Sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính? rút ra ý nghĩa phương pháp luận?

Khái niệm nhận thức cảm tính là gì ? Nhận thức lý tính là gì ? Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính ? Bài tập học kỳ tâm lý học đại cương .

1. Nhận thức cảm tính là gì? Nhận thức lý tính là gì?

Nhận thức là quy trình tâm ý phản ánh hiện thực khách quan và bản thân con người trải qua những giác quan và dựa trên kinh nghiệm tay nghề hiểu biết của bản thân. Nhận thức ở mức độ thấp là nhận thức cảm tính, ở mức độ cao hơn là nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính có quan hệ ngặt nghèo với nhau, bổ trợ cho nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng một hoạt động giải trí thống nhất của con người.

Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên, thấp nhất của con người. Trong đó con người phản ánh những thuộc tính bên ngoài, những cái đang trực tiếp tác động đến giác quan của họ. Nhận thức cảm tính bao gồm: cảm giác tri giác.

Bạn đang đọc: Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao ở con người, trong đó con người phản ánh những thuộc tính bên trong, những mối quan hệ có tính quy luật của hiện thức khách quan một cách gián tiếp. Nhận thức lý tín gồm có tư duy và tượng.

Sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính? rút ra ý nghĩa phương pháp luận?

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

2. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:

Giống nhau : Đều là quy trình tâm lí nên có mở màn, diễn biến và kết thúc một cách tương đối rõ ràng .. Chỉ phản ánh thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng kỳ lạ. Phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp. Đều có ở động vật hoang dã và con người

Xem thêm: Chuyên chính vô sản là gì? Nhà nước chuyên chính vô sản theo Mác – Lênin

– Là mức độ nhận thức tiên phong, sơ đẳng, cảm xúc có vai trò nhất định trong hoạt động giải trí nhận thức và hàng loạt đời sống con người. Cảm giác Tri giác – Phản ánh riêng không liên quan gì đến nhau những thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng kỳ lạ. – Là mức độ tiên phong của nhận thức cảm tính. – Cảm giác là mối liên hệ trực tiếp giữa khung hình và quốc tế xung quanh. Nhờ mối liên hệ đó mà khung hình có năng lực xu thế và thích nghi với thiên nhiên và môi trường. – Cảm giác giúp con người thu nhận nguồn tài liệu trực quan sinh động, cung ứng nguyên vật liệu cho những hoạt động giải trí tâm ý cao hơn. – Phản ánh toàn vẹn những thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng kỳ lạ. – Phản ánh sự vật, hiện tượng kỳ lạ theo cấu trúc nhất định .

Xem thêm: Quan điểm toàn diện là gì? Cơ sở lý luận, nội dung và yêu cầu?

– Gắn liền với hoạt động của con người.

Xem thêm: Tin tức đời sống online: câu chuyện đời sống, tâm sự, gia đình

– Là mức độ cao nhất của nhận thức cảm tính. – Tri giác giúp con người xu thế nhanh gọn và đúng chuẩn hơn, giúp con người kiểm soát và điều chỉnh một cách hài hòa và hợp lý hoạt động giải trí của mình trong quốc tế, giúp con người phản ánh quốc tế có lựa chọn và có tính ý nghĩa. Khác nhau : So sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính : Đều là quy trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, phát minh sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn. Khác :

Nhận thức cảm tính: 

Xem thêm: Phủ định biện chứng là gì? Các đặc điểm cơ bản của phủ định biện chứng?

Là quá trình tiên phong của quy trình nhận thức. Đó là quá trình con người sử dụng những giác quan để tác động ảnh hưởng vào sự vật nhằm mục đích chớp lấy sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm những hình thức sau : cảm xúc, tri giác, hình tượng. Đặc điểm : – Phản ánh trực tiếp đối tượng người dùng bằng những giác quan của chủ thể nhận thức. – Phản ánh vẻ bên ngoài, phản ánh cả cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái thực chất và không thực chất. — Giai đoạn này hoàn toàn có thể có trong tâm ý động vật hoang dã. – Hạn chế của nó là chưa chứng minh và khẳng định được những mặt, những mối liên hệ thực chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên quá trình cao hơn, quy trình tiến độ lý tính.

Nhận thức lý tính: là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận. 

Đặc điểm : – Là quy trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng kỳ lạ.

– Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.

– Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ ngặt nghèo với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được thực chất thật sự của sự vật.

MỞ ĐẦUNhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan và bản thâncon người thông qua các giác quan và dựa trên kinh nghiệm hiểu biết của bảnthân. Nhận thức là một quá trình quan trọng giúp con người vượt lên trên cácsinh vật khác không thể có khả năng nhận thức hoàn chỉnh. Nhờ có khả năngnhận thức mà con người tìm hiểu được bản chất của thế giới xung quanh và bảnthân từ đó có thể chủ động hành động để thay đổi xã hội theo ý mình. Việc nhậnthức có thể đạt tới những mức độ khác nhau: từ đơn giản đến phức tạp, từ thấpđến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong.Cụ thể là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy ở các mức độ khác nhaunhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhautrong cùng một hoạt động nhận thức con người. Nhận thấy được vai trò quantrọng của nhận thức nói chung và các mức độ của nhận thức nói riêng cũng nhưmối quan hệ giữa hai mức độ nhận thức cho nên chúng em xin chọn đề tài : “Phân tích mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính. Ứng dụngcủa nó trong hoạt động học tập của sinh viên”.NỘI DUNGI.Cơ sở lí luận1.Nhận thức cảm tínhNhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên và thấp nhất của conngười. Trong đó con người phản ánh những thuộc tính bên ngoài, những cáiđang trực tiếp tác động đến giác quan của họ. Nhận thức cảm tính bao gồm: cảmgiác và tri giác.1.1Cảm giác1Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bên ngoàicủa sự vật, hiện tượng và trạng thái bên trong của cơ thể khí chúng đang tácđộng trực tiếp vào giác quan của ta.Cảm giác có các đặc điểm sau: Cảm giác là quá trình nhận thức, nghĩa là cónảy sinh diễn biến và kết thúc. Kích thích gây ra cảm giác là các sự vật, hiệntượng trong hiện thực khách quan và các trạng thái tâm sinh lí của bản thân ta.-Cảm giác phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng.Cảm giác phản ánh những trạng thái bên trong của cơ thể.Cảm giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp.Cảm giác con người mang bản chất xã hội, lịch sử.1.2Tri giácTri giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính củasự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan ta.Tri giác có những đặc điểm cơ bản sau:-Tri giác là một quá trình nhận thức, tức là có nảy sinh diễn biến và kết thúc.Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn.Tri giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp.Tri giác của con người mang bản chất xã hội, lịch sử.Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính.2. Nhận thức lí tínhNhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao ở con người, trong đó con ngườiphản ánh những thuộc tính bên trong, những mối quan hệ có tính quy luật củahiện thực khách quan một cách gián tiếp. Nhận thức lý tính bao gồm: tư duy vàtưởng tượng.2.1Tư duyTư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, nhữngmối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật và hiện tượng tronghiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.2Tư duy có các đặc điểm cơ bản: tính có vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu tượngvà tính khái quát hóa, tư duy gắn liền với ngôn ngữ, tư duy liên hệ với nhận thứccảm tính.2.2Tưởng tượngTưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng cótrong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng hình ảnh mới trên cơ sởnhững biểu tượng đã có.Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có cùng đối tượng phản ánh, cùngchung chủ thể phản ánh và cũng do thực tiễn quy định. Nhận thức cảm tính vànhận thức lý tính là hai giai đoạn hợp thành quá trình nhận thức, do vậy chúng cómối quan hệ chặt chẽ với nhau.II. Giải quyết vấn đề1.Nhận thức cảm tính là điều kiện để đảm bảo tính ổn định và hiệu quả củahoạt động nhận thức lí tínhKhông chỉ là nền tảng cung cấp những nguyên liệu cho các hoạt động nhận thứclí tính mà quá trình nhận thức cảm tính còn đóng vai trò quan trọng đảm bảo sựhoạt động bình thường của các quá trình nhận thức lí tính. Sở dĩ như vậy là bởivì cảm giác là điều kiện đảm bảo cho sự hoạt động của vỏ não nên nếu các cảmgiác bị rối loạn bệnh lí về cảm giác hay những kích thích quá mạnh vào các giácquan thì hoạt động của não cũng không thể diễn ra bình thường. Mà như đã phântích ở trên phần cơ sở lí luận thì các quá trình nhận thức lí tính đều diễn ra ở nãobộ từ thao tác tiếp nhận thông tin, kích thích xử lí và phản ánh chúng nên phụthuộc nhiều vào tình trạng hoạt động của bộ não. Hiệu quả của quá trình nhậnthức chịu ảnh hưởng rất nhiều vào tình trạng hoạt động của não bộ nên nó phụthuộc vào nhận thức cảm tính là cảm giác và tri giác. Thông qua cơ quan trunggian là não bộ, cảm giác gián tiếp tác động đến quá trình nhận thức lý tính theo3hai hướng: nếu quá trình cảm giác diễn ra bình thường, không có kích thích gìđáng kể vào cơ thể thì não bộ sẻ trong tình trạng hoạt động tốt nhất, tạo điều kiệnđến các quá trình tư duy, tưởng tượng diễn ra hiệu quả, năng suất. Còn nếu nhưkhông có được cảm giác thoải mái mà còn mệt mỏi… thì việc tư duy, tưởngtượng sẽ bị ngưng trệ. Chẳng hạn, như trong hoạt động học tập thì quá trình nhậnthức lý tính diễn ra hiệu quả khi cơ thể hoàn toàn thoải mái, thư giãn, chính làkhi không có cảm giác tiêu cực nào tác động đến bộ não như cảm giác đau đớn,đói bụng, cảm giác nóng hay lạnh…Ngược lại thì hoạt động học tập sẽ diễn rakhó diễn ra bình thường, hiệu quả được nếu như những cảm giác khó chịu liêntục được phản ánh đến não bởi chúng làm chi phối hoạt động của não bộ khiếnkhó tập trung, kém hiệu quả trong tư duy, tưởng tượng. Do đó, để khắc phục sựbất lợi không mong muốn đó, nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên thì giảipháp là phải tạo điều kiện để cơ thể được thư giãn, thoải mái khi học tập, như thếmới có thể tư duy, tưởng tượng tốt được.2.Nhận thức cảm tính là cơ sở cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính.Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, đó làgiai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật để nắm bắt sựvật ấy. Nhận thức lí tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng , khái quátsự vật thông qua bộ não được thực hiện qua các hình thức như: khái niệm, phánđoán, suy luận. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có quan hệ chặt chẽ vớinhau, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng một hoạt động nhận thứcthống nhất của con người. Nhận thức cảm tính là cơ sở cung cấp tài liệu chonhận thức lý tính. Lê nin nói: “ Không có cảm giác thì không có quá trình nhậnthức nào cả”. Cảm giác là mức độ nhận thức đơn giản nhất mở đầu cho hoạtđộng nhận thức. Cảm giác nói riêng, nhận thức lý tính nói chung là nguồn cungcấp nguyên vật liệu cho nhận thức lý tính. V.I.Lênin viết : “ Tất cả các hiểu biết4đều bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ cảm giác, tri giác” . “ Nếu không có cảm giácthì chúng ta không thể biết gì hết về những hình thức vật chất, cũng như nhữnghình thức của vận động”. Không có cảm giác thì không có tri giác, không cónhận thức lý tính, không có tâm lý nói chung. Cảm giác phản ánh từng thuộc tínhriêng lẻ của sự vật hiện tượng còn tri giác phản ánh sự vật hiện tượng một cáchtrọn vẹn. Nhờ có cảm giác và tri giác mới có thể nảy sinh, tồn tại tư duy vàtưởng tượng. Tri giác cung cấp cho não bộ hình ảnh trọn vẹn nhất các thuộc tínhbên ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng tác động vào giác quan ta, nhờ có trigiác mới có quá trình tư duy. Trên cơ sở phản ánh thế giới một cách trọn vẹn vàđầy đủ, tri giác giúp chúng ta định hướng nhanh chóng, chính xác từ đó mới cóthể tư duy, tưởng tượng. Sau khi tri giác phản ánh trọn vẹn những thuộc tính bênngoài của sự vật hiện tượng thì tư duy thì sẽ diễn ra một quá trình nhận thứcphản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong cótính quy luật của sự vật hiện tượng( quá trình tư duy). Tư duy bao giờ cũng liênhệ mật thiết với nhận thức cảm tính tức là với cảm giác, tri giác, biểu tượng.Nhận thức cảm tính là “cửa ngõ” là kênh duy nhất qua đó tư duy liên hệ với thếgiới bên ngoài. Tư duy thường bắt đầu từ nhận thức cảm tính, trên cơ sở nhậnthức cảm tính mà nảy sinh những tình huống “có vấn đề”. Phải thông qua cácgiác quan của mình, con người mới có thể phản ánh một cách trực tiếp thế giớikhách quan, từ đó mới có được nguồn nguyên liệu cho hoạt động nhận thức lítính là tư duy và tưởng tượng. Con người không thể tư duy, tưởng tượng nếu nhưthiếu đi cảm giác và tri giác. Nói tóm lại, ta có thể khẳng định nhận thức cảmtính là cơ sở cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính luôn phảidựa trên nhận thức cảm tính, gắn chặt với nhận thức cảm tính, bắt đầu bằng nhậnthức cảm tính. Dù nhận thức lý tính có trừu tượng, khách quan đến đâu thì nộidung của nó cũng phải chứa đựng các thành phần của nhận thức cảm tính. Bởi vìnhận thức cảm tính phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể5nhận thức, phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, cả cáibản chất và không bản chất. Những nhận thức này đã trở thành nguyên liệu chonhận thức lý tính trong quá trình nhận thức đối với sự vật, hiện tượng, đi sâu vàobản chất.Chẳng hạn như trong hoạt động học tập học tập thì khi sinh viên tập trungnghe thầy giáo đọc bài luận về một vấn đề. Khi đó, thính giác đã tiếp nhận thôngtin về bài luận đó, chúng ta đã hình dung được bài luận trong đầu, từ đó tư duymới có tài liệu cho quá trình nhận thức để hiểu và có ý kiến.Qua đó cho thấy, nhận thức cảm tính tuy chỉ là mức độ nhận thức đơn giảnnhưng có vai trò quan trọng đối với nhận thức lý tính. Do đó, trong hoạt độnghọc tập, chúng ta cần coi trọng nhận thức cảm tính, tránh việc tư duy mà thiếu đinhững cơ sở ban đầu đầy đủ sẽ khiến cho nhận thức lí tính thiếu chính xác.3. Nhận thức lý tính đóng vai trò định hướng và chi phối đối với nhận thứccảm tínhNhận thức cảm tính và nhận thức lý tính không tách bạch nhau mà có mốiliên hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thứclý tính. Không có nhận thức lí tính thì không nhận thức được bản chất thật sự củasự vật, hiện tượng.Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn hợp thành củaqua trình nhận thức. Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu và nhận thức lý tính làgiai đoạn sau của quá trình nhận thức. Thực tế đã cho thấy, quá trình nhận thứccảm tính trực tiếp phản ánh sự vật,hiện tượng, cung cấp cơ sở dữ liệu cho nhậnthức lý tính ,nhận thức cảm tính đóng vai trò vô cùng quan trọng, là tiền đề chonhận thức lý tính. Thế nhưng không thể phủ nhận hay không đề cao vai tròngược lại của nhận thức lý tính đối với nhận thức cảm tính.Nhận thức lý tính6đóng vai trò định hướng cho nhận thức cảm tính. Nhận thức lí tính nhờ có tínhkhái quát cao hiểu được bản chất nên đóng vai trò định hướng cho nhận thứccảm tính có thể phản ánh được sâu sắc hơn. Nhận thức lý tính phản ánh sự vật,hiện tượng một cách trừu tượng và khái quát. Nhận thức lý tính chi phối giúpcho nhận thức cảm tính tinh vi, nhạy bén và chính xác hơn. Nhận thức cảm tínhchưa khẳng định được những mặt,những mối liên hệ bản chất tất yếu bên trongcủa sự vật hiện tượng mà chỉ nhận thức được những phản ánh bên ngoài. Khi quátrình nhận thức lặp lại với nhiều sự vật, hiện tượng qua sự phản ánh của cảm giácvà tri giác dần dần sẽ khiến nhận thức cảm tính sẽ trở nên nhạy bén hơn đối vớitừng sự vật, hiện tượng nhất định.Không chỉ vậy,vai trò mang tính định hướng ở đây của nhận thức lý tínhđối với nhận thức cảm tính còn thể hiện ở chỗ, nhận thức lý tính phản ánh hiệntượng mang tính bản chất của sự vật hiện tượng, do đó giúp cho quá trình nhậnthức ở mức cao hơn, nhận thức một cách sâu sắc, toàn diện hơn. Nhận thức cảmtính không thể tự nó biết cái gì cần, cái gì không cần nhận thức. Do đó, nhậnthức lý tính chính là kim chỉ nam định hướng cho nhận thức cảm tính cần tậptrung vào sự vật, hiện tượng nào. Vì vậy, mà qua nhận thức lý tính đã địnhhướng rõ nét cho các quá trình của nhận thức cảm tính đạt đến cái đích đúngtheo định hướng đưa ra trong qua trình nhận thức. Hơn thế nữa khi đã hiểu rõbản chất và các thuộc tính của sự vật,hiện tượng quá trình nhận thức sẽ cho biếtđâu là đúng đâu là sai để quá trình nhận thức cảm tính hoạt động đúng và có hiệuquả, tránh sa vào những trường hợp nhận thức bước đầu không đúng hay khônghiệu quả khiến cho ta nhận thức về bản chất của sự vật một cách nhầm lẫn.Trong thực tế có nhiều ví dụ cho thấy vai trò ngược lại của nhận thức lýtính đối với nhận thức cảm tính. Ví dụ như trong hoạt động học tiếng anh củasinh viên: Khi học tiếng anh, người học thường rất khó khăn với những từ vựng7mới vì không biết nghĩa và thường phải tra từ điển. Trước đó, họ phải nhớ mặtchữ và tìm nó trong từ điển rồi mới hiểu được nghĩa của từ cần tìm. Những lầnsau đó, nhờ việc tra cứu từ điển, biết được nghĩa của từ, người học chỉ cần nhìnqua mặt chữ cũng biết nghĩa của từ đó là gì. Ở đây, nhận thức lý tính đã địnhhướng cho nhận thức cảm tính.Hay, trong giờ giảng bài, giáo viên thường nói liên tục, do vậy sinh viênkhông thể ghi chép được hết những gì thầy cô giáo nói mà phải có sự tư duy đểchi phối, có định hướng cho tri giác, hướng sự tập trung vào những mục quantrọng, như thế mới có thể hiểu rõ được bài giảng.Hoạt động nhận thức lý tính có vai trò quan trọng trong việc chi phối nhậnthức cảm tính giúp cho nhận thức cảm tính được sâu sắc, chính xác hơn. Vì vậy,sinh viên chúng ta càng cần đề cao vai trò của tư duy, tưởng tượng, có như vậymới có thể nhận thức được bài học một cách nhanh và hiệu quả hơn so với việcthiếu sự định hướng ban đầu làm cho bước nhận thức ban đầu bị lan man, lệchhướng.KẾT LUẬNQua những ví dụ và phân tích trên có thể thấy được tầm quan trọng củanhận thức; mối quan hệ chặt chẽ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính,chúng bổ sung, chi phối lẫn nhau trong hoạt động nhận thức con người. Cùng vớiđó là tính ứng dụng cao của mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thứclý tính trong hoạt động học tập của sinh viên. Qua bài viết này, chúng em mongrằng mỗi sinh viên đều có thể hiểu một cách sâu sắc về mối quan hệ này để vậndụng một cách chính xác và có hiệu quả vào hoạt động học tập của mình cũngnhư trong đời sống nhận thức về thế giới xung quanh và chính bản thân.8DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1.Trường đại học luật Hà Nội,NXB Công an nhân dân,2006, giáo trình tâm2.lý học đại cươngTâm lý học. link: vi.wikipedia.org/wiki/Tâm_lý_học9