Nước chảy vô tình trục hoa rơi nghĩa là gì

金谷園

繁華事散逐香塵, 流水無情草自春。 日暮東風怨啼鳥, 落花猶似墮樓人。

Kim Cốc viên

Phồn hoa sự tán trục hương trần, Lưu thuỷ vô tình thảo tự xuân. Nhật mộ đông phong oán đề điểu, Lạc hoa do tự .

Dịch nghĩa

Những việc phồn hoa đã tan tác theo lớp bụi thơm Nước vô tình chảy, cỏ cứ tự tươi thắm Chiều về chim kêu ai oán trong gió đông Hoa rụng mà còn như người nào (năm xưa) nhảy xuống lầu

Kim Cốc viên ở huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Đời Tấn, nhà hào phú Thạch Sùng có người thiếp xinh đẹp tên là Lục Châu. Tôn Tú yêu cầu Thạch Sùng tặng cho người thiếp này, Thạch Sùng khước từ. Vì việc này Thạch Sùng bị Tôn Tú gièm pha với Triệu Vương Luân và bị giết chết.

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (19 bài trả lời) [1] [2] ›Trang sau »Trang cuối

Phồn hoa tan tác bụi trần Vô tình nước chảy cỏ xuân tươi màu Gió đông ai oán chim sầu Hoa rơi giống kẻ rơi lầu ngày xưa

Lộ tòng kim dạ bạch, Nguyệt thị cố hương minh.

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời

Việc bộn rộn làm xong hóng mát Nước chảy vô tình, mượt cỏ xuân Gió chiều chim hót xa gần Hoa rơi, tựa khách gieo thân trên lầu

Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995

Lộ tòng kim dạ bạch, Nguyệt thị cố hương minh.

Mộng đời tan tác bụi trần bay Nước chảy vô tình cỏ vẫn tươi Chiều đông gió lạnh chim ai oán Lá rụng hoa rơi một kiếp người

Lộ tòng kim dạ bạch, Nguyệt thị cố hương minh.

Phồn hoa đâu nữa, bụi lan tràn, Nước chảy vô tình, cỏ gặp xuân. Ngày lụi gió đông chim não tiếng; Hoa rơi tựa cảnh lúc gieo thân.

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời

Phồn hoa gió bụi cuốn từ lâu, Nước chảy vô tình, cỏ thắm màu. Chiều xuống gió đông chim oán gáy, Hoa rơi còn ngỡ kẻ rơi lầu.

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời

Chuyện đời theo bụi trần bay, Nước trôi hờ hững cỏ cây mơ mòng. Hoàng hôn chim oán gió đông, Hoa rơi thấp thoáng bóng hồng lầu xưa.

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời

Phồn hoa tan tác bụi trần bay, Nước chảy lững lờ cỏ tự xanh. Hoàng hôn đông gió chim oán gáy, Một cánh hoa rơi lại nhớ người.

Lưỡng xứ xuân quang đồng nhật tận Cư nhân tư khách, khách tư gia

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời

Hương trần cuốn trôi đời phồn thịnh, Nước chảy vô tình cỏ tự xuân. Chiều muôn gió buồn chim ai oán, Lầu xa bóng ấy tựa hoa tuôn.

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời

Phồn hoa tan tác bụi thơm đưa, Cỏ thắm màu xuân nước hững hờ. Chiều giục gió xuân chim khắc khoải, Hoa rơi như gái nhảy lầu xưa!

Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997

tửu tận tình do tại

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời

Phồn hoa hết, sạch hương đời, Thờ ơ nước chảy, cỏ tươi thắm màu. Gió đông hờn tiếng chim sầu, Hoa rơi tựa gái gieo lầu thuở xưa...

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời

Trang trong tổng số 2 trang (19 bài trả lời) [1] [2] ›Trang sau »Trang cuối

Hình ảnh hoa đào nói theo từng phần và hình ảnh cây đào nói theo tổng quát, có liên hệ “ mật thiết “ và “ lâu đời “ với câu đối. Từ hình ảnh “ đào nhân”: Đó là hai tấm gỗ cây đào có vẽ hay khắc hình hai vị thần tướng do thượng đế sai đến canh chừng Quỷ Môn là Thần Trà ( Thần Thư ) và Uất Lũy – Đến sự đơn giản hóa - Người ta chỉ viết tên hai vị thần này, hoặc vẽ bùa chú lên gỗ đào gọi là “ đào phù ” là bùa đào: hình thái ban đầu của câu đối. Đến đời nhà Đường bên Trung Hoa, đây là thời điểm thi ca rộ nở, theo thể thất ngôn bát cú, khi sáng tác hai câu 3, 4 ( thực ) và 5, 6 (luận ), phải theo phép đối, niêm, luật hẳn hòi: Việc này ảnh hưởng đến chuyện người ta không ghi tên hai vị thần, hoặc vẽ bùa chú lên đào phù nữa, mà thay thế bằng các câu chúc “ hỉ khánh cát tường “ trích ra từ các kinh điển hay tác phẩm thi ca, văn học - Câu đối Tết ra đời từ đó.

Đào phù vạn điểm, hỉ khứ tuế ngũ cốc phong thu Thụy khí thiên điều, phân tân xuân lục súc hưng vượng ( Mùa đào vạn điểm, mừng năm trước ngũ cốc được mùa Khí lành nghìn cành,mong xuân mới gia súc hưng vượng )

Việc sử dụng câu đối không chỉ giới hạn ở những ngày Tết, nó còn lan rộng trong những trường hợp vui mừng, hiếu hỉ hay đau buồn của đời sống con người: Ta có câu đối để mừng thọ, mừng cưới hỏi, mừng thành đạt à hoặc câu đối để ai điếu, phúng viếng lúc tạ thế. Như chuyện một câu đối viếng liên quan đến ông Lê Quý Đôn mang hình ảnh của hoa đào rơi.

Tương truyền, Lê Quý Đôn là một thần đồng, nổi tiếng từ thuở niên thiếu, nên sanh ra kiêu ngạo, sau khi đổ Tam Nguyên Bảng Nhãn, đã cho treo trước nhà một tấm biển có đề câu “ Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn “ ( Trong thiên hạ, có chữ nào mà không biết, cứ tới mà hỏi ). Khi cha Lê Quý Đôn là Trịnh Hiếu Công Lê Phú Thứ, Thượng Thư Bộ Hình đời Lê Dụ Tôn mất, có một cụ già đến xin tặng một câu đối viếng, viện cớ già yếu, nhờ Lê Quý Đôn viết giùm. Khi bắt đầu với chữ Chi, Lê Quý Đôn không biết ý cụ già muốn viết chữ chi nào, hỏi lại thì cụ già đã cho một bài học :” Nếu ai đó xem bảng treo ngoài kia, rồi vào hỏi chữ chi thì cháu phải trả lời sao ? “. Nội dung hai câu đối viếng đó là:

Chi chi ngũ bách niên tiền,lục thụ thanh sơn hà xứ tại Tại tại tam thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy cách hà chi. ( Tại đây năm trăm trước, cây xanh núi biếc vẫn còn đó Nơi xa ba ngàn dặm trường, đào hoa lưu thủy đã về đâu )

Hai câu đối trên còn một bản khác:

Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kim thượng tại Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chi ( Cách hơn ba mươi năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâu )

” Đào hoa lưu thủy”- Hoa đào trôi theo dòng nước, ý như 2 câu thực ( 3, 4 ) trong bài tuyệt cú “ Đào Hoa Khê” của Trương Húc ( cùng thời với Lý Bạch và Bùi Uẩn: gọi là Tam Tuyệt ):

Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy Động tại thanh khê hà xứ biên ( Suốt ngày hoa đào trôi theo dòng nước Chẳng hay động ở bên nào suối nước trong )

Đào hoa khê hay suối hoa đào. Những từ ngữ như suối đào, nguồn đào hay động đào, động bích, đào nguyên được dùng để chỉ nơi tiên ở theo bài “ Đào Nguyên Ký “ của Đào Tiềm: Vào đời nhà Tấn (365-419), có một người chài lưới ở Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền ngược dòng suối, thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống, rồi đi lạc vào một nơi trồng toàn đào là đào - Nơi đây người ta sống rất an vui, hạnh phúc.

Hình ảnh những cánh hoa đào rơi nói riêng, hay hoa rơi nói chung trôi theo dòng nước chảy là một hình ảnh rất trữ tình, có tính cách ước lệ, rất phổ biến trong văn chương bác học cổ điển Trung Hoa Thí dụ như hình ảnh “ hoa trôi theo dòng nước “ theo ý câu mở đầu ( Phá đề ) của bài Xuân Tịch Lữ Hoài ( Tình lữ thứ đêm xuân ) của Thôi Đồ :” Thủy hoa lưu tạ lưỡng vô tình “ ( nước chảy, hoa tàn, cả hai cùng vô tình ). Còn theo sách “ Thành ngữ Điển cố đại toàn “ thì xuất xứ hình ảnh này là “ Lạc hoa hữu ý tùy lưu thủy. Lưu thủy vô tình luyến lạc hoa “ ( Hoa rơi có ý theo nước chảy. Nước chảy vô tình cuốn hoa trôi) do Sỹ Khuê thiền sư ở Trường Túc am tại Ôn Châu viết, chép trong Tục Truyền Đăng Lục.

Hình ảnh hoa trôi, nước chảy được xử dụng nhiều trong thể lọai ” Từ “, như trong bài từ Nhất Tiền Mai của Lý Thanh Chiếu, kể lể nỗi nhớ nhung chồng là Triệu Minh Thành đi công cán nơi xa đời Nam Tống.

Hoa tư phiêu linh thủy tự lưu Nhất chủng tương tư Lưỡng xứ nhàn sầu Thử tình vô kế khả tiêu trừ ( Hoa tự rụng rơi, nước tự chảy xuôi Một mối tương tư Hai nơi đều buồn Tình này không cách gì tiêu trừ được )

Hay trong bài từ Cam Châu của Trình Cai:

Vấn đông quân Ký giải khiển hoa khai Niệm xuân phong chi thượng Nhất phần hoa giảm Nhất bán xuân quy Nhẫn kiến thiên hồng vạn tử Dị trướng đào khê Hoa tự tùy lưu thủy Vô kế truy tùy. ( Hỏi đông quân Đà biết nở hoa ra Há để rụng hóa đi Nghĩ trên cành xuân gió Một phần hoa giảm Một nửa xuân đi Nỡ thấy ngàn hồng vạn tía Trôi ngập nguồn đào Hoa tự theo giòng nước Không thể truy tùy ).

Hay loại cổ thể ( cổ phong) như bài Tây Hồ tống xuân ( Tây Hồ tiễn xuân ) của Lương Tăng theo điệu Mộc Lan Hoa:

Vấn hoa hoa bất ngữ, vị thùy lạc, vị thùy khai ? Toán xuân sắc tam phân, bán tùy lưu thủy, bán nhập trần ai. ( Hỏi hoa hoa chẳng nói, vì ai hoa rụng, vì ai hoa nở Tính vẻ xuân chia ba phần: một nửa trôi theo dòng nước, một nửa rơi vào cát bụi )

Trong bài Tây Hồ tống xuân và Cam Châu , ta thấy song song với hình ảnh hoa rơi trôi theo nước là hình ảnh hoa rơi bay theo gió. Đây cũng là một hình ảnh thuộc loại phong cách cổ điển, khuôn sáo khác của văn học Trung Hoa, xuất hiện rất nhiều trong Từ phẩm .Từ là một nghệ thuật đặc biệt, được hình thành từ thời Hán, phát triển trong thời Đường, rồi lưu truyền đến nay. Từ là một thể loại độc lập trong văn học Trung Hoa (bên cạnh thi, phú, tiểu thuyết à ) lẫn âm nhạc ( bên cạnh cổ nhạc ). Do đó, hai yếu tố quan trọng để tạo thành một bài từ là từ phổ ( cấu trúc ngôn ngữ) và nhạc điệu ( cấu trúc âm nhạc ).

Hình ảnh “ Hoa rơi rụng theo gió ” này là xuất hiện trong những bài ca từ ở nhiều thời đại khác nhau - Từ bài Tô Huệ, Chức Cẩm Hồi văn ( Bài thơ thêu trên gấm có tác dụng làm cho người đi biên thú được trở về ). Nàng Tô Huệ, tự Nhược Lan, đời nhà Tấn, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng, chồng là Đậu Thao phải ra trấn đất Lưu Sa gian nan, hiểm trở. Tô Huệ ba năm chờ đợi ở nhà, viết mười bài tứ tuyệt, rồi dùng chỉ ngũ sắc thêu mười bài thơ đó theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trong tâm một bức gấm, xong nàng tự tay dâng lên vua. Tô Huệ ngâm đọc tha thiết, nhờ vậy mà vua hạ chiếu cho chồng được trở lại nhà.

Bách hoa tán lọan phùng xuân tảo Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo Thùy dương mãn địa vị quân phan Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo ( Trăm hoa rực rỡ gặp tiết xuân sớm Lòng xuân giục người biết nói cùng ai Cành dương rủ, khắp đất đợi chàng vin Hoa rơi khắp đất không người quét ).

Qua bài Trường Tương Tư của Lưu Ý Nương thời Hậu Chu ( thời Ngũ Đại thập quốc, trước nhà Tống ), viết để tưởng nhớ Lý Sinh:

Hoa hoa diệp diệp lạc phân phân Chung nhật tư quân bất kiến quân Trường dục đoạn hề trường dục đoạn Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngân ( Hoa hoa lá lá rụng tơi bời Lòng nhớ người sao chẳng thấy người Ruột muốn đứt thêm, thêm đứt ruột Châu rơi thành ngấn, lại châu rơi )

Đến đời Khang Hy, Nạp Lan Tính Đức, đệ nhất từ nhân của nhà Thanh, con trai của tể tướng Nạp Lan Minh Châu:

Đào hoa tu tác vô tình tử, cảm kích đông phong Suy lạc kiều hồng, phi nhập song gian bạn áo nông ( Hoa đào thẹn nỗi phải lìa đời một cách vô tình nên cảm kích gió đông Đã thổi tung sắc hồng kiều diễm len lỏi qua song cửa làm bạn với ta đang buồn áo não ).

Những thành ngữ như “ Kiếp hoa đào, số hoa đào, hồng nhan bạc mệnh “ để chỉ số phần hẩm hiu, bạc mệnh của người phụ nữ ( trong khi “ số đào hoa “ là được nhiều người khác phái ưa thích, đeo đuổi ). Hoa đào ngoài màu sắc, dáng vẻ riêng, còn toát lên tinh anh ở những thời điểm, vị trí nhất định: lúc hoa nở cũng như lúc hoa tàn rơi, nên từ xưa đến nay đã là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Nhưng với cảm nhận khác nhau, tùy thuộc giới tính và điều kiện xã hội: các nam thi nhân nhìn hoa rơi cũng có khác với các nữ thi nhân. Giống như bài “Táng Hoa Từ” – Lâm Đại Ngọc trong truyện Hồng Lâu Mộng ( đệ nhị thập thất hồi ) của Tào Tuyết Cần, vì là thơ của một nữ nhân, nên dù bài ca từ “ Chôn Hoa “ này có ý tưởng lấy từ bài “ Bạch Đầu ông vịnh “ của Lưu Hy Di, thấp thóang qua hai câu :” Nùng kim táng hoa nhân tiếu si. Tha niên tang nùng tri thị thùy “ ( Nùng là danh từ tự xưng của ngôi thứ nhất, dùng trong thơ cổ ), mà Tào Tuyết Cần đã phải trải giàn ý tình một cách khác:

Hoa tạ hoa phi hoa mãn thiên,

Hồng tiên hương đoạn hữu thùy liên.

… Nhĩ kim tử khứ nùng thu táng, Vị bốc nùng thân hà nhật tang. Nùng kim táng hoa nhân tiếu si, Tha niên tang nùng tri thị thùy. Thí khán xuân tàn hoa tiệm lạc, Tiện thị hồng nhan lão tử thì. Nhất triêu xuân tận hồng nhan lão, Hoa lạc nhân vong lưỡng bất tri. ( Hoa bay hoa rụng ngập trời Hồng phai hương lạt ai người thương hoa ? … Giờ hoa rụng có ta chôn cất Chôn thân ta chưa biết bao giờ ? Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ Sau này ta chết ai là người chôn ? Ngẫm khi xuân muộn hoa tàn, Cũng là khi khách hồng nhan về già. Hồng nhan thấp thóang xuân qua Hoa tàn, người vắng ai mà biết ai ?- Khuyết Danh )

So với Bạch Đầu vịnh: vịnh ông lão bạc đầu của Lưu Hy Di:

Lạc Dương thành đông đào lý hoa

Phi lai, phi khứ, lạc thùy gia Lạc Dương nhi nữ hảo nhan sắc Hành phùng lạc hoa trường thán tức Kim niên hoa lạc, nhan sắc cải Minh niên hoa khai, phục thùy tại Dĩ kiến tùng bách tồi vi tân Cánh văn tang điền biến thành hải Cổ nhân vô phục Lạc thành đông Kim nhân hoàn đối lạc hoa phong Niên niên tuế tuế hoa tương tự Tuế tuế niên niên nhân bất đồng à ( Đông thành Lạc, cánh hoa đào Rụng rơi theo gió biết vào nhà ai Có nàng nhan sắc đẹp thay Bước nhìn hoa rụng, lòng này thở than Hoa tàn, biến đổi dung nhan Mai khi hoa nở biết nàng nơi nao ?

Chỉ trông thông bách cành rơi Lại nghe biển thắm đổi dời nương dâu Thành đông người cũ còn đâu Người nay chỉ thấy hoa rầu gió bay ? Năm năm hoa chẳng đổi thay Kiếp người biến cải, xưa nay khác nhiều … Phương Ý )

Lạc hoa hay hoa rụng. Bàn về hoa và mỹ nhân, Trương Tào có viết:” Hoa không nên thấy rụng, mỹ nhân không nên thấy chết yểu. Trồng hoa nên thấy hoa nở, mỹ nhân nên thấy vui vẻ, sung sướng … Ngắm đàn bà buổi sáng, nên đợi lúc trang điểm xong. Lấy lòng yêu hoa mà yêu mỹ nhân thì tất có cái thú riêng, lấy lòng yêu mỹ nhân mà yêu hoa thì thêm cái thắm tình và thêm lòng nâng niu, thương tiếc “. Theo tinh thần lời bàn đó, ta thử đọc vài bài tuyệt cú của các thi nhân Trung Hoa về hoa rụng.

Nam Hành Biệt Đệ ( Từ biệt em trai đi Lĩnh Nam )

Đạm đạm trường giang thủy Du du viễn khách tình Lạc hoa tương dữ hận Đáo địa nhất vô thanh – Vi Thừa Khánh ( Nước sông dài lờ đờ trôi Khách đi xa mối tình man mác Hoa rụng như cùng nhau chia hận Rơi tới mặt đất, không một tiếng gì )

Xuân Hiểu ( Sáng sớm mùa xuân )

Xuân miên bất giác hiểu Xứ xứ văn đề điểu Dạ lai phong vũ thanh Hoa lạc tri đa thiểu – Mạnh Hạo Nhiên ( Giấc ngủ xuân không biết trời sáng Nơi nơi đều nghe tiếng chim hót Đêm qua mưa gào gió thét Không rõ bao nhiêu hoa đã rụng )

Kim Cốc Viên ( Vườn hoa Kim Cốc ở huyện Lạc Dương- Hà Nam )

Phồn hoa sự tán trục hương trần Lưu thủy vô tình thảo tự xuân Nhật mộ đông phong óan đề điểu Lạc hoa do tự trụy nhân lâu – Đỗ Mục ( Những việc phồn hoa đã tan tác theo lớp bụi thơm Nước vô tình chảy, cỏ cứ tự tươi thắm Chiều về chim kêu ai óan trong gió đông Hoa rụng như người nào năm xưa nhảy xuống lầu )

“ Tự trụy nhân lâu “- Chuyện nàng Lục Châu đời nhà Tấn, là một kỹ nữ đẹp, có tài thổi sáo, được một hào phú là Thạch Sùng sủng ái. Tôn Tú nghe tiếng, sai người đến xin nàng, Thạch Sùng không khứng chịu, Tôn Tú gièm pha với Triệu Vương Luân cho người đến bắt Thạch Sùng. Thạch Sùng nói với Lục Châu:” Ta vì nàng mà đắc tội”, Lục Châu khóc mà rằng :” Thế thì thiếp sẽ chết trước mặt quan quân “. Nói rồi, nhảy xuống lầu tự tử. Đỗ Mục còn tỏ ý thương tiếc nàng Lục Châu trong một bài tuyệt cú khác của ông là “ Đề Đào Hoa Phu Nhân Miếu “:

Tế yêu cung lý lộ đào tân Mạch mạch vô ngôn kỷ độ xuân Chí cánh tức vong duyên đế sự Khả liên Kim Cốc trụy lâu nhân ( Ở cung Tế yêu đào tơ mơn mởn ngậm sương Lặng lẽ không nói biết bao mùa xuân qua Rốt cuộc vì sao mà vua Tức mất nước Đáng thương cho người gieo mình xuống lầu ở vườn Kim Cốc )

Người Trung Hoa có câu thành ngữ “ Đào lý vô ngôn “: Hoa đào, hoa mận không nói; Ý là người dẹp như hoa đào, hoa mận, dù không cần nói vẫn cứ đẹp. Do thành ngữ này mà người ta gọi Tức phu nhân là Đào Hoa phu nhân: Nàng Tức Quỳ, vốn là vợ của vua nước Tức ( một nước nhỏ thời Xuân Thu ). Sái Ai Hầu tán dương sắc đẹp của nàng với vua Sở, vua Sở cho quân đi diệt nước Tức: giết Tức Hầu, chiếm đoạt nàng Tức Quỳ. Tức Quỳ làm vợ vua Sở, sanh hai con trai là Đỗ Ngao và Sở Thành Vương, nhưng nàng suốt đời không nói một lời nào với vua Sở, người đời cảm thương nên lập miếu thờ nàng, gọi là Đào Hoa phu nhân miếu.

Vua Sở thích những người phụ nữ lưng ong, nhỏ, xây cung điện riêng cho họ ở: gọi là Tế Yêu cung, nên trong dân gian có câu:”Sở vương hiếu tế yêu cung trung đa ngọa tử “ ( Vua Sở thích lưng ong, trong cung nhiều người chết đói).

Hai câu thực trong bài Đề Đào Hoa Phu Nhân Miếu của Đỗ Mục cho rằng Tức Hầu chết, nước Tức bị diệt bởi do sắc đẹp của Tức Quỳ; Lại tỏ ý thương tiếc Lục Châu, ngụ ý chê trách Tức Quỳ. Đỗ Mục thời đó dù nổi tiếng là một văn tài, đa tình, phóng khoáng; Dù ông có thương hoa, tiếc ngọc hơn những thi nhân cùng thời ( 803- 852 ), nhưng ông cũng có chung tư tưởng “ hồng nhan họa thủy “: người đẹp là nguồn gốc của những mối họa ( thủy đây là khởi thủy, nguồn gốc )- Thạch Sùng, Tức Hầu bị diệt vong tại vì sắc đẹp của Lục Châu, Tức Quỳ, chứ không phải vì sự say mê sắc đẹp mà họ bị ám hại bởi những người đàn ông khác, cũng say mê sắc đẹp như họ, nên cũng muốn giành giựt người đẹp làm của riêng mình ( tư hữu )!!! Cũng theo Đỗ Mục, Lục Châu dù chỉ là hầu, thiếp, đã nhảy lầu tự tử vì một lời than oán của Thạch Sùng, như vậy mới là phải, “ làm đúng “, còn vợ như Tức Quỳ dù đã suốt đời im lặng như người câm, nhưng không dám chết theo chồng thì bị chê trách: “ Tam Tòng “ !!! Trong khi Vương Duy lại có cái nhìn khác trong bài tuyệt cú “ Tức Phu nhân “:

Mạc dĩ kim thời sủng Năng vong cựu nhật ân Khán hoa mãn nhãn lệ Bất cộng Sở Vương ngôn ( Đâu phải vì sự sủng ái bây giờ Mà có thể quên được ân tình ngày xưa Ngắm hoa mà lệ chứa chan đôi mắt Không nói một lời nào với vua Sở )

Người Trung Hoa dùng hình ảnh và màu sắc tươi thắm của hoa đào để mô tả nhan sắc của người phụ nữ đẹp ngày xưa: Đào tai: má đào( má người thiếu nữ hồng như màu hoa đào ); Búp đào, đào non, đào tơ mơn mởn ( đào chi yêu yêu ) để chỉ người thiếu nữ dậy thì; Liễu yếu đào tơ để chỉ người mảnh mai à

Hoa đào được nhắc nhở trong văn chương, trong đời sống sinh hoạt của dân Trung Hoa và Việt Nam, là cây đào được trồng để thưởng thức dáng, vẻ đẹp của hoa: cây đào cho hoa. Loại cây đào hoa này thường nở rộ vào mùa xuân, có rất nhiều màu khác nhau: từ màu trắng ( bạch đào), trắng pha hồng ( bạch hồng đào ), hồng nhạt, hồng đậm, ba màu hồng trên một cành ( đào hoa tam sắc ) đến màu hồng đỏ ( bích đào ). Hãy tưởng tượng trong mùa xuân phơi phới, có một cơn mưa màu tươi thắm của hoa bích đào rơi lả tả như trong bài “ Tương tiến Tửu “ của Lý Hạ:

Huống thị thanh xuân nhật tương mộ Đào hoa loạn lạc như hồng vũ ( Huống gì giữa ngày xuân, bóng chiều đang phủ xuống Hoa đào rơi lả tả như một cơn mưa màu hồng )

Nhụy của hoa đào màu vàng; Những cánh hoa này là hoa kép trông giống như những cánh bướm, xếp vòng tròn, tựa vào đài hoa với hai, ba hàng cánh ( 12, 14 cho đến 32 cánh trong một hoa ), trải dọc, đều theo cành cây một cách mềm mại. Thời gian tồn tại của hoa rất lâu: sống từ ba đến bốn tuần, lại thêm hoa nở lần lượt, dù trồng ngoài vườn hay cắt cành cắm nhà cũng vậy - Trông rất đẹp và thanh nhã. Cây đào cho hoa thân mộc, cao từ 3 đến 8m, da thân nhẵn Trên thân cây thường có nhiều nhựa đào ( chất nhầy đóng cục lại ). Lá đơn mọc cách nhau, cuống ngắn, phiến lá lúc non xếp đôi, nhọn hai đầu, mép lá có răng cưa. Hoa kép xuất hiện trước lá. Cây đào cho hoa cũng đơm trái, nhưng ít, trái thì nhỏ và không ngon như cây đào trái được trồng với chủ đích thu hoạch trái - Loại cây đào trái dễ trồng, sức sống rất mạnh; Hoa đơn, cánh nhỏ như hoa mận, thường màu hồng nhạt.

Theo các nhà thực vật học, người Trung Hoa đã biết trồng cây đào ít nhất từ 4,000 năm về trước Nhưng lúc đầu, khi cây đào du nhập vào Tây phương ( một thế kỷ trước công nguyên ), lại từ xứ Ba Tư ( Perse- Iran ), nên được đặt tên khoa học là Prunus persica, đúng ra phải là Prunus sinensis, thuộc họ Rosaceae ( hoa hồng ). Nếu xếp loại thì các loại cây đào cho hoa, cây đào trái, cây anh đào đều thuộc họ Prunus. Nhưng cây đào cho hoa và cây anh đào có rất nhiều điểm khác biệt nhau: từ hình thái của cây, màu sắc, hoa trái … cho đến cả quan niệm và phương diện thẩm mỹ.

Thân và cành cây anh đào thì lớn và thô hơn cây đào hoa. Hoa anh đào là hoa đơn, mọc thành từng chùm. Mỗi đóa hoa chỉ lớn độ 2, 3cm, có 5 cánh mỏng, mịn, nở sát vào nhau. Hoa anh đào nở chậm hơn hoa đào cả tháng ( khoảng trung tuần tháng tư dương lịch )

Biệt ly kỷ xuân vị hoàn gia Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa - Lý Bạch / Cửu Biệt Ly ( Từ ra đi đến nay, đã mấy xuân chưa về nhà Trước cửa sổ, năm lần thấy hoa anh đào nở )

Hoa anh đào là quốc hoa, là biểu tượng của nước Nhật: “ xứ sở hoa anh đào “, được gọi là Sakura ( Somei Yoshino), tiếng Anh gọi là Japannese Cherry tree, tiếng Pháp gọi là Cerisier du Japon, tên khoa học là Prunus pseudocerasus, họ Rosaceae, có nguồn gốc từ Tây Tạng.

Theo ông Đỗ Thông Minh, ở Nhật có khoảng 60 loại anh đào khác nhau.Đời sống của hoa anh đào rất ngắn ngủi, chỉ khoảng 2, 3 ngày - Hoa đang độ tươi thắm là ra đi - Hoa ra đi có nghĩa là hoa rụng. Nhưng hoa anh đào lại đẹp nhất khi rụng rơi: Từng cánh hoa nhẹ, mỏng, màu trắng hồng lìa cành từng cánh một, bay bay trong gió xuân như những hoa tuyết mùa đông rơi lã chã xuống mặt đường àNhư trong một bức tranh mà người họa sỹ trong một lúc xuất thần đã phóng bút, nay còn nằm trong một ngôi chùa cổ ở Kyoto.

Trong khi người Trung Hoa dùng hoa đào để khắc họa vẻ đẹp của người phụ nữ, thì đối với người Nhật Bản, hoa anh đào tượng trưng cho đời sống của giai cấp Chiến binh Thị Vệ: Samurai Họ tự ví đời sống của mình tươi đẹp như đời sống của đóa hoa anh đào - Ở đó, sự sống và sự chết đều có nét đẹp khác nhau. Người Nhật có câu :” Nếu là hoa, xin làm hoa anh đào. Nếu là người, xin làm một samurai “ - Hoa anh đào có hai lần tuyệt đẹp trong đời hoa: Khi nở rực rỡ dưới ánh nắng mùa xuân và khi lìa cành bay theo gió - Sự can đảm tạo cho các Samurai xem cái chết là một vinh dự như cái đẹp của những cánh hoa anh đào rơi khi đạt đến thời điểm nở toàn mỹ. Sakura Sakura

Sakura àsakura ànoyamamo satomo Miwatasu kagiri Kasumi-ka kumo-ka àasahi-ni niou Sakura àsakura àHanazakari - Shizuka (Hoa anh đào, hoa anh đào. Trên núi rừng, trong xóm làng Khắp nơi mà bạn có thể thấy được Chúng giống như sương mù hay những đám mây. Hoa anh đào ngát hương dưới ánh mặt trời buổi sáng. Hoa anh đào, hoa anh đào. Nở rực rỡ )

Thi ca Việt Nam chịu ảnh hưởng lâu đời của thi ca Trung Hoa ,nên ra cũng thấy lần lượt những bài thơ trong nhiều thời kỳ văn học khác nhau ( từ cổ chí kim: từ thơ viết bằng chữ Hán, chữ Nôm đến thơ mới sử dụng quốc ngữ ), đều có vương vất hình ảnh hoa đào rơi. Từ bài Hành Lạc Từ của thi hào Nguyễn Du, cuối thế kỷ 18:

Sơn thượng hữu đào hoa Xước ước như hồng ỷ Thanh thần lộng xuân nghiên Nhật mộ trước nê trễ à Hảo hoa vô bách nhật Nhân thọ vô bách tuế Thế sự đa suy di Phù sinh hành lạc sự ( Trên núi có hoa đào Tươi đẹp như lụa đỏ Sáng mai giỡn màu xuân Chiều tối lăn bùn nhọ à Hoa đẹp không trăm ngày Người sống không trăm tuổi Việc đời thay đổi luôn Kiếp người vui có hội à - Phạm Khắc Khoan + Lê Thước )

Thi sỹ Nguyễn Bính qua bài “Thôi nàng ở lại “ đầu thế kỷ 20, khoảng thời gian giữa thơ cũ không còn phát triển nữa và thơ mới nô nức trỗi dậy:

Hoa đào từng cánh rơi như tưới Xuống mặt sân rêu những mắt buồn Như những tâm hồn tan vỡ ấy Nhện già giăng mắc sợi tơ đơn.

Thập niên 60 với “Bài thơ hoa đào “của nhạc sỹ Hoàng Nguyên:

Ngày nào à Dừng chân phiêu lãng Khách tới đây khi hoa đào vương lối đi Màu hoa in dáng trời Tình hoa lưu luyến người Bồi hồi lòng lữ khách thấy chơi vơi.

Hay thi sỹ Nguyễn Trọng Tạo gần đây với bài “ Tết sớm gọi tuổi mình “ :

Không níu được mùa xuân quay trở lại Anh thôi đành trồng một sắc đào riêng Hoa đào nở cuối chiều đông giá buốt Tết bỗng dưng đến sớm gọi tuổi mình.

Ta nhận thấy thi sỹ Việt Nam có cái nhìn khác hẳn đối với những cánh hoa đào tàn rơi, với tính nhân hậu, phong cách, bản sắc riêng của dân tộc, nhất là trong ca dao bình dân:

Hoa đào héo nhụy anh thương Anh mong bẻ lá che sương cho đào

Hoa đào héo nhụy là hình ảnh của người phụ nữ đã qua thời xuân sắc: nhan sắc, tuổi xuân rồi cũng đến lúc nhạt phai như đóa hoa đào – Hoa đào thắm tươi đó rồi tàn úa đó – Lúc hoa đào khai/nở không thể không nghĩ đến lúc hoa đào lạc/rụng – Với nhận thức về duyên khởi duyên sinh, hoa đào đối với những vị xuất gia, được xem như một biểu tượng, qua đó nhận thức thực tại mà chứng ngộ.

Tự nở, tự tàn theo thời tiết Chúa xuân bị hỏi cũng khôn lời – Sơ Tổ Trúc Lâm

Tùy theo căn cơ, có vị thấy hoa đào nở mà ngộ đạo, có vị lại thấy hoa đào rụng mà ngộ đạo. Như thiền sư Linh Vân đời Đường, ở chỗ ngài Quy Sơn Linh Hựu lâu năm không ngộ, một hôm thấy hoa đào nở mà chứng đắc. Thiền lâm gọi chuyện này là “ Linh Vân kiến đào minh tâm “ hay “ Linh Vân đào hoa ngộ đạo “.Thiền sư Linh Vân có làm một bài kệ rằng:

Tam thập niên lai tầm kiếm khách Kỷ hồi lạc diệp kỷ sưu chi Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu Trực chí như kim cánh bất nghi ( Ba chục năm tìm kiếm uổng thôi Mấy phen lá rụng lại đâm chồi Từ khi chợt thấy hoa đào nở Nghi hoặc xưa nay dứt sạch rồi - Nguyễn Khuê )

Thiền sư Thủ Tuân ( 1079- 1234 ), một hôm ngồi nhắm mắt tĩnh tọa suốt ngày, đến khi ngước mắt nhìn lên, thấy hoa đào rơi lả tả liền ngộ, bởi lẽ “ đào hoa lạn mạn “ là nhận thức trọn vẹn cái quy luật “ sinh, trụ , dị diệt “ của vũ trụ vạn hữu.

Chung nhật khán thiên bất cử đầu Đào hoa lạn mạn thủy đài mâu Nhiêu quân tiện hữu già thiên võng Thấu đắc lao quan tức tiện hữu ( Ngày trọn nhìn trời chẳng ngẩng đầu Ngước trông lả tả cánh hoa đào Che trời quanh bạn đều giăng lưới Chẳng vượt lao quan, chẳng chịu nào - Nguyễn Khuê )

Vẻ đẹp của hoa đào là đề tài muôn thuở trong thi ca - Hoa khai hay hoa lạc đều là đối tượng trữ tình đặc biệt để diễn tả vẻ diễm lệ của phái nữ, nhất là má hồng màu hoa đào như trong bài “ Thà rằng chẳng gặp thì thôi “ của thi sỹ Trần Vấn Lệ:

Gặp nhau rồi cũng xa rời Xưa sau biết mấy triệu người nhớ nhau ! Một cơn tái hội chừng nào ? Bắt em … hóa cánh hoa đào, tôi hôn – Trần Vấn Lệ

Hoa đào trên má ai - Chẳng biết là màu hoa đào in dáng trời, in trên má người làm nhà thơ bồi hồi, lưu luyến hay vì ngất ngây mà má em hồng thắm một màu hoa nở - “ Nhân diện đào hoa tương ánh hồng “ : Mặt người và hoa ánh lẫn nhau dưới ánh nắng nồng nàn của mùa xuân. Ôi! Màu hoa đào ngày xuân nào. Màu hoa đào của bồn chồn, e thẹn, hẹn hò trong giai thoại của Thôi Hộ ngày xưa; “ Đào hoa y cựu tiếu đông phong “; Nay đã trở thành điển tích trong thơ của các thi nhân đời sau này vậy:

Trước sau nào thấy bóng người

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông - Nguyễn Du

Hôm nay là xuân mai còn xuân Một cánh đào rơi nhớ cố nhân - Nguyễn Bính

Trong màu đỏ hồng tươi thắm của hàng ngàn đóa hoa đào nở rộ mùa xuân, ta thấy như sống lại mối thâm tình của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lưng ngựa dặm trường, người đầy gió bụi mang một cành bích đào từ thành Thăng Long trở về kinh đô Phú Xuân trao tặng cho người vợ yêu là Ngọc Hân công chúa, báo tin chiến thắng. Đã hơn hai trăm năm trôi qua; Đã hơn hai trăm mùa đào đua sắc, đất nước Việt Nam trải biết bao thăng trầm, biến đổi mà màu trữ tình của hoa đào vẫn còn sống mãi, vẫn còn ngời sáng như dòng máu yêu thương thắm thiết chảy trong lòng vua Quang Trung nhà Tây Sơn và Ngọc Hân công chúa nhà Hậu Lê qua bài Ai Tư Vãn: ” Thương ai áo vải cờ đào. Giúp dân, dựng nước biết bao công trình “ - “Ai ơi, ai nhớ chăng rằng à Nòi giống muôn năm hiên ngang à Làm gái toàn là Trưng Vương. Làm trai rạng hồn Quang Trung “ ( Hồ Đình Phương )