính, đọc chữ …Không ít phụ huynh đã bắt trẻ phải ngồi vào bàn học đểhọc một cách nghiêm túc, tướt bỏ hầu như mọi thời gian vui chơi, hoạt độngvận động, khám phá mà trẻ vốn ham thích và rất cần cho sự phát triển chotrẻ lúc này. Có trẻ khi vào lớp 1 thì đã học xong một phần hay toàn bộchương trình lớp 1,Tưởng chừng việc dạy học trước sẽ giúp trẻ học giỏi khivào trường tiểu học, nhưng thật ra việc làm đó là không phù hợp với quy luậtphát triển của trẻ dưới 6 tuổi, Cho nên khi trẻ vào học lớp một phải học lạinhững kiên thức cũ trẻ sẽ cảm thấy chán nản không muốn học, không chú ý,không nghe lời cô giáo.Trẻ em không được chuẩn bị về tiền đề tâm lý và 5mặt phát triển thì khi vào lớp 1 trẻ sẽ dễ bị sốc vì môi trường hoàn toàn tráingược , tâm lý của trẻ sẽ không có sự háo hức ham muốn đi họcKhi trẻ lên học lớp 1 do nội dung, tính chất, mục đích các môn họcthay đổi so với bậc học mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em vềPhuong pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ývà có ý thức học tập tốt hơn nhằm thích ứng với những yêu cầu mới cũngnhư nhằm đạt kết quả học tập tốt.Với trẻ đầu lớp một, cùng một lúc, trong một thời gian ngắn trẻ phảithích ứng với rất nhiều cái mới ở trường tiểu học. Vào ngày đầu lớp 1,không ít trẻ đã khóc, bám lấy phụ huynh gương mặt lo âu đầy sợhãi….Nhưng bên cạnh đó, một số trẻ lại rất tự tin, năng động ngay từ buổiđầu tiên đến lớp một. Sự khác biệt này không đơn thuần xuất phát từ đặcđiểm riêng về mặt tâm lý cá nhân như : Có thể nhút nhát, có thể mạnh dạnmà phần lớn được quyết định bởi sự chuẩn bị của người lớn, quan trọngnhất là các bậc phụ huynh và giáo viên mầm non để trẻ thích ứng với môitrường phổ thông.Nếu không chuẩn chuẩn bị chu đáo về nhiều mặt trước khi vào họclớp 1 thì việc học tập của trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ, lung túng vànhút nhát khi giao tiếp với thầy cô và bạn bè, cuộc sống của trẻ sẽ trở nênnặng nề và căn thẳng, nhiều trường hợp rơi vào trạng thái khủng hoảng, sợđi học dẫn tới kết quả học tập hạn chế, ảnh hưởng tới quá trình học tập saunày của trẻ.•Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường mớiỞ tuổi mẫu giáo, quy định trong sinh hoạt là những ước định mangtính cá thể vui chơi – thỏa mãn nhu cầu. Ở trường tiểu học và trường phổthông, sinh hoạt mang tính nguyên tắc, quy tắc đối với giờ học – giờ chơi –Kiến thức, kỹ năng, định lượng, bài học bắt buộc phải thực hiện với chế độhọc tập mới, trẻ bị ức chế khi các thói quen bị kiềm hảm, đôi khi bộc phát bịphê bình khiến trẻ chán nản, mong hết giờ để chơi. Kết quả học tập kém,chán nản….Vai trò của giáo viên ở trường mầm non rất cần thiết nhằm hỗtrợ trẻ làm quen với chế độ sinh hoạt ở phổ thông giảm bớt tình trạng căngthẳng trong quá trình chuyển đổi từ thói quen sinh hoạt tự do sang sinh hoạttheo quy định có tính nguyên tắc. Điều này dựa trên những cơ sở về sự kếtục giữa hai cấp học đã xác lập. Sự kế tục giữa hai cấp học là tiền đề quantrọng giúp tháo bỏ những trở ngại tâm lý khi trẻ thực sự bước vào môitrường mói với hoạt động chủ đạo mớiNhững trẻ không được chuẩn bị sẽ không thích ứng tốt với môitrường mới tại vì : Qua tiểu học trẻ phải thay đổi môi trường học tập, môitrường giao tiếp được mở rộng ra. Trẻ được tiếp xúc với nhiều người pháttriển thêm vốn ngôn ngữ cho trẻ, môi trường học tập bắt buộc trẻ phải theoquy tắc, nguyên tắc học tập, không được chơi và mang đồ chơi vào lớp, Trẻkhông thích ứng được quy tắc học tập được thể hiện bằng điểm số dẫn đếntrẻ sợ không đến trường, ngược lại nếu cho trẻ học trước dẫn đến trẻ chánnản, không tập chung, quậy phá, coi thường bạn bè dẫn đến vất vã cho giáoviên lớp 1Sự khác nhau về tri thức giữa mẫu giáo và lớp 1 [ Mầm non thì chuẩnbị tri thức cho trẻ làm biểu tượng. ví dụ : Mẫu giáo định nghĩa trời mưa đơngiản để trẻ dễ hiểu [ Mưa do hơi nước bốc lên tạo thành mây… ] Khi lêntiểu học thì trẻ được thấu hiểu sâu hơn về định nghĩa trời mưa.Sự thay đổi chế độ sinh hoạt [ Mầm non trẻ được học – chơi- hoạtđộng ngoài trời – hoạt động góc … ] Nhưng ở tiểu học trẻ chỉ học là chính,chơi phải có giờ giấc quy định dẫn đến cần có sự chuẩn bị toàn diện [ Dạycho trẻ cách xưng hô, mối quan hệ thầy cô, bạn bè ].Một số khó khăn khác nữa trong quan hệ với thầy cô giáo và bạn bèmà nhiều học sinh lớp 1 thường mắc phải Khó khăn tâm lý là những trở ngại[ Cản trở, ngăn cản] hoạt động học tập, tâm lý trẻ, điều đáng nói là nhữngkhó khăn đó có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm trạng, thái độ và kết quả họctập của các cháu, làm cho học sinh khó thích nghi với hoạt động học tập, kếtquả học tập không được tốtLàm bài tập đầy đủ ở nhà trước khi đến lớp là khó khăn thứ 2 trongnhững biểu hiện của trẻ khi thực hiện nề nếp học tập, Học sinh lớp 1 biếtrằng muốn đạt được điều đó ở nhà thì phải chăm học, làm hết bài tập đượccô giáo giao cho , về nhà phải học bài và làm bài đầy đủ, đi học phải mangđầy đủ sách vỡ và dụng cụ học tập…Tuy vậy giữa hiểu biết và việc làm củacác em có sự chênh lệch đáng kể, có một số trẻ khi đi học về nhà quên làmbài tập ở nhàPhải mang đầy đủ sách vỡ và dụng cụ học tập cũng là một khó khăncủa học sinh đầu lớp 1, một số cháu khi đi học đã quên mạn theo sách vỡ vàdụng cụ học tập, mỗi cháu được cô giáo cho một thời khóa biểu và được côgiáo nhắc nhở thường xuyên nhưng các cháu vẫn quên vì một số lý do : Bốmẹ không soan sách vỡ giúp con, con mất đồ dùng học tập bố mẹ chưa kịpmua, tự trẻ soạn sách vỡ nên bỏ sót đồ dùng học tậpKhó khăn trong mối quan hệTại môi trường phổ thông xuất hiện các mối quan hệ mới, tính chấtgiữa các mối quan hệ cũng khác so với trường mầm non.Quan hệ với giáo viên : Ở trường mầm non, mối quan hệ giữa cô giáovà trẻ là mối quan hệ gần gũi “ Cô giáo là mẹ hiền và các cháu là con”. Trẻbộc lộ tình cảm với cô một cách tự nhiên như “ Nhõng nhẽo”, “ Âu yếm”.Côkhuyến khích động viên trẻ tình cảm, bằng sự trìu mến, nhẹ nhàng. Nhưngkhi đến tiểu học, mọi chú ý đều hướng đến cô giáo dù trẻ chán nản, có thíchcô hay không thì vẫn phải đối diện với cô bằng sự lễ phép và vâng lời. Quanhệ với cô giáo mang tính chất công việc dù cô có niềm nở, gần gũi thì trẻcũng khá rụt rè trước cô. Bởi vì, giáo viên tiểu học là người dạy dỗ, mangtính “ Uy quyền”, nghiêm khắc, có những quy tắc nhất định của hành vi…Giáo viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá hành vi của trẻ, do vậy trẻ sẽ cócảm giác rụt rè, sợ hãi cô giáo là điều không tránh khỏi.Quan hệ với các bạn mới : Quan hệ bạn bè không phải là quan hệ củatrò chơi tập thể, hòa hợp, vui vẽ mà là những hoạt động mang tính cá nhâncao hơn. Tính chất ganh đua mạnh mẽ [ Điểm số, đánh giá thứ bậc…]. Lúcnày giáo viên là cầu nối. Nếu giáo viên đảm bảo công bằng sẽ có các mốiquan hệ êm đẹp và ngược lại giữa các trẻ dễ dàng nãy sinh sự ganh tị, mấtđoàn kết. Một số trẻ không hòa nhập được do tính rụt rè sẽ trở nên cô lập.Bên cạnh đó, hiện tượng “ Ăn hiếp” chia phe bạn bè cũng có thể nảy sinh dosự khác biệt về tính tự tin, khả năng làm chủ và khẳng định bản thân ở mỗitrẻ.Quan hệ với học sinh lớp trên : Trẻ luôn sợ hãy, luôn cảm tưởng bịbắt nạt khi giao tiếp. Trẻ cảm thấy mình bé bỏng hơn các anh chị nên có tháiđộ tránh né anh chị lớp trên. Điều này vừa thôi thúc trẻ nổ lực để trở thànhđàn anh đàn chị nhưng vừa cảm thấy không an toàn khi giao tiếp với đànanh, đàn chị.Quan hệ của trẻ với gia đình : Trẻ có vị thế xã hội mới, cảm thấykhác đi trong mối quan hệ gia đình. Phải có góc học tập riêng, có thời gianlàm bài, trẻ cảm thấy lớn hẳn lên, có trách nhiệm mới, có những đòi hỏi mới,gia đình cần đáp ứng nếu không trẻ sẽ trở nên ích kỉ, lấy chuyện học để quấynhiễu, vòi ĩnh người lớn. Trẻ thực hiện nghĩa vụ học tập của mình dưới sựnhắc nhở của người lớn, trẻ thường xuyên được kiểm tra bài vở và có thểbị trách mắng nhiều hơn do tính học tập chủ động chưa được hình thành.Thông thường, khi bước vào lớp 1, trẻ khó có thể quen ngay với việcphải xa bố mẹ để hòa nhập vào môi trường mới, với nhiều áp lực, vì trướcđó trẻ đã được bao bọc nhiều hơn ở nhà cũng như ở trường mầm non. Trẻ cóthể sẽ rơi vào một cuộc “khủng hoảng” khi chuyển từ hoạt động chơi là chủđạo sang hoạt động học. Các em bị áp lực từ việc phải ngồi yên mỗi tiết 35phút, áp lực điểm số, bên cạnh đó là hàng loạt những quy tắc, quy định màtrước đây các em chưa biết. Do đó, trẻ có thể phát sinh những lo sợ như sợbị tổn thương cơ thể, sợ phạm lỗi, sợ bị phạt, sợ phải xa mẹ... Nếu khôngđược giúp đỡ, “khủng hoảng” của trẻ sẽ “lặn” vào trong và tạo thành nhữngức chế tâm lí. Đến khi trẻ coi môi trường mới trở thành mối đe dọa, trẻ sẽtruyền cảm xúc giận dữ, những phản ứng tiêu cực như khóc lóc, la hét, ăn vạvề phía bố mẹ. Khi đó, bố mẹ nghĩ rằng trẻ không ngoan, không nghe lờinhư trước nên dễ gây ra những rạn nứt trong mối quan hệ bố mẹ - con cái.Về mặt tâm lí lứa tuổi, những biểu hiện đó là hoàn toàn bình thường. Tuynhiên, nếu điều đó xảy ra liên tục trong thời gian dài thì đó có thể là nguy cơtiềm ẩn của những rối loạn tâm lí tuổi nhỏ hoặc chính là sự mong muốn thỏamãn cái tôi, đòi hỏi cha mẹ chiều chuộng, đáp ứng. Nếu không được thỏamãn và đáp ứng đúng cách, có khả năng những phản ứng tiêu cực sẽ giatăng.Hiện nay, ở các thành phố lớn, có nhiều gia đình cho con đi học trướcchương trình để con được chọn vào lớp và trường tốt… Điều này chưa phùhợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ, khiến trẻ khó thích nghi hoặc trở nên losợ vì không đáp ứng được mong muốn của cha mẹ. Từ đó dẫn đến, khi đihọc lớp 1, trẻ lại càng bị áp lực nặng nề hơn, và luôn nghĩ đến nỗi lo sợ đihọc trước đó của mình.Đáng chú ý là, trước khi xuất hiện tâm lí lo âu ở trẻ, sự lo âu lạithường xuất hiện ở cha mẹ trước. Người mẹ sợ con đi học sẽ bị ốm, nếu ởbán trú thì ăn uống không hợp, lo con phải vào môi trường mới... Nhữngbiểu hiện lo lắng đó thường được bộc lộ ra trong gia đình. Trẻ tiếp thu và“nhập tâm” cảm giác đó rất nhanh và điều này đã cản trở trẻ trong quá trìnhhòa nhập.Những trẻ có tâm lí lo âu quá mức sẽ có biểu hiện không tập trung, sợsự hiện diện của người lạ [như cô giáo, bạn bè], dẫn đến tình trạng trẻ khôngchịu đi học kéo dài, chỉ muốn ở nhà với người thân, khó hòa nhập với môitrường mới. Có những trẻ trở nên rụt rè, từ chối tham gia chơi nhóm, cáchoạt động tập thể. Nhiều trẻ còn bị ảnh hưởng đến giấc ngủ, sợ bóng tối, sợma, khó ngủ, thường gặp ác mộng. Nếu tâm lí lo âu kéo dài và trở nên trầmtrọng hơn sẽ dẫn đến các triệu chứng cơ thể như run tay chân, buồn nôn, đauđầu, đau bụng, chóng mặt, hoảng loạn. Tình trạng đó nếu không được cảithiện sớm sẽ dẫn tới hậu quả là trẻ thiếu tự tin, nhút nhát, ngại giao tiếp vớingười xung quanh và dễ bị cô lập vì không có bạn chơi cùng.Để phòng ngừa và hạn chế tâm lí lo âu của trẻ khi vào lớp 1, gia đìnhvà nhà trường cần cùng trẻ xây dựng thói quen kĩ năng tự thực hiện một sốcông việc phù hợp với độ tuổi của mình, khuyến khích, động viên trẻ thamgia các hoạt động tập thể, khen ngợi những điểm tích cực, chia sẻ với trẻtrong các tình huống hàng ngày để trẻ tự tin, hòa nhập với môi trường mới.Nói chung trong quan hệ này, trẻ nảy sinh nhiều trạng thái tâm lýkhác nhau. Nếu trẻ thoải mái, tự tin, thích ứng tốt thì sẽ thuận lợi cho mọiviệc họa tập, Ngược lại trẻ sẽ khép mình và làm giảm các khả năng liên kết,nhận thức trong học tập và đây là những khó khăn tồn tại khá lâu dài nếukhông có biện pháp tác động hiệu quả.Khó khăn trong việc thay đổi cách học :Vào lớp 1, nảy sinh mâu thuẩn trong mối quan hệ giữa trình độ pháttriển của trẻ và nhu cầu của nhiệm vụ học tập mới. Trẻ phải lĩnh hội các trithức khoa học vừa trừu tượng, vừa khái quát, trong khi tư duy của trẻ lạichưa vượt qua được trình độ tư duy trực quan cụ thể, nhận thức còn hết sựccảm tính, rất khó khăn khi đi sâu tìm hiểu khám phá cấu trúc logic, bản thâncủa đối tượng lĩnh hội. Trẻ phải giải quyết nhiệm vụ nhờ vào tư duy trừutượng, lĩnh hội tri thức một cách băt buộc với sự tham gia của tính chủ địnhcủa các qua trình tâm lí. Nhưng ở bước ngoặt 6 tuổi, tư duy trừu tượng chỉmới bắt đầu phát triển, tính chủ định của các quá trình tâm lí mới được hìnhthành bước đầu. Vì vậy, việc lĩnh hội của trẻ sẽ gặp không ít khó khăn nếukhông có sự chuẩn bị trướcXuất phát từ khó khăn trên, người lớn cần tập cho trẻ làm việc trí óc,biết chuyển các hành động bên ngoài thành hành động bên trong tư duy vàkết quả học tập phụ thuộc rất nhiều vào kết quả này. Các yêu cầu về tư thếngồi học, cách cầm bút, thực hiện các hiệu lệnh học tập, cách làm bài kiểmtra…là những khó khăn không nhỏ với trẻPhần lớn các em quen với lối sống tự do, thiếu những kĩ năng giaotiếp xã hội, chưa quen thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập.Khả năng tập trung, chấp hành những qui định chung và theo sự chỉdẫn của người lớn còn nhiều hạn chế.Các em hầu như chưa được xây dựng thói quen học tập tự giác, đặcbiệt là biết cách tự họcỞ mỗi trẻ sẽ xuất hiện những khó khăn khác nhau do sự khác biệt vàphát triển tâm lí. Thấy khó khăn để tìm ra biện pháp giúp đỡ trẻ và chuẩn bịtâm lí cho trẻ trước những khó khăn đó là nổ lực của cả gia đình và của cảnhững người quan tâm đến công tác giáo dục ở nhà trường mầm non.Khó khăn về ngôn ngữNgôn ngữ là vỏ của tư duy, là phương tiện giao tiếp và chiếm lĩnh trithức do đó học sinh sẽ rất khó khăn để học tập nếu không được sẵn sàng vềmặt ngôn ngữ. Việc ít hoặc không nói được tiếng Việt càng khắc sâu tâm lílo sợ, rụt rè, nhút nhát trong giao tiếp của các em. Qua đây cho thấy, điểmthen chốt trong việc chuẩn bị tâm thế cho các em vào lớp một là việc sửdụng ngôn ngữ viết, đọc và nói rõ ràng , tròn câu. Như vậy, để nâng cao chấtlượng Giáo dục phổ thông ngay từ đầu phải chú trọng đến phát triển kĩ năngnghe nói, đọc cho học sinh mầm non. Mặc dù Nhà nước đã có những chươngtrình và chính sách hỗ trợ tiếng Việt cho học sinh mầm non nhưng trên thựctế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.Trẻ hiểu được lời nói của người khác, biết sử dụng lời nói để giao tiếpvà có hiểu biết ban đầu với việc viết. Tuy nhiên, phụ huynh cũng đừng vộibắt em hoặc gây áp lực cho con với con số và chữ. Nếu con chưa muốn họcmà vội bắt ép thì trẻ sẽ căng thẳng, mất hứng thú và có tâm lý sợ học. Để trẻhào hứng với việc học, bước đầu tiên có thể tạo điều kiện cho trẻ làm quenvới chữ, số thông qua hình thức trò chơi.Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ 2, đầy mới mẻ và lạ lẫm.Vốn từ ít, khả năng nghe nói hạn chế. Chuẩn bị vào lớp 1 mà nhiềuem vẫn chưa biết hoặc chưa thuộc chữ cái.Gặp rào cản ngôn ngữ trong học tập và tiếp thu lời giảng của giáoviên.Đôi khi sự quan tâm quá mức của người lớn đã biến thành những áplực học tập đối với các em, tác động xấu đến hiệu quả giáo dục chung. Nhiềuem trước khi vào lớp một đã đọc thông viết thạo; việc học của các em trởthành cuộc chạy đua của các bậc phụ huynh.Về mặt thể chấtHồ Chí Minh đã từng nói “ Một tinh thần minh mẫn trong một thânthể khỏe mạnh". Một thể chất khỏe mạnh là tiền đề để các em có thể tiếpthu, hoạt động tốt. Nhưng trên thực tế, ở các tỉnh, huyện miền núi, tỉ lệ họcsinh suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ cao, thậm chí rất cao.Ngoài việc phát triển chiều cao, trọng lượng cơ thể, học sinh còn nênđược rèn luyện sự bền bỉ, dẻo dai, có khả năng chống lại sự mệt mỏi củathần kinh, cơ bắp; độ khéo léo của bàn tay, tính nhanh nhạy của các giácquan… để thích nghi với trường tiểu học. Nhưng đáng tiếc, những điều nàyhọc sinh chưa học qua mẫu giáo hầu hết không được chú ý trang bị, rènluyện.Tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cao, một số trẻ khi lên lớp 1 cáccháu nhỏ hơn so với độ tuổi, các cháu ngồi chưa tới bàn học, việc viết bàicủa các cháu rất khó khăn, Rất nhiều cháuKhác với thời gian biểu ở khối mầm non chủ yếu là ăn ngủ và chơi,lên đến tiểu học, các học sinh cần có đầy đủ năng lượng cho trí não duy trìsự tập trung tiếp nhận được kiến thức. Vì vậy khi đến trường áp lực về thểchất rất lớn, phụ huynh cần làm sao để trẻ không mệt và cảm thấy sảngkhoái. Do đó, việc xen kẽ các hoạt động thể dục thể thao, nâng cao thể chấtở nhà và trường học rất quan trọng. Phụ huynh có thể hướng dẫn trẻ nhữngviệc nhỏ để giúp đỡ bố mẹ, đồng thời rèn luyện cơ thể.Khó khăn về mặt kĩ năng:Để có được kết quả học tập tốt nhất khi vào học lớp 1, học sinh cầnđược chuẩn bị những kĩ năng giao tiếp xã hội, kĩ năng hoạt động, học tập....Đối với trẻ 5 tuổi, hoạt động vui chơi đang giữ vai trò chủ đạo; nhưng khivào lớp 1, trẻ phải làm nhiệm vụ của một học sinh - hoạt động chủ yếu làhọc tập, lại mang tính chất bắt buộc, có tổ chức chặt chẽ, mục đích, kếhoạch. Trong khi đó, trẻ em học ở mẫu giáo phần lớn đã quen với lối sống tựdo, không bị bó buộc vào một khuôn khổ nào, thiếu những kĩ năng giao tiếpxã hội. Các em chưa quen thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập. Khả năngtập trung, chấp hành những qui định chung và theo sự chỉ dẫn của người lớncòn nhiều hạn chế. Các em hầu như chưa được xây dựng thói quen học tậptự giác, đặc biệt là biết cách tự học. Thực tế này đặt ra vấn đề cần hình thànhnhững kĩ năng thiết yếu cho học sinh mần non miền núi để các em bắt nhịptốt với trường tiểu học.Khó khăn về mặt tâm lý xã hội :Lúc này trẻ nhận thức được về bản thân như tên mình và bố mẹ, anhchị em, số điện thoại/địa chỉ gia đình; cảm thấy thân thiện hoặc xa lạ vớinhững người mới. Chuẩn bị tâm lý giúp trẻ tin tưởng vào khả năng của mìnhđể khi rời bố mẹ mà không bị căng thẳng... Cũng như trẻ biết cảm nhận vàthể hiện cảm xúc, có mối quan hệ tích cực với bạn bè, người lớn.Vì vậy việc chuẩn bị để giảm bớt những khó khăn cho trẻ trong thờigian đầu lớp 1 không phải chỉ là việc chon trường, lớp hay cho trẻ làm quenvới đọc và viết, mà các bậc phụ huynh phải chú ý chuẩn bị tâm lý cho concủa mình. Đặc biết việc giáo dục nề nếp, phương pháp học tập cho con rấtquan trọng, vì nó ảnh hưởng đến kết quả học tập trước mắt và lâu dài. Hơnthế khi đã thành nếp, thành thói quen thì rất khó thay đổi.Ngày nay, các bậc phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập của con,nhất là con em mình ở những mốc quan trọng, những giai đoạn chuyển tiếp.Tuy nhiên, chúng ta nên tìm hiểu để thể hiện sự quan tâm đúng và có hiệuquả mới có ích cho con em của chúng ta. Những điều cha mẹ nên làm để giúp đỡ con :Tập cho trẻ có thói quen tự lập biết tự làm vệ sinh cá nhân, tự phục vụbản thân ở những việc đơn giản, hướng dẫn cho trẻ một vài sinh hoạt cánhân: Đi vệ sinh, lau chùi, kéo quần có khóa… Tốt nhất, nên tập cho con đingủ đúng giờ, điều chỉnh dần giờ giấc sao cho khi đi học bé có thể dễ dàngdậy đúng giờ vào buổi sáng mà không lè nhè.Ở nhà, dành cho trẻ một góc học tập tre trẻ có ý thức sắp xếp sáchtruyện cho gọn gàng. Cha mẹ có thể mua truyện với nội dung giáo dục gầngũi với trường tiểu học để đọc cho con mỗi tối.Để trẻ có được sự háo hức và hào hứng với trường học mới cha mẹhãy cho con em mình làm quen với nếp sinh hoạt của trường tiểu học và cầntrang bị cho trẻ những kỹ năng tự lập cũng như chuẩn bị tâm lý để trẻ tự tinvà nhanh chóng hòa nhập với việc học tập ở trường tiểu học. Trước hết,chúng ta cần tạo cho con một tâm lí tốt bằng những lời tâm sự gần gũi:“Chà, con trai [con gái] của mẹ đã lớn rồi, sắp trở thành học sinh lớp Một rồiđấy!”. “Con à, là học sinh lớp Một đấy nhé, chứ không phải là bé của trườngMầm non nữa đâu!”. Bé của bạn chắc sẽ vui và tự thấy mình đã lớn.Hãy dành thời gian làm bạn với con, trò chuyện với con về ngôitrường mà cả gia đình và bé đã dự định. Tránh những câu chuyện đã đượcnghe kể chưa hay về cô giáo, lớp học trước mặt trẻ để trẻ nghe thấy. Tai hạilắm đấy, trẻ có vẻ như không nghe nhưng lại rất hay “hóng” chuyện củangười lớn đấy.Bố mẹ nên đưa con đi sắm đồ dùng học tập, cặp sách, vở, bút…nhưng đừng quên hãy để con lựa chọn. Tuy nhiên, bố mẹ chú ý giúp conchọn những chiếc cặp nhẹ nhàng, dễ mở, tiện sử dụng, hợp với tuổi nhỏ củabé. Cả nhà cùng bé chuẩn bị góc học tập sáng sủa, gọn gàng, đẹp mắt. Mỗibuổi tối, cha mẹ cần dành thời gian hướng dẫn trẻ cách sắp xếp sách vở, đồdùng học tập cho buổi học ngày mai, hướng dẫn trẻ cách học ở nhà để từngbước xây dựng thói quen học tập tự giác, đặc biệt là biết cách tự học.Không ép trẻ phải học trước song để trẻ tự tin khi bước vào môitrường học tập mới, nhiều phụ huynh đã trang bị cho con những kiến thức vàkỹ năng phù hợp với lứa tuổi. Điều này rất quan trọng để trẻ hào hứng vàmạnh dạn khi bước vào trường tiểu học. Phụ huynh có thể mỗi ngày dànhkhoảng 30 phút để dạy cho con những kiến thức cơ bản. Ngoài những cuốntập tô giúp tay trẻ cử động một cách mềm mại, uyển chuyển; phụ huynh còncó thể tìm những cuốn sách dành cho giáo viên lớp 1 để biết những hướngdẫn chính xác về từng nét chữ, cách ghép vần... Khi đã sử dụng bút viếtnhuần nhuyễn thì cho trẻ sử dụng vở tập viết lớp 1, nhưng chú ý là vở dạng 4ô li để quen với các nét chữ trong chương trình tiểu học.Khi trẻ vào học, phụ huynh nên quan tâm đến tâm trạng của trẻ, hỏihan tâm sự với trẻ về bạn bè, trường lớp. Thực tế cho thấy, nhiều phụ huynhđón trẻ ở trường về không hỏi han cô giáo con như thế nào, hôm nay conlàm quen với bạn nào... mà chỉ chăm chăm muốn biết "bài Toán, bài tập đọcở trường con được mấy điểm". Áp lực thành tích như vậy là quá sức với trẻnhỏ… Bởi, những trẻ được củng cố sự tự tin sẽ học tốt hơn. Theo tiến sĩBưởi, cha mẹ cần lưu ý một số việc sau để chuẩn bị tâm lý cho con trước khivào lớp một:Trước hết, cha mẹ cần phải làm cho bé cảm thấy thích thú khi được đihọc. Cha mẹ nên kể cho bé nghe những điều hay về trường lớp và thầy cô.Hãy kể cho con nghe một ngày đến trường của trẻ sẽ diễn ra như thế nàobằng những câu chuyện vui mà bạn có thể nghĩ ra.Bạn có thể đưa con đi thăm trường, lớp trước khi con chuẩn bị đi học.Giới thiệu lớp học của bé, có những lối đi nào để bào lớp, bàn ghế được sắpxếp như thế nào.Nói cho con biết trước những thay đổi có thể xảy ra khi trẻ chuyển từmẫu giáo lên tiểu học. Chẳng hạn bé phải dậy sớm để đi học đúng giờ, phảilàm bài tập về nhà, tự xúc lấy ăn mà cô giáo không giúp, khi đi vệ sinh cầnxin phép cô như thế nào...Khi bé lần đầu tiên đi học, bạn nên cho trẻ làm quen với trường lớp vàcô giáo một cách từ từ. Bạn hãy ở bên con một vài tiếng đầu trong lớp vào.Trong những tuần đầu đi học, bạn nên cho trẻ đi học buổi sáng và đến trưađón con về.Ngoài ra, cha mẹ cũng cần lưu ý đến đón con đúng giờ. Vì khi đã hết giờhọc bé thấy các bạn được bố mẹ đón về trước sẽ thấy lo lắng. Nếu điều kiệnkhông cho phép bạn nên giải thích để bé hiểu.Tạo không khí vui vẻ trong gia đình và mong chờ đến ngày đầu tiên đihọc bằng cách tất cả các thành viên trong gia đình đều hết sức quan tâm đếnngày khai trường của bé.*********************&***********************

Video liên quan

Chủ Đề