Trong sản xuất và lưu thông hàng hóa giá cả hàng hóa đó yếu tố nào quyết định

Quy luật giá trị quy định người sản xuất được hiểu như thế nào? Cùng Luật sư X tìm hiểu về vấn đề này qua bài viết dưới đây.

Theo quy luật giá trị, sản xuất và lưu thông hàng hóa phải căn cứ vào thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Thời gian chung cho toàn bộ xã hội để sản xuất ra một sản phẩm đó được gọi là thời gian lao động xã hội cần thiết.

Ví dụ: A dệt vải hết 5h; B dệt vải hết 6h; C dệt vải hết 7h.

Trong ví dụ này thời gian lao động cá biệt là 5h, 6h, 7h. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian trung bình của ba người trên là 6h. B nđã thực hiện đúng quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, A thực hiện tốt quy luật giá trị và C đã vi phạm quy luật giá trị.

Quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được. Sự phù hợp ở đây có nghĩa là sự hao phí sức lao động cá biệt của mình nhỏ hơn hoặc bằng với mức hao phí sức lao động xã hội cần thiết, thì mới đạt được lợi thế trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh là những lợi thế giúp người sản xuất đó có thể có ưu thế hơn so với những người sản xuất khác.

Quy luật giá trị yêu cầu tổng giá trị hàng hóa sau khi bán phải bằng tổng giá trị hàng hóa được tạo ra trong quá trình sản xuất. Điều này giúp cho hoạt động sản xuất hàng hóa được tiếp diễn và duy trì một cách bền vững bền vững. Giá cả hàng hóa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.

Quy luật giá trị quy định người sản xuất và lưu thông hàng hóa

– Trong sản xuất hàng hóa: thì thời gian lao động cá biệt phải bằng thời gian lao động xã hội cần thiết

  • Nếu thực hiện đúng quy luật giá trị thì có tác dụng cân đối thị trường;
  • Nếu thực hiện tốt hơn quy luật giá trị sẽ dẫn tới thừa hàng hóa trên thị trường;
  • Nếu vi phạm quy luật giá trị sẽ dẫn tới hiện tượng thiếu hụt hàng hóa trên thị trường.

– Trong lưu thông hàng hóa: Các sản phẩm trao đổi được cho nhau trong trường hợp giá trị của các sản phẩm bằng nhau. Quy luật giá trị giúp cho người tiêu dùng có thể lưu thông hàng hóa theo cách sử dụng một sản phẩm có giá trị trao đổi với một sản phẩm có giá trị bằng nhau. Đây được gọi là nguyên tắc ngang giá.

Trên thị trường giá cả của từng hàng hóa có thể cao hoặc thấp hơn giá trị hàng hóa do ảnh hưởng của cạnh tranh cung cầu. Nhưng dù thế nào giá cả cũng vận động xoay quanh trục giá trị của hàng hóa.

Quy luật giá trị quy định người sản xuất được hiểu như thế nào?

  • Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
  • Trong lưu thông, hay trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.
  • Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị còn , giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền.
    Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
  • Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa qua giá cả trên thị trường. Nếu mặt hàng nào lãi cao thì người sản xuất chuyển sang đầu tư và ngược lại.
  • Kích thích lực lượng sản xuất phát triển và tăng năng suất lao động. Người sản xuất không muốn thua lỗ thì phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề người lao động… làm giá trị xã biệt của họ thấp hơn giá trị xã hội. Khi đó năng suất lao động tăng dẫn đến sản phẩm tăng và lợi nhuận cũng sẽ tăng.

Ví dụ: Bình thường mỗi ngày A may một chiếc áo hết 2h. Nhưng A nhập thêm máy móc sản xuất dây chuyển hàng loạt thì mỗi ngày số lượng áo A sản xuất lên đến 200 chiếc từ đó lợi nhuận mỗi ngày thu được nhiều hơn.

  • Phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa. Những người sản xuất, kinh doanh giỏi [áp dụng các khoa học công nghệ trong sản xuất thì sẽ sản xuất được nhiều hàng hóa có giá trị thấp hơn giá trị trên thị trường] sẽ giàu và ngược lại.

Ví dụ: A và B cùng sản xuất bàn ghế. A dùng công nghệ sản xuất dây chuyển nên sản xuất được số lượng hàng hóa gấp nhiều lần việc B tự làm thủ công. Từ đó A làm ăn thắng lợi nên ngày càng giàu, còn B không chịu thay đổi mà giá hàng hóa cao hơn A nên làm ăn thua lỗ và nghèo.

Mời bạn xem thêm:

Thông tin liên hệ với Luật sư X

Trên đây là tư vấn của Luật sư X. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên; để sử dụng trong công việc và cuộc sống.

Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến dịch vụ thành lập công ty hợp danh, giải thể công ty, đăng ký bảo vệ thương hiệu, mẫu tạm ngừng kinh doanh, tra cứu thông tin quy hoạch, coi mã số thuế cá nhân, luật bay flycam…của luật sư X, hãy liên hệ  0833102102.

Câu hỏi thường gặp

Yêu cầu chung của quy luật giá trị là gì?

Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết

Tác động của quy luật giá trị

Trong sản xuất hàng hóa , quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:– Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa– Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất laođộng. thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.– Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa

thành người giàu, người nghèo.

0 ra khỏi 5

Mục lục bài viết

  • 1. Cơ chế vận động của giá cả thị trường
  • 2. Các quy luật kinh tế của thị trường quyết định sự hình thành và vận động của giá cả thị trường
  • 3. Giá thị trường biểu hiện giá trị hàng hoá và giá cả tiền tệ

1. Cơ chế vận động của giá cả thị trường

Giá thị trường là hiện tượng kinh tế xuất hiện trong quá trình trao đổi do sự thoả thuận trực tiếp giữa người mua và người bán trên cơ sở nhận thức những điều kiện cụ thể của thị trường, hay nói một cách tồng quát, do các lực lượng cầu và cung quyết định. Giá thị trường nhằm thoả mãn lợi ích kinh tế của cả bên mua lẫn bên bán, là "bàn tay vô hình" điều tiết nền sản xuất xã hội. Giá thị trường có các đặc điểm chủ yếu sau:

Một là: Sự hình thành và vận động của giá thị trường chịu sự chi phối mạnh mẽ các quy luật kinh tế của thị trường [quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh]. Các quy luật này tác động tới người mua và người bán như những lực lượng vô hình.

Hai là; Mặt bằng giá cả không chỉ phản ánh các quan hệ kinh tế trên thị trường trong nước, mà nó còn phản ánh quan hệ giá cả trên thị trường quốc tế.

2. Các quy luật kinh tế của thị trường quyết định sự hình thành và vận động của giá cả thị trường

Các quy luật kinh tế của thị trường quyết định sự vận động của thị trường, do đó quyết định sự vận động của nền kinh tế thị trường. Các quy luật này có những đặc trưng chủ yếu sau:

a. Các quy luật kinh tế của thị trường tạo ra động lực kinh tế, đó chính là lợi ích vật chất, mà những người tham gia thị trường có thể đạt tới. Động lực này có vai trò quyết định trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Thứ nhất; trong nền kinh tế bao giờ cũng tồn tại đồng thời các loại lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Tiếp đến là lợi ích xã hội, lợi ích tập thể. Thực tế nước ta cho thấy nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp của Nhà nước do quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân, nên chúng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và được mọi người ủng hộ.

Thứ hai; trong nền kinh tế có nhiều thành phần, thì kinh tế tư nhân thường rất nhạy cảm với các quy luật kinh tế của thị trường so với các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, đối với các nước dựa chủ yếu vào kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể thì khi chuyển sang kinh tế thị trường, nhiệm vụ đặt ra không chỉ là phải chuyển dịch các hình thức sở hữu, thực hiện cổ phần hoá và tư nhân hoá một phần, mà còn phải đặc biệt quan tâm tạo ra động lực kinh tế cho khu vực kinh tế Nhà nước và tập thể.

b. Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế của thị trường là quy luật trung tâm, là cơ sở, là động lực của các quy luật kinh tế khác và chi phối các hiện tượng kinh tế, nhưng chúng lại hoạt động một cách tự phát, vì vậy trong quản lý vĩ mô nền kinh tế, trước hết phải nhận thức rõ để vận dụng các điều tiết chúng vì lợi ích của quốc kế dân sinh.

c. Các quy luật kinh tế của thị trường phát sinh và phát triển gắn với sự phát sinh và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Quan hệ sản xuất không làm thay đổi được bản chất của các quy luật kinh tế đó. Sự phát triển của sức sản xuất rất khác nhau của các nền kinh tế ở các quốc gia chỉ làm cho hoạt động của các quy luật mang nhiều màu sắc khác nhau mà thôi.

Các quy luật kinh tế của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó quy luật giá trị có vai trò quan trọng nhất. Các quy luật này tác động đến giá cả, đến các yếu tố thị trường theo những chiều hướng khác nhau, do đó, nó tạo ra sự đa dạng và phong phú của các hiện tượng giá trị thị trường.

Quy luật giá trị, với tư cách là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá, đã tạo ra cho người mua và người bán những động lực cực kỳ quan trọng. Trên thị trường, người mua bao giờ cũng muốn tôi đa hoá lợi ích sử dụng. Vì vậy, người mua luôn luôn muốn ép giá thị trường với mức gia thấp. Ngược lại, người bán bao giờ cũng muốn tôi đá hoá lợi nhuận, và do đó, muốn bán với giá cao. Để tồn tại và phát triển, những người bán, một mặt phải phấn đấu giảm chi phí [đặc biệt là ở các giai đoạn trước khi đưa hàng hoá ra thị trường] để chi phí cá biệt bằng hoặc nhỏ hơn chi phí xã hội trung bình. Mặt khác, họ lại tranh thủ tối đa các điều kiện của thị trường để bán với giá cao. Họ cố gắng dùng mọi thủ đoạn và biện pháp để bán được hàng với giá cao nhất, nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Vì vậy, xét trên phương diện này, quy luật giá trị tác động tới người bán theo hướng thúc đẩy họ nâng giá thị trường lên cao. Tuy nhiên đó chỉ là xu hướng.

Quy luật cạnh tranh: là quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là hoạt động phổ biến trên thị trường. Cạnh tranh thường diễn ra giữa những người bán với những người mua và giữa những người bán với nhau. Do có mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, nên những người bán và người mua cạnh tranh gay gắt với nhau. Tuy nhiên, sự cạnh tranh này lại được khắc phục bằng cơ chế thoả thuận trực tiếp giữa họ để đạt được mức giá mà hai bên cùng chấp nhận, hoặc là cùng chấp nhận mức giá thị trường mà mỗi cá nhân đều không có khả năng ảnh hưởng tới. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau thường là các thủ đoạn nhằm chiếm lĩnh thị trường, trong đó thủ đoạn giá cả là một công cụ cạnh tranh rất quan trọng và phổ biến. Người bán có thể áp dụng mức giá thấp để thu hút người mua. Như vậy, cạnh tranh tạo ra một xu thế ép giá thị trường sát với giá trị. Giữa những người mua cũng có sự cạnh tranh với nhau nhằm tối đá hoá lợi ích sử dụng.

Quy luật cung cầu: quyết định trực tiếp mức giá thị trường thông qua sự vận động của quan hệ cung cầu. Mức giá thị trường thực hiện các chức năng: một là, cân đối cầu cung ở ngay thời điểm mua bán [và chỉ ở thời điểm đó mà thôi]. Hai là, chỉ cho các nhà sản xuất biết cần phải giảm hay tăng khối lượng sản xuất, khối lượng hàng hoá cung ứng ra thị trường. Xét về mặt thời gian, giá thị trường là cái có trước quan hệ cung cầu. Đây là hiện tượng phổ biến của sự hình thành và vận động của giá cả trên thị trường. Thông qua sự vận động của giá thị trường, các nhà sản xuất có thể nhận biết tương đối chính xác cầu của thị trường và họ có thể chủ động đưa ra thị trường một khối lượng hàng hoá tương đối phù hợp với nhu cầu đó. Sự cân bằng cung cầu là cơ sở quan trọng để ổn định giá cả của từng loại hàng.

Qua đó ta thấy rằng Nhà nước cần phải quản lý giá. Sự quản lý đó thể hiện sự nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế của thị trường, trong đó cần chú trọng các vấn đề sau:

a. Không thể chỉ thừa nhận vai trò của quy luật giá trị và quy luật cung cầu đối với sự hình thành và vận động của giá thị trường, mà cò phải thấy vai trò cực kỳ quan trọng của quy luật cạnh tranh. Nếu quy luật cung cầu quyết định sự xuất hiện giá thị trường, thì quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh lại quyết định không những mức giá, mà cả xu thế vận động của giá cả. Quy luật cạnh tranh còn tạo ra cơ chế để khống chế chi phí, giảm chi phí và ổn định giá cả.

Do chịu sự tác động đồng thời của các quy luật kinh tế của thị trường, giá cả là phạm trù kinh tế tổng hợp, phản ảnh các quan hệ kinh tế của thị trường, là công cụ quan trọng để thực hiện các yêu cầu của ba quy luật nói trên. Vì vậy, việc để cho các doanh nghiệp tự quyết định giá cả theo những điều kiện cụ thể của thị trường là một quyết định khách quan và đúng đắn của Nhà nước.

Quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh tạo ra hai lực ngược chiều nhau đối với sự hình thành và vận động của giá cả. Cả hai lực cùng tồn tại song song trên thị trường. Để quản lý giá và phát huy tác dụng của các quy luật, Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp tự do cạnh tranh với nhau. Muốn thế, một mặt, Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống các đạo luật kinh tế và kinh doanh, tạo hành lang hoạt động cho các doanh nghiệp. Mặt khác, cần từng bước thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực kinh tế này.

Ở các ngành và lĩnh vực Nhà nước cần nắm độc quyền, thì phải sớm có biện pháp hạn chế tính độc quyền và quyền lực của độc quyền, đồng thời phải có sự quản lý chi phí bằng nhiều biện pháp khác nhau. Đây cũng là một biện pháp cần thiết để Nhà nước quản lý giá.

b. Tự do cạnh tranh đã buộc các doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ chi phí nhằm đưa giá sát với giá thị trường. Nếu mức lợi nhuận đạt được không cao, các doanh nghiệp buộc phải tính toán giữa lợi nhuận do giá cả đem lại với lãi suất tiền vay, giữa sự rủi ro và quỹ dự trữ lưu thông để ổn định giá thị trường. Với tư cách là người tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp không bao giờ chịu đứng ra lập quỹ dự trữ lưu thông để ổn định giá thị trường do những rủi ro lớn và vòng vay vốn chậm. Vì thế, đối với những mặt hàng tuỳ được tự do kinh doanh, nhưng nếu có vai trò quan trọng đối với quốc kế dân sinh, có khối lượng tiêu thụ lớn và có thể phải nhập khẩu, v.v... thì Nhà nước vẫn cần phải có biện pháp can thiệp để ổn định giá thị trường trên các mặt hàng này. Nhà nước có thể giúp cho doanh nghiệp có được một lực lượng hàng hoá nhất định để lập quỹ dư trữ lưu thông.

c. ổn định giá là yêu cầu tất yếu để ổn định nền kinh tế và đời sống nhân dân. Đối với một nền kinh tế thị trường mới phôi thai, đang trong quá trình hình thành và phát triển thì đương nhiên chưa thể có đầy đủ cơ sở vững chức để ổn định giá, song trong nền kinh tế nước ta hiện nay chúng ta có khả năng để quản lý giá có hiệu quả.

Sự hình thành và vận động của giá thị trường phản ánh quan hệ cung cầu và sự cân bằng cung cầu. Trong một nền kinh tế có những sản phẩm mà quá trình sản xuất ra chúng chịu nhiều sự chi phối của điều kiện tự nhiên thì quan hệ cung cầu về những sản phẩm này cũng chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên và quy luật phát triển của sinh vật. Đối với loại sản phẩm này, cầu ít co giãn theo giá, nhưng cung chủ yếu xuất hiện ở thời điểm thu hoạch. Tại thời điểm đó, cung hầu như không thay đổi nhưng giá thì lại có thể biến động. Nếu được mùa, giá cả sản phẩm giảm xuống rất nhanh, lợi ích của người sản xuất giảm sút nghiêm trọng. Nếu mất mùa, giá cả tăng nhanh, lợi ích của người tiêu dùng bị ảnh hưởng lớn, nhưng lợi ích của người sản xuất cũng không tăng do không có sản phẩm để bán. Sản phẩm của ngành nông nghiệp là ví dụ điển hình của tình trạng trên. Vì vậy, Nhà nước cần có các biện pháp can thiệp hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, và tạo điều kiện thuận lợi để ngành kinh tế đó hoà nhập vào nền kinh tế thị trường.

3. Giá thị trường biểu hiện giá trị hàng hoá và giá cả tiền tệ

Kinh tế thị trường càng phát triển, thị trường càng sôi động, thì hai yếu tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau trong giá cả hàng hoá. Giá cả tiền tệ được thể hiện ngay trong mỗi yếu tố hình thành nên giá trị hàng hoá.

Giả sử nhu cầu về tiền thực tế không thay đổi theo thời gian, một sự gia tăng mức cung tiền danh nghĩa nhất định phải dẫn đến một lượng tăng tương đương trong mức giá. Có thể nói, sự thay đổi trong mức cung tiền gây ra sự thay đổi về giá cả.

Sự thay đổi giá cả này phụ thuộc vào hai yếu tố sau đây:

Một là: sự tăng lượng cung tiền sẽ gây ra sự tăng giá.

Hai là; nếu có điều gì khác làm cho mức giá tăng lên và Chính phủ điều tiết sự tăng giá này bằng cách in thêm tiền thì cả khối lượng tiền và giá cả sẽ lại tăng thêm.

Trên thực tế, nếu như sự tăng lượng cung tiền danh nghĩa kéo theo sự thay đổi tương ứng của tiền lương và giá cả thì điều đó sẽ dẫn đến hậu quả nguy hiểm đối với nền kinh tế. Khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh, về cơ bản nó sẽ làm cho giá tăng lên nhanh để đảm bảo mức cung tiền thực tế chỉ thay đổi một cách chậm chạp tương ứng với những thay đổi về nhu cầu tiền tệ.

Sự tác động của yếu tố tiền tệ đến sự hình thành và vận động của giá thị trường là hết sức sức phức tạp. Sự trình bày ở trên tuy đơn giản, song đã cho ta thấy được mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa tiền tệ và giá cả. Do vậy, quản lý giá cả không thể tách rời quản lý tiền tệ. Khi chưa có cơ chế quản lý đầy đủ để tiền tệ thực hiện đúng chức năng của mình, thì vẫn chưa thể có được hệ thống giá cả khách quan, đúng nghĩa với giá thị trường.

Từ sự phân tích trên, ta có thể thấy rằng:

a. Để quản lý giá thị trường thì không thể chỉ chú ý tới việc quản lý và điều tiết thị trường hàng hoá, mà còn cần chú ý cả việc quản lý và điều tiết thị trường tiền tệ. Trong thời gian tới, các chính sách, có chế và biện pháp để phát triển nhanh thị trường tiền tệ sẽ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế của đất nước.

Việc quản lý giá cả hàng hoá phải đặt trong mối quan hệ với việc quản lý giá cả của đồng tiền trong nước [nội tệ]. Giá cả của đồng tiền được thể hiện ở lãi suất tiền gửi và tiền vay. Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao và siêu lạm phát, để thu hút tiền vào ngân hàng, Chính phủ thường quyết định lãi suất tiền gửi và tiền vay phải cao hơn tỷ lệ lạm phát [tốc độ tăng giá] và phải chấp nhận lãi suất tiền vay thấp hơn lãi suất tiền gửi. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường, hoặc tỷ lệ lạm phát thấp, lãi suất tín dụng phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu trên thị trường tiền tệ, song phải đảm bảo lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi và lớn hơn tốc độ tăng giá để doanh nghiệp vay tiền kinh doanh vẫn có lãi. Đó là biện pháp rất quan trọng để giữ giá đồng tiền và giá cả hàng hoá.

Đồng thời để quản lý được giá hàng hoá, cần phải quản lý được giá của đồng ngoại tệ [nhất là ngoại tệ mạnh]. Trong nền kinh tế mở, không chỉ có đồng nội tệ mà còn có đồng ngoại tệ. Ngoại tệ lưu thông vừa vớ tư cách là tiền tệ [ trong thanh toán quốc tế], vừa với tư cách là một loại hàng hoá [trong nền kinh tế mở, vàng và đá quý cũng có vai trò như ngoại tệ]. Giá cả của vàng và ngoại tệ mạnh ảnh hưởng nhiều tới giá cả của các hàng hoá khác. Vì việc xuất, nhập khẩu đòi hỏi phải sử dụng trực tiếp ngoại tệ, nên giá cả của ngoại tệ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất, nhập khẩu và giá cả các hàng hoá xuất, nhập khẩu...

b. Lượng tiền trong lưu thông và tốc độ vòng quay của đồng tiền quyết định tổng cầu của toàn xã hội. Để quản lý được giá cả [kể cả giá cả tiền tệ], Chính phủ cần tạo ra sự cân đối giữa tổng cầu và tổng cung. Nếu tổng cung chưa thay đổi, thì sự sai lầm trong phát hành, đầu tư, v.v... dẫn đến tổng cầu tăng đột ngột sẽ làm cho giá cả tăng đồng loạt và làm cho nền kinh tế lâm vào lạm phát.

Mặc dù giá thị trường được quyết định trực tiếp bởi người mua và người bán, song bao giờ giá cả cũng phản ánh tổng hợp các quan hệ kinh tế, các lợi ích kinh tế. Quản lý giá cả là quản lý các quan hệ đó và góp phần giải quyết các quan hệ đó.

Trong nền kinh tế mở, quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường thế giới là một trong những mối quan hệ quan trọng nhất của cả nước. Do thị trường trong nước và thị trường thế giới thâm nhập vào nhau, cho nên giá trên thị trường thế giới sẽ tác động đến giá thị trường trong nước.Các biện pháp can thiệp của Chính phủ để hạn chế bớt những tác động tiêu cực của giá thị trường thế giới đến giá thị trường trong nước là cần thiết, song chỉ nên coi đó là các biện pháp nhất thờ

Trong nền kinh tế, mỗi loại hàng hoá đều có ý nghĩa kinh tế - xã hội khác nhau. Do đó, việc quản lý giá cần phải có sự phân biệt giữa các loại hàng [hay nhóm hàng].

Rất mong nhận được phục vụ Quý khách hàng!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật cạnh tranh - Công ty luật Minh Khuê

Video liên quan

Chủ Đề