Sau khi nghiên cứu lý luận đã học được, cùng với tình hình thực tiễn hiện nay đã cho thấy được tổng quát về Thị trường mạng điện thoại di động ở Việt Nam hiện nay : bao gồm cả cạnh tranh lẫn độc quyền. Qua đó có thể thấy rằng mạng điện thoại di động ở Việt Nam mang những đặc điểm rất phù hợp với thị trường độc quyền nhóm-một loại độc quyền đang được học trong giáo trình : Thị trường có rất ít người cung cấp dịch vụ, một vài mạng đã chiếm thị phần khá lớn và có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, các doanh nghiệp mới rất khó gia nhập thị trường và hầu hết các sản phẩm dịch vụ có nét tương đồng, khó phân biệt . Từ đó chúng em đã quyết định nghiên cứu đề tài theo những tính chất của loại thị trường này. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài cũng đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức cũng như tìm hiểu nguyên nhân và các giải pháp : như làm thế nào để hạn chế tình trạng độc quyền trên thị trường mạng điện thoại di động, trách đi nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh và làm cho chất lượng dịch vụ giảm xuống, tạo ra thế cân bằng và lơi ích thuộc về người tiêu dùng Trên đây là một số kết luận rút ra được. Tuy nhiên, do việc nghiên cứu đề tài gặp nhiều khó khăn, vì đây là một vấn đề khá rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, khó khăn trong việc tìm hiểu và lấy tài liệu, việc tư duy để rút ra các nhận xét, giải pháp có phức tap, nhưng chúng em rất mong nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Cô Ái. Chúng em xin chân thành cảm ơn !
41 370 KB 5 190
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 41 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Tiểu luận
Cạnh tranh trong
nền KTTT Phần 1: Mở đầu
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị
trường. Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận
những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó có qui luật cạnh
tranh. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình
phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó nền kinh tế
nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một
trong những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế nước ta còn yếu kém.
Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng [là
thành viên của ASEAN, APEC, sắp trở thành thành viên của WTO,
rồi mở cửa hội nhập AFTA vào năm 2006] thì nước ta cần có một
nền kinh tế với sức cạnh tranh đảm bảo cho quá trình phát triển kinh
tế để đạt được mục đích trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Muốn như vậy chúng ta cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế với các đối tượng cần tác động là các doanh nghiệp. Đặc
biệt cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
nhà nước và tư nhân, phải phát huy các lợi thế cạnh tranh. Chúng ta
cần có một chính sách cạnh tranh đúng đắn.
Với mục tiêu như vậy thật không dễ dàng cho Việt Nam, khi
mà nền kinh tế hiện nay không có gì làm đảm bảo, các doanh
nghiệp làm ăn không hiệu quả, còn trì trệ, tình trạng thang nhũng và
thất thoát vốn nhà nước tăng cao. Các doanh nghiệp nhà nước không phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế khi
mà nhận được nhiều hỗ trợ từ phía nhà nước, ngành nghề kinh
doanh, chế độ tín dụng,… Trong tay nắm hầu hết các nguồn lực
quan trọng như: 100% mỏ dầu, 80% rừng, 90% lao động được coi
trọng, có phần xem nhẹ ưu điểm của các doanh nghiệp tư nhân. Vừa
qua, ngày 13/10/2004, chúng taã đthành ập
l được hiệp hội các
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, điều đó cho thấy có sự thay đổi
trong nhận thức về vai trò của tư nhân, doanh nghiệp tư nhân đang
dần nhận được sự quan tâm từ phía nhà nước và đóng vai trò quan
trọng trong chính sách phát triển kinh tế.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị
trường, nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển tuy vẫn có những
mặt hạn chế nhưng nó không phải là vấn đề quan trọng. Nhiều nước
trên thế giới đã vận dụng tốt qui luật cạnh tranh vào phát triển kinh
tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ khi đổi mới nền kinh tế
chúng ta cũng đã áp dụng qui luật này và một số thành tựu đã đến
với chúng ta: Đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội phát triển
hơn, kinh tế phát triển ổn định… những lợi ích ấy chưa phải là lớn
lao nhưng cũng đã giúp ch úng ta định hướng cho chính sách phát
triển kinh tế.
Độc quyền là sự chi phối thị trường của một hay nhiều công ty,
hoặc một tổ chức kinh tế nào đó về một loại sản phẩm trên một đoạn
thị trường nhất định. Nguyên nhân dẫn tới độc quyền thường do
cạnh tranh không lành mạnh đem lại. Độc quyền sẽ làm hạn chế rất
nhiều đối với cạnh tranh và phát triển kinh tế. Để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc
quyền có hiệu quả đang là vấn đề quan trọng được đặt ra với thực
trạng hiện nay của nước ta.
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay như
thế nào? Và nước ta cần làm gì để duy trì cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền? Chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể ở dưới đây. Phần 2
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
I. Một số vấn đề lí luận về cạnh tranh và độc quyền
1. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất
yếu khách quan
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng
hoá bao gồm các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình
sản xuất. Trên thị trường các nhà sản xuất, người tiêu dùng, những
người hoạt động buôn bán kinh doanh, quan hệ với nhau thông qua
hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá. Như vậy thực chất thị trường
là chỉ các hoạt động kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi, lưu
thông hàng hoá và mối quan hệ về kinh tế giữa người với người.
Hình thức đầu tiên của nền kinh tế thị trường là kinh tế hàng
hoá. Kinh tế h là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản
phẩm sản xuất ra để trao đổi và buôn bán trên thị trường. Nền kinh
tế thị trường là hình thứuc phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá,
mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều
được qui định bởi thị trường.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn
muốn có được những điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất
như: thuê được lao động rẻ mà có kĩ thuật, mua được nguyên nhiên
vật liệu rẻ, có thị trường các yếu tố đầu ra tốt. Điều đó dẫn đến sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dể chiếm lấy, nắm giữ lấy những
điều kiện thuận lợi. Sự cạnh tranh này chỉ kết thúc khi nó được đánh dấu bởi một bên chiến thắng và một bên thất bại. Tuy vậy cạnh
tranh không bao giờ mất đi trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
là sự sống còn của các doanh nghiệp. Muốn tồn tại được buộc các
doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp mình
bằng cách: nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giảm chi
phí sản xuất để cạnh tranh về giá cả, cải tiến khoa học kĩ thuật…
Điều này sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đồng thời cũng làm cho
xã hội phát triển nhờ kinh tế phát triển, khoa học - kĩ thuật phát triển
do đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp, cải
tiến khoa học - kĩ thuật.
Trong quá trình cạnh tran h các nguồn lực của xã hội sẽ được
chuyển từ nơi sản xuất kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả
hơn. Tạo ra lợi ích xã hội cao hơn, mọi người sẽ sử dụng những sản
phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem lại sự đa dạng của sản phẩm và dịch
vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng, cho người tiêu
dùng.
Như vậy cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường. Cạnh tranh giúp cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu
quả, đem lại ích lợi lớn hơn cho xã hội. Cạnh tranh có thể được xem
như là quá trình tích luỹ về lượng để từ đó thực hiện các bước nhảu
thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc thang
của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển di lên, tốt đẹp hơn. Vậy sự
tồn tại của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu
khách quan.
2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Cạnh tranh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế
hàng hoá. Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
những người sản xuất kinh doanh với nhau để giành giật lấy những
điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, nhằm tối đa hoá
lợi nhuận của mình. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vừa là
môi trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Do đó mà
cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường thể
hiện qua một số chức năng sau:
Thứ 1: Cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh: cạnh
tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau.
Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành
là sự cạnh tranh nhằm giành giật lấy những điều kiện có lợi cho sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các
doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về sản phẩm. Do đó kết quả của
sự cạnh tranh này là hình thành nên giá trị thị trường của từng loại
mặt hàng. Đó là giá trị của hàng hoá được tính dựa vào điều kiện
sản xuất trung bình của toàn xã hội. Nếu như doanh nghiệp nào có
điều kiện sản xuất dưới mức trung bình sẽ bị thiệt hại hay bị lỗ vốn.
Còn những doanh nghiệp có điều kiện sản xuất trên mức trung bình
của xã hội sẽ thu được lợi nhuận thông qua sự chênh lệch về điều
kiện sản xuất.
Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa
các ngành với nhau. Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất
những mặt hàng khác nhau. Mục đích của cạnh tranh này là tìm nơi
đầu tư có lợi hơn. Các doanh nghiệp tự do di chuyển TB của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh tranh này dẫn đến hình thành
nên tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá
cả sản xuất.
Việc hình thành nên giá thị trường của hàng hoá và tỉ suất lợi
nhuận bình quân là điều quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Với giá trị thị trường của hàng hoá cho biết doanh nghiệp nào làm
ăn có lãi hoặc không có hiệu quả. Từ đó sẽ có những thay đổi trong
sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Với tỉ suất lợi nhuận bình
quân cho biết lợi nhuận của các nhà tư bản sẽ là như nhau cho dù
đầu tư vào những ngành khác nhau với lượng TB như nhau.
Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một
cách hiệu quả nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại hay
một số loại hàng hoá cạnh tranh nhau về giá bán, hình thức sản
phẩm, chất lượng sản phẩm trong quá trình cạnh tranh đó doanh
nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng suất lao động cao hơn
thì doanh nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử dụng các
nguồn nguyên vật liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích
cho xã hội cao hơn. Nếu cứ để cho các doanh nghiệp kém hiệu quả
sử dụng các loại nguồn lực thì sẽ lãng phí nguồn lực xã hội trong
khi hiệu qu ả xã hội đem lại không cao, chi phí cho sản xuất tăng
cao, giá trị hàng hoá tăng lên không cần thiết.
Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị
trường, kích thích thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên
tiến vào sản xuất và tăng vốn đầu tư vào sản xuất trên thị trường,
khi cung một hàng nào đó lớn hơn cầu hàng hoá thì làm cho giá cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu được của các
doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Nếu như giá cả giảm xuống dưới mức
hoặc bằng chi phí sản xuất thì doanh nghiệp đó làm ăn không có
hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có những doanh nghiệp nào có chi phí
sản xuất giá cả thanh toán của hàng hoá thì doanh nghiệp đó mới
thu được. Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại được thì
phải giảm chi phí sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động
bằng cách tích cực ứng dụng đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào
trong quá trình sản xuất.
Ngược lại khi cung một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu
hàng hoá của thị trường điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá
điều này dẫn tới giá cả của hàng hoá tăng cao dẫn đến lợi nhuận của
các doanh nghiệp tăng lên, điều này kích thích các doanh nghiệp sẽ
nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng dụng khoa học - công
nghệ tiên tiến hoặc mở rộng qui mô sản xuất để có được lượng hàng
hoá tung ra thị trường. Điều này làm tăng thêm vốn đầu tư cho sản
xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Điều
này quan trọng là động lực này hoàn toàn tự nhiên không theo và
không cần bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan quản
lý nhà nước.
Thứ tư: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường không chỉ có
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự
cạnh tranh giữa những người lao động với nhau, để có được một nơi
làm việc tốt, công việc phù hợp. Điều đó khiến cho mọi người trong
xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề của mình. Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con người ta hoàn thiện hơn, cạnh
tranh đóng góp một phần trong việc hình thành nên con người mới
trong xã hội mới thông minh, năng động và sáng tạo.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến
có kẻ thắng và người thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ
làm ăn hiệu quả. Kẻ yếu thì bị phá sản. Sự phá sản của các doanh
nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực. Bởi vì có như vậy
thì các nguồn lực của xã hội mới được chuyển sang cho những nơi
làm ăn hiệu quả. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn
đến sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có hiệu quả sản
xuất của xã hội cao buộc chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của
những doanh nghiệp yếu kém. Sự phá sản này không phải là sự huỷ
diệt hoàn toàn mà đó là sự huỷ diệt sáng tạo.
3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền
trong kinh doanh
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá luôn muốn tự mình quyết
định đến việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá - dịch vụ của mình.
Nhưng cạnh tranh trên thị trường đã không cho phép họ làm như
vậy. Do đó các doanh nghiệp luôn muốn xoá bỏ cạnh tranh và độc
quyền đã ra đời để đáp ứng yêu cầu của họ. Độc quyền trong kinh
doanh là việc một hay nhiều tập đoàn kinh tế với những điều kiện
kinh tế chính trị, xã hội nhất định khống chế thị trường sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Độc quyền thường dẫn đến xu
hướng cửa quyền, bạo lực và trong một số trường hợp nó cản trở sự
phát triển của khoa học kĩ thuật, làm chậm thâm chí lãng phí các This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan