Sản xuất công nghiệp thường được chia thành máy giai đoạn

Vì sao ngành công nghiệp cơ khí được xem là quả tim của công nghiệp nặng?

Đâu là nhược điểm lớn nhất của ngành đường ôtô?

Quốc gia nào có cây cầu dài nhất thế giới trong các quốc gia dưới đây?

Vì sao hoạt động thương mại có vai trò hướng dẫn tiêu dùng?

Hải cảng lớn nhất trên thế giới hiện nay là hải cảng nào dưới đây?

Quốc gia nào sau đây có chiều dài đường sắt dài nhất thế giới?

Nhân tố nào dưới đây ảnh hưởng tới sức mua, nhu cầu dịch vụ?

Nước nào có hệ thống đường ống dài và dày đặc nhất thế giới?

Tại sao các hoạt động thương mại có tác dụng điều tiết sản xuất?

Vì sao ngành hàng không có khối lượng vận chuyển hàng hóa nhỏ nhất?

Sơ đồ trên phù hợp với hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp nào sau đây?

Khí hậu có ảnh hưởng lớn nhất tới khía cạnh nào của sản xuất nông nghiệp?

Vì sao ở các nước đang phát triển chăn nuôi còn chiếm tỉ trọng nhỏ?

Cần phải xây dựng cơ cấu nông nghiệp hợp lý, đa dạng hoá sản xuất vì

Sản xuất công nghiệp có tính chất hai giai đoạn là do yếu tố nào dưới đây?

Vì sao ngành điện nguyên tử rất tiện lợi nhưng lại chậm phát triển?

Vì sao sản lượng than trên thế giới có xu hướng tăng lên?

Tại sao ngành luyện kim màu thường phát triển mạnh ở các nước phát triển?

Tại sao phần lớn các cảng biển đều nằm ở Đại Tây Dương?

Quá trình sản xuất công nghiệp thường được chia thành bao nhiêu giai đoạn?

A. 2 giai đoạn

B. 3 giai đoạn

C. 4 giai đoạn

D. 5 giai đoạn

Bất kỳ một sự vật hiện tượng đều trải qua một quá trình ra đời, phát triển, ổn định và lụi tàn. Nếu như con người thì trải qua sinh- lão- bệnh- tử là một vòng đời thì ngành công nghiệp cũng trải qua vòng đời bao gồm các giai đoạn khác nhau, gọi tổng quát là vòng đời ngành công nghiệp.

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Vòng đời của ngành công nghiệp là gì?

Vòng đời của một ngành mô tả các giai đoạn khác nhau nơi các doanh nghiệp hoạt động, tiến triển và tụt dốc trong một ngành. Một vòng đời của ngành thường bao gồm năm giai đoạn – khởi động, tăng trưởng, rũ bỏ, trưởng thành và suy tàn. Các giai đoạn này có thể kéo dài trong những khoảng thời gian khác nhau – một số có thể vài tháng, một số có thể vài năm.

Các mô hình vòng đời không chỉ là một hiện tượng của khoa học sự sống. Các ngành công nghiệp trải qua một chu kỳ sống tương tự. Giống như một người sinh ra, lớn lên, trưởng thành và cuối cùng trải qua sự suy tàn và cuối cùng là cái chết, thì các ngành và dòng sản phẩm cũng vậy. Các giai đoạn đều giống nhau đối với tất cả các ngành, nhưng mọi ngành sẽ trải qua các giai đoạn này khác nhau, chúng sẽ kéo dài hơn đối với một số và trôi qua nhanh chóng đối với những ngành khác. Ngay cả trong cùng một ngành, các công ty khác nhau có thể ở các giai đoạn vòng đời khác nhau. Kế hoạch chiến lược của công ty có khả năng bị ảnh hưởng lớn bởi giai đoạn trong chu kỳ sống mà tại đó công ty phát triển. Một số công ty hoặc thậm chí các ngành công nghiệp tìm thấy cách sử dụng mới cho các sản phẩm đang giảm sút, do đó kéo dài vòng đời của chúng.

Sự tăng trưởng doanh số bán hàng của một ngành theo thời gian được sử dụng để biểu đồ vòng đời. Các giai đoạn khác nhau của chu kỳ sống của ngành là: giới thiệu, tăng trưởng, trưởng thành và suy tàn. Doanh số bán hàng thường bắt đầu chậm ở giai đoạn giới thiệu, sau đó tăng trưởng nhanh chóng trong giai đoạn tăng trưởng. Sau khi chững lại khi trưởng thành, doanh số bán hàng bắt đầu giảm dần. Ngược lại, lợi nhuận nói chung tiếp tục tăng trong suốt vòng đời, khi các công ty trong ngành tận dụng lợi thế của chuyên môn và lợi thế về quy mô và phạm vi để giảm chi phí đơn vị theo thời gian.

2. Các giai đoạn của vòng đời ngành công nghiệp:

2.1. Giai đoạn khởi động [mở đầu]:

Trong giai đoạn khởi động của chu kỳ ngành, một ngành đang ở giai đoạn sơ khai. Có lẽ một sản phẩm mới, độc đáo đã được phát triển và được cấp bằng sáng chế, do đó bắt đầu một ngành công nghiệp mới. Một số nhà phân tích thậm chí còn thêm giai đoạn phôi thai trước khi giới thiệu. Ở giai đoạn khởi động, công ty có thể là một mình trong ngành. Nó có thể là một công ty kinh doanh nhỏ hoặc một công ty đã được chứng minh sử dụng quỹ nghiên cứu và phát triển và chuyên môn để phát triển một cái gì đó mới. Tiếp thị đề cập đến việc cung cấp sản phẩm mới trong một ngành mới là “dấu chấm hỏi” bởi vì sự thành công của sản phẩm và tuổi thọ của ngành là chưa được chứng minh và chưa được biết đến.

Ở giai đoạn khởi động, nhu cầu của khách hàng bị hạn chế do chưa quen với các tính năng và hiệu suất của sản phẩm mới. Các kênh phân phối vẫn chưa phát triển. Ngoài ra còn thiếu các sản phẩm bổ sung làm tăng giá trị cho khách hàng, hạn chế lợi nhuận của sản phẩm mới.

Một công ty sẽ sử dụng chiến lược tập trung vào giai đoạn này để nhấn mạnh tính độc đáo của sản phẩm hoặc dịch vụ mới đối với một nhóm nhỏ khách hàng. Những khách hàng này thường được gọi trong tài liệu tiếp thị là “những người đổi mới” và “những người chấp nhận sớm”. Các chiến thuật tiếp thị trong giai đoạn này nhằm giải thích sản phẩm và công dụng của nó cho người tiêu dùng và do đó tạo ra nhận thức về sản phẩm và ngành.

Vì tốn kém tiền bạc để tạo ra một sản phẩm mới, phát triển và thử nghiệm các nguyên mẫu, và tiếp thị sản phẩm, lợi nhuận của công ty và của ngành thường âm ở giai đoạn này. Bất kỳ lợi nhuận nào tạo ra thường được tái đầu tư vào công ty để củng cố vị thế của công ty và giúp tài trợ cho sự tăng trưởng liên tục. Việc giới thiệu đòi hỏi một khoản chi tiền mặt đáng kể để tiếp tục thúc đẩy và tạo sự khác biệt cho việc cung cấp và mở rộng quy trình sản xuất từ ​​một cửa hàng việc làm sang có thể là một luồng hàng loạt. Nhu cầu thị trường sẽ tăng lên kể từ khi được giới thiệu, và khi đường cong vòng đời tăng trưởng với tốc độ ngày càng cao, ngành công nghiệp này được cho là đang bước vào giai đoạn tăng trưởng. Các công ty cũng có thể tập hợp gần nhau trong giai đoạn đầu của vòng đời ngành để có quyền truy cập vào các vật liệu quan trọng hoặc chuyên môn công nghệ.

2.2. Giai đoạn phát triển:

Khi sản phẩm dần thu hút sự chú ý từ một phân khúc thị trường lớn hơn, ngành này sẽ chuyển sang giai đoạn tăng trưởng khi lợi nhuận bắt đầu tăng lên. Cải tiến về tính năng của sản phẩm làm tăng giá trị cho khách hàng. Các sản phẩm bổ sung cũng bắt đầu có sẵn trên thị trường, vì vậy mọi người có lợi ích lớn hơn khi mua sản phẩm và các sản phẩm bổ sung của nó. Khi nhu cầu tăng lên, giá sản phẩm giảm, điều này càng làm tăng nhu cầu của khách hàng.

Giống như giai đoạn giới thiệu, giai đoạn tăng trưởng cũng cần một lượng vốn đáng kể. Mục tiêu của các nỗ lực tiếp thị ở giai đoạn này là để phân biệt các dịch vụ của một công ty với các đối thủ cạnh tranh khác trong ngành. Do đó, giai đoạn tăng trưởng đòi hỏi các quỹ phải thực hiện một chiến dịch tiếp thị mới tập trung cũng như các quỹ để tiếp tục đầu tư vào bất động sản, nhà máy và thiết bị để tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng theo yêu cầu của thị trường. Tuy nhiên, ngành công nghiệp đang trải qua quá trình tiêu chuẩn hóa sản phẩm nhiều hơn ở giai đoạn này, điều này có thể khuyến khích tính kinh tế theo quy mô và tạo điều kiện phát triển bố cục dây chuyền để đạt hiệu quả sản xuất.

Trong giai đoạn này, nếu công ty thành công trên thị trường, nhu cầu ngày càng tăng sẽ tạo ra tăng trưởng doanh số. Thu nhập và các tài sản đi kèm cũng sẽ tăng trưởng và lợi nhuận sẽ khả quan cho các công ty.

Thời gian của giai đoạn tăng trưởng, cũng như tất cả các giai đoạn khác, phụ thuộc vào ngành hoặc dòng sản phẩm cụ thể. Như đối với mặt hàng quần áo, đồ chơi trong mùa lễ hội có thời gian tăng trưởng rất ngắn. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm khác, giai đoạn tăng trưởng có thể kéo dài hơn do sản phẩm thường xuyên được nâng cấp và cải tiến khiến tất cả các sản phẩm chuyển sang giai đoạn trưởng thành. Ngành công nghiệp máy tính ngày nay là một ví dụ về một ngành có giai đoạn tăng trưởng dài nhờ những nâng cấp về phần cứng, dịch vụ và các sản phẩm và tính năng bổ sung.

Trong giai đoạn tăng trưởng, đường cong chu kỳ sống rất dốc, cho thấy tốc độ tăng trưởng nhanh. Các công ty có xu hướng phân tán về mặt địa lý trong giai đoạn này của chu kỳ sống và tiếp tục phân tán trong giai đoạn trưởng thành và suy thoái.

2.3. Giai đoạn lắc:

Giai đoạn lắc [rung chuyển] thường đề cập đến sự hợp nhất của một ngành. Một số doanh nghiệp đương nhiên bị đào thải vì không thể phát triển cùng ngành hoặc vẫn đang tạo ra dòng tiền âm. Một số công ty hợp nhất với các đối thủ cạnh tranh hoặc được mua lại bởi những người có khả năng giành được thị phần lớn hơn ở giai đoạn tăng trưởng.

Ở giai đoạn rung chuyển, tốc độ tăng trưởng của doanh thu, dòng tiền và lợi nhuận bắt đầu chậm lại khi ngành này gần đến kỳ hạn thanh toán.

2.4. Giai đoạn trưởng thành:

Ở giai đoạn chín muồi, phần lớn các công ty trong ngành đã có uy tín và ngành đã đạt đến ngưỡng bão hòa. Các công ty này tập thể cố gắng tiết chế cường độ cạnh tranh trong ngành để bảo vệ mình và duy trì lợi nhuận bằng cách áp dụng các chiến lược để ngăn chặn sự gia nhập của các đối thủ mới vào ngành. Họ cũng phát triển các chiến lược để trở thành người chơi thống trị và giảm bớt sự cạnh tranh.

Ở giai đoạn này, các công ty nhận ra doanh thu, lợi nhuận và dòng tiền tối đa vì nhu cầu của khách hàng là khá cao và nhất quán. Sản phẩm ngày càng trở nên phổ biến và được công chúng ưa chuộng, giá cả khá hợp lý so với các sản phẩm mới.

Khi ngành gần đến tuổi trưởng thành, đường cong vòng đời của ngành trở nên phẳng hơn đáng kể, cho thấy tốc độ tăng trưởng đang chậm lại. Một số chuyên gia đã gắn nhãn một giai đoạn bổ sung, được gọi là mở rộng, giữa tăng trưởng và trưởng thành. Trong khi doanh số bán hàng ngày càng mở rộng và thu nhập đang tăng lên từ các sản phẩm “bò tiền mặt” này, tốc độ đã chậm lại so với giai đoạn tăng trưởng. Trên thực tế, tốc độ mở rộng bán hàng thường tương đương với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.

Một số cạnh tranh từ những người tham gia muộn sẽ rõ ràng và những người mới tham gia này sẽ cố gắng đánh cắp thị phần từ các sản phẩm hiện có. Do đó, nỗ lực tiếp thị phải duy trì mạnh mẽ và phải nhấn mạnh các tính năng độc đáo của sản phẩm hoặc công ty để tiếp tục phân biệt các dịch vụ của công ty với các đối thủ cạnh tranh trong ngành. Các công ty có thể cạnh tranh về chất lượng để tách sản phẩm của mình khỏi các dịch vụ khác có chi phí thấp hơn, hoặc ngược lại, công ty có thể thử chiến lược chi phí thấp / giá thấp để tăng khối lượng hàng bán và kiếm lợi nhuận từ việc luân chuyển hàng tồn kho. Một công ty ở giai đoạn này có thể dư thừa tiền mặt để trả cổ tức cho các cổ đông. Nhưng trong các ngành công nghiệp trưởng thành, thường có ít doanh nghiệp hơn và những doanh nghiệp tồn tại sẽ lớn hơn và chiếm ưu thế hơn.

2.5. Giai đoạn suy giảm:

Giai đoạn suy giảm là giai đoạn cuối cùng của vòng đời ngành. Cường độ cạnh tranh trong một ngành suy giảm phụ thuộc vào một số yếu tố: tốc độ suy giảm, chiều cao của các rào cản rút lui và mức chi phí cố định. Để đối phó với sự suy giảm, một số công ty có thể chọn tập trung vào các dòng sản phẩm hoặc dịch vụ có lợi nhất của họ để tối đa hóa lợi nhuận và duy trì trong ngành. Một số công ty lớn hơn sẽ cố gắng mua lại các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn hoặc không thành công để trở thành người chơi thống trị. Đối với những người đang đối mặt với khoản lỗ lớn và không tin rằng có cơ hội tồn tại, thoái vốn sẽ là lựa chọn tối ưu của họ.

Video liên quan

Chủ Đề