Tính chất của cuộc tiến công lên đất Tống của quân đội nhà Lý năm 1075 1076 là gì

Mục lục

Hoàn cảnh lịch sửSửa đổi

Năm 1009, Lý Công Uẩn lập ra nhà Lý. Để củng cố khu vực biên giới phía bắc, nhà Lý dùng chính sách gả công chúa cho các thủ lĩnh miền núi để gắn chặt mối quan hệ với họ. Trải qua 3 triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông, nước Đại Việt phát triển ổn định, khá vững mạnh.

Ở phương Bắc, nhà Tống từ khi thành lập [năm 960] đã phải khắc phục những hậu quả do thời chia cắt Ngũ đại Thập quốc để lại. Ngoài việc đánh dẹp các nước cát cứ, nhà Tống phải đối phó với nước Liêu của người Khiết Đan lớn mạnh ở phương bắc - quốc gia được vua nhà Hậu Tấn cắt cho 16 châu Yên Vân ở phía bắc từ năm 936 nên lãnh thổ bành trướng nhiều về phía nam, uy hiếp Trung nguyên và thường nhân đó can thiệp vào Trung Quốc. Đến thời Tống Thái Tông, dù dẹp hết các nước trong Thập quốc nhưng nguy cơ uy hiếp từ phía nhà Liêu vẫn luôn tiềm ẩn với nhà Tống.

Sang thời Tống Nhân Tông, nhà Tống lại bị thêm sự uy hiếp của nước Tây Hạ của người Đảng Hạng ở phía tây bắc mới nổi lên. Nhà Tống phải cống nộp nhiều của cải và bị mất nhiều phần lãnh thổ cho Liêu và Tây Hạ. Trong nước, triều Tống bị rối loạn bởi những cải cách của Vương An Thạch.

Chủ trương tiến đánh các nước phía nam Trung Quốc để giải tỏa các căng thẳng trở thành một chiến lược của nhà Tống.

Ý định nam tiến của TốngSửa đổi

Từ năm 1070, Vương An Thạch chú ý đến phương Nam và muốn lập công ở ngoài biên, tâu lên vua Tống rằng:

"Giao Chỉ vừa đánh Chiêm Thành bị thất bại, quân không còn nổi một vạn, có thể lấy quân Ung Châu sang chiếm Giao Chỉ".[1]

Năm 1073, vua Tống Thần Tông phái Thẩm Khởi làm Quảng Tây Kinh lược sứ lo việc xuất quân. Thẩm Khởi đặt các doanh trại, sửa đường tiếp tế, phủ dụ 52 động thuộc Ung Châu sung công các thuyền chở muối để tập thủy chiến.

Thẩm Khởi sau đó làm trái ý vua Tống, bị điều đi nơi khác và Lưu Di thay chức. Lưu Di được lệnh tăng cường binh lực, tiếp tục điểm dân, tích lương, đóng chiến thuyền, luyện tập thủy binh và cấm người Đại Việt sang đất Tống buôn bán vì sợ bị do thám.

Đặc biệt, nhà Tống đã biến Ung Châu thành một căn cứ xuất phát để đánh Đại Việt và giao cho Tô Giám, một viên tướng dày dặn kinh nghiệm trong cuộc chiến chống Nùng Trí Cao trước đây chỉ huy căn cứ này.

Đại Việt ra tay trướcSửa đổi

Năm 1072 vua Lý Thánh Tông qua đời, Thái tử Càn Đức mới 7 tuổi lên thay, tức là vua Lý Nhân Tông. Thái phi Ỷ Lan làm nhiếp chính, được sự phò tá của các đại thần Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành nên tình hình quốc gia vẫn khá ổn định.

Tuy Tống cố gắng giữ bí mật, nhưng tình báo của Đại Việt vẫn nắm được ý đồ của quân Tống. Đặc biệt, năm 1073, một tiến sĩ nhà Tống là Từ Bá Tường vì không được trọng dụng nên đã thông báo với nhà Lý. Bởi thế Đại Việt đã nắm được khá đầy đủ tình hình chuẩn bị chiến tranh của nhà Tống.

Lúc này số quân Tống đang tập hợp ở các căn cứ Ung, Khâm, Liêm khoảng 10 vạn đang huấn luyện, song chưa thể đánh ngay được vì số quân này là tân binh Hoa Nam vừa mới tuyển. Nhà Tống sẽ rút 45 ngàn cấm binh thiện chiến ở phương bắc đưa xuống chiến trường phía nam để lập đạo quân chủ lực, thì việc đó làm chưa xong.[2][3]

Trước tình hình đó, Thái úy Đại Việt là Lý Thường Kiệt cho rằng:

Ngồi yên đợi giặc sao bằng đánh trước để bẻ gãy mũi nhọn của nó!

Chủ trương thực hiện một chiến lược đánh đòn phủ đầu, Tiên phát chế nhân, ông quyết định mở trận tiến công quy mô sang đất Tống.[3][4]

Mục lục

Hoàn cảnh lịch sửSửa đổi

Năm 1009, Lý Công Uẩn lập ra nhà Lý.Năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên thành Đại La là Thăng Long. Để củng cố khu vực biên giới phía bắc, nhà Lý dùng chính sách gả công chúa cho các thủ lĩnh dân tộc ít người [chủ yếu là người dân tộc Tày] ở miền núi để xây dựng và gắn chặt mối quan hệ với họ. Trải qua 4 triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông, nước Đại Việt phát triển ổn định và vững mạnh.

Ở phương bắc, nhà Tống từ khi thành lập [960] đã phải khắc phục những hậu quả do thời chia cắt Ngũ đại Thập quốc để lại. Ngoài việc đánh dẹp các nước cát cứ, nhà Tống phải đối phó với nước Liêu lớn mạnh ở phương bắc - quốc gia của người Khiết Đan được vua nhà Hậu Tấn cắt cho 16 châu Yên Vân ở phía bắc từ năm 936 nên lãnh thổ bành trướng nhiều về phía Trung Quốc và thường nhân đó can thiệp vào trung nguyên. Đến thời Tống Thái Tông, dù dẹp hết các nước trong Thập quốc nhưng nguy cơ uy hiếp từ phía nhà Liêu vẫn luôn tiềm ẩn với nhà Tống.

Sang thời Tống Nhân Tông, nhà Tống lại bị thêm sự uy hiếp của nước Tây Hạ của người Đảng Hạng phía tây bắc mới nổi. Nhà Tống phải cống nộp nhiều của cải và bị mất nhiều phần lãnh thổ cho Liêu và Tây Hạ. Trong nước, triều Tống bị rối loạn bởi những cải cách của Vương An Thạch.

Chủ trương tiến đánh các nước phía nam Trung Quốc [như Đại Việt] để giải tỏa các căng thẳng trở thành một chiến lược của nhà Tống.

Biên giới Tống-Việt trước cuộc chiếnSửa đổi

Xem thêm: Nùng Trí Cao

Từ thời Lý Thái Tông, nhà Lý đã nhân cuộc đánh phá biên giới nhà Tống của thủ lĩnh người Tày là Nùng Trí Cao mà bành trướng ngầm lãnh thổ của mình bằng cách xúi người dân tộc Tày ở biên giới lấn đất và sinh sự trong một thời gian khá dài[1].

Tri châu Tiêu Chú ở Ung Châu đã có lần dâng sớ về triều xin đánh Đại Việt kẻo sau có đại họa. Nhưng Tiêu Chú bị bãi chức. Khi Vương An Thạch lên cầm quyền, Tiêu Chú được phục chức vì ông là người am hiểu mọi vấn đề Đại Việt đang nằm trong kế hoạch mở rộng xuống phương nam của Vương An Thạch. Đánh Đại Việt không chỉ để khuếch trương về phương nam mà còn lấy khí thế để mở rộng cương vực cho Trung Nguyên về phương bắc [đánh Liêu và Hạ].

Năm 1060, quan Lạng châu mục là Thân Thiệu Thái [ông này là bố đẻ của Thân Cảnh Phúc] đem binh vào huyện Nhử Ngao ở châu Tây Bình thuộc địa giới nhà Tống để bắt người bỏ trốn. Ông Thái bắt sống được toàn bộ nhóm ấy nhưng có lẫn cả Dương Lữ Tài [là một viên quan nhà Tống] và nhiều trâu, ngựa. Nhà Tống sai quan Lại bộ thị lang là Dư Tĩnh đến Ung Châu thảo luận về việc ấy. Lý Thánh Tông lại sai Bùi Gia Hựu tới Ung Châu bàn nghị. Dư Tĩnh đem nhiều của đút lót Bùi Gia Hựu và gửi thư cho Hựu mang về, xin vua Lý trả lại Dương Lữ Tài nhưng không được[2].

Vua Tống nén giận, giữ tình hòa hảo nhưng vẫn đợi dịp thuận tiện để xâm lăng Đại Việt mà từ lâu Tống coi như kẻ thù trong suốt mười năm. Tiêu Chú sau khi được phục hồi liền tới Quế Châu giao dịch với các tù trưởng từ đạo Đặc Ma đến châu Điền Đống, được biết lúc này triều Lý thắng Chiêm Thành [Cham-pa], thu phục thêm được 3 châu của người Chiêm, dân sinh quốc kế rất thịnh đạt.

I. Giai đoạn thứ nhất[1075]

1. Nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta

- Thế kỉ XI, nhà Tống gặp phải khó khăn về kinh tế, chính trịvì thế nhà Tống tiến hành xâm lược Đại Việt để giải quyết tình hình khó khăn trong nước.

- Ở phía Nam, nhà Tống xúi Chăm-pa đánh Đại Việt; ở phía Bắc, quân Tống ngăn cản việc trao đổi buôn bán giữa hainước, dụ dỗ các tù trưởng dân tộc ít người.

2. Nhà Lý chủ động tiến công để phòng vệ

Nhà Lý chủ động tiến công để phòng vệ

Mục a, b

a] Sự chuẩn bị

- Cử Lý Thường Kiệt chỉ huy quân đội.

+ Cho quân luyện tập và canh phòng suốt ngày đêm, sẵn sàng chiến đấu

+ Lý Thánh Tông cùng với Lý Thường Kiệt đem quân đánh bại ý đồ tiến công phối hợp của Tống và Chăm Pa.

- Chủ trương: tấn công trước để tự vệnhằm giành thế chủ động ngay khi chúng chưa xâm lược.

b] Diễn biến

- Tháng 10-1075, Lý Thường Kiệt và Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân tiến vào đất Tống.

- Cho yết bảng nói rõ mục đích cuộc tấn công để tự vệ.

Mục c, d

c] Kết quả

Sau 42 ngày đêm, quân ta đã làm chủ thành Ung Châu, tướng giặc phải tự tử. Đạt được mục đích, Lý Thường Kiệt chủ động rút quân, chuẩn bị phòng tuyến chặn địch ở trong nước.

d] Ý nghĩa

- Trận tập kích này đã đánh đòn phủ đầu, làm cho quân Tống hoang mang, bị động, lúng túng.

- Củng cố tinh thần của nhân dân.

ND chính

Nhà Lý chủ động tiến công để phòng vệ: sự chuẩn bị của nhà Lý, diễn biến, kết quả, ý nghĩa.

Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy Nhà Lý chủ động tiến công để phòng vệ

Loigiaihay.com

  • Kháng chiến bùng nổ

    Tóm tắt mục 1. Kháng chiến bùng nổ. Sau khi rút quân về nước, Lý Thường Kiệt hạ lệnh cho các địa phương ráo riết chuẩn bị bố phòng

  • Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt

    Tóm tắt mục 2. Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt

  • Nhà Tống âm mưu xâm lược Đại Việt nhằm mục đích gì?

    Từ giữa thế kỉ XI, nhà Tông [Trung Quốc] gặp phải những khó khăn chồng chất. Trong nước, ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn.

  • Nhà Lý chuẩn bị đối phó quân Tống như thế nào ?

    Nhà Lý chuẩn bị đối phó như thế nào ?

  • Việc chủ động tấn công để tự vệ của nhà Lý có ý nghĩa như thế nào ?

    - Mục tiêu tấn công của ta chỉ là các căn cứ quân sự, kho lương thảo - là những nơi quân Tống chuẩn bị cho cuộc tiến công xâm lược nước ta.

Em hãy nêu những nét độc đáo trong cách đánh giặc của Lý Thường Kiệt.

Đề bài

Em hãy nêu những nét độc đáo trong cách đánh giặc của Lý Thường Kiệt.

Video hướng dẫn giải

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk trang 41, 42 để suy luận trả lời.

Lời giải chi tiết

Lý Thường Kiệt có những cách đánh giặc rất độc đáo như:

-Chủ động tiến công địch, đẩy địch vào thế bị động.

- Lựa chọn và xây dựng phòng tuyến phòng ngự vững chắc trên sông Như Nguyệt.

- Đánh vào tâm lí của địch bằng bài thơ thần “Nam quốc sơn hà”

- Chủ động tấn công quy mô lớn vào trận tuyến của địch khi thấy địch yếu.

- Chủ động kết thúc chiến sự bằng biện pháp mềm dẻo, thương lượng, đề nghị “giảng hòa” để hạn chế tổn thất.

Loigiaihay.com

  • Hãy trình bày ý nghĩa của chiến thắng Như Nguyệt.

    Sớm phát hiện được mưu đồ của kẻ thù, vua tôi nhà Lý đã chủ động tiến hành các biện pháp chuẩn bị đối phó. Thái uý Lý Thường Kiệt được cử làm người chỉ huy, tổ chức cuộc kháng chiến.

  • Em hãy trình bày cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt của nhân dân ta theo lược đồ

    Chờ mãi không thấy thuỷ quân đến, quân Tống nhiều lần tìm cách tấn công quân ta.

  • Vai trò của các dân tộc ít người trong cuộc kháng chiến chống Tống.

    Trong kế hoạch "Tiên phát chế nhân", Lý Thường Kiệt cùng với Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân, chia làm hai đường thuỷ, bộ tấn công sang đất Tống.

  • Vì sao nhân dân ta chống Tống thắng lợi? Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng này.

    -Thứ nhất, là do tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất và lòng tự cường dân tộc của quân dân ta.

  • Tại sao Lý Thường Kiệt lại chọn sông Như Nguyệt làm phòng tuyến chống quân xâm lược Tống ?

    Sông Như Nguyệt như một chiến tuyến tự nhiên rất khó có thể vượt qua.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề