Tại sao chúng ta lại quan tâm đến gdp?

Vì sao GDP được hầu hết các quốc gia lựa chọn làm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế?

08/10/2021 - 11:04 AM

Cỡ chữ

1. Tổng sản phẩm trong nước [GDP]

Tổng sản phẩm trong nước [Gross Domestic Product – GDP] là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp đánh giá kết quả hoạt động sản xuất trong phạm vi lãnh thổ kinh tế của một quốc gia. GDP là chỉ tiêu kinh tế quan trọng, được các nhà quản lý, các nhà kinh tế, nhà đầu tư cũng như các chuyên viên phân tích thị trường theo dõi rất chặt chẽ vì đó là chỉ tiêu phản ánh tổng giá trị của tất cả sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được tạo ra của một nền kinh tế trong khoảng thời gian cụ thể. GDP được tính theo lãnh thổ kinh tế, biểu thị kết quả sản xuất do các đơn vị thường trú tạo ra trong lãnh thổ kinh tế của một quốc gia, được tính và công bố theo quý, 6 tháng, 9 tháng, năm và phân tổ theo nhiều căn cứ khác nhau.

Nội dung của GDP được xét dưới các góc độ khác nhau, từ đó đưa tới ba phương pháp để tính chỉ tiêu kinh tế tổng hợp này. Cụ thể:

Theo góc độ sử dụng cuối cùng, GDP là tổng cầu của nền kinh tế gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư, tiêu dùng cuối cùng của Nhà nước, tích luỹ tài sản [tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản quý hiếm], chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.

GDP

=

Tiêu dùng cuối cùng

+

Tích lũytài sản

+

Chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ

Theo góc độ thu nhập, GDP bằng tổng thu nhập tạo nên từ các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất như lao động, vốn, đất đai, máy móc. Theo đó, GDP gồm 4 yếu tố: thu nhập của người lao động từ sản xuất [bằng tiền và hiện vật quy ra tiền], thuế sản xuất [đã giảm trừ phần trợ cấp cho sản xuất], khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất và thặng dư sản xuất hoặc thu nhập hỗn hợp.

GDP

=

thu nhập của người lao động từ sản xuất

+

thuế sản xuất

+

khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất

+

thặng dư sản xuất hoặc thu nhập hỗn hợp

Theo góc độ sản xuất, GDP là tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản của các ngành kinh tế và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm:

GDP

=

Tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản
của tất cả các ngành

+

Thuế sản phẩm

-

Trợ cấp sản phẩm

Với nội hàm của chỉ tiêu GDP, các nhà hoạch định chính sách và ngân hàng nhà nước có thể đánh giá thực trạng nền kinh tế đang dư thừa hay thiếu hụt, liệu có cần thúc đẩy hay kiềm chế, có các mối đe dọa như suy thoái hoặc lạm phát tràn lan không, từ đó kịp thời thực hiện các biện pháp cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Các nhà đầu tư chú ý đến GDP vì một tỷ lệ phần trăm thay đổi đáng kể trong GDP - tăng hoặc giảm - có thể có tác động đáng kể đến thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Ngoài ra, có thể dựa vào diễn biến của GDP để phân tích tác động của các biến số như chính sách tiền tệ và tài khóa, thuế, chi tiêu của chính phủ, các cú sốc kinh tế,... đến nền kinh tế làm cơ sở đưa ra các quyết định quản lý hiệu quả.

Tóm lại, tầm quan trọng của chỉ tiêu GDP là không thể phủ nhận. Samuelson và Nordhaus [1948] đã dùng hình ảnh ví khả năng của GDP trong việc cung cấp một bức tranh tổng thể về tình trạng của nền kinh tế như là khả năng của một vệ tinh trong không gian có thể khảo sát thời tiết trên toàn bộ lục địa.

2. Tổng thu nhập quốc gia [GNI]

Tiếp cận theo hướng thu nhập thực tế, chỉ tiêu tổng thu nhập quốc gia [Gross National Income - GNI] phản ánh kết quả thu nhập lần đầu được tạo ra từ các yếu tố sở hữu của một quốc gia tham gia vào hoạt động sản xuất trên lãnh thổ quốc gia đó hay ở nước ngoài trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Nói cách khác, GNI là tổng thu nhập người lao động và chủ thế kinh tế NDH1[1]của quốc gia đó nhận được bất kể họ ở trong nước hay nước ngoài trừ đi phần thu nhập người lao động và thương nhân nước ngoài hoạt động tại quốc gia đó. Chỉ tiêu này được sử dụng bổ sung cho GDP để đo lường và theo dõi sự giàu có của một nền kinh tế, một quốc gia theo thời gian.

Tổng thu nhập quốc gia là chỉ tiêu cân đối của tài khoản phân phối thu nhập lần đầu. Do vậy, để tính chỉ tiêu này cần phải lập các tài khoản sản xuất và tài khoản hình thành thu nhập hoặc phải xuất phát từ chỉ tiêu GDP và các chỉ tiêu có liên quan. Công thức tính như sau:

GNI

=

GDP

-

Thuế[trừ trợcấp]sản xuất và nhậpkhẩu của đơn vị khôngthường trú [2]

+

Chênh lệch giữa thunhậpcủangười lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về và thu nhập của người nước ngoài ở Việt Nam gửi ra

+

Chênh lệch giữa thunhập sởhữunhậnđược từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả cho nước ngoàiNDH3 [3]

Đối với nhiều quốc gia, chỉ có sự khác biệt nhỏ giữa GDP và GNI, nghĩa là thu nhập sở hữu thuần không đáng kể, không có hoặc có ít sự chênh lệch giữa thu nhập người lao động nhận được và các khoản thanh toán của quốc gia đó cho nước ngoài. Ngược lại, GNI có xu hướng cao hơn GDP khi quốc gia nhận được nhiều thu nhập sở hữu từ đầu tư và thu nhập người lao động làm việc ở nước ngoài. Trong trường hợp nước ngoài có quyền kiểm soát lớn đối với sản lượng quốc gia và thu nhập sở hữu nhận được không đáng kể, GNI sẽ thấp hơn GDP.

Như vậy, điểm mạnh của GNI là thước đo kinh tế ghi nhận tất cả khoản thuần thu nhập đi vào nền kinh tế quốc dân, không tính đến phạm vi lãnh thổ kinh tế của thu nhập đó. Nói cách khác, đó là thuần thu nhập thực tế từ sản xuất và sở hữu tài sản của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định [thường là 1 năm]. Do đó, đây cũng là một chỉ tiêu hữu ích hỗ trợ các nhà nghiên cứu, hoạch định xây dựng được bức tranh toàn cảnh hơn về hoạt động kinh tế.

3. Vai trò của GDP và GNI trong đánh giá tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia

Hai chỉ tiêu kinh tế tổng hợp là Tổng sản phẩm trong nước [GDP] và Tổng thu nhập quốc gia [GNI] đều có vai trò quan trọng trong đánh giá hoạt động của một nền kinh tế hay một quốc gia. Tuy nhiên, nội hàm và cách tiếp cận của GDP và GNI không giống nhau, dẫn đến vai trò của từng chỉ tiêu trong đánh giá tăng trưởng kinh tế cũng khác nhau. Bảng 1 nêu rõ sự khác biệt cơ bản giữa hai chỉ tiêu này.

Bảng 1. So sánh giữa Tổng sản phẩm trong nước và Tổng thu nhập quốc gia


Chỉ tiêu
Đặc điểm

Tổng sản phẩm trong nước [GDP]

Tổng thu nhập quốc gia
[GNI]

Cách tiếp cận

Giá trị tăng thêm từ sản xuất trong nước

Thu nhập từ sản xuất và sở hữu tài sản

Nội dung phản ánh

Kết quả hoạt động sản xuất

Kết quả phân phối thu nhập lần đầu

Phạm vi tính

Trong lãnh thổ kinh tế,
không quan tâm quyền sở hữu

Trong và ngoài lãnh thổ kinh tế,
thuộc quyền sở hữu của quốc gia

Công thức tính

03 phương pháp theo các cách tiếp cận sản xuất, phân phối thu nhập và sử dụng cuối cùng

GDP + chênh lệch thu chi thu nhập sở hữu và thu nhập người lao động với nước ngoài

Kỳ đánh giá

3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng

12 tháng

Phân tổ

Theo ngành kinh tế, loại hình kinh tế, mục đích sử dụng, tỉnh/thành phố

Theo khu vực thể chế [hiện nay Việt Nam chưa thực hiện]

Tác dụng

Phản ánh quy mô nền kinh tế, sức mạnh kinh tế của quốc gia

Phản ánh sự giàu có, tiềm lực kinh tế của công dân quốc gia

Như vậy, GDP và GNI là hai thước đo hoạt động kinh tế với đối tượng đo lường không giống nhau. Nếu như GDP đánh giá khả năng sản xuất của một nền kinh tế hay tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, đo lường quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thì GNI là thu nhập thực tế do người lao động và các chủ thể kinh tế thuộc sở hữu quốc gia tạo ra và nhận được, không phân biệt vị trí của họ là ở trong hay ngoài nước. Từ đó, vai trò của từng chỉ tiêu trong đánh giá tăng trưởng kinh tế cũng khác nhau. GDP giúp chúng ta thấy được quy mô, sức khỏe nền kinh tế của một quốc gia trong khi GNI thể hiện tiềm lực kinh tế của quốc gia đó.

4. Vấn đề lựa chọn chỉ tiêu GDP để đánh giá tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản xuất mà một nền kinh tế tạo ra theo thời gian. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra được định hướng, chính sách phát triển trong giai đoạn kế tiếp. Như phân tích ở trên, do GDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, được sử dụng như một chỉ báo về sức khỏe chung của nền kinh tế, chỉ tiêu này được hầu hết quốc gia trên thế giới sử dụng trong đánh giá tăng trưởng kinh tế. Sở dĩ như vậy là do:

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dựa vào chỉ tiêu GDP giúp các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và phân tích thị trường đưa ra quyết định phù hợp với thực trạng nền kinh tế. GDP tăng là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang hoạt động tốt, các doanh nghiệp tự tin đầu tư nhiều hơn. Đây là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Ngược lại, khi tăng trưởng GDP rất thấp hoặc nền kinh tế đi vào suy thoái, điều ngược lại sẽ xảy ra: người lao động có thể bị thôi việc, trả lương thấp hơn và các doanh nghiệp không có ý định muốn đầu tư mở rộng thêm.

Thứ hai, việc sử dụng GDP trong đo lường tăng trưởng kinh tế rất hữu ích cho các ngân hàng trung ương khi xác định các chỉ tiêu nợ công, nợ chính phủ, bội chi ngân sách... so với GDP, từ đó có những điều chỉnh phù hợp chính sách tài khóa và tiền tệ. Đó còn là cơ sở để tính các chỉ tiêu cân đối khác trong nền kinh tế như tổng tích lũy tài sản trong GDP, tiêu dùng cuối cùng trong GDP, tổng vốn đầu tư xã hội so với GDP, tỷ lệ xuất nhập khẩu so với GDP,... Nhờ việc tiếp cận từ hoạt động sản xuất và đo lường kết quả sản xuất của nền kinh tế, GDP được sử dụng trong tính toán các cân đối lớn của nền kinh tế, phản ánh rõ ràng đặc điểm, tính chất tăng trưởng của một quốc gia.

Thứ ba, cách tính và tiếp cận GDP cho phép họ đánh giá cơ cấu cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và nhóm ngành kinh tế. GDP được tính và phân tổ theo ngành kinh tế, theo khu vực kinh tế và theo tỉnh/thành phố [GRDP] trong khi GNI do tính thêm phần thu nhập sở hữu thuần, không thể thực hiện phân tổ theo ngành kinh tế và theo tỉnh, thành phố mà chỉ phân tổ theo khu vực thể chế. Để trở thành cơ sở lập kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế quốc gia, chỉ tiêu GDP giúp phản ánh rõ ràng hơn thực trạng sản xuất của nền kinh tế, của từng ngành kinh tế, từ đó các Chính phủ sẽ có định hướng tập trung phát triển khu vực kinh tế, vùng kinh tế quan tâm. Hơn nữa, do chỉ phụ thuộc vào các hoạt động sản xuất trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, các Chính phủ dễ dàng và thuận lợi hơn trong thu thập dữ liệu công bố chỉ tiêu GDP theo một số kỳ nhất định trong năm. Trong khi đó, để xác định được GNI cần phải thu thập số liệu của thương nhân và người lao động ở nước ngoài cũng như bóc tách thu nhập của thương nhân và người lao động nước ngoài làm việc tại quốc gia – việc làm đòi hỏi nhiều thời gian và công sức.

Như vậy, tuy còn một số hạn chế nhất định trong nội dung phản ánh, GDP vẫn là chỉ tiêu quan trọng mà các Chính phủ lựa chọn để đánh giá và so sánh tăng trưởng của các quốc gia trên thế giới. Từ đó, các quốc gia sẽ có các chính sách phát triển kinh tế phù hợp, các doanh nghiệp cũng có cơ sở để ra quyết định đầu tư, mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh.

TS. Nguyễn Minh Thu
Khoa Thống kê, Đại học Kinh tế quốc dân

__________________________________

[1]Thu nhập tạo ra trong nền kinh tế ko chỉ có khối dn mà còn cả các đơn vị sự nghiệp, hộ cá thể, htx, cqhc… gọi chung là chủ thể kinh tế

[2]Đơn vị không thường trú là đơn vị không có trụ sở, không có địa điểm sản xuất hoặc nhà cửa trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, không tiến hành các hoạt động sản xuất và giao dịch kinh tế với thời gian lâu dài [thường trên một năm].

[3]Công thức theo SNA 2008 [2.143]. Công thức trên theo Sách của VN bị thiếu phần Thuế


Về trang trước Gửi email In trang

TTCT - Chỉ số GDP đang ngày càng bộc lộ nhiều khiếm khuyết khi không phản ảnh được thành công kinh tế và sự thịnh vượng của một quốc gia. Cái gì là tốt hơn và đang được thúc đẩy để thay thế GDP?

Theo đuổi sự tăng trưởng GDP nhanh hơn, nhiều hơn liên tục có thể gây ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế và phúc lợi thật sự cho người dân -hedgeye.com

Tại Diễn đàn kinh tế thế giới [WEF] ở Davos tháng 1-2016, Joseph Stiglitz, chủ nhân Nobel kinh tế năm 2001, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm một thước đo mới nhằm đánh giá thành tựu của các quốc gia bởi “các chỉ số cho ta biết cần phải làm gì và nếu chúng ta đo không đúng chỗ, chúng ta sẽ hành động sai”.

Một bài viết trên trang web của WEF ngày 17-4 đã ví GDP [gross domestic product, tổng sản phẩm nội địa] như chiếc đồng hồ tốc độ của xe hơi. Nhìn vào đó, ta biết nền kinh tế một quốc gia đang tăng trưởng nhanh hay chậm, đúng như chức năng của chiếc côngtơmet.

Nhưng cũng như đồng hồ tốc độ không cho ta biết liệu xe có sắp hết xăng hay động cơ có đang quá nóng hay không, GDP không cho ta thấy những vấn đề tồn tại của nền kinh tế. Quan trọng hơn, chiếc côngtơmet không hề cho thấy ta có đang đi đúng hướng không.

“Hãy tưởng tượng bạn nói với tài xế: này chúng ta đi sai đường rồi và anh ta đáp lại: vậy chúng ta phải đi nhanh hơn. Nghe có vẻ ngu ngốc nhưng với GDP, chuyện cũng y như vậy” - tác giả bình luận. Khi tăng trưởng GDP chậm lại, các chính phủ trên thế giới ngay lập tức nghĩ tới việc đẩy cho nó tăng cao hơn, thay vì tìm hiểu xem có vấn đề gì với nền kinh tế và liệu họ có đang đi sai đường.

Thước đo đã cũ

Trong số cuối tháng 4-2016, báo The Economist lý giải chi tiết hơn vì sao GDP ngày càng là “một công cụ tồi để đo sự thịnh vượng” và thậm chí cho rằng chỉ số này “không còn là thước đo tin cậy của nền sản xuất”.

Bản chất của việc tính GDP là cộng dồn tất cả những thứ được sản xuất ra của một nền kinh tế trong một thời điểm nhất định. Thuở sơ khai, khi các nền kinh tế phần lớn chỉ bao gồm các nông trại, dây chuyền sản xuất và thị trường đại chúng, việc tính toán như thế đã là rất khó khăn.

Đo lường GDP trong thời hiện đại càng khó hơn bởi ngành dịch vụ, chứ không phải sản xuất, đang chiếm lĩnh nền kinh tế và người ta không còn chú trọng vào việc tạo ra nhiều sản phẩm hơn, thay vào đó là mang đến trải nghiệm tốt hơn cho người dùng.

Nhưng vấn đề không chỉ ở khó khăn trong việc tính toán. Theo The Economist, GDP có thể trở thành chỉ dấu sai lệch cho các nhà hoạch định chính sách bởi nó không đo lường hết bản chất của nền kinh tế hiện đại, vốn đã thay đổi rất nhiều nhờ vào những tiến bộ của công nghệ. GDP là khái niệm từ những năm 1930 và đã thật sự lỗi thời ngày nay.

Trong nền kinh tế hiện đại, người ta không còn nghỉ ở khách sạn mỗi chuyến du lịch, công tác, mà ở nhà riêng được chia sẻ qua dịch vụ Airbnb, không còn đi taxi hay xe cá nhân mà dùng Uber và không mua máy tính mới mà chỉ cần nâng cấp hệ điều hành. Phải tính toán lại tất cả những điều đó như thế nào?

Theo thông lệ, những gì không có giá trị thì không được tính vào GDP. Vậy các giá trị do Facebook và YouTube sẽ được đo thế nào khi các nền tảng kỹ thuật số này mang đến những tiện ích, giải trí cho hàng tỉ người mà người dùng không phải trả tiền [đúng là họ vẫn mang lại giá trị cho Facebook qua các hợp đồng quảng cáo, nhưng làm sao để đo đếm sự chuyển đổi giá trị đó]?

Nhạc số là một ví dụ khác. Dù lượng người nghe nhiều hơn trước gấp bội, doanh thu của ngành công nghiệp âm nhạc đã giảm 1/3 so với thời đỉnh cao, nhưng điều đó có đồng nghĩa với việc giá trị của ngành đã giảm 1/3? Chúng ta đang làm mọi thứ trên Internet từ đọc báo đến mua vé máy bay, tất cả hoạt động này đều “vô hình” với cách tính GDP truyền thống.

Thương mại điện tử bùng nổ, giá trị giao dịch cực lớn nhưng cũng không làm tăng GDP, trái lại còn sụt giảm vì doanh thu của các cửa hàng “off-line” giảm sút.

The Economist còn cho rằng ngay cả chỉ xét riêng vai trò là chỉ số đo lường giá trị sản xuất, GDP giờ cũng đã là một “di tích lịch sử” bởi nó ra đời trong thời kỳ mà ngành sản xuất vật chất và công nghiệp chiếm ưu thế áp đảo ở các nền kinh tế lớn.

Những năm 1950, ngành chế tạo chiếm hơn 1/3 GDP của Anh. Tỉ trọng này ngày nay chỉ là 1/10 và ở một số nước, dịch vụ chiếm đến 80% quy mô nền kinh tế. GDP gần như bó tay trong việc xác định giá trị của các dịch vụ vô hình.

Làm thế nào để tính giá trị một bữa ăn khi có quá nhiều yếu tố cần xét đến: tài nghệ đầu bếp, không gian nhà hàng, tốc độ phục vụ...? Tương tự, ta dễ dàng thống kê có bao nhiêu ca mổ được thực hiện, nhưng phải mất hàng chục năm mới biết được giá trị của chúng thông qua tuổi thọ của người được mổ.

Mặt khác, theo thông lệ, GDP chỉ tính đến các sản phẩm được mua và bán, tức có yếu tố chi trả. Vì thế các sản phẩm không trải qua quá trình bán - mua sẽ không được xét đến ngay cả khi chúng cũng có giá trị rất cao, dẫn đến sự phản ánh không đầy đủ về nền kinh tế.

Ví dụ nếu ta thuê hàng xóm sang sửa giúp mái nhà, ta đã góp phần làm tăng GDP của đất nước. Nhưng nếu ta tự mình làm lấy việc này thì chẳng có đóng góp nào cả.

GDP cao có đồng nghĩa thịnh vượng?

Khái niệm GDP hiện đại xuất phát từ các nghiên cứu nhằm ước lượng quy mô nền kinh tế Mỹ được Simon Kuznets, nhà kinh tế học người Mỹ gốc Nga, thực hiện theo yêu cầu của Quốc hội Mỹ năm 1932.

Tuy vậy, theo trang Quartz, chính Kuznets đã thừa nhận “sự thịnh vượng của một quốc gia hoàn toàn không thể suy ra từ tổng thu nhập của quốc gia đó”. Tại Davos 2016, Erik Brynjolfsson, giáo sư Học viện Công nghệ Massachusetts [MIT], nhắc lại quan điểm đó và giải thích thêm: “GDP đo những thứ chúng ta mua - bán và hoàn toàn có khả năng GDP sẽ đi ngược với sự thịnh vượng”.

Brynjolfsson cho rằng khái niệm kinh doanh ngày nay khác hẳn với thời trước, vì thế “cần phải định nghĩa lại cách chúng ta đo lường nền kinh tế”. Còn Diane Coyle, tác giả chuyên nghiên cứu về GDP, cho rằng dù dùng cho mục đích gì đi nữa, GDP vẫn là một phương tiện để đo lường sản xuất chứ không phải sự thịnh vượng.

Điều này không phải khó lý giải vì khái niệm GDP ra đời trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, vực dậy sản xuất là mục tiêu hàng đầu và người ta ít chú ý đến các vấn đề như ô nhiễm môi trường hay nâng cao chất lượng cuộc sống. Các nhà môi trường vì thế cũng quan ngại vì với GDP, của cải xã hội có được từ tàn phá môi trường, tận diệt thiên nhiên vẫn được tính như thường.

Như vậy GDP không chỉ không hoàn thành nhiệm vụ như một chỉ số kinh tế vĩ mô, mà còn không phản ánh được sự thịnh vượng của một quốc gia như người ta vẫn nghĩ. Nhưng câu hỏi đặt ra là nếu có thể thì sẽ thay thế nó bằng công cụ nào để đo được quy mô sản xuất lẫn sự thịnh vượng của xã hội?

Hãy đo hạnh phúc

Nhiều năm qua, giới kinh tế gia và các nhà làm chính sách đã liên tục tìm kiếm những thước đo mới khả dĩ thay thế GDP và “chỉ số hạnh phúc” nổi lên như một ứng viên tiềm năng.

Hồi tháng 3-2016, Liên Hiệp Quốc công bố Báo cáo hạnh phúc thế giới lần 4, xếp hạng 156 quốc gia dựa trên phản hồi của công dân về mức độ hài lòng với chất lượng cuộc sống [Việt Nam đứng hạng 96].

Báo cáo này đưa ra nhiều phát hiện lý thú: dân Bắc Âu hạnh phúc nhất; người Ấn Độ, dù chứng kiến GDP tăng trưởng liên tục, có chỉ số hạnh phúc giảm sâu so với năm 2006; “nhà giàu” Qatar lại kém hạnh phúc hơn “nhà nghèo” Costa Rica... Với nhiều nhà kinh tế và hoạch định chính sách, những phát hiện này không chỉ là để “đọc cho vui”. Chúng thật sự cho thấy những lỗ hổng trong việc đo lường thành công kinh tế thông qua GDP.

Báo cáo này cũng liệt kê các yếu tố định lượng được ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc của người dân thế giới. Theo đó, 75% sự khác biệt về hạnh phúc giữa các nước có thể quy vào những yếu tố thu nhập bình quân đầu người, số năm sống khỏe mạnh, lòng tin vào chính phủ lẫn doanh nghiệp và mức độ tự do khi đưa ra quyết định trong đời.

Richard Easterlin, nhà kinh tế học thuộc Đại học Nam California và là người tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu phúc lợi, cho rằng các chính sách nên được hoạch định với chỉ số hạnh phúc là mục tiêu thay vì GDP.

“Câu sáo ngữ “Tiền không phải là tất cả” đúng trong trường hợp này. Nếu hạnh phúc thay thế GDP trở thành chỉ số chính trong việc đo lường phúc lợi xã hội, các chính sách công có lẽ sẽ thay đổi theo hướng trở nên ý nghĩa hơn với đời sống con người” - Quartz dẫn một bài viết chưa công bố của Easterlin.

Nếu chỉ số hạnh phúc là thước đo mới để nhìn vào một quốc gia, khó thể không nhắc đến Bhutan. Từ năm 1972, vương quốc này đã sử dụng chỉ số “tổng hạnh phúc quốc gia” [Gross National Happiness] để định hình các mục tiêu phát triển, chứ không dựa trên sự tăng trưởng của cải vật chất. Kể từ đó, đặc biệt trong một thập niên qua, hàng chục quốc gia khác cũng đã xây dựng hệ thống chỉ số hạnh phúc riêng.

Tuy nhiên dù có nhiều ưu điểm, con đường để “chỉ số hạnh phúc” thay thế GDP vẫn còn nhiều khúc khuỷu. Hạnh phúc tất nhiên là mơ hồ hơn, trong khi với GDP mọi thứ rõ ràng hơn qua các con số thống kê.

Coyle nói với Quartz rằng bà không tin chỉ số hạnh phúc có thể hữu ích trong việc hoạch định chính sách. Coyle thừa nhận GDP không hoàn hảo nhưng nó nên được thay bằng một chỉ số khác, giải quyết các vấn đề như bất bình đẳng hay hủy hoại môi trường chứ không phải chỉ số hạnh phúc.

Giải pháp để giảm thiểu tính chủ quan, theo Carol Graham - một học giả chuyên cố vấn cho các chính phủ trong việc xây dựng những công cụ đo lường hạnh phúc thuộc Viện Brookings [Mỹ], là cần vận dụng tâm lý học trong việc đặt câu hỏi khảo sát. Ví dụ những người cực nghèo sẽ trả lời các câu hỏi về hạnh phúc của họ với độ lạc quan cao.

“Họ sẽ nhấn mạnh tôi còn sống, tôi có gia đình và bè bạn, thế là tôi hạnh phúc. Nếu chỉ nhìn vào đó, ta sẽ bỏ lỡ sự khốn cùng trong cuộc sống của họ” - Graham giải thích. Chuyên gia này cho rằng các câu hỏi về khó khăn vật chất và cơ hội trong đời sống cần được đặt theo dạng yêu cầu người được hỏi trả lời theo thang mức độ, từ tệ nhất đến tốt nhất. Đây cũng là cách mà Liên Hiệp Quốc đã làm trong khảo sát của họ.

Tuy nhiên, Graham cũng như nhiều người ủng hộ đo lường hạnh phúc, không đồng tình với việc xóa bỏ hoàn toàn GDP. Graham cho rằng “hạnh phúc” chỉ nên xem như phần bổ sung vào một “bức tranh” được tạo nên bởi nhiều chỉ số đo lường khác nhau. “Các tiêu chí dựa trên thu nhập truyền thống cho ta biết điều này và chỉ số hạnh phúc lại cho ta biết nhiều điều khác. Là một nhà hoạch định chính sách, bạn cần cân bằng chúng” - bà Graham nói với Quartz.■

Quỹ kinh tế học mới [New Economics Foundation], một tổ chức về kinh tế học uy tín ở Anh, cũng đề xuất năm thước đo cho sự phát triển của một quốc gia: việc làm tốt [không chỉ có việc làm mà lương phải đủ sống]; phúc lợi [mức độ hài lòng về cuộc sống, thu nhập, nhà cửa, quan hệ xã hội]; môi trường [khí thải carbon, ảnh hưởng biến đổi khí hậu]; sự bình đẳng [về thu nhập] và sức khỏe [phòng bệnh hơn chữa bệnh].

Tầm quan trọng của Kinh tế Vĩ mô

CĂN BẢN - Bài giảng 6

Học cách hiểu các dữ liệu kinh tế và chỉ số kinh tế vĩ mô. Các báo cáo này có ảnh hưởng như thế nào đến thị trường tài chính?

Bài giảng này kéo dài khoảng: 10 phút

Video liên quan

Chủ Đề