Tóm tất triết học Mác - Lênin Chương 1

Published by sonitnd, 2020-10-27 05:21:53

Buổi 2. Chương 1. Chương 1. Triết học và vai trò của triết học trong đời sống xã hội [tiếp theo và hết]

    Pages:
  • 1 - 14

Buổi 2. Chương 1. Chương 1. Triết học và vai trò của triết học trong đời sống xã hội [Tiếp theo và hết] - ThS.Hạnh

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

Bộ môn Lý luận chính trị

----------------

Môn: Triết học Mác Lênin

Chương I: Triết học và vai trò của triết học
trong đời sống xã hội

Giảng viên: ThS. Đinh Thị Hạnh

Nam Định - 2020

BUỔI 2: CHƯƠNG I [Tiếp]

TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Mục tiêu:

1. Phân tích được thực chất cuộc cách mạng do Mác và Ăngghen thực hiện?

2. Trình bày được đối tượng và chức năng của triết học Mác Lênin?

3. Phân tích được vai trò của triết học Mác Lênin trong đời sống xã hội và
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay?

II. Triết học Mác Lênin và vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời
sống xã hội.

1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác Lênin.

c. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện

Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết
học nhân loại. Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân
loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học mới về chất, hoàn bị nhất, triệt để
nhất, trong đó có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng, giữa
quan niệm duy vật về tự nhiên với quan niệm duy vật về đời sống xã hội, giữa việc
giải thích hiện thực về mặt triết học với cuộc đấu tranh cải tạo hiện thực bởi thực
tiễn cách mạng, trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp
công nhân và chính đảng của nó để nhận thức và cải tạo thế giới. Đó là thực chất
cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện.

C.Mác và Ph.Ăngghen, đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ
nghĩa duy vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng duy
tâm, sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật
biện chứng.

Trước Mác, các học thuyết triết học duy vật cũng đã chứa đựng không ít
những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh thần biện chứng. Song, do hạn chế của
điều kiện xã hội và của trình độ phát triển khoa học, nên, chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng tách rời nhau. Khắc phục nhược điểm của chủ nghĩa duy vật
Feuerbach là quan điểm triết học nhân bản, xem xét con người tộc loại, phi lịch sử,
phi giai cấp, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật triết học chân
chính khoa học bằng cách xuất phát từ con người thực hiện - con người hoạt động
thực tiễn mà trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất và thực tiễn đấu tranh chính trị
- xã hội.

Với việc kết hợp một cách tài tình giữa việc giải phóng chủ nghĩa duy vật
khỏi tính chất trực quan, máy móc siêu hình và giải phóng phép biện chứng khỏi
tính chất duy tâm thần bí, Mác và Ph.Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử, đã sáng
tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.

C.Mác và Ph. Ăngghen đã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện
chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội
dung chủ yếu của bước ngoặt cách mạng trong triết học.

Trong quá trình xây dựng thế giới quan mới, C.Mác và Ph.Ăngghen không hề
phủ nhận, mà trái lại, đã đánh giá cao vai trò của các nhà triết học và các học
thuyết triết học tiến bộ trong sự phát triển xã hội. Tuy vậy, các ông cũng khẳng
định rằng, khuyết điểm chủ yếu của các học thuyết duy vật trước Mác là chưa có
quan điểm đúng đắn về thực tiễn, do đó, thiếu tính triệt để, chỉ duy vật về tự nhiên,
chưa thoát khỏi quan niệm duy tâm về lịch sử xã hội. Trong lúc đó, phép biện
chứng duy tâm của Hegel coi sự vận động phát triển theo quy luật biện chứng là ý
niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, phủ nhận quá trình vận động biện chứng của
thực tiễn lịch sử xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật
biện chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội và mở rộng vào nghiên cứu một lĩnh vực
đặc thù của thế giới vật chất là tồn tại có hoạt động con người, tồn tại thống nhất,
khách quan - chủ quan. Với việc kết hợp một cách thiên tài giữa quá trình cải tạo
triệt để chủ nghĩa duy vật và cải tạo những quan điểm duy tâm về lịch sử xã hội,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã "làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng
học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người,
chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học.

C.Mác và Ph. Ăngghen đã bổ sung những đặc tính mới vào triết học, sáng tạo
ra một triết học chân chính khoa học - triết học duy vật biện chứng.

Phương thức theo đó C.Mác và Ph.Ăngghen sáng tạo ra một triết học hoàn
toàn mới, chính là việc các ông đã khám phá ra bản chất, vai trò của thực tiễn, luôn
gắn bó một cách hữu cơ giữa quá trình phát triển lí luận với thực tiễn xã hội, nhất
là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao
động.

Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí
của nó trong hệ thống tri thức khoa học của nhân loại cũng có sự biến đổi rất căn
bản. Giờ đây, triết học không chỉ có chức năng giải thích thế giới hiện tồn, mà còn
phải trở thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng.

Lần đầu tiên trong lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã công khai tính giai cấp
của triết học, biến triết học của mình thành vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản. Do
gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản - giai cấp tiến
bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân
dân lao động và sự phát triển xã hội - mà triết học Mác, đến lượt nó, lại trở thành

hạt nhân lí luận khoa học cho thế giới quan cộng sản của giai cấp công nhân. Sự
kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa lí luận của chủ nghĩa Mác với phong trào
công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát
lên tự giác - một điều kiện tiên quyết để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.

Ở triết học Mác, tính đảng và tính khoa học thống nhất hữu cơ với nhau. Triết
học Mác mang tính đảng là triết học duy vật biện chứng đồng thời mang bản chất
khoa học và cách mạng. Càng thể hiện tính đảng - duy vật biện chứng triệt để, thì
càng mang bản chất khoa học và cách mạng sâu sắc, và ngược lại.

Triết học Mác ra đời cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học muốn
biến triết học thành "khoa học của mọi khoa học", xác lập đúng đắn mối quan hệ
giữa triết học với khoa học cụ thể.

Một trong những đặc trưng nổi bật của triết học Mác là tính sáng tạo. Sự ra
đời và phát triển của triết học Mác là kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học công
phu và sáng tạo của C.Mác và Ph.Ăngghen.

Triết học Mác là một hệ thống mở luôn luôn được bổ sung, phát triển bởi
những thành tựu khoa học và thực tiễn. Không được coi những nguyên lý triết học
Mác là những giáo điều, mà chỉ là kim chỉ nam cho nhận thức và hành động, cần
phải vận dụng một cách sáng tạo trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

Triết học Mác mang trong mình tính nhân đạo cộng sản. Đó chính là lí luận
khoa học xuất phát từ con người, vì mục tiêu giải phóng con người, trước hết là
giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức bóc lột, phát
triển tự do, toàn diện con người.

Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã bổ sung những đặc tính mới của triết học,
sáng tạo ra một học thuyết triết học cao hơn, phong phú hơn, hoàn bị hơn - triết
học duy vật biện chứng, trở thành một khoa học chân chính, vũ khí tinh thần cho
giai cấp vô sản và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải
phóng con người và giải phóng xã hội.

d. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển Triết học Mác

Triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong nhận thức và cải
tạo thế giới. Đó là học thuyết về sự phát triển luôn đòi hỏi được bổ sung, phát triển
không ngừng. V.I.Lênin nhấn mạnh: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như
là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại chúng ta tin tưởng
rằng, lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ
nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn lạc hậu với cuộc
sống"1. V.I.Lênin và những người cộng sản đã kế tục trung thành, bảo vệ và phát

1V.I.Lênin, Toàn tập, t. 4, Nxb Tiến bộ, M., 1974, tr. 232.

triển sáng tạo cả ba bộ phận của chủ nghĩa Mác, đáp ứng đòi hỏi khách quan của
thời đại mới.

* Hoàn cảnh lịch sử V.I.Lênin phát triển Triết học Mác

Khởi đầu giai đoạn Lênin trong triết học Mác gắn liền với các sự kiện quan
trọng trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Đó là sự chuyển biến của chủ nghĩa
tư bản thành chủ nghĩa đế quốc; giai cấp tư sản ngày càng bộc lộ rõ tính chất phản
động của mình, chúng điên cuồng sử dụng bạo lực trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội; sự dịch chuyển của trung tâm cách mạng thế giới vào nước Nga và sự
phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

Sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội và cuộc đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản đã đặt ra trước những người mácxít những nhiệm vụ cấp bách, đó là sự
cần thiết phải nghiên cứu giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản;
soạn thảo chiến lược, sách lược đấu tranh của giai cấp vô sản và đội tiền phong của
nó là Đảng cộng sản trong cách mạng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục làm giàu và phát
triển triết học Mác,v.v. Những nhiệm vụ đó đã được V.I.Lênin giải quyết một cách
trọn vẹn trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những phát minh lớn trong lĩnh vực khoa
học tự nhiên [đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý học] được thực hiện đã làm đảo lộn
quan niệm về thế giới của vật lý học cổ điển. Việc phát hiện ra tia phóng xạ; phát
hiện ra điện tử; chứng minh được sự thay đổi và phụ thuộc của khối lượng vào
không gian, thời gian, vào vật chất vận động.v.v. có ý nghĩa hết sức quan trọng về
mặt thế giới quan... Lợi dụng tình hình đó, những người theo chủ nghĩa duy tâm,
cơ hội, xét lại...đã tấn công lại chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác. Việc luận
giải trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng những thành tựu mới của khoa học tự
nhiên; phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là
những nhiệm vụ đặt ra cho triết học. V.I.Lênin - nhà tư tưởng vĩ đại của thời đại, từ
những phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên, đã nhìn thấy bước khởi đầu của một
cuộc cách mạng khoa học, ông cũng đã vạch ra và khái quát những tư tưởng cách
mạng từ những phát minh vĩ đại đó.

Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã tiến hành một cuộc tấn
công điên cuồng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, nhằm chống lại các quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Rất nhiều trào lưu tư tưởng lý luận mang màu sắc
duy tâm xuất hiện: thuyết Kant mới; chủ nghĩa thực dụng; chủ nghĩa thực chứng;
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán [biến tướng của chủ nghĩa Makhơ]; lý luận về con
đường thứ ba,v.v.. Thực chất, giai cấp tư sản muốn thay thế chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác bằng thứ lý luận chiết chung, pha trộn
của thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Vì thế, việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác nói chung và triết học Mác nói riêng cho phù hợp với điêù kiện lịch sử mới đã
được V.I.Lênin xác định là những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.

* V.I.Lênin trở thành người kế tục trung thành và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác và triết học Mác trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa và quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.

V.I.Lênin sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870 tại thành phố Ximbiếcxcơ của nước
Nga trong một gia đình có sáu anh chị em được bố, mẹ cho học hành toàn diện và
giáo dục trở thành những người yêu lao động, trung thực, khiêm tốn, nhạy bén và
họ đều trở thành những người cách mạng. Ngay từ nhỏ Lênin đã nổi tiếng là người
tinh nhanh, vui vẻ, say mê và nghiêm túc trong việc học hành. Tính cách và quan
điểm của Lênin thời trẻ được hình thành dưới ảnh hưởng của nền giáo dục gia
đình, nền văn học Nga và cuộc sống xung quanh. Năm 17 tuổi, do tham gia tích
cực vào phong trào sinh viên, V.I.Lênin bị đuổi khỏi trường Đại học Tổng hợp
Cadan và bị bắt giam. Từ đó, Người bước vào con đường đấu tranh cách mạng.
Người quan tâm nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hết sức hào hứng tiếp nhận và tuyên
truyền nhiệt thành cho những tư tưởng vĩ đại của chủ nghĩa Mác.

Vốn giàu nghị lực và trí thông minh tuyệt vời, ý chí và lòng say mê hoạt động
cách mạng, V.I.Lênin đã lao vào công tác cách mạng, vượt qua mọi trở ngại, khó
khăn cả về vật chất và tinh thần, không ngừng làm việc, cống hiến, sức lực tâm
huyết và trí tuệ cho Đảng, cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Trong
điều kiện bị tù đày, sống lưu vong ở nước ngoài, cũng như trong những năm tháng
hoạt động lý luận và chỉ đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân Nga,
V.I.Lênin đã thể hiện rõ là một lãnh tụ, một nhà lý luận thiên tài, nhà tổ chức và
người lãnh đạo kiệt xuất của giai cấp vô sản. "Lênin là nhà bác học vĩ đại trong đấu
tranh cách mạng và là nhà cách mạng trong hoạt động khoa học. Ông là người mở
ra thời kỳ mới trong sự phát triển của lý luận mácxít, làm phong phú thêm tất cả
các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa
cộng sản khoa học"2.

Thời kỳ 1893 - 1907, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác và chuẩn bị
thành lập đảng mácxít ở Nga hướng tới cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ
nhất.

Từ những năm 80 của thế kỷ XIX chủ nghĩa Mác đã bắt đầu được tuyền bá
vào nước Nga. V.I.Lênin đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác vào phong trào
công nhân Nga đồng thời tiến hành đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa duy
tâm, phương pháp siêu hình, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác nói chung và triết
học Mác nói riêng.

Trong thời kỳ này, V.I.Lênin đã viết các tác phẩm chủ yếu như: Những
"người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội
ra sao? [1894]; Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn

2 Báo cáo của Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Liên - Xô, nhân 100 năm ngày sinh V.I.Lê - nin. Nxb chính trị

,H.1969, tr.14.

sách của ông Xtơruvê về nội dung đó [1894]; Chúng ta từ bỏ di sản nào? [1897];
Làm gì? [1902],v.v.. V.I.Lênin đã đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, phương
pháp siêu hình của phái Dân Túy, bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật,
quan tâm nghiên cứu các hiện tượng, quy luật phát triển của xã hội, phát triển
nhiều quan điểm về chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là làm phong phú thêm lý
luận hình thái kinh tế - xã hội. V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác
về các hình thức đấu tranh giai cấp trước khi có chính quyền, đấu tranh kinh tế,
đấu tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng, đặc biệt nhấn mạnh vai trò quyết định
của đấu tranh chính trị. Trong tác phẩmHai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội
trong cách mạng dân chủ, Lênin đã phát triển học thuyết của Mác về cách mạng
xã hội chủ nghĩa, đã nêu ra được những đặc điểm, động lực và triển vọng của
cách mạng dân chủ tư sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.

Từ 1907 - 1917 là thời kỳ V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh
đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905 - 1907, tình hình xã hội Nga cực kỳ
phức tạp. Lực lượng phản động giữ địa vị thống trị và hoành hành trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong hàng ngũ những người cách mạng nảy sinh hiện
tượng dao động, có tình trạng thoái chí, mất tinh thần, phân liệt, chạy dài, từ bỏ
lập trường, nói chuyện dâm bôn3. Về mặt tư tưởng, chủ nghĩa Mác bị tấn công từ
nhiều phía, trong lĩnh vực triết học có xu hướng ngả sang chủ nghĩa duy tâm, tôn
giáo, ra đời trào lưu tìm thần và tạo thần trong giới trí thức. Chủ nghĩa Makhơ
muốn làm sống lại triết học duy tâm, chống chủ nghĩa duy vật biện chứng, phá hoại
tư tưởng cách mạng, tước bỏ vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản.

Trước tình hình đó, V.I.Lênin tiến hành đấu tranh, bảo vệ, phát triển triết học
Mác. Tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán [1908] đã
khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, phê phán toàn diện triết
học duy tâm tư sản và chủ nghĩa xét lại trong triết học, vạch mặt những kẻ chống
lại triết học mácxít, bảo vệ chủ nghĩa duy vật, phát triển lý luận duy vật biện chứng
về nhận thức. V.I.Lênin chỉ ra rằng, giữa triết học và chính trị có mối quan hệ chặt
chẽ, rằng chủ nghĩa Mác là sự thống nhất không thể tách rời giữa lý luận khoa học
với thực tiễn cách mạng.

Trong tác phẩm này, V.I.Lênin đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất, giải
quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học, phát triển và hoàn thiện lý luận phản ánh,
vạch ra bản chất của ý thức, con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý
và đặc biệt nhấn mạnh vai trò của thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý.

V.I.Lênin đã chỉ ra thực chất của cuộc khủng hoảng trong vật lý học cuối thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - chính là sự khủng hoảng về thế giới quan và phương
pháp luận. Người chỉ rõ, con đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng vật lý là phải

3 V.I.Lênin, Toàn tập, t. 41, Nxb, Tiến bộ, Mat - xcơ - va 1978, tr. 11.

thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng.

V.I.Lênin đã chỉ rõ sai lầm của những người theo chủ nghĩa Makhơ, khi họ phủ
nhận vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với sự phát triển xã hội, về ý
thức xã hội là hình thức phản ánh của tồn tại xã hội. Ông kịch liệt phê phán phái
Makhơ đồng nhất quy luật sinh học với quy luật lịch sử, lấy quy luật sinh học giải
thích các hiện tượng của đời sống xã hội.

Trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất, V.I.Lênin nghiên cứu và
phát triển hàng loạt quan điểm, nguyên lý triết học Mác, đáp ứng yêu cầu nhận
thức giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và giải quyết những vấn đề cấp bách
của thực tiễn cách mạng vô sản. Qua tác phẩm Bút ký triết học[1914 - 1916],
V.I.Lênin quan tâm nghiên cứu, bổ sung, phát triển phép biện chứng duy vật. Ông
tập trung phân tích tư tưởng coi phép biện chứng là khoa học về sự phát triển, vấn
đề nguồn gốc, động lực của sự phát triển; phát triển các quy luật, phạm trù của
phép biện chứng duy vật; về nguyên tắc thống nhất giữa phép biện chứng, lôgíc
học và lý luận nhận thức, những yếu tố căn bản của phép biện chứng,... V.I.Lênin
bảo vệ, phát triển nhiều vấn đề quan trọng như làm sáng tỏ quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội, tính đảng của hệ tư tưởng, vai trò của quần chúng nhân dân
trong sự phát triển của lịch sử.

Trong tác phẩm: Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản [1913], V.I.Lênin đã phân tích chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ
nghĩa tư bản, đêm trước của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đã phát triển
sáng tạo vấn đề về mối quan hệ giữa những quy luật khách quan của xã hội với
hoạt động có ý thức của con người; về vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân
trong lịch sử, về quan hệ giữa tất yếu và tự do,v.v.. V.I.Lênin đã nêu lên những kết
luận mới về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản ở một số ít nước, thậm chí ở
một nước riêng lẻ không phải ở trình độ phát triển cao về kinh tế; về sự chuyển
biến của cách mạng dân chủ tư sản thành cách mạng xã hội chủ nghĩa; về những
hình thức muôn vẻ của cách mạng xã hội chủ nghĩa,v.v.. V.I.Lênin chỉ ra rằng,
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước là một bộ phận cấu thành của cách mạng
xã hội chủ nghĩa thế giới. Vì vậy, Người luôn đòi hỏi sự thống nhất, đoàn kết trong
phong trào cộng sản thế giới trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Khi cách mạng vô sản đã trở lên chín muồi, trong điều kiện cụ thể của nước
Nga, V.I.Lênin đã viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng [cuối năm 1917] nhằm
chuẩn bị mặt lý luận cho cuộc cách mạng vô sản đang đến gần. V.I.Lênin đã phát
triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về nguồn gốc bản chất của nhà nước, về tính
tất yếu đập tan nhà nước tư sản, thay thế bằng nhà nước chuyên chính vô sản, về
nhà nước trong thời kỳ quá độ - đó là nhà nước chuyên chính vô sản và lực lượng
lãnh đạo nhà nước là đội tiên phong của giai cấp công nhân tức chính đảng mácxít.
V.I.Lênin phân tích và nhấn mạnh tư tưởng chủ yếu của Mác về đấu tranh giai cấp,
chuyên chính vô sản, và phân tích chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là hai

giai đoạn trong sự phát triển của xã hội cộng sản chủ nghĩa, về vai trò của đảng
cộng sản trong xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.

Công lao to lớn của V.I.Lênin được thể hiện ở chỗ, ông đã giải quyết một
cách khoa học những vấn đề về chiến tranh và hoà bình; tiếp tục phát triển học
thuyết Mác về chiến tranh và quân đội. Ông là người đầu tiên soạn thảo học thuyết
về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa...Những tư tưởng trên được Lênin trình bày
trong các tác phẩm Chủ nghĩa xã hội và chiến tranh, Hải cảng Lữ thuận thất thủ,
Chiến tranh và cách mạng và một số tác phẩm khác.

Từ 1917 - 1924 là thời kỳ Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, bổ
sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng
chủ nghĩa xã hội.

Sau Cách mạng Tháng mười năm 1917, nước Nga Xô viết bước vào thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh chống lại sự can
thiệp của 14 nước đế quốc, bọn phản động trong nội chiến bảo vệ thành quả cách
mạng và xây dựng đất nước. V.I.Lênin kiên quyết đấu tranh chống mọi loại kẻ thù
của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.

V.I.Lênin đặc biệt chú ý tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, dựa vào
những thành tựu mới nhất của khoa học, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, nhất là
sự phát triển phép biện chứng mácxít...

V.I.Lênin làm rõ sự khác biệt căn bản về nhiệm vụ chủ yếu của quần chúng
lao động trong cách mạng tư sản và cách mạng vô sản..

Như vậy, chủ nghĩa Lênin không phải là sự giải thích chủ nghĩa Mác mà là
sự khái quát lý luận về thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới, là sự phát triển duy nhất đúng đắn và triệt để chủ
nghĩa Mác, trong đó có triết học trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô
sản. Chính vì thế, giai đoạn mới trong sự phát triển triết học Mác gắn liền với tên
tuổi của V.I.Lênin và triết học Mác - Lênin là tên gọi chung cho cả hai giai đoạn.

* Thời kỳ từ 1924 đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp tục được các Đảng
Cộng sản và công nhân bổ sung, phát triển

Từ sau khi V.I.Lênin mất đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp tục được các
đảng cộng sản và công nhân bổ sung, phát triển. Trong khi lãnh đạo, giải quyết các
nhiệm vụ chính trị, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh tư tưởng, các
đảng cộng sản và công nhân đã có nhiều đóng góp quan trọng, nhất là những vấn
đề về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chẳng hạn như vấn đề mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất; quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng;
quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại; về nhà nước xã hội chủ nghĩa, thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những mâu thuẫn của thời đại... Ở các nước xây dựng
chủ nghĩa xã hội, triết học Mác - Lênin được truyền bá và thâm nhập sâu rộng

trong quần chúng và trên các lĩnh vực đời sống của xã hội và đóng vai trò quan
trọng không thể thiếu trong quá trình xây dựng xã hội mới với những thành tựu to
lớn không thể phủ nhận được.

Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra rằng, quá trình phát triển triết học Mác -
Lênin cũng gặp không ít khó khăn do những sai lầm, khuyết điểm trong đấu tranh
cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội
mang tính chất tập trung quan liêu, bệnh chủ quan, duy ý chí, quan niệm giản đơn
về quan hệ giữa triết học và chính trị dẫn đến hoà tan triết học vào tư tưởng
chính trị trong giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ... là trở lực lớn đối với sự phát triển năng lực tư duy lý
luận, quá trình phát triển của triết học. Ngược lại, sự lạc hậu về lý luận đã trở thành
một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật với những phát minh có tính
chất vạch thời đại và sự biến đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề cần giải đáp về mặt lý luận. Điều đó đòi hỏi
các đảng cộng sản vận dụng thế giới quan, phương pháp luận mácxít để tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn khái quát lý luận định ra đường lối, chiến lược, sách lược
phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự đổ vỡ của mô
hình chủ nghĩa xã hội hiện thực làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác - Lênin
càng cấp bách hơn bao giờ hết. Đặc biệt, trong cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả
của chủ nghĩa xã hội đã đạt được, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vượt
qua thử thách, tiếp tục tiến lên đòi hỏi các đảng cộng sản càng phải nắm vững lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết là thế giới quan, phương pháp luận khoa học
của nó.

Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể Việt Nam, đồng thời có đóng góp quan trọng vào sự phát triển
triết học Mác - Lênin trong điều kiện mới.

2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác - Lênin

a. Khái niệm triết học Mác - Lênin

Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên,
xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận
thức và cải tạo thế giới.

Triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó là
hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, xã hội và tư duy; là sự
thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu
cơ với nhau. Với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác - Lênin là hình thức

phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học - chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác - Lênin là hình thức cao
nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học - phép biện chứng duy vật.

Triết học Mác - Lênin trở thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học
của lực lượng vật chất - xã hội năng động và cách mạng nhất tiêu biểu cho thời đại
ngày nay là giai cấp công nhân để nhận thức và cải tạo xã hội. Đồng thời triết học
Mác - Lênin cũng là thế giới quan và phương pháp luận của nhân lao động, cách
mạng và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo xã hội.

b. Đối tượng của triết học Mác - Lênin

Triết học Mác - Lênin xác định đối tượng nghiên cứu là giải quyết mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những
quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Với triết học Mác - Lênin thì đối tượng của triết học và đối tượng của các
khoa học cụ thể đã được phân biệt rõ ràng. Các khoa học cụ thể nghiên cứu những
quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt về tự nhiên, xã hội hoặc tư duy. Triết học
nghiên cứu những quy luật chung nhất, tác động trong cả ba lĩnh vực này.

Triết học Mác - Lênin có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khoa học cụ
thể. Các khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học
mới, làm tiền đề, cơ sở cho sự phát triển triết học.

c. Chức năng của triết học Mác - Lênin

Chức năng thế giới quan

Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con
người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học
Mác - Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan
cộng sản.

Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng
cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Thế giới quan duy vật biện
chứng còn giúp con người hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt
động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình.
Trên một ý nghĩa nhất định, thế giới quan cũng đóng một vai trò của phương pháp
luận. Giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết học Mác - Lênin có sự
thống nhất hữu cơ.

Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con
người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.
Trình độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá
nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất định.

Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh

với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học.

Chức năng phương pháp luận

Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát
có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận
về hệ thống phương pháp.

Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng được thể hiện trước hết là
phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học. Phương pháp luận duy vật
biện chứng trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc phương pháp luận
chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm
trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy
khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.

3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

* Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách
mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn

Những nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, của chủ
nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và của triết học Mác - Lênin nói chung là sự phản
ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của hiện thực
khách quan. Vì vậy, chúng có giá trị định hướng quan trọng cho con người trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình. Chúng giúp cho con người khi bắt tay
vào nghiên cứu và hoạt động cải biến sự vật không phải xuất phát từ một mảnh đất
trống không mà bao giờ cũng xuất phát từ một lập trường nhất định, thấy trước
được phương hướng vận động chung của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc
cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động cải biến sự vật phải trải qua.

Triết học với vai trò là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất nó gắn
bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn, là cái định hướng, cái chỉ đạo cho
chúng ta trong hành động. Xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, cụ thể là
xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể
có được những cách giải quyết đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn
ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm, chúng ta không thể tránh
khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể hiện giá trị định hướng - một trong những
biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học.

* Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học
và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.

Do kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mà loài
người bước vào thế kỷ XXI với những vấn đề nhận thức mới rất cơ bản và sâu sắc.
Trước tình hình đó, triết học Mác - Lênin đóng vai trò rất quan trọng, là cơ sở lý
luận - phương pháp luận cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp và truyền bá
tri thức khoa học hiện đại. Dù tự giác hay tự phát, khoa học hiện đại phát triển phải
dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Đồng thời,
những vấn đề mới của hệ thống tri thức khoa học hiện đại cũng đang đặt ra đòi hỏi
triết học Mác - Lênin phải có bước phát triển mới.

Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đang tăng lên không ngừng. Cùng với quá trình
toàn cầu hoá, xu thế bổ sung và phản ứng lại là xu thế khu vực hoá. Toàn cầu hoá
là một quá trình xã hội phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả tích cực và tiêu cực,
cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước kém
phát triển. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực tư bản chủ nghĩa đang lợi dụng toàn
cầu hoá để âm mưu thực hiện toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, toàn
cầu hoá là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế
quốc với các nước đang phát triển, các dân tộc chậm phát triển. Trong bối cảnh đó,
triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách
mạng để phân tích xu hướng vận động, phát triển của xã hội hiện đại.

Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là lý luận
khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện
mới, dưới hình thức mới.

Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào, tương
quan so sánh lực lượng bất lợi cho các lực lượng cách mạng, tiến bộ. Chủ nghĩa đế
quốc đang tạm thời thắng thế. Mặc dù vậy, phong trào công nhân, phong trào xã
hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc vẫn tồn tại, phục hồi dần, đang tập
hợp, phát triển lực lượng, tìm tòi các phương thức và phương pháp đấu tranh mới.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu thế quốc tế hoá, toàn cầu
hoá cùng với những vấn đề toàn cầu đang làm cho tính chỉnh thể của thế giới tăng
lên, hợp tác và đấu tranh trong xu thế cùng tồn tại hoà bình.

Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại nhưng đã mang những đặc
điểm mới, hình thức mới. Đồng thời, một loạt các mâu thuẫn khác mang tính toàn
cầu cũng đang nổi lên gay gắt. Thế giới trong thế kỷ XXI vẫn tồn tại và phát triển
trong hệ thống mâu thuẫn đó, trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa lợi
ích của giai cấp tư sản với lợi ích của tuyệt đại đa số loài người đang hướng đến
mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện mục
tiêu cao cả đó, loài người phải có lý luận khoa học và cách mạng soi đường. Lý
luận đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói

riêng.

* Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.

Kể từ khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa xã hội hiện thực
đã tỏ rõ tính ưu việt của một mô hình xã hội mới do con người, vì hạnh phúc con
người. Tuy nhiên, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan đã bộc lộ những hạn chế của nó mà nổi bật nhất là một cơ
chế quản lý kinh tế - xã hội mang tính tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính trong
tình trạng hiện nay, cần phải có một cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa
học, cách mạng để lý giải, phân tích sự khủng hoảng, xu thế phát triển của chủ
nghĩa xã hội thế giới và phương hướng khắc phục để phát triển.

Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận
khoa học, trong đó hạt nhân là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn
diện xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa được mở đường bằng đổi mới tư duy
lý luận, trong đó có vai trò của triết học Mác - Lênin. Việc tiếp tục bổ sung, đổi
mới là nhu cầu tự thân và bức thiết của triết học Mác - Lênin trong giai đoạn hiện

nay.

Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác - Lênin thể hiện
đặc biệt rõ đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Thế giới
quan triết học Mác - Lênin đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, bối cảnh mới, trong điều kiện, hoàn
cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu, chủ nghĩa
tư bản không những không sụp đổ mà còn có sự phát triển mạnh mẽ hơn thế. Nói
tóm lại, thế giới quan triết học Mác - Lênin đã giúp chúng ta nhìn nhận đánh giá
bối cảnh mới, đánh giá cục diện thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời
đại, thực trạng tình hình đất nước và con đường phát triển trong tương lai. Thế giới
quan triết học Mác - Lênin đã chỉ ra lôgíc tất yếu của sự phát triển xã hội loài
người là chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa tư bản trước sau cũng sẽ được thay thế bởi
một chế độ tốt hơn, công bằng hơn; con người được phát triển toàn diện. Thế giới
quan triết học Mác - Lênin đã giúp xác định tính đúng đắn của con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội.


Video liên quan

Chủ Đề