Bà cố là gì

Thật ra thì con gái tôi tả không sai tí nào. Mẹ tôi sinh con gái đầu lòng năm mới 20 tuổi. Tôi sinh con gái đầu lòng năm 25 tuổi. Hằng ngày mẹ tôi vẫn đi làm ở công sở và vẫn còn khỏe mạnh, yêu đời... Tóc ngắn nhuộm vàng, váy ngắn tới đầu gối hay giày cao gót là chuyện thường ngày của mẹ. Mà không chỉ riêng mẹ tôi đâu, tôi thấy rất nhiều bà ngoại trẻ bây giờ đều thế cả.

Con gái ấm ức kể với tôi rằng: Cô giáo bảo tả về bà ngoại như thế là thiếu thực tế, không đúng với hướng dẫn. Bà ngoại phải là tóc dài bạc trắng búi sau gáy chứ không phải tóc tém nhuộm vàng. Bà ngoại đi xe đạp hay đi bộ chứ làm sao cưỡi được xe máy tay ga. Bà ngoại mặc đồ bộ và mang dép hay guốc chứ không phải váy ngắn tới đầu gối và giày cao gót… Nói xong, con gái tôi kết luận: “Con thấy theo như lời cô giáo tả thì giống bà cố nhà mình hơn là bà ngoại mẹ nhỉ…!”.

Thu Hiền

>> Dạy văn, những điều trông thấy…
>> Bị đình chỉ công tác vì cho học sinh viết tập làm văn “tự sát”
>> Học văn, trò sợ lời phê vô cảm hơn điểm kém
>> Thay đổi cách dạy, học văn 

  • Ông sơ, bà sơ: Cao tổ phụ, cao tổ mẫu.
  • Chít: Huyền tôn.
  • Ông cố, bà cố: Tằng tổ phụ, tằng tổ mẫu.
  • Chắt: Tằng tôn.
  • Ông nội, bà nội: Nội tổ phụ, nội tổ mẫu.
  • Cháu nội: Nội tôn.
  • Ông nội, bà nội chết rồi thì xưng: Nội tổ khảo, nội tổ tỷ.
  • Cháu xưng là: Nội tôn.
  • Con trai của Đích thê xưng là: Đích tử.
  • Con trai lớn tuổi nhất xưng là: Trưởng tử.
  • Con trai lớn tuổi nhất và là con trai của Đích thê xưng là: Đích trưởng tử.
  • Cháu trai của Đích thê [tức các con trai của các Đích tử] xưng là: Đích tôn: [cháu nội].
  • Cháu trai lớn tuổi nhất xưng là: Trưởng tôn: [cháu nội].
  • Đích trưởng tử của Đích trưởng tử xưng là : Đích trưởng tôn: [cháu nội].
  • Ông ngoại, bà ngoại: Ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu: [cũng gọi là ngoại công, ngoại bà].
  • Ông ngoại, bà ngoại chết rồi thì xưng: Ngoại tổ khảo, ngoại tổ tỷ.
  • Cháu ngoại: Ngoại tôn.
  • Ông nội vợ, bà nội vợ: Nhạc tổ phụ, nhạc tổ mẫu.
  • Ông nội vợ, bà nội vợ chết rồi thì xưng: Nhạc tổ khảo, nhạc tổ tỷ.
  • Cháu nội rể: Tôn nữ tế.
  • Cha mẹ chết rồi thì xưng: Hiển khảo, hiển tỷ.
  • Cha chết rồi thì con tự xưng là: Cô tử [con trai], cô nữ [con gái].
  • Mẹ chết rồi thì con tự xưng là: Ai tử [con trai], ai nữ [con gái].
  • Cha mẹ đều chết hết thì con tự xưng là: Cô ai tử, cô ai nữ.
  • Cha ruột: Phụ thân.
  • Cha ghẻ: Kế phụ.
  • Cha nuôi: Dưỡng phụ.
  • Cha đỡ đầu: Nghĩa phụ.
  • Con trai lớn: Trưởng nam.
  • Con gái lớn: Trưởng nữ.
  • Con kế: Thứ nam, thứ nữ.
  • Con út: Trai: Út nam. Gái: Út nữ.
  • Con duy nhất, con một: Trai: Quý nam. Gái: Ái nữ.
  • Mẹ ruột: Sinh mẫu, từ mẫu
  • Mẹ ghẻ: Kế mẫu: Con của bà vợ nhỏ gọi vợ lớn của cha là Đích mẫu, mẫu thân
  • Mẹ nuôi: Dưỡng mẫu.
  • Mẹ có chồng khác: Giá mẫu.
  • Má nhỏ, tức vợ bé của cha: Di nương.
  • Mẹ bị cha từ bỏ: Xuất mẫu.
  • Bà vú: Nhũ mẫu.
  • Chú, bác vợ: Thúc nhạc, bá nhạc.
  • Cháu rể: Điệt nữ tế.
  • Chú, bác ruột: Thúc phụ, bá phụ.
  • Vợ của chú : Thiếm, Thẩm.
  • Cháu của chú và bác, tự xưng là nội điệt.
  • Cha chồng: Công công.
  • Mẹ chồng: Bà bà.
  • Dâu lớn: Trưởng tức.
  • Dâu thứ: Thứ tức.
  • Dâu út: Quý tức.
  • Cha vợ [sống]: Nhạc phụ, [chết]: Ngoại khảo.
  • Mẹ vợ [sống]: Nhạc mẫu, [chết]: Ngoại tỷ.
  • Rể: Tế.
  • Chị, em gái của cha, ta gọi bằng cô: Thân cô, cô mẫu, cô cô
  • Ta tự xưng là: Nội điệt, Nữ: Điệt nữ
  • Chồng của cô: Dượng: Cô trượng, tôn trượng, cô phụ
  • Chồng của dì: Dượng: Di trượng, biểu trượng.
  • Cậu, mợ: Cựu phụ, cựu mẫu. Mợ còn gọi là: Câm.
  • Còn ta tự xưng : Sanh tôn.
  • Cậu vợ: Cựu nhạc.
  • Cháu rể: Sanh tế.
  • Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi: Tẩn.
  • Ta tự xưng: Lương phu, Kiểu châm.
  • Vợ bé: Thứ thê, trắc thất.
  • Vợ lớn: Chánh thất.
  • Vợ sau [vợ chết rồi cưới vợ khác]: Kế thất.
  • Anh ruột: Bào huynh.
  • Em trai: Bào đệ, cũng gọi: Xá đệ.
  • Em gái: Bào muội, cũng gọi: Xá muội
  • Chị ruột: Bào tỷ.
  • Anh rể: Tỷ trượng, Tỷ phu.
  • Em rể: Muội trượng, muội phu còn gọi là: Khâm đệ.
  • Chị dâu: Tợ phụ, Tẩu, hoặc tẩu tử.
  • Em dâu: Đệ phụ, Đệ tức.
  • Chị chồng: Đại cô.
  • Em chồng: Tiểu cô.
  • Anh chồng: Phu huynh: Đại bá.
  • Em chồng: Phu đệ, Tiểu thúc.
  • Chị vợ: Đại di.
  • Em vợ [gái]: Tiểu di tử, Thê muội.
  • Anh vợ: Thê huynh: Đại cựu: Ngoại huynh.
  • Em vợ [trai]: Thê đệ, Tiểu cựu tử.
  • Con gái đã có chồng: Giá nữ.
  • Con gái chưa có chồng: Sương nữ.
  • Cha ghẻ, con tự xưng: Chấp tử.
  • Tớ trai: Nghĩa bộc.
  • Tớ gái: Nghĩa nô, nô tì
  • Cha chết trước, sau ông nội chết, tôn đích trưởng tử của đích trưởng tử đứng để tang, gọi là: Đích trưởng tôn thừa trọng.
  • Cha và đích trưởng tôn chết trước, sau ông nội chết, tôn con của đích trưởng tử đứng để tang, gọi là: Đích tôn thừa trọng.
  • Cha, mẹ chết chưa chôn: Cố phụ, cố mẫu;Đã chôn: Hiền khảo, hiển tỷ.
  • Mới chết: Tử.
  • Đã chôn: Vong.
  • Anh em chú bác ruột với cha mình: Đường bá, đường thúc, đường cô, mình tự xưng là: Đường tôn.
  • Anh em bạn với cha mình: Niên bá, quý thúc, lịnh cô. Mình là cháu, tự xưng là: Thiểm điệt, lịnh điệt.
  • Chú, bác của cha mình, mình kêu: Tổ bá, tổ túc, tổ cô.
  • Mình là cháu thì tự xưng là: Vân tôn
  • Con riêng: Tư sinh tử
  • Con rể: Hiền tế
  • SGK Ngữ văn 8, tập 1, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2010 [tr. 91]

Mỗi tôn giáo có những đặc ngữ riêng. Bài viết này giúp độc giả hiểu tại sao người Công Giáo Việt Nam gọi cha mẹ Linh Mục là Ông Bà Cố và tại sao khi xưa gọi vị nữ tu dòng Mến Thánh Giá là Bà Mụ.

Ông Bà Cố: Người Công Giáo Việt Nam có tục lệ gọi cha mẹ Linh Mục là Ông Bà Cố cho dù “Ông Bà Cố”này đôi khi còn rất trẻ. Lối xưng hô này bị một số người chỉ trích là tâng bốc vị Linh Mục. Lời phê bình đó có xác đáng không? Chúng ta tìm hiểu vấn đề này trong văn hóa Việt Nam. Theo Từ Điển Văn Học Việt Nam của cố Lm Trần Văn Kiệm, từ Cố 故 vừa là Hán Việt vừa là Nôm có ít nhất 7 nghĩa sau đây:

[1] Gắng sức: cố công mài sắt.

[2] Đành chịu: cố đấm ăn xôi.

[3] Cha mẹ của ông bà: ông bà cố.

[4] Gặp thế kẹt: Quân tử cố cùng cũng thẹn mặt.

[5] Linh mục Thiên Chúa Giáo: Cố đạo.

[6] Trao đồ lấy tiền rồi chuộc lại: cầm cố.

[7] Cha mẹ của những người làm quan hay đỗ cử nhân.

Theo nghĩa số 7 trên đây, người Công Giáo Việt Nam gọi cha mẹ linh mục là Ông Bà Cố vì dựa vào phong tục xưa gọi cha mẹ những người làm quan hay đỗ cử nhân là Ông Bà Cố. Chúng ta cũng thấy, con trai con gái nhà quan hay nhà giầu ngày xưa được dân chúng gọi là Cậu hay Cô. Vì vậy mới có danh từ Cậu Ấm – Cô Chiêu.

Đối với các vị linh mục, giáo dân công giáo xưa coi các vị này đã học tập lâu dài, như đã đỗ được một bằng cấp cao, do đó mới có tiếng Đỗ Cụ.

Vậy việc xưng hô với cha mẹ linh mục là Ông Bà Cố hoàn toàn dựa vào phong tục dân gian, chứ không có ý tâng bốc vị linh mục như nhiều người lầm tưởng.

Bà Mụ: Vào đầu thế kỷ 20 dân chúng thường dùng danh từ Bà Mụ để chỉ bất cứ Bà Dòng Mến Thánh Giá nào và nhà dòng Mến Thánh Giá được gọi là Nhà Mụ. Đây là hai từ cổ được dùng rất phổ biến từ những năm 1950 trở về trước. Vậy nguyên nhân nào các chị Nữ Tu Mến Thánh Giá lại được gọi là bà Mụ – một danh xưng không được “ra vẻ” cho lắm.

Thực ra dân chúng đã hiểu lầm ý nghĩa của từ Bà Mụ. Theo bản văn luật dòng Mến Thánh Giá xưa được gọi là phép nhà, thì nguyên nghĩa của từ Bà Mụ là để chỉ bà bề trên cơ sở dòng Mến Thánh Giá và từ Chị Ả để chỉ bà phó bề trên, còn các chị dòng khác được gọi chung là chị em.

Đoạn 19 trong bản luật thế kỷ 18 của dòng Mến Thánh Giá viết như sau: “Phép chọn mụ, cùng chị ả, và kẻ giữ việc. Hễ là ba năm một lần trong lễ Đức Chúa Spiritô Sanctô [Chúa Thánh Thần- ghi chú của người viết] Hiện Xuống, hay là ngày nào khác, bề trên dạy chị em hợp lại, mà chọn một người nào làm mụ, cùng một người nào làm chị ả, và một người khác giữ việc cho chị em”.

Dân chúng không phân biệt như trên mà gọi bất cứ vị nữ tu Mến Thánh Giá nào cũng là Bà Mụ. Ngày nay từ Mụ không còn được dùng nữa, và dân gian coi từ mụ không được ra vẻ cho lắm nên đã dùng từ Bà Xơ, Bà Xờ, Bà Dòng, Bà Phước, Dì Phước để chỉ người Nữ Tu.

Từ Xơ hay Ma Xơ do tiếng Ma Soeur của Pháp ngữ có nghiã là chị, em, tĩnh từ ma được thêm vào để tỏ lòng tôn kính.

Từ Bà Phước hay Dì Phước là tiếng của dân chúng miền Nam Việt Nam gọi các nữ tu. Sở dĩ như vậy vì các vị nữ tu này thường phục vụ trong các bệnh viện, cô nhi viện, các trung tâm xã hội. Phước là tiếng đọc trại của chữ Phúc 福.
Điều đáng chú ý là không ai dùng từ Bà Phúc, mà chỉ nói Bà Phước. Sở dĩ như vậy vì vấn đề kỵ húy. Dân miền Nam tránh dùng chữ Phúc vì đó là tên đệm của các chúa Nguyễn như Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan v.v… Ngày nay dân chúng gọi bất cứ vị nữ tu nào cũng là Bà Phước hay Dì Phước. Gọi là Dì với phụ nữ vì phong tục giao tế của người Việt muốn thân tộc hóa để tỏ lòng kính trọng, thương yêu.

Tại sao các nhà truyền giáo xưa lại dùng từ Bà Mụ để chỉ nữ tu dòng Mến Thánh Giá trong khi người Việt Nam hiểu từ Bà Mụ là người đàn bà đỡ đẻ và là nữ thần khuôn nặn hình hài thai nhi.

Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của xuất bản năm 1896 có từ Bà Mụ nhưng chỉ có nghiã là người đàn bà lớn tuổi.

Từ điển Tiếng Việt của Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản vào tiền bán thế kỷ 20 chưa có từ Bà Mụ với nghiã là nữ tu dòng Mến Thánh Giá.

Đại Từ Điển Tiếng Việt của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo xuất bản năm 1999 mới có từ Bà Mụ với ý nghiã là nữ tu Công Giáo:

[1] Người đàn bà đỡ đẻ ở nông thôn trước đây.

[2] Nữ thần nặn ra hình đứa trẻ.

[3] Nữ tu đạo Thiên Chúa thuộc một dòng tu riêng của Việt Nam

[3] Bướm nhỏ.

[4] Ấu trùng của chuồn chuồn sống dưới nước.

Giả Thuyết Giải Thích Từ Bà Mụ: Với các ý nghĩa dân gian hiểu về từ Bà Mụ ngày xưa chắc chắn không thích hợp để chỉ bà dòng Mến Thánh Giá. Vậy tại sao lại có từ Bà Mụ? Có hai giả thuyết giải thích từ Bà Mụ để chỉ bà bề trên cơ sở dòng Mến Thánh Giá.

Giả thuyết thứ nhất căn cứ vào ý nghĩa từ Mụ trong tiếng Nôm và Hán Việt. Từ Mụ vừa là Nôm 姥 vừa là Hán Việt 媽.Hai từ có ý nghĩa gần như nhau để chỉ người mẹ hoặc bà già. Theo giả thuyết này, vì từ Mụ có ý nghĩa là mẹ, hay người đàn bà lớn tuổi nên các nhà thừa sai đã dùng từ đó để chỉ bà bề trên dòng Mến Thánh Giá như tập tục của tất cả các nhà dòng nữ trên thế giới gọi bà bề trên là bà mẹ. Giả thuyết này có sức thuyết phục, nhưng cũng có giả thuyết thứ hai xem ra cũng hợp lý.

Giả thuyết thứ hai cho rằng khi thiết lập dòng Mến Thánh Giá, các nhà truyền giáo tây phương chưa thông thạo tiếng Việt nên đã dựa vào Phúc Âm để lấy chữ Mụ trong từ Mulier của tiếng La tinh để chỉ nữ tu bề trên của Dòng Mến Thánh Giá. Trong tiếng Latin, từ Mulier có nghĩa là người đàn bà. Trong Phúc Âm có nhiều chữ Mulier. Ví dụ trong đoạn Chúa Giêsu trối Đức Mẹ cho Thánh Gioan, Phúc Âm viết: Cum vidisset ergo Iesus matrem et discipulum stantem quem diligebat dicit matri suae mulier ecce filius tuus. [Jn 19,26] Vậy Ðức Giêsu thấy Mẹ Ngài, và môn đồ Ngài yêu mến đứng bên cạnh, thì Ngài nói với Mẹ: Hỡi bà này là con bà!

Giả thuyết nào đúng, đáng tin cậy hơn, còn cần sự góp ý của các bậc thức giả.

Nguyễn Long Thao

Video liên quan

Chủ Đề