Xuất bản báo an nam trẻ năm bao nhiêu

Nhà báo Việt Nam đầu tiên là một trong 18 người uyên bác nhất thế giới thế kỷ 19 khi thông thạo đến 26 thứ tiếng, nữ nhà báo đầu tiên của Việt Nam là con gái cụ Nguyễn Đình Chiểu, báo chí Việt Nam thực sự thoát thai từ cái nôi của chế độ thuộc địa, sự ra đời của báo chí trùng khít với bước chân xâm lược của người Pháp vào Việt Nam và sau đây Hình ảnh Việt Nam.com xin trích ra một số những cái nhứt mà Admin sưu tầm được trong những ngày qua cũng như lịch sử báo chí Việt Nam phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau với khá nhiều thăng trầm từ giai đoạn 1850 cho tới 1924 , bây giờ chúng ta cùng bắt đầu với tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên nha.

Fb/Sài Gòn Xưa

Lịch sử báo chí Việt Nam bắt đầu với sự ra đời của Gia Định báo vào ngày 15/4/1865 tại Sài Gòn. Gia Định báo phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của thực dân Pháp lúc đó là 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ, ban đầu, Gia Định báo có mục đích chủ yếu là công cụ thông tin của người Pháp ở Đông Dương với tư cách là một tờ công báo chuyên đăng các công văn, nghị định, thông tư của chính quyền thực dân. Sau này, khi Trương Vĩnh Ký chính thức làm giám đốc, tờ báo mới được phát triển mục biên khảo, thơ văn, lịch sử… Gia Định báo cũng có góp phần cổ động việc học chữ Quốc ngữ và lối học mới, mở đường cho các thể loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ quốc ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí Việt Nam … Gia Định báo có khổ 25x32cm, giá 0,97 đồng/tờ, phát hành vào thứ 3 hàng tuần, đường D’Adran [Hồ Tùng Mậu ngày nay], một trong những địa chỉ từng in tờ Gia Định báo, những mẩu quảng cáo đầu tiên trên tờ Gia Định báo [và cũng là của báo chí Việt Nam] xuất hiện vào năm 1882, tờ báo kinh tế đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam là tờ Nông Cổ Mín Đàm nghĩa là “uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn”. Đây là tờ báo tiếng Việt do Paul Canavaggio – một chủ đồn điền và thương gia người đảo Corsica, hội viên Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ làm chủ nhiệm. Chủ bút lần lượt là các ký giả Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt … Nông Cổ Mín Đàm bàn về nông nghiệp và thương nghiệp, phát hành thứ năm hằng tuần tại Sài Gòn bằng chữ quốc ngữ. Số 1 ra ngày 1 tháng 8 năm 1901. Một thời gian sau báo được xuất bản một tuần 3 kì. Sau khi phát hành số ra ngày 4 tháng 11 năm 1921 thì báo bị đình bản, tờ báo này ra đời theo một nghị định của Quan Tổng thống Đông Dương Paul Doumer ban hành tại Sài Gòn ngày 14/2/1901. Ban đầu, trụ sở của tòa soạn đặt ở số 84 đường La Grandière, Sài Gòn. Một thời gian sau, trụ sở thay đổi liên tục, cuối cùng tọa lạc tại số 12 đường Cap St–Jacques, Sài Gòn.

2.Những quảng cáo sách đầu tiên trên tờ Nông Cổ Mín Đàm.

Báo có khổ 20×30 cm, với tổng cộng 8 trang, trong đó các trang giữa đăng các truyện dịch [như Tam quốc chí tục dịch hay một số truyện ngắn khác của Anh, Pháp hoặc Trung Quốc], thơ ca do các cộng tác viên sáng tác, điểm báo châu Âu, hướng dẫn cách thức vệ sinh phòng bệnh hoặc trồng trọt chăn nuôi, thông tin số lượng và giá lúa gạo bán đi các nước, 2 trang cuối dành cho quảng cáo và rao vặt, nhà báo Việt Nam đầu tiên của chúng ta chính là doanh nhân thời đó nhà bác học Trương Vĩnh Ký [1837 – 1898], được coi là “ông tổ nghề báo Việt Nam”. Tên thường gọi của ông là Pétrus Ký, quê ở Vĩnh Thanh, Tân Minh, Vĩnh Long [nay thuộc Bến Tre]…Trương Vĩnh Ký được người đương thời xếp vào danh sách 18 nhà bác học hàng đầu thế giới. Ông thiết tha với nền văn học quốc ngữ và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam, ông sáng lập, là tổng biên tập tờ báo quốc ngữ đầu tiên [Gia Định báo], cũng là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác, tượng Trương Vĩnh Ký được đặt gần Nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn, trước năm 1975 từ Đông Dương cho tới ngày thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa ,và sau ngày giải phóng tượng đã được dời đi vào viện bảo tàng

Tờ nhật báo đầu tiên ,gần 4 năm sau khi thành lập, báo Trung Bắc Tân Văn ở miền Bắc tăng tần số phát hành và trở thành tờ nhật báo đầu tiên của Việt Nam, tính từ tháng 1/1919. Trung Bắc Tân Văn do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút..Tờ báo tồn tại đến tháng 4/1941 mới đình bản, ra tổng cộng 7.265 số ,tờ báo trung Bắc Tân Văn là tờ báo ra hàng ngày duy nhất phát hành rộng ở Bắc và Trung Kỳ, tờ báo phụ nữ đầu tiên chính là báo Nữ Giới Chung [tiếng chuông của nữ giới] xuất bản vào thứ Sáu hàng tuần tại Sài Gòn trong năm 1918. Đây là tờ báo đầu tiên chuyên về phụ nữ, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội. Tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại. Tháng 7/1918, tờ Nữ Giới Chung bị đình bản… Nhà thơ, nhà báo Sương Nguyệt Anh [1864 – 1922] là chủ bút tờ báo này. Bà là con gái thứ tư của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu, tờ báo Tết đặc biệt đầu tiên ,đầu năm 1918, tờ Nam Phong tạp chí với ấn phẩm đặc biệt “Số Tết 1918” trở thành tờ báo Tết đầu tiên, mở màn cho truyền thống làm báo xuân trong làng báo Việt Nam. Đây là ý tưởng của chủ bút trẻ Phạm Quỳnh, khi tờ Nam Phong vừa ra mắt được 6 tháng.

3.Tổng kết

Phóng sự trên báo đầu tiên ,năm 1932, tờ Hà Thành Ngọ Báo đã khởi đăng phóng sự nổi tiếng nhan đề “Tôi kéo xe” của nhà báo Tam Lang [Vũ Đình Chí], mở đầu cho thể loại phóng sự trong làng báo Việt Nam. Viết về thân phận những người phu xe những năm đầu thế kỉ 20, “Tôi kéo xe” đã làm thức tỉnh những người có lương tâm trong xã hội, phóng sự điều tra “Tôi kéo xe” được đăng tải trên “Hà thành ngọ báo” năm 1932. Năm 1935 được in thành sách, để viết phóng sự đầu tiên, nhà báo Tam Lang đã nhiều lần nhập vai người phu xe để hiểu được sự nhọc nhằn, khó khăn của họ, và tờ báo có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử báo chí Việt Nam là báo Lao Động, cơ quan thông tin của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, ra đời ngày 14/8/1929, báo Lao Động ban đầu in bằng bản đất sét, trên giấy Đáp Cầu một mặt ráp một mặt nhẵn, khổ 22x30cm, tại ngõ Thông Phong, phố Hàng Bột [Hà Nội]. Báo do ông Nguyễn Đức Cảnh làm Tổng biên tập đầu tiên. Đến nay, báo Lao Động vẫn phát triển với 83 năm tồn tại.

Ngày 24/3/1925, một thanh niên người Việt đã cầm đầu một cuộc biểu tình ở Sài Gòn. Người thanh niên đó đã phát truyền đơn, kêu gọi dân chúng nổi dậy:

“Từ 70 năm qua chúng ta sống dưới ách nô lệ. Giờ đây, ta được các chánh phủ đã đàn áp chúng ta suốt 70 năm tuyên bố rằng họ thương mến, họ đem nền văn minh tới để khai hóa chúng ta… Từ 70 năm, bao nhiêu chí sĩ của dân tộc đã bị giết chóc, tù đày, ngược đãi. Hỡi anh em, lẽ nào anh em chịu cúi đầu cam phận ngựa trâu…”

Người thanh niên 25 tuổi đó chính là Nguyễn An Ninh, chủ nhiệm của tờ báo Pháp ngữ La Cloche Fêlée [Tiếng Chuông Rè]. Ông thành lập tờ báo vào tháng 12/1923, sau khi đậu bằng cử nhân luật ở Pháp.

Nguyễn An Ninh dĩ nhiên bị bắt sau cuộc biểu tình và bị truy tố ra tòa án ở Sài Gòn.

Đó là một phần nội dung của cuốn sách “Lịch sử báo chí Việt Nam” của tác giả Huỳnh Văn Tòng, được xuất bản vào tháng 4/1973 tại Sài Gòn. Cuốn sách là bản dịch sơ lược từ luận án tiến sĩ của tác giả tại Đại học Sorbonne, Paris.

Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã giới thiệu cuốn sách này với nhận xét đây là công trình biên soạn quy mô một cách khoa học, có hệ thống, dựa vào những tài liệu xác thực mà tác giả đã đọc được khá đầy đủ từ Thư viện Quốc gia Pháp.

Bạn đọc có thể tìm hiểu về những tờ báo đầu tiên được xuất bản tại Việt Nam và tra cứu gần như đầy đủ các tờ báo với các ghi chép cẩn thận, ví dụ như ai là người thành lập, số báo đầu tiên, số báo cuối cùng, tòa soạn đã làm báo như thế nào, khuynh hướng báo chí ra sao, những bài báo nổi bật trên cả ba miền đất nước là gì, v.v.

Qua những dữ kiện được thu thập vừa rộng vừa sâu, cuốn sách sẽ nói cho bạn biết rằng thật là hời hợt nếu nhận định một cách đơn giản về báo chí dưới thời kỳ thuộc địa.

Xuyên suốt trong cuốn sách, bạn sẽ khám phá nhiều vấn đề lịch sử, văn học thông qua lăng kính báo chí.

Năm 1917, tờ báo đầu tiên dành cho phụ nữ được thành lập ở Việt Nam, với tên gọi tạp chí Nữ Giới Chung. Chủ của tạp chí là một người Pháp tên là Henri Blaquière. Ông Blaquière giao cho bà Sương Nguyệt Anh - con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu - làm chủ bút. Trong số báo đầu tiên, bà Sương Nguyệt Anh ghi rõ mục đích của tờ báo là truyền bá chữ Quốc ngữ, tuyệt đối không nói đến chính trị. Dù chỉ xuất bản được một năm nhưng một số độc giả nhận định tờ báo đã mang lại những biến đổi mới mẻ cho đời sống của phụ nữ Việt Nam vốn bị ràng buộc trong những nguyên tắc cứng nhắc của Khổng - Mạnh.

Về tờ báo dành cho phụ nữ, cuốn sách cho biết trước năm 1930 chỉ có hai tờ.

Một tờ ở Sài Gòn bán rất chạy là tuần báo Phụ Nữ Tân Văn, ra đời vào ngày 2/5/1929. Báo phát hành vào thứ Năm, ngoài bìa báo vẽ ba cô gái Bắc, Trung, Nam với câu “Phấn son tô điểm sơn hà, làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam”. Chủ nhiệm của tờ này là bà Nguyễn Đức Nhuận, chủ bút là nhà báo lừng danh Đào Trinh Nhất. Tờ báo có các mục thường xuyên như ý kiến về vấn đề thời sự, vấn đề giải phóng phụ nữ Việt Nam, phụ nữ và gia chánh, tiểu thuyết, v.v. Tờ báo cũng rất được độc giả Bắc Kỳ và Trung Kỳ đón nhận.

Tờ thứ nhì là nhật báo Phụ Nữ Thời Đàm, ra đời tại Hà Nội vào ngày 8/12/1930. Tờ báo do cô Nguyễn Thị Xuyên - hoa khôi đất Hà thành - làm chủ nhiệm. Phan Khôi về sau đã hợp tác với tờ báo này.

Năm 1925, tờ báo có tên là Thanh Niên ra đời, với người sáng lập là Nguyễn Ái Quốc. Tờ báo này được trùm mật thám Đông Dương Louis Marty nhận định:

“Những tờ báo Thanh Niên đầu tiên nhấn mạnh về sự đoàn kết nội bộ […] Đồng thời cũng kích thích tinh thần độc lập dân tộc và lòng yêu nước […] Sau đó, tờ báo giúp độc giả nhận định về tình hình thế giới […] Lẽ dĩ nhiên, lối nhận định và cách thức loan tin đã bóp méo sự thật […] Tờ báo hướng dẫn từ từ cho ai nấy hiểu rằng hiện giờ ở thế giới đã có nước Nga theo chế độ Xô-viết, dân ở nước Xô-viết ấy sống trong tự do hạnh phúc. Nguyễn Ái Quốc - người chủ biên của tờ Thanh Niên - tỏ ra kiên nhẫn, suốt 60 số báo đầu tiên để cho độc giả chuẩn bị tinh thần và tình cảm và sau rốt, ông ta mới phơi bày công khai chủ trương của mình: Chỉ riêng đảng cộng sản mới có thể đem hạnh phúc cho dân tộc Việt mà thôi!”

Ở Trung Kỳ, người Pháp không cho thành lập một tờ báo bằng chữ Quốc ngữ nào cho đến năm 1927. Huỳnh Thúc Kháng đã dùng vị thế làm quan của mình để tranh đấu kịch liệt mới có thể phát hành được tờ nhật báo có tên là Tiếng Dân. Trước đó, người dân cũng trông chờ vào lời hứa ra mắt tờ báo của cụ Phan Bội Châu nhưng mọi sự không thành.

Cuốn sách cũng cho biết rằng báo chí đã đóng góp lớn vào việc phổ biến chữ Quốc ngữ và văn chương hiện đại. Báo chí khi đó là phương tiện duy nhất để các nhà văn trau dồi chữ Quốc ngữ.

Miền Nam với sự phát triển của báo chí đã trở thành nơi phổ biến chữ Quốc ngữ đầu tiên, văn học tiếng Việt cũng được phát triển ở miền Nam trước rồi vang dội đến miền Bắc. Tuy nhiên, miền Bắc mới là nơi mà chữ Quốc ngữ được phát triển, trở thành nền tảng vững chắc cho văn chương.

Trước năm 1930, báo chí miền Nam có khuynh hướng thiên về tin tức, nhất là trong các hoạt động chính trị thì làng báo Sài Gòn luôn linh động, nhạy bén. Báo chí ở miền Nam đi trước miền Bắc 20 năm. Miền Nam do là đất của Pháp nên người dân hưởng quyền tự do ngôn luận như người Pháp. Người làm báo ở miền Nam được phát biểu thoải mái hơn đồng nghiệp ở miền Bắc. Vì thiếu tự do, ký giả miền Bắc đành thu hẹp vào phạm vi văn học, nghệ thuật.

Tác giả cũng cho biết các nhà báo Việt Nam rất đa dạng trong đó có chính khách làm báo như Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu; văn sĩ, thi sĩ làm báo như Tản Đà; giới kinh tài dĩ nhiên cũng làm báo, và cũng có các nhà báo chuyên nghiệp, nổi bật là Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn, những người đã có tác động lớn trong việc cải cách báo chí Việt Nam.

Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn sống bằng nghề báo. Hai thanh niên này được Giáo sư Lê Hữu Phúc trợ cấp sang Pháp để học làm báo. Hoàng Tích Chu học nghề báo. Đỗ Văn thì nghiên cứu in ấn. Sau khi về nước, năm 1927, Hoàng Tích Chu đã đưa ra cách hành văn mới, gọn gàng, sáng sủa, ít dùng danh từ Hán-Việt. Tuy nhiên, độc giả lúc này đã quen với báo chí trọng chữ Nho và nhiều điển tích, điển cố Trung Hoa. Cách viết mới bị cho là “quá vắn tắt", “viết văn lai Tây”. Chủ của Hà Thành Ngọ Báo phải đuổi việc hai người.

Cuối cùng, qua tờ Đông Tây do hai người ấn bản vào năm 1929, cách viết của Hoàng Tích Chu mới chiếm được cảm tình của công chúng và ảnh hưởng đáng kể đến giới làm báo Bắc Kỳ. Đỗ Văn đã áp dụng cách trình bày của báo chí Tây phương vào hoàn cảnh của báo chí Việt Nam, trang nhất của báo có nhiều tranh ảnh, minh họa, tờ báo trở nên đẹp hơn.

Tuy cuốn sách viết về một thời kỳ xa xôi nhưng có những mô tả mà thời nay vẫn còn sờ sờ ngay trước mắt độc giả, ví dụ:

“Thực dân tìm mọi cách để ngăn cản tự do báo chí và tìm cách nuôi dưỡng những tờ báo nào chịu tuyên truyền, tức là ca ngợi chế độ. Chánh quyền thực dân áp dụng những nguyên tắc lạc hậu, dùng những phương tiện vượt ngoài mức tưởng tượng để khóa miệng báo chí Việt ngữ. Giấy phép ra báo thì thỉnh thoảng mới cấp hoặc là không cấp ra. Kế đó, có sở kiểm duyệt, một sở làm việc hăng hái và tận tụy để cắt xén tàn nhẫn những bài báo không chịu ca ngợi những thành quả tốt đẹp của chế độ.”

Trên đây chỉ là vài phần trăm nội dung của cuốn sách về buổi đầu của báo chí Việt Nam này. Trong một bể thông tin ngồn ngộn như vậy, cuốn sách không hề khó đọc.

Tác giả Huỳnh Văn Tòng chia cuốn sách thành tám phần:

  • Vấn đề thông tin trong xã hội Việt Nam ngày xưa;
  • Chế độ báo chí dưới thời kỳ Pháp thuộc;
  • Báo chí từ năm 1865 đến năm 1907, là giai đoạn khởi đầu của báo chí Việt Nam;
  • Báo chí Việt Nam từ 1908 đến năm 1918;
  • Sự phát triển của báo chí từ 1918 đến 1930;
  • Các vấn đề đặc biệt của làng báo;
  • Phần kết luận của tác giả, cùng với mục tra cứu các tờ báo theo thứ tự chữ cái.

Tác giả Huỳnh Văn Tòng sinh năm 1941, người Tây Ninh. Năm 1972, ông từ nước ngoài trở về miền Nam, giảng dạy báo chí tại trường Đại học Đà Lạt và Đại học Vạn Hạnh. Sau năm 1975, ông ở lại Việt Nam tiếp tục giảng dạy và viết sách. Ông mất vào năm 2011.

Cuốn sách “Lịch sử Báo chí Việt Nam” đã được tái bản nhiều lần sau năm 1975. Nội dung của bài viết này dựa theo cuốn sách xuất bản năm 1973 tại Sài Gòn.

Bài viết nằm trong mục Đọc sách cùng Đoan Trang, đăng vào tối thứ Ba hàng tuần. Bài cộng tác xin gửi cho chúng tôi tại đây.

Ban biên tập Luật Khoa tạp chí, bao gồm Đoan Trang, rất mong chờ bài viết của bạn.

Video liên quan

Chủ Đề