Trâu bò có máy hướng sản xuất chính

Với lợi thế địa hình thuận lợi cho việc chăn nuôi, nhất là chăn nuôi gia súc, cấp ủy, chính quyền các cấp ở huyện Ba Tơ luôn chú trọng công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh của địa phương, tập trung phát triển chăn nuôi theo hướng hàng hóa, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Nhiều hộ dân trên địa bàn huyện đã chuyển đổi từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi gia súc theo mô hình gia trại, trang trại. Nhờ vậy hộ chăn nuôi trên địa bàn huyện có cơ hội thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên mảnh đất quê hương.

Để phát triển đàn gia súc theo hướng sản xuất hàng hóa, thay đổi tập quán chăn nuôi lạc hậu, huyện chỉ đạo các phòng chuyên môn tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, tận dụng các phế phẩm nông nghiệp làm thức ăn; xây dựng chuồng nuôi kiên cố, tạo thế phát triển bền vững trong chăn nuôi. Đặc biệt, huyện lồng ghép nguồn vốn Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ, các nguồn vốn vay để hỗ trợ cho người dân nghèo trên địa bàn huyện có điều kiện phát triển kinh tế ngay tại địa phương.

Giai đoạn từ năm 2016-2020, công tác chăn nuôi thú y luôn được huyện quan tâm triển khai chỉ đạo thực hiện, công tác tiêm phòng cho đàn gia súc được thực hiện theo đúng kế hoạch, do đó đàn gia súc ít bệnh tật và phát triển tương đối ổn định, nếu như năm 2016 tỷ trọng bò lai đạt 63% thì đến cuối năm 2020 đạt trên 70%, đàn trâu giữ vững ổn định, hiện nay đạt gần 28 ngàn con, đàn heo năm 2016 là trên 20 ngàn con thì đến nay đạt trên 35 ngàn con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng dần qua các năm, đến cuối năm 2020 đạt trên 3.500 tấn.

Nuôi trâu có chuồng nhốt được phát triển mạnh tại huyện Ba Tơ

Chăn nuôi gia súc theo hướng sản xuất hàng hóa đã tạo cho người dân ở Ba Tơ phát triển kinh tế theo hướng mới, có hiệu quả, phá bỏ tập quán sản xuất lạc hậu như: Thả rông gia súc, chăn nuôi nhỏ lẻ, khép kín, tự sản, tự tiêu, thay bằng chăn nuôi tập trung theo quy mô trang trại, nuôi nhốt có sự đầu tư về thức ăn và theo dõi dịch bệnh. Tiêu biểu về phát triển chăn nuôi trâu, bò hàng hóa ở huyện Ba Tơ là xã Ba Thành, Ba Vinh, Ba Động, thị trấn Ba Tơ. Ở đây người dân thấy được hiệu quả thực tế từ chăn nuôi gia súc, có thể phát huy được thế mạnh của vùng nên đã kết hợp sự hỗ chợ của Nhà nước với nội lực của gia đình tập trung đầu tư vào phát triển trâu, bò. Có những gia đình số lượng trâu, bò đã đạt đến hàng chục con, trị giá hàng trăm triệu đồng, một hộ nông dân ở một huyện Miền núi như Ba Tơ mà có tài sản như vậy là tương đối lớn. Đó chính là điểm nhấn cho nhân rộng mô hình trang trại chăn nuôi trâu, bò hàng hóa của huyện, góp phần xóa đói, giảm nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng trong nhân dân trên địa bàn.

Mặc dù chăn nuôi gia súc của huyện Ba Tơ có bước phát triển, song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Chăn nuôi gia súc theo hướng hàng hóa mới chỉ phát triển ở một số địa phương nhất định. Bên cạnh đó, người dân còn thiếu vốn đầu tư; vẫn còn một bộ phận người dân còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước mà chưa có sự nỗ lực vươn lên.

Để chăn nuôi gia súc tiếp tục phát triển ổn định, trong thời gian tới huyện Ba Tơ sẽ tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân tập trung phát triển chăn nuôi trâu, bò chất lượng cao ở những vùng có lợi thế về điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng. Từ đó, mở rộng quy mô chăn nuôi hàng hóa, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, đưa chăn nuôi trở thành một trong những hướng phát triển kinh tế chủ đạo của địa phương.

Ba Đình


Chợ trâu bò Bảo Lâm, Cao Bằng luôn thu hút khách hàng [Ảnh chụp trước thời điểm dịch Covid 19 bùng phát]

Thế mạnh của vùng khó

Với điều kiện đất đai rộng, khí hậu mát mẻ trong lành, vùng DTTS và miền núi có nhiều lợi thế trongchăn nuôi đại gia súc. Trên thực tế, những năm gần đây, có rất nhiều hộ gia đình chuyển hướng sang chăn nuôi đại gia súc, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Anh Quàng Văn Muôn, ở bản Mển, xã Hua Trai, huyện Mường La [Sơn La] cho biết, trước đây, gia đình anh chủ yếu chăn nuôi gà, lợn. Tuy nhiên, gần đây dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, gây khó khăn trong việc đi lại. Nhiều khi gà, lợn đến thời gian xuất chuồng mà không có thương lái đến mua.

Ngoài ra, việc chăn nuôi loại vật nuôi này nguồn thu nhập cũng không cao, do đó, anh cùng nhiều người dân chuyển sang nuôi trâu bò bán thịt. Anh đã mạnh dạn vay vốn đầu tư nuôi 7 con bò theo hướng bán chăn thả, đồng thời chuyển gần 1 ha đất sản xuất kém hiệu quả sang trồng cỏ cho bò ăn.

Nhờ vậy, đàn gia súc phát triển ổn định. Anh nhẩm tính đợt tới bán đàn bò sẽ thu lãi hơn 100 triệu đồng. Anh Muôn cho biết thêm, ở bản Mển hiện đã có hơn 20 hộ cùng chuyển đổi khoảng 5 ha đất sang trồng cỏ để nuôi 250 con trâu, bò.

Trước đây, huyện Na Rì [Bắc Kạn], vốn không phải là vùng trọng điểm về phát triển chăn nuôi. Nhưng từ khi thực hiện chủ trương phát triển nuôi nhốt đại gia súc vỗ béo và bán chăn thả, thì nghề chăn nuôi đại gia súc đã trở thành một điểm sáng trong phát triển kinh tế của huyện.

Gia đình chị Triệu Thị Liều ở thôn Nà Kèn, xã Sơn Thành, huyện Na Rì, thường nuôi trâu, bò theo cách thả rông. 3 năm gần đây, gia đình chị bắt đầu trồng cỏ voi và chuyên nuôi nhốt vỗ béo. Cứ sau 5 tháng, gia đình được xuất bán 1 lứa trâu, thu về trung bình hơn 100 triệu đồng.

Hiện thôn Nà Kèn có 25 hộ dân, thì đã có 10 hộ thực hiện mô hình nuôi nhốt vỗ béo trâu, bò. Mỗi gia đình nuôi 3 - 4 con, nhà nhiều nuôi hơn 10 con. Trung bình 1 con trâu, hoặc bò được nuôi nhốt, mỗi tháng có thể cho thu nhập 1 triệu đồng.

Việc nuôi vỗ béo cho trâu, bò đã được nhân rộng ra tất cả các xã. Hiện nay, tổng đàn đại gia súc huyện Na Rì đạt bình quân 8.000 con/năm và có khoảng 134 ha cỏ voi làm thức ăn, phục vụ việc nuôi nhốt.

Hướng đi chiến lược

Mặc dù một số địa phương vùng DTTS và miền núi đã dần chuyển hướng sang chăn nuôi đại gia súc. Tuy nhiên, việc chuyển đổi này vẫn còn khá dè dặt. Theo thống kê của ngành Nông nghiệp, sản lượng chăn nuôi đại gia súc của Việt Nam còn rất nhỏ so với nhu cầu của thị trường.

Cụ thể, tổng sản lượng thịt đại gia súc các loại của Việt Nam 1 năm, chỉ khoảng 330.000 tấn, trong khi đó, lượng thịt tiêu thụ trong cả nước khoảng 5 triệu tấn. Đối với sản phẩm về sữa, hiện cả nước mới có khoảng 300.000 con bò sữa, sản lượng 960.000 tấn; bình quân sử dụng sữa đạt khoảng 20 lít/người/năm,trong khi đó mức trung bình của thế giới là 81 lít/người/năm.

Viêt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2030, đàn bò sữa sẽ đạt quy mô 700 nghìn con

Như vậy, nhu cầu thịt và sữa trên thị trường đang rất thiếu. Đây là cơ hội tốt để phát triển chăn nuôi đại gia súc. Xác định rõ điều này, thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn [NN&PTNT] cũng đã tích cực hoạch định chiến lược sản xuất mới.

Ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi [Bộ NN&PTNT] cho biết, từ năm 2020, Bộ NN&PTNT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2030”.

Theo chiến lược này, Chính phủ có nhiều ưu tiên cho chăn nuôi đại gia súc. Cụ thể, Chính phủ sẽ cho phép các địa phương chuyển phần diện tích đất nông nghiệp hiệu quả thấp, sang thâm canh trồng cỏ và cây thức ăn chăn nuôi, tổng diện tích đất các loại cho nhu cầu này từ 0,5 - 1,0 triệu ha.

Chính phủ cũng khuyến khích phát triển công nghệ tiên tiến, hiện đại trong quản lý ngành và quản trị hoạt động kinh doanh chăn nuôi. Ngoài ra, ngành nông nghiệp cũng đề nghị người chăn nuôi tổ chức sản xuất theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại và hiệu quả gắn với các chuỗi liên kết, trong đó phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp, hiệp hội và hợp tác xã…

Lãnh đạo Cục Chăn nuôi chia sẻ, Việt Nam có nhiều giống trâu, bò bản địa chất lượng thịt rất tốt. Cụ thể, nước ta có 1 giống trâu đầm lầy [Swamp buffalo] và 3 loài bò gồm bò vàng, bò Mông và bò U đầu rìu. Trong đó, giống bò Mông là giống rất quý đã được Cục Chăn nuôi lên kế hoạch bảo tồn và phát triển ở một số địa phương.

Với các giải pháp đồng bộ này, Viêt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2030, đàn bò sữa sẽ đạt quy mô 700 nghìn con, trong đó khoảng 60% đàn bò sữa được nuôi trong các trang trại. Đàn bò thịt ổn định ở quy mô 6,5 - 6,6 triệu con, trong đó khoảng 30% được nuôi trong trang trại. Đàn trâu ổn định ở quy mô 2,4 - 2,6 triệu con, trong đó khoảng 20% được nuôi trong trang trại.

Có thể nói, hướng sản xuất chăn nuôi đại gia súc đang là cơ hội, là “mảnh đất màu mỡ” cho người dân vùng dân tộc thiếu số và miền núi khai thác. Vì vậy, người dân cần mạnh dạn nắm bắt bắt cơ hội sớm chuyển đổi sản xuất một cách phù hợp...

Những tỷ phú người Hà Nhì nơi biên viễn

Video liên quan

Chủ Đề