Bản Thông cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng hòa dân chủ Việt Nam 3 10 1945

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". [1]

Lời hịch trên chứng tỏ chúng ta đã nỗ lực đến nhường nào để giữ lấy hòa bình, đồng thời thể hiện quyết tâm sắt đá của toàn dân tộc bảo vệ cho được nền độc lập vừa giành được, quyết không trở lại "kiếp ngựa trâu".

Chúng ta cùng nhớ lại những hoạt động ngoại giao đầy kịch tính song cũng rất sáng tạo của Nhà nước ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh để giữ vững chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, cứu vãn hòa bình hết sức mong manh vào những ngày tháng hết sức cam go trong giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám tới Ngày Toàn quốc kháng chiến.

Ðất nước ta lúc bấy giờ ở vào tình thế "ngàn cân treo sợi tóc": kinh tế kiệt quệ, nạn đói hoành hành, chính quyền và lực lượng vũ trang mới "phôi thai", nước nhà lại phải đối mặt với đủ loại thù trong giặc ngoài và cuộc kháng chiến Nam Bộ bùng phát chỉ sau lễ Tuyên ngôn độc lập vỏn vẹn hai chục ngày. Trong bối cảnh đó, một mặt Ðảng và Nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch ra sức củng cố thực lực - một nhân tố được coi là có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng, mặt khác dành mối quan tâm hàng đầu cho công tác ngoại giao bên cạnh ba nhiệm vụ khác là kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục.

Ðể tiến hành thành công hoạt động ngoại giao, nhân tố quan trọng hàng đầu là nhận diện rõ ràng, phân tích sâu sắc, dự báo chuẩn xác tình hình, làm nền tảng cho việc hoạch định chiến lược, sách lược và tiến hành công việc. Trước ngưỡng cửa của Cách mạng Tháng Tám, Hội nghị toàn quốc của Ðảng nhấn mạnh yêu cầu cần nhận định rõ hai điều:

a] Sự mâu thuẫn giữa hai phe đồng minh Anh, Pháp và Mỹ, Tàu về vấn đề Ðông Dương là một điều ta cần lợi dụng;

b] Sự mâu thuẫn giữa Anh, Mỹ, Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Ðông Dương.

Chính sách của chúng ta là phải tránh các trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng đồng minh [Trung Quốc, Pháp, Mỹ] tràn vào nước ta và đặt Chính phủ của Pháp De Gaulle hay một chính phủ bù nhìn khác, trái với ý nguyện dân tộc.

"Bởi vậy cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ chống lại mưu mô của Pháp định khôi phục địa vị cũ ở Ðông Dương và mưu mô của một số quân phiệt Tàu định chiếm nước ta…". [2]

Dựa trên sự phân tích khoa học nêu trên, ngày 3-10-1945, Chính phủ Lâm thời đã ra Thông cáo về chính sách ngoại giao, trong đó nêu rõ mục tiêu là: Ðưa nước nhà đến tự do, độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn…; tất cả chính sách ngoại giao phải có mục đích cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh ấy thắng lợi bằng mọi phương pháp êm dịu hay kiên quyết. Trong Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc ngày 25-11-1945, Trung ương Ðảng đã xác định: "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng… Ðối với Pháp, độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế". [3]

Thấu hiểu những mâu thuẫn và sự thỏa hiệp giữa Pháp và chính quyền Tưởng Giới Thạch, chúng ta đã khôn khéo đẩy 20 vạn quân Tưởng về nước để tập trung sức lực đối phó với các thế lực hiếu chiến Pháp.

Bác Hồ và Ðảng ta đã tốn rất nhiều công sức, phát huy cao độ tài thao lược để tiến hành cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì với thực dân Pháp. Ðó là cuộc đàm phán cam go để đi tới việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, theo đó Pháp phải công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do có Chính phủ, có quân đội và tài chính; Pháp thừa nhận qua trưng cầu dân ý việc thống nhất ba kỳ, đứng trong khối Liên hiệp Pháp… Chúng ta đồng ý để quân đội Pháp vào miền bắc thay quân Tưởng nhưng không quá 5 năm; hai bên đình chiến và mở đàm phán chính thức, trong khi đàm phán, quân đội hai bên ở đâu đóng đó. Với Hiệp định này, chúng ta đã tránh được tình thế bất lợi phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng thù địch, bảo toàn lực lượng, giành lấy sự hòa hoãn tạm thời để chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Nội dung Hiệp định cũng thể hiện sách lược khôn khéo: do Pháp ngoan cố chưa chịu chính thức công nhận nhà nước độc lập mới ra đời, Bác Hồ đã đưa ra công thức mềm dẻo. Theo đó, Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước "tự do", có Chính phủ, có quân đội và có tài chính [về thực chất Pháp phải chấp nhận nước ta là một quốc gia độc lập]; việc thống nhất đất nước sẽ được quyết định qua trưng cầu dân ý.

Thể theo Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, hai bên đã mở ra các cuộc đàm phán ở Ðà Lạt và ở Phông-ten-nơ-blô để đi tới Hiệp định chính thức. Bác Hồ đã phải thân chinh sang thăm Pháp trong thời gian 5 tháng - một sự kiện "vô tiền khoáng hậu" trong lịch sử ngoại giao thế giới, khi một nguyên thủ quốc gia bất chấp hiểm nguy, sang thăm chính nước thù địch trong một thời gian dài, "cốt để giải quyết vấn đề Việt Nam độc lập, cùng Trung, Nam, Bắc thống nhất" như Bác báo cáo với quốc dân đồng bào khi trở về nước. [4]

Tuy nhiên, do thực dân Pháp rắp tâm chiếm lại Việt Nam, cho nên mọi cố gắng ngoại giao từ phía ta đã không thành. Ðiều ta tranh thủ được chỉ là việc ký Tạm ước 14-9-1946 về tạm thời đình chiến, xử lý vấn đề tù nhân, tù binh, chấm dứt tuyên truyền không hữu nghị...

Bất chấp những thỏa thuận hạn chế ấy, thực dân Pháp ở Ðông Dương liên tiếp có nhiều hành động khiêu khích, gây ra tình hình hết sức căng thẳng và sáng 19-12-1946, chúng đã gửi cho ta tối hậu thư đòi tước vũ khí, giao cảnh sát giao thông cho Pháp. Trước những đòi hỏi ngang ngược đó, tối cùng ngày, theo tiếng gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta, triệu người như một đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp trong vòng chín năm trời, kết thúc bằng chiến thắng Ðiện Biên Phủ oai hùng và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954.

Như vậy, có thể thấy cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì, đầy khó khăn của nước ta dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch tuy chưa đạt được mục tiêu mong muốn do dã tâm của thực dân Pháp và hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ nhưng đã tranh thủ được một thời gian nhất định theo tinh thần "hòa để tiến", tạo thêm điều kiện cần thiết để quân dân ta vững bước đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ.

Một điều không kém phần quan trọng là cuộc đấu tranh ngoại giao trong thời gian ngắn ngủi ấy đã để lại nhiều bài học quý giá mang tính nền tảng đối với nền ngoại giao của Ðảng và Nhà nước ta trong suốt những năm tháng tiếp theo và tới tận ngày nay. Ðó là bài học nắm bắt chính xác, phân tích khoa học tình hình, xác định trúng mục tiêu; coi "dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết"; dựa vào thực lực bản thân đi đôi với những nỗ lực tập hợp mọi lực lượng có thể tranh thủ được theo tinh thần "làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết"; khai thác mâu thuẫn giữa các thế lực bên ngoài, tập trung trí lực ứng phó với đối tượng chủ yếu và nguy hiểm nhất; kiên định về nguyên tắc, cơ động, linh hoạt về sách lược; nắm vững và chủ động tạo dựng thời cơ, tiến hành đấu tranh với những bước đi và dưới hình thức thích hợp…

Thiết nghĩ, kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến, việc rút ra những bài học sẽ rất có ích trong giai đoạn hiện nay để tranh thủ tối đa điều kiện quốc tế thuận lợi đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. 

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội – 2011, T.4, tr. 534.

[2] Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðảng, Toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 2000, T.7, tr.427.

[3] Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðảng, Toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội – 2000, T.8, tr.26-27.

[4] Hồ Chí Minh Toàn tập. Sđd, T.4, tr.468.

[Bqp.vn] - Cách đây đúng 76 năm, ngày 28/8/1945, Bộ Ngoại giao được thành lập cùng với sự ra đời của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Suốt 76 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu của dân tộc và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Ngoại giao Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Phục vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Sau khi thành lập trong tình thế đất nước “thù trong, giặc ngoài”, thực hiện những quyết sách ngoại giao mưu lược và khôn khéo của Đảng và Bác Hồ, ngoại giao đã góp phần quan trọng bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, tạo thời gian hòa bình quý giá để đất nước chuẩn bị lực lượng cho trường kỳ kháng chiến. Những sách lược ngoại giao như “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “tâm công”, “phân hóa kẻ thù”... đã trở thành những bài học kinh điển của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, mang đậm dấu ấn tư tưởng, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.

Giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ngoại giao đã trở thành một mặt trận chiến lược trong hai cuộc kháng chiến và kiến quốc, tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc. Phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính trị và quân sự, ngoại giao đã “chuyển hóa” thắng lợi trên chiến trường thành thắng lợi ngoại giao trên bàn đàm phán ở Giơ-ne-vơ năm 1954 và Pa-ri năm 1973, mở ra thời cơ chiến lược cho dân tộc đi tới ngày toàn thắng, Bắc Nam sum họp một nhà.

Đất nước bước ra từ những năm tháng chiến tranh với vô vàn khó khăn và thử thách, ngoại giao đã tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế cho công cuộc tái thiết đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoại giao trở thành mặt trận tạo lối, mở đường, đi đầu từng bước phá thế bao vây, cấm vận, khơi thông quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn và nhiều đối tác, mở ra cục diện đối ngoại mới phục vụ đắc lực công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước.

Ngoại giao trong công cuộc Đổi mới và hội nhập quốc tế

Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ngoại giao cùng các binh chủng đối ngoại đã “đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn lực cho phát triển đất nước” [1] và nâng cao vị thế quốc gia.

Thông qua mở rộng và làm sâu sắc quan hệ với các đối tác, ngoại giao cùng quốc phòng và an ninh góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, đồng thời mở ra nhiều thị trường, tranh thủ nhiều nguồn vốn, công nghệ và tri thức bên ngoài phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến nay, nước ta có quan hệ hữu nghị hợp tác với 189 quốc gia, trong đó 17 nước đối tác chiến lược và 13 nước đối tác toàn diện; có quan hệ kinh tế với hơn 230 nền kinh tế, đã ký 15 hiệp định thương mại tự do [FTA], trong đó có các FTA thế hệ mới.

Thực hiện chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đóng góp có trách nhiệm vào các vấn đề chung của quốc tế, phát huy vai trò tại nhiều cơ chế đa phương, vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được khẳng định và nâng cao trên trường quốc tế. Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn cũng như hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc [2008 - 2009 và 2020 - 2021], Hội nghị cấp cao ASEAN [1998, 2010 và 2020], Hội nghị cấp cao ASEM [2004], Hội nghị thượng đỉnh APEC [2006, 2017], Diễn đàn Kinh tế giới về Đông Á [2010] và về ASEAN [2018], Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên [2019]…

Bên cạnh đó, ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại đã góp phần quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước vươn lên trong Đổi mới. Bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng hiệu quả, góp phần củng cố đại đoàn kết dân tộc, tạo thuận lợi cho đồng bào ta ở nước ngoài tham gia phát triển quê hương, đất nước.

Từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp trên thế giới và trong nước, ngành Ngoại giao đã tiên phong cùng các Bộ, ngành đẩy mạnh “ngoại giao y tế”, “ngoại giao vắc-xin”, tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của cộng đồng quốc tế về vắc-xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, chung tay cùng cả nước phòng, chống dịch bệnh và phát triển kinh tế - xã hội.

Những thành tựu đối ngoại nói trên đã đóng góp quan trọng vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm Đổi mới, khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, là kết tinh nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, sự phối hợp chặt chẽ giữa các binh chủng đối ngoại, trong đó có nỗ lực và đóng góp quan trọng của ngành Ngoại giao. Chính trong Đổi mới, ngành Ngoại giao ngày càng trưởng thành và phát triển hướng tới toàn diện, hiện đại.

Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới

Để góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước theo đường lối Đại hội Đảng XIII, nhiệm vụ của đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển và nâng cao vị thế, uy tín đất nước.

Để thực hiện những nhiệm vụ nói trên, Đại hội XIII đặt ra yêu cầu “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Tính toàn diện trước hết thể hiện ở chủ thể đối ngoại gồm cả hệ thống chính trị, địa phương, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và người dân; trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, môi trường, văn hóa - xã hội…; đối ngoại trong thế giới thực và không gian mạng; với tất cả đối tác, trọng tâm là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương quan trọng, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc.

Tính hiện đại thể hiện ở sự kết hợp hài hòa, vận dụng sáng tạo truyền thống và bản sắc ngoại giao độc đáo của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và tinh hoa ngoại giao của thời đại; ở vận hành nền ngoại giao trong khuôn khổ thể chế ngày càng hoàn thiện, gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; ở tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả với phương thức hoạt động khoa học, chuẩn hóa và số hóa, có năng lực đổi mới, thích ứng với chuyển biến mau lẹ của tình hình; ở lực lượng cán bộ ngoại giao toàn diện về bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ, hiện đại về tư duy, phong cách và phương pháp làm việc, đạt tới tầm khu vực và quốc tế.

Nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các binh chủng đối ngoại và trụ cột của ngoại giao nỗ lực đóng góp vào thực hiện tầm nhìn và mục tiêu phát triển đất nước, trong đó ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển là nòng cốt, “lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm”. Với tư duy “phục vụ”, ngoại giao cùng các cấp, các ngành góp phần mở rộng không gian phát triển, tạo thuận lợi cho người dân, địa phương và doanh nghiệp tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư, công nghệ và tri thức.

Ôn lại chặng đường 76 năm trưởng thành và phát triển của ngoại giao cách mạng Việt Nam, các thế hệ cán bộ ngành Ngoại giao bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người sáng lập và để lại cho nền ngoại giao cách mạng Việt Nam một di sản tư tưởng ngoại giao đặc sắc và vô giá. Phát huy tư tưởng ngoại giao của Người và truyền thống vẻ vang 76 năm xây dựng và trưởng thành, toàn ngành Ngoại giao dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước nỗ lực cùng cả nước sớm đẩy lùi đại dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, quyết tâm xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước vì một Việt Nam độc lập, hòa bình, hùng cường và thịnh vượng.

[1] - Trích phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28 năm 2013.

Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề