Tác giả của truyện dân gian bình phước là ai

·    Định nghĩa truyện cổ tích, phân loại

Truyện cổ tích là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhận vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi, nhân vật dũng sĩ, người mồ cô, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cả những câu chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động như con người.

Căn cứ vào các nhân vật chính và tính chất của sự việc được kể lại, có thể chia truyện cổ tích ra làm 3 loại: Truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích thế tục [cổ tích sinh hoạt]. Căn cứ vào quan điểm lịch đại, và một số đặc điểm khác, người ta còn có các phân chia khác, chia truyện cổ tích ra thành 2 loại: truyện cổ tích dân gian và truyện cổ tích hiện đại.

·    Nội dung so sánh:

Truyện cố tích dân gian là những tác phẩm thường bằng văn xuôi truyền miệng, hư cấu với hình ảnh kỳ vĩ,c ó cấu trúc kết cấu truyện ổn định và hướng người nghe bằng hình thức kể chuyện. Truyện cổ tích hiện đại có hình thức truyện là tự sự, mang đặc điểm hư cấu được thừa nhận bởi tác giả và người nghe hoặc độc giả.

Truyện cổ tích hiện đại ra đời sau, tuy mang nhiều đặc điểm tương đồng cơ bản với truyện cổ tích dân gian nhưng vẫn có một số nét riêng của cùng một thể loại văn học:

Đặc điểm

Truyện cổ tích dân gian

Truyện cổ tích hiện đại

Tác giả

Là sản phẩm của nhiều thế hệ dân chúng [tức là không có tác giả cụ thể - khuyết danh]

Là sáng tác của cá nhân, có tên tuổi cụ thể,…

Phương thức lưu truyền

Vốn lưu truyền chủ yếu bằng hình thức truyền miệng và về sau được ghi chép lại.

Là thể loại được lưu truyền bằng văn bản

Tồn tại

Có nhiều dị bản khác nhau và hàng loạt môtip nghệ thuật có sẵn được lặp đi lặp lại nhiều lần.

Là sáng tác duy nhất và không lặp lại, được thể hiện thông qua cá tính sáng tạo của nhà văn và phát triển theo quy luật sáng tạo văn học.

Cốt truyện

Để phù hợp với phương thức truyền miệng à cốt truyện thường đơn giản, ngắn gọn.

Có đan xen cả cốt truyện từ đơn giản đến phức tạp; có trường hợp có tới 2-3 cốt truyện cố tích dân gian khác nhau được tác giả ghép nối vào nhau à truyện không phải để kể mà để đọc.

Nhân vật

Nặng về khái quát hóa, nhân vật mang đặc điểm loại tính nhiều hơn. Chủ yếu sử dụng những yếu tố có sẵn để miêu tả nhân vật theo con đường trừu tượng hóa, khái quát hóa. Nhân vật mang đặc điểm tâm lí và khắc họa chân dung ngắn gọn, được xây dựng chủ yếu qua con đường đối thoại và hành động.

Nhân vật vừa có tính khái quát vùa có tính cá thể. Trong các truyện cổ tích hiện đại, việc đi sâu vào miêu tả tâm lí nhân vật bước đầu được chú ý hơn. Ít đặt nhân vật vào những hoàn cảnh có tính chất hoang đường mà tập trung vào bề sâu bên trong của con người đó.

Triết lý, bình luận

Truyện cổ tích dân gian không có bình luận, có chăng chỉ là những lời giải thích sự việc xuất hiện ở phần kết thúc câu chuyện.

Trong truyện cổ tích hiện đại, lời bình luận, triết lí của tác giải không chỉ xuất hiện ở phần kết thúc mà nhiều khi được xen lẫn vào từng phần của câu chuyện. Sử dụng nhiều khái niệm mới, hiện đại.

Thế giới quan

Thể hiện quan niệm của con người về thiên nhiên, về thế giới xung quanh mình nhưng lại không phải biểu hiện nhận thức và sáng tạo nghệ thuật một cách có ý thức, không có phạm trù thế giới quan mà chỉ có phạm trù thẩm mĩ.

Quan niệm về thế giới quan, nhiệm vụ tư tưởng thẩm mĩ của thời đại và quan hệ với phương pháp nghệ thuật của nhà văn.


Từ lâu đời, núi Bà Rá nằm trên địa bàn thị xã Phước Long không chỉ là danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà còn là một ngọn núi linh thiêng, liên quan đến tâm linh, cội nguồn lịch sử, văn hóa của người S’tiêng. Yếu tố văn hóa, tâm linh, huyền thoại được gắn liền với các sự kiện đã hình thành nên quần thể văn hóa - tâm linh liên quan đến ngọn núi nổi tiếng này trong dân gian. Vì vậy, núi Bà Rá đã gắn liền với đời sống văn hóa tinh thần, trung tâm câu chuyện huyền thoại về vị thần đã có công trong việc hình thành và bảo vệ núi Bà Rá.

Từ năm 1998 đến nay, tôi đã viết khá nhiều bài về truyền thuyết núi Bà Rá. Gần đây nhất vào năm 2018, tôi có bài viết "Ai là nhân vật liên quan đến quần thể văn hóa - tâm linh núi Bà Rá?", đăng trên Tạp chí Khoa học thời đại tỉnh Bình Phước, ISSN 1859-3747, số 41, ngày 6-2-2018, tr.70-71. Trong bài viết đã nhắc đến vị thần khổng lồ [Yau Nhưt] và hai người em gái của vị thần [Mi Jiêng và Mi Lơm] sinh hoạt trên núi Bà Rá. Vấn đề cần trao đổi, ai là [nữ thần] nhân vật đang được thờ trong miếu Bà hiện nay.

Theo tác giả Lưu Ty, ngày xưa có một ông tiên tên là Giang [viết theo chữ S’tiêng là Yang đúng hơn] trấn thủ vùng này từ vùng rừng núi Tây Ninh đến Phước Long, chạy sát biên giới Miên. Vị tiên này có hai người em gái, người chị tên là Lơm và người em là Giêng [viết Jiêng đúng hơn]. Mỗi người có một sở thích và cá tính khác nhau. Bà Lơm thích tu hành, thích lập chùa để cúng bái. Bà Giêng thích ở một mình nơi thanh vắng. Trước hai sở thích ấy, người anh đã chiều và đắp cho mỗi người một quả núi để ở. Bà Lơm là chị thích tu hành và nơi đông người nên ở tại núi Bà Đen [Tây Ninh]. Còn Bà Giêng thì ở núi Bà Rá, Phước Long [Lưu Ty, 1972, tr. 42-43].


Địa bàn cư trú của người S’tiêng theo truyền thuyết vào đầu thế kỷ XX [theo tác giả Barthélémy M.D trong "Au pay Mois" Paris Plon-Noutit 1904] - nguồn: Mạc Đường, 1985, Vấn đề dân tộc ở Sông Bé, tr.15

Tác giả Cửu Long và Toan Ánh [Cao Nguyên Miền Thượng, 1974, tr.553] cũng cho rằng ông Giang có hai người em gái tên là Lơm và Giêng. Hai chị em có nếp sống khác nhau. Bà Lơm mê tu hành, lập chùa chiền cúng vái, bà Giêng thích một mình ở nơi thanh tịnh vắng vẻ. Trước hai sở thích đó, ông tiên mới đắp cho mỗi người một trái núi ở hai nơi cách xa. Bà Lơm là chị ở núi Bà Đen [Tây Ninh], con bà Giêng là em ở núi Bà Rá [Phước Long].

Mạc Đường [Vấn đề dân tộc ở Sông Bé, 1985, tr.15] cho rằng: "Vị tổ người S’tiêng có hai người em gái, ông ta đắp núi Bà Đen và Bà Rá cho hai em ở. Cô gái đầu làm chủ vùng núi Bà Đen, cô em gái thứ hai làm chủ núi Bà Rá". Như vậy, theo các tác giả này thì cô em [Giêng] là nữ thần ngự trị trên núi Bà Rá và đang được thờ trong miếu Bà.

Có người cho rằng, Bà Đen, Bà Rá và Bà Chúa Xứ [ở An Giang] là ba chị em. Theo kết quả nghiên cứu giả thiết này không có cơ sở. Về mặt không gian văn hóa và tâm linh không có liên quan. Ngọn núi ở An Giang không có mối quan hệ với ngọn núi Bà Đen và Bà Rá [các núi ở An Giang nằm trong dãy núi “Đậu Khấu” bắt nguồn từ biên giới Thái Lan].

Xuôi theo dòng truyền thuyết của người S’tiêng, địa bàn cư trú của người S’tiêng trải dài từ núi vùng Bà Rá, tỉnh Bình Phước đến núi Bà Đen thuộc tỉnh Tây Ninh. S’tiêng [Sơdiêng hay Sdiêng] Yau Nhưt [một vị thần khổng lồ] đã xây dựng nên núi Bà Rá và Bà Đen. Yau Nhưt có hai người em gái rất xinh đẹp tên là Mi Jiêng và Mi Lơm [Mi tức là cô, nàng] rất giỏi dệt thổ cẩm [tảng đá lớn giữa chân núi Bà Rá nơi có đường cáp treo đi qua chính là nơi hai em gái vị thần ngồi dệt thổ cẩm]. Yau Nhưt đã đổ 7 gùi đất [gùi cũ] để đắp nên núi Bà Rá [poh Săh Tu]. Trước khi đắp núi Bà Rá, Yau Nhưt đã đổ một gùi đất tại khu vực ở cuối thôn 7, xã Long Giang, thị xã Phước Long ngày nay, người S’tiêng gọi núi đó là Bơnâm con Brăh, nghĩa là “núi con thần” hay còn gọi là Bơnâm Săh Tu [núi gùi cũ: đất đựng trong gùi cũ; núi mọc bên suối Săh Tu].

Lý do vị thần Yau Nhưt thay đổi địa điểm [không chọn suối Săh Tu] là khi vị thần đo khoảng cách từ núi Bà Đen đến núi Bà Rá không đủ 7 cây gậy [poh toong bơr nos - cây gậy của vị thần dùng để thụt canh]. Trong đời sống tín ngưỡng dân gian của người S’tiêng, 7 là con số may mắn, con số tâm linh. Phải chăng, vì lý do đó mà vị thần khi xây dựng núi Bà Rá đã đổ hết 7 gùi đất, chọn kích thước “7 cây gậy” để làm khoảng cách từ núi Bà Đen đến núi Bà Rá.

Người S’tiêng Bu Dêh [vùng Bình Long, Hớn Quản] thì cho rằng: Ngày xưa vốn chỉ có một núi Bà Rá, nhưng do hai chị em tranh nhau lấy chồng. Người em gái xinh đẹp hơn nên được người đời quý mến hơn, người chị ghen tức và đuổi người em đi. Người em ra đi chỉ mang theo một gùi đất, dọc đường người em dừng chân tại xã Phước An, huyện Hớn Quản, đất bị rơi rớt tạo thành Bnâm Roh [Núi Gió ngày nay]. Người chị lấy cây gậy đo khoảng cách từ núi Bà Rá đến nơi ấy thấy vẫn gần, người chị lại tiếp tục đuổi em đi. Người em đi mãi đến tận Tây Ninh và dựng núi Bà Đen.

Theo câu chuyện này [tác giả đi khảo sát tại xã An Khương năm 1999] thì cô Lơm là chị ở núi Bà Rá, cô em là Jiêng ở núi Bà Đen. Dù là truyền thuyết nửa người nửa thần, dù là chị hay em đang ngự trị trên núi Bà Rá, việc xây dựng công trình miếu Bà có ý nghĩa, giá trị quan trọng về mặt lịch sử, văn hóa và tâm linh [trong đó có công của những người bị tù đày tại Bà Rá trong thời kỳ chống thực dân Pháp]. Trước khi người S’tiêng theo đạo, trong các sự kiện nghi lễ tín ngưỡng truyền thống, người S’tiêng luôn khấn mời các vị thần trong vùng như: thần Sông Bé, Thác Mơ, Thác Mẹ và không thể quên thần núi Bà Rá. Trong cuộc sống, người S’tiêng thường kể về sự giỏi giang của hai nữ thần để giáo dục con cái [hai nữ thần rất giỏi dệt vải]. Trong hôn nhân, những cô gái chảnh chọe thường bị cha mẹ mắng bằng câu "ay klanh y bêi Mi Jiêng, Mi Lơm” [con nghĩ mình đẹp như cô Jiêng, cô Lơm chắc]. Hoặc những người con trai kén vợ cũng bị cha mẹ mắng bằng câu "nar kơi may pơs sai klanh ur y bêi Mi Jiêng, Mi Lơm" [mai mốt xem con cưới vợ có đẹp như cô Jiêng, cô Lơm không?]. Có thể thấy, ngoài yếu tố tâm linh, hình ảnh hai nữ thần đã in sâu vào tiềm thức của cộng đồng người S’tiêng.

Để phát huy tốt giá trị lịch sử, văn hóa và tâm linh của núi Bà Rá nói chung và miếu Bà nói riêng, chính quyền địa phương, ngành chức năng, những người quản lý miếu Bà nên phối hợp với các nhà khoa học, trí thức, già làng người S’tiêng, sở, ngành liên quan của tỉnh Tây Ninh tổ chức hội thảo khoa học. Qua đó trao đổi, giới thiệu đầy đủ hơn về ý nghĩa lịch sử, văn hóa và tâm linh của miếu Bà [Bà Rá], mối liên hệ giữa hai nữ thần [núi Bà Đen và núi Bà Rá] để tránh những cách hiểu không thống nhất, thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa tâm linh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Bình Phước nói chung và Phước Long nói riêng.

Video liên quan

Chủ Đề