Các nhà văn nhà thơ ở TPHCM trước năm 1975

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

. Lập bảng danh sách các nhà văn, nhà thơ quê ở thành phố, tỉnh hoặc quận, huyện nơi em ở theo mẫu.

Chú ý: Chỉ thống kê những tác giả có sáng tác được công bố trước năm 1975

Các câu hỏi tương tự

1, Lập bảng danh sách các nhà văn, nhà thơ quê ở tỉnh Đồng Nai, theo trình tự: họ tên, bút danh [nếu có], năm sinh, năm mất [nếu đã mất] và tác phẩm chính. Chú ý: chỉ thống kê những tác giả có sáng tác trước năm 1975.

1, Sưu tầm và chép lại một bài thơ hoặc một bài văn [khoảng vài trang có thể là đoạn trích] viết về phong cảnh thiên nhiên, con người, sinh hoạt văn hóa, truyền thống lịch sử của quê hương em và em thấy hay

Đặc san của Cựu sinh viên Đại Học Laval. Kỷ niệm Họp Mặt 2013 tại Québec - Cựu sinh viên liên trường và thân hữu.

Bạn đang xem: Các nhà văn nhà thơ trước năm 1975 ở miền nam

 

Hình như đa số những đứa chúng tôi, những đứa học trường trung học Nguyễn Trãi SG và lớn lên ở miền Nam sau 1954, đứa nào cũng biết chút đỉnh về các văn thi sĩ miền Nam trước 75 [mà tôi viết tắt là VTSMNT75]. Riêng cá nhântôi vì đi phải rời quê hương sớm lúc còn trẻ nên tôi không biết nhiều về các VTSMNT75 và khi nóiđến VTSMNT75 tôi chỉ nêu ra được một số tên tuổi các văn nghệ sĩ nổi tiếng thờitôi còn học ở trung học NT như Nguyễn Mộng Giác, Nhã Ca, Mai Thảo, Võ Phiến,Nguyễn Thị Hoàng, Duyên Anh, Hồ Hữu Tường, Vũ Khắc Khoan, Dương Nghiễm Mậu, PhạmCông Thiện, Thanh Tâm Tuyền, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên, Doãn Quốc Sỹ,Duy Lam, Vũ Hoàng Chương, Phan Nhật Nam, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Nhất Linh, NhậtTiến, Nguyên Sa, Nhất Hạnh và Tuệ Sỹ qua các tác phẩm tôi đã đọc được trước khirời quê hương. Còn những tác phẩm của các VTSMNT75 khác như Trùng Dương, Lê Huy Oanh,Thế Uyên, Tạ Tỵ, Tạ Ký, Ngô Thế Vinh, Thái Lãng, Nguyễn Đình Toàn, Tô Thùy Yên,Đỗ Quý Toàn, Đặng Tiến, Viên Linh, Quách Thoại, Nguyễn Sỹ Tế, ni sư Trí Hảiv.v… thì mãi sau này tôi mới được dịp biết đến. Và tôi biết danh sách này chắcchắn vẫn còn rất nhiều thiếu sót và dần dà với thời gian tôi tin rằng sẽ có dịpđược đọc thêm và bổ túc trong tương lai.

Có một số nhữngVTSMNT75 mà tôi xin lược thuật dưới đây từ các tài liệu tôi thâu nhặt được trênmạng như talawas.org, //vietsciences.free.fr/, và VNThư Quán và những tác phẩm đã được ấn loát ở Hoa-Kỳ [qua Thư Ấn Quán của văn sĩTrần Hoài Thư hiện cư ngụ ở Hoa Kỳ]. Lược thuật này thật ra là để trả lời câu đốvui để học của nhóm NT chúng tôi tháng trước nhưng cũng là để giới thiệu mộtvài VTSMNT75 mà ít người biết đến, hoặc chỉ nghe tên nhưng chưa có dịp đọc tác phẩm của họ.

Xem thêm: Giải Đáp Nhanh: Còn Bao Nhiêu Ngày Nữa Đến Tết Trung Thu, Trung Thu Ngày Bao Nhiêu Năm 2021

Tôi tìm thấy quacác tác phẩm đã đọc này một nền văn học trước 1975 mang đậm tính nhân văn màcác văn thi sĩ miền Nam đã góp phần bồi đắp. Những nhà văn nhà thơ này đã gópcông xây dựng một nền văn học miền Nam, nay đã ít nhiều bị lãng quên, trong đóhọ đã mang đến cho chúng ta những nét đẹp và những cảm nhận chân thật của văn họcnghệ thuật miền Nam và họ chưa bao giờ phải đánh bóng cho chế độ hay xã hội khihọ đang sống và viết. Những tác giả đó là:

Võ Hồng: Ôngsinh năm 1923, quê quán ở Phú Yên và cư ngụ tại Nha Trang [ông vừa qua đời gầnđây]. Trước 1975, ông từng là hiệu trưởng trường trung học Lương Văn Chánh [PhúYên]. Sau này ông dạy học ở Nha Trang. Ông xuất bản khoảng 30 tác phẩm, trướcvà sau 1975. Người ta tìm đến ông, biếtnhiều đến ông bởi nhân cách của ông trong cuộc sống và trên những trang giấy.Cũng như phần lớn người Việt chúng ta, Võ Hồng đã sống trong một bối cảnh bithương của chiến tranh. Ông sống và viết bằng kinh nghiệm sống. Giọng văn ôngbình dị, nhiều khi mộc mạc. Cuộc đời của ông là ngòi bút và những tác phẩm đểtrả nợ quê hương đã nuôi dưỡng ông. Những tác phẩm đặc sắc của ông gồm có: MộtBông Hồng Cho Cha, Áo Em Cài Hoa Trắng, Bên Đập Đồng Cháy, Thiên Đường Ở TrênCao, Vẫy Tay Ngậm Ngùi, Trong Vùng Rêu Im Lặng, Chia Tay Người Bạn Nhỏ, Chúng TôiCó Mặt, Trầm Tư, Hoài Cố Nhân, Vết Hằn Năm Tháng, Con Suối Mùa Xuân, Như CánhChim Bay, Người Về Đầu Non…. “Gần như mọi người con, cuối cùngđều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xangày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gởicon, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và chamãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt. Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thểđôi tháng gởi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dònglược kể một chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như bè bạn gặp nhau,chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần. “Đi đâu đó? Mạnh giỏi?” Sinh nhậtcha, tặng một cành hoa. Nếu ở thành phố xa, hai ba đứa con gởi về hai, ba bứcđiện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vuitinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương? Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ hộiBông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Để tỏ lòng thương nghĩ tới cha,nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn: nơ xanh. Cha mất: nơtrắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹcòn, cha mất: hoa hồng nơ trắng. Mẹ mất, cha còn: hoa trắng, nơ xanh. Mẹ chađều mất: hoa trắng, nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình. Có lần,một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìnquanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường cùng khóc òa theo. nên mỗi người con đều phải vội vàng.Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha thương con là “cho” chứ không phải“cho vay”để có thể gọi là trả đủ”

Y Uyên: Ôngsinh năm 1943 tại làng Dục Nội [Hà Nội]. Năm 1954 di cư vào Nam cùng gia đình,cư ngụ tại Hạnh Thông Tây [Gò Vấp]. Ông Y Uyên tốt nghiệp sư phạm Sài Gòn năm1964, dạy học và sau nhập ngũ khoá 27 sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Mãn khoá về đóngtại Phan Thiết. Không lâu sau đó ông đã bỏ mình trong trận phục kích dưới chânnúi Tà Lơn [Phan Thiết, có sách viết Tà Dơn] năm 1969. Ông được coi là một câybút có phong cách viết riêng biệt và hầu như tất cả những tác phẩm của ông đềuviết về chiến tranh. Tuy thế, những chuyện ông viết về chiến tranh không bao giờcó súng đạn nổ ầm ĩ hay cảnh quân hai bên bắn nhau như cách viết của Phan NhậtNam mà lại là những điều bị cuộc chiến xô đẩy tới bờ vực của đổ nát, tangthương. Những tác phẩm đặc sắc của ông gồm có: Tiền Đồn, Người Đàn Bà Mang ThaiTrên Kinh Đồng Tháp, Bên Ngoài Khán Đài, Bão Khô, Mùa Xuân Mặc Áo Vàng, Cỏ HeoMay Hà Nội…Các bạn có thể vào tủ sách của talawas.org để đọc trọn vẹn truyệnBão Khô của Y Uyên.

Hoài Khanh: Ông sinh năm 1923 tại Phan Thiết. Hiện cư ngụtrong nước. Trước 1975 ông là thư ký toà soạn tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ. Ông đãxuất bản trên 10 tác phẩm gồm thơ và các sách chuyển ngữ. “Dâng rừng” là tậpthơ đầu tay của ông xuất bản năm 1957. Trích đây một đoạn thơ của Hoài Khanh đểchúng ta cùng hình dung tính chất bình dị hồn nhiên trong cách sử dụng ngôn ngữ đầy rung cảm của ông:

Posted on by hongoccan2017

40 Năm Hải Ngoại 

NHỮNG NHÀ VĂN – NHÀ THƠ 

ĐÃ KHUẤT NÚI

Chân dung những Nhà Văn – Nhà Thơ Miền Nam đã khuất núi

Thời gian 40 năm chỉ là một khoảnh khắc trong lịch sử, nhưng tuy vậy cũng đủ để cho con người hoàn tất một sự nghiệp hay từ giã cõi đời.

Trong suốt 40 năm qua, kể từ khi miền Nam sụp đổ, nhiều văn nghệ sĩ vốn đã tạo dựng nên một nền Văn Học rực rỡ của miền Nam cũng đã vượt thoát ra đi để mưu tìm một cuộc đời tự do đáng sống. Trên phần đất tự do thuộc nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh những nỗ lực để hội nhập vào xã hội mới, các nhà văn, nhà thơ gốc Việt vẫn tiếp tục miệt mài sáng tạo, duy trì và phát triển Văn Học Miền Nam trên đất tạm dung để có thể coi là đã có một nền văn chương VN hải ngoại.

Và cũng ròng rã trong suốt hơn 40 năm tận tụy với ngòi bút ấy, nhiều người đã lặng lẽ

ra đi, bỏ lại phía sau những công trình có thể chưa hoàn tất nhưng cũng đã gieo nhiều nỗi ngậm ngùi, xót xa trong lòng của nhiều người ở lại

Nay nhân dịp kỷ niệm 40 năm hội nhập, mặc dù không thể thu góp đầy đủ danh xưng của tất cả những nhà văn, nhà thơ đã khuất bóng, phần liệt kê dưới đây xin coi như một nén nhang, một bông hồng cho tất cả những nhà văn, nhà thơ đã mất ở hải ngoại mà trong suốt 40 năm qua đã góp phần cung ứng cho đời những tác phẩm quý giá để các thế hệ sau khi nhìn lại không thể không biết tới.

Danh sách dưới đây xếp theo thứ tự thời gian mà các vị đã khuất núi.

THANH NAM [1931-1985]

Nhà văn/nhà thơ Thanh Nam tên Trần Đại Việt, người làng Mỹ Trọng tỉnh Nam Định, thân phụ là Tổng Giám thị trường Cao đẳng Kỹ thuật Hà Nội ngày trước. Năm 1946,

mới 15 tuổi, Thanh Nam đã được tờ báo Thiếu Nhi tại Hà Nội đăng thơ và mời cộng tác, và viết một số Sách dành cho tuổi trẻ cho nhà xuất bản Văn Hồng Thịnh.

Năm 1953 ông vào Sài Gòn, được mời làm Tổng Thư ký báo Thẩm Mỹ, viết truyện ngắn, truyện dài, bình thơ độc giả, phụ trách nhiều mục khác như Phụ nữ Gia Đình, Gỡ Rối Tơ Lòng … và còn ký nhiều bút hiệu như Sông Hương, Cô Hồng Ngọc, Bà Bách Lệ, Tôn nữ Đài Trang, Thợ Cạo. Năm 1960, ông hợp tác với nguyệt san Hiện Đại do Nguyên Sa và Thái Thủy chủ trương, và là Tổng Thư ký tuần báo Nghệ Thuật, cùng viết bài trên tuần báo Kịch Ảnh.

Di tản sang Hoa Kỳ năm 1975, ông tạm cư tại tiểu bang New Jersey rồi năm 1976 định cư tại thành phố Seattle, t

iểu bang Washington. Ở đây ông cộng tác với tờ Đất Mới và một trong vài tờ báo Việt ngữ đầu tiên xuất bản tại Hoa Kỳ . Ông mất vào ngày 2 tháng 6 năm 1985 do chứng ung thư thanh quản.

Tác phẩm đã xuất bản :

Hồng Ngọc [1957] Người Nữ Danh ca [1957] Buồn Ga Nhỏ [1962] Giấc Ngủ Cô Đơn [1963] Còn Một Đêm Nay [1963] Cho Mượn Cuộc Đời, Bầy Ngựa Hoang [1965] Giòng Lệ Thơ Ngây [1965] Những Phố Không Đèn [1965] Mấy Mùa Thương Đau [1968]
Gã Kéo Màn, …. Đất Khách [1983]

VŨ KHẮC KHOAN [1917-1986]

Ông sinh năm 1917 tại Hà Nội, theo học trường Bưởi, nhập học trường Y Khoa nhưng rồi đổi sang Cao đẳng Canh Nông,

tốt nghiệp kỹ sư sau chuyển sang văn học và lịch sử, dạy học ở trường trung học Chu Văn An.

Ông là tác giả những vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa [1948], Thành Cát Tư Hãn, và Giao thừa [1949]. Hai vở Giao thừa và Thằng Cuội đã được trình diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội vào những năm 1951 và 1952. Bài vở của ông cũng được đăng trên báo Phổ thông và Quan điểm.

Sau năm 1954 ông di cư vào Nam viết cho các báo Tự do, Quan điểm rồi làm chủ nhiệm nguyệt san Vấn đề. Ông là giám đốc kịch nghệ của Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ ở Sài Gòn. Ông tỵ nạn sang Mỹ năm 1975, định cư ở Minnesota nơi ông dạy Pháp văn ở đại học Minnesota và thành lập Hội Phật giáo Việt Nam tại đây. Ông mất ngày 12 tháng Chín, 1986.

ĐÀO ĐĂNG VỸ [1908-1997]

Đào Đăng Vỹ là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học rất nổi tiếng ở Huế từ những năm cuối của thập niên 40. Ông cũng là dịch giả có tiếng của Việt Nam. Riêng trong lãnh vực từ điển, ông đã biên soạn những cuốn như Pháp Việt Đại Từ điển [1949-52, 1963, 1970], Việt Pháp Đại Từ điển [ 1956, 1963, 1970], Pháp Việt Từ điển Phổ thông [1954-1956, 1960, 1963, 1965, 1970], Pháp Việt Tiểu Từ điển [1961, 1963, 1966, 1970], Việt Pháp Tiểu Từ điển [1962, 1964, 1966, 1970], Việt Nam Bách Khoa Từ điển [Cuốn I cuốn II, III…; 1959-1963]..

Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, và mất ngày 7/4/1987 tại California – Mỹ.

BÌNH NGUYÊN LỘC [1914-1987]

Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa trong giai đoạn 1945-1975.

Ngoài bút danh Bình Nguyên Lộc, ông còn có các bút hiệu khác như Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn Dzật Huân, Phóng Ngang, Phóng Dọc, Diên Quỳnh…]

Ông đã sáng tác khoảng 50 tiểu thuyết, 1.000 truyện ngắn và bốn quyển sách nghiên cứu, trong đó quyển Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam chỉ được in phần đầu, phần còn lại độ 800 trang viết tay coi như bị thất lạc.

Ông cũng từng viết tiểu thuyết bằng thơ trường thiên như Thơ Ba Mén, Việt sử trường ca, Luận thuyết y học, Thơ thổ ngơi Đồng Nai, Ca dao… Ông còn có công sưu tầm được hàng nghìn câu ca dao kèm theo chú thích về đặc điểm của mỗi câu.

Tháng 10 năm 1985, ông được gia đình bảo lãnh sang Mỹ chữa bệnh. Ngày 7 tháng 3 năm 1987, ông từ trần tại Rancho Cordova, Sacramento, California, vì bệnh cao huyết áp, thọ 74 tuổi

HOÀI ĐIỆP TỬ [1941-1987]

Tên thật Phạm Văn Tập. Sinh năm 1941 – Tân Tỵ – tại Bạc Liêu. Ông dùng nhiều bút hiệu khác nhau như Điệp Yên Hà, Lê Thăng, Kép Độc, Kiều Linh Khanh. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 14 tuổi, chính thức viết văn vào năm 1958 với truyện dài đầu tiên “Mớ tóc gái Phù Sa” viết trên nhật báo Chuông Mai của ông Huỳnh Hoài Lạc.

Lần lượt cộng tác với các nhật báo, tuần san như Chuông Mai của Huỳnh Hoài Lạc, Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai, Dân Đen của Nguyễn Duy Hinh, Tiếng Dân, Tia Sáng của Nguyễn Trung Thành, Tiếng Nói Dân Tộc của Lý Quý Chung, Độc Lập của Hoàng Châu, Tin Sáng của Ngô Công Đức, Thách Đố của Đặng Văn Bé v.v…

– Năm 1966 ông sáng lập Nhà xuất bản Sông Hậu cùng với các thân hữu như Trương Đạm Thủy, Ngô Tỵ, Phan Yến Linh, Phương Triều, Tâm Đạm Dương Trữ La.

– Khi sang Mỹ từ năm 1981, nhà văn Hoài Điệp Tử làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Mai [Nam California] từ năm 1982 đến 1987. Ông bị sát hại tại tòa soạn nằm trên đường Westminster [Nam California] lúc 2 giờ 15 sáng chủ nhật ngày 9 tháng 8 năm 1987. Vụ án mạng này đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ.

Các tác phẩm đã xuất bản tại Việt Nam : – Vũng Lầy [1964] – Trái Cấm – Tuổi Tình Yêu, nhà xuất bản Sống Mới phát hành, 1965. – 16 Phiên Buồn [1966] – Lửa Đạn Về Thành – Tình Biển [1968] – Đỉnh Núi Sương Mù – Còn Xanh Kỷ Niệm [1969] – Bến Đục – Giọt Máu Cho Cánh Đồng Mùa Hạ [1970] – Tặng Phẩm Của Đêm – Bụi Thành Phố [1971] – Mặt Trời Mọc Cho Ai – Hành Lang Đen [1972] – Cao Ốc Số 8 [1973] – Sóng Hoang, nhà xuất bản Sông Hậu phát hành [1974]…. và một số thơ cùng truyện ngắn.
Tác phẩm đã xuất bản tại Mỹ : – Truyện dài: Trên Đầu Sóng, nhà xuất bản Hải Ngoại phát hành, 1982.

NGUYỄN TẤT NHIÊN [1952-1992]

Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh ngày 30-5-1952 tại xã Bình Trước, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hoà..

Ông là một thi sĩ bẩm sinh, tài hoa, suốt đời cuồng nhiệt, đam mê với thơ, đặc biệt là thơ tình. Biết làm thơ từ rất sớm :

Mới 14 tuổi [1966,] đã có tập thơ đầu tay“Nàng Thơ Trong Mắt” và hai năm sau, 16 tuổi [1968,] viết tiếp tập thơ“Dấu Mưa Qua Đất” [cả hai tập thơ nầy đều ký bút danh Hoài Thi Yên Thi].

Năm 1970, ông tự ấn hành tập thơ“Thiên Tai,”lần đầu tiên lấy bút danh Nguyễn Tất Nhiên. Năm 1978, ông vượt biên và định cư tại Pháp. Tại đây, nhà xuất bản Sud-Asie đã ấn hành tập“Thơ Nguyễn Tất Nhiên” gồm những bài thơ sáng tác từ 1970 – 1980. Sau đó, ông sang Hoa Kỳ, định cư tại Nam California, tiếp tục sáng tác thơ, nhạc, cho ấn hành các tập thơ “Chuông Mơ” [NXB Văn Nghệ,1987,] “Tâm Dung” [NXB Người Việt, 1989,] “Minh Khúc” [1990, đã hoàn tất bản thảo, phổ biến hạn chế.] Ông mất ngày 3-8-1992 tại California.

DUYÊN ANH [1935-1997]

Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ.. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tỉnh Thái Bình.

Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo.

Năm 1960, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt.

Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như : Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc… ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi.

Năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo [tháng 4, 1976]. Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ôngvượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp.

NGUYÊN SA [1932-1998]

Nguyên Sa sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932, tên thật là Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc.

Ông là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng từ thập niên 1950 với những tác phẩm như“Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi mười ba”, “Tháng sáu trời mưa”, v.v.
Những câu thơ mà Nguyên Sa đem từ Pháp về Việt Nam năm 1956 đã thay đổi rộng khắp cảm nhận thi ca của đa số thanh niên Việt Nam. Giống như một nhạc cụ mới, có âm hưởng sâu và đánh thức giác quan thẩm mỹ của thời đại [Mặc Lâm –RFA].

Ông đi Pháp du học vào năm 1949. Năm 1953, ông đậu tú tài ở Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại học Sorbonne. Nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời gian này. Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thuý Nga ở Paris. Đầu năm 1956, hai ông bà về nước. Năm 1975, ông di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình qua Hoa Kỳ và ở California từ đó cho tới ngày qua đời. Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 1998.

MAI THẢO [1927-1998]

Mai Thảo tên thật là Nguyễn Đăng Quý, bút hiệu khác: Nguyễn Đăng, ông sinh ngày 8/6/1927 tại huyện Hải-hậu, tỉnh Nam-định. Thuở nhỏ học trường làng, trung học lên Nam-định rồi Hà-nội [học trường Đỗ Hữu Vị, sau là Chu Văn An].

Năm 1945, theo trường sơ tán lên Hưng-yên. Khi chiến tranh bùng nổ năm 1946, gia đình từ Hà-nội tản cư về quê chợ Cồn, từ đó Mai Thảo rời nhà vào Thanh-hóa theo kháng chiến, viết báo, tham gia các đoàn văn nghệ đi khắp nơi từ Liên-khu-ba, Liên-khu-tư đến chiến khu Việt-bắc. 1951, Mai Thảo bỏ kháng chiến vào thành, đi buôn. 1954, di cư vào Nam. Viết truyện ngắn trên các báo Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt. Chủ trương báo Sáng Tạo [1956], Nghệ Thuật [1965] và từ 1974, trông nom báo Văn. Tham gia chương trình văn học nghệ thuật của các đài phát thanh tại Sài-gòn từ 1960 đến 1975. Ngày 4/12/1977, Mai Thảo vượt biển. và định cư ở Hoa-kỳ. Ít lâu sau ông cộng tác với tờ Đất Mới của Thanh Nam và một số báo khác tại hải ngoại. Tháng 7/1982 ông tái bản tạp chí Văn, làm chủ biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại cho Nguyễn Xuân Hoàng; hai năm sau ông mất tại Santa Ana, California ngày 10/1/1998.

Tác phẩm Mai Thảo đã xuất bản:

– Đoản thiên Đêm giã từ Hà Nội [Người Việt, 1955] – Tháng giêng cỏ non [1956] – Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời [Sáng Tạo, 1963] – Bày thỏ ngày sinh nhật [Nguyễn Đình Vượng, 1965] – Căn nhà vùng nước mặn [An Tiêm, 1966] – Đêm lạc đường [Khai Trí, 1967] – Dòng sông rực rỡ [Văn Uyển, 1968] – Người thầy học cũ [Văn Uyển, 1969] – Chuyến tàu trên sông Hồng [Tuổi Ngọc, 1969]

– Tùy bút [1970] – Mưa núi [tập hợp những truyện tuyển trong Đêm giã từ Hà Nội và Tháng giêng cỏ non, Tân Văn, 1970] – Ngọn hải đăng mù [Làng Văn, Toronto, 1987] – Một đêm thứ bảy [Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ, 1988] – Hồng Kông ở dưới chân [Xuân Thu, 1989] – Chân bài thứ năm [Nam Á,Paris, 1990] – Chuyến métro đi từ Belleville [Nam Á, 1990]…

– Truyện dài: Mái tóc dĩ vãng [Tiểu thuyết tuần san, 1963] – Cô thích nhạc Brahms? [phóng tác] – Khi mùa thu tới [Thái Lai, 1964] – Viên đạn đồng chữ nổi [Văn, 1966] – Đêm kỳ diệu [?] – Cùng đi một đường [1967] – Sau khi bão tới [Màn Ảnh, 1968] – Tới một tuổi nào [Miền Nam, 1968] – Cũng đủ lãng quên đời [Hồng Đức, 1969] – Lối đi dưới lá [1969] – Mười đêm ngà ngọc [Hoàng Đông Phương, 1969] – Thời thượng [Côi Sơn, 1970], – Sống chỉ một lần [Nguyễn Đình Vượng, 1970], – Hết một tuần trăng [Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1970], – Sau giờ giới nghiêm [Tủ sách Văn Nghệ Khai phóng, 1970] – Trong như hồ thu [Tủ sách văn Nghệ Hiện Đại, 1971] – Mang xuống tuyền đài [Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1971

Một ngày của Nhã [1971] – Để tưởng nhớ mùi hương [Nguyễn Đình Vượng, 1971] – Sóng ngầm [Hoa biển, 1971] – Sống như hình bóng [Tiếng Phương Đông, 1972] – Hạnh phúc đến về đêm [Nguyễn Đình Vượng, 1972] – Một đời còn tưởng nhớ [Hải Vân, 1972] – Gần mười bảy tuổi [Nguyễn Đình Vượng, 1972] – Chỉ là ảo tưởng [Sống Mới, 1972] – Suối độc [Nguyễn Đình Vượng, 1973] – Tình yêu màu khói nhạt [Nguyễn Đình Vượng, 1973] – Bên lề giấc mộng [Ngày Mới, 1973] – Chìm dần vào quên lãng [Tiếng phương Đông, 1973] – Cửa trường phía bên ngoài [Đồng Nai, 1973] – Ánh lửa cuối đường hầm [Anh Lộc, 1974] – Ôm đàn tới giữa đời [Gìn Vàng Giữ Ngọc, 1974] – Những người tình tuổi song ngư [Xuân Thu, 1992]…

Thơ: Ta thấy hình ta những miếu đền [Văn Khoa, California, 1989]

Lê Hoàng Nguyễn chuyển tiếp

BẠN BIẾT GÌ VỀ

NHẠC PHẨM HOA BIỂN

CỦA ANH THY

Click vào đường dẫn để xem video nhạc HOA BIỂN của ANH THY :

//www.youtube.com/watch?v=eENZZWattu4

Sau tháng 4/75, nhạc miền Nam nhanh chóng vượt Bến Hải, tiến chiếm lĩnh vực nghe nhạc tại Hà Nội, Hải Phòng, lan tận ải Nam Quan. Thậm chí nhạc miền Bắc cũng dần dần mất định hướng, đành chịu để nhạc miền Nam giành dân lấn đất.

Đến nay, ba mươi hai năm trôi qua, rõ ràng là Đêm nguyện cầu đã phủ mờ Trường sơn đông Trường sơn tây. Và Tiếng chày trên sóc bam bo đã chìm dần trong Tiếng hát hậu phương âm vang Trên bốn vùng chiến thuật.

Riêng nhạc lính của nhạc sĩ miền Nam Trần Thiện Thanh có cái lạ là sau cuộc đổi đời, không chỉ lấn lướt nhạc lính của tất cả nhạc sĩ miền Bắc mà còn làm thay đổi cả cảm nhận của chính người miền Nam. Trước kia, rất nhiều người coi lời ca Trần Thiện Thanh là cường điệu, là hào nhoáng nhưng khi quê hương sỏi đá biết buồn, những lời đó lại gây nhức nhối tận tâm can.

Tôi cũng không thoát khỏi sự chuyển hướng này mà không chừng còn … sâu đậm hơn. Trước đây, tôi không chỉ cho lời ca Trần Thiện Thanh là đầu môi chót lưỡi mà còn thích nghêu ngao những câu sửa đổi cợt đùa, như “trên ngôi cao chín tầng hoàng hậu đẹp… không giống ai” ! Vậy mà khi từng trải những đêm dài trong tù, dù chỉ với một giọng ca làng nhàng, chỉ với từng tiếng đàn lập dập mà lạ lùng sao chính những lời chót lưỡi đầu môi đó lại thắm thía gợi về những buồn vui đời lính, về những vùng

biển mặn xa khơi.

Tôi bắt đầu yêu nhạc Trần Thiện Thanh từ đó. Cho nên khi an cư lạc nghiệp xứ người, tôi đã tìm mua bất cứ băng nhạc, CD và DVD nào có giọng ca hoặc nhạc của Nhật Trường Trần Thiện Thanh. Một là để thưởng thức trọn vẹn hàng trăm tác phẩm đa dạng của anh, hai là như một lời xin lỗi…

Khi được tin anh đã qua Mỹ 1993, tôi rất vui mừng. Tôi muốn nhìn lại hình ảnh Nhật Trường trên Tiếng Hát Đôi Mươi mà hai mươi năm trước tôi không mấy quan tâm. Quả nhiên, qua cuốn video Holywood Night, tôi đã vô cùng thích thú gặp lại Nhật Trường trong phong thái diễn tả rất đặc thù. Hình ảnh của anh trong bộ quân phục trắng hải quân gợi nhớ hình ảnh của chính tôi ngày nào. Thêm vào đó là bài Hoa Biển mang tôi trở về những kỷ niệm với nhạc sĩ Anh Thy …

Cuối năm 1967, đang chỉ huy toán giang đỉnh hoạt động vùng sông Măng Thít, tôi bất ngờ được lệnh thuyên chuyển về Phòng Tâm lý chiến Bộ tư lệnh Hải quân. Tôi chắc là nhờ “uy tín” mấy bài thơ, mấy truyện ngắn đăng trên tờ nguyệt san “Lướt Sóng” mà được ban biên tập “triệu hồi” tăng cường. Vào trình diện vị trưởng phòng, tôi không giấu vẻ thất vọng khi ông lại giao cho cái chức hoàn toàn ngoài năng khiếu : Trưởng ban văn nghệ Hải quân. Tôi viện lý do không rành đờn ca xướng hát để từ chối. Ông cười, bảo tôi có máu văn nghệ mà được giao cho nguyên ban văn nghệ thì còn đòi hỏi gì !

Ban văn nghệ Hải quân lúc đó có khoảng 20 người, gồm ban tân nhạc và ban kích động nhạc, ban kịch, hai nhân viên chuyên trị cổ nhạc và một ảo thuật gia. Đó là lần đầu tôi thấy “dung nhan” ba nhạc sĩ thành danh là Nguyễn Vũ, Mặc Thế Nhân và Anh Thy. Riêng với Anh Thy, tôi vốn thích các bản Biển Tuyết, Tâm tình Người Lính Thủy, Lời Nguyện Cầu Nửa Đêm nên có ngay cảm tình.

Nguyễn Vũ vóc dáng nhỏ con, chững chạc, ít cười. Mặc Thế Nhân ngang tầm Nguyễn Vũ, nếu không tía lia thì luôn chúm chím. Còn Anh Thy, người cân đối, cao ráo, khuôn mặt điểm vài anh hoa phát tiết, miệng rộng môi dầy, cười hở hai hàm răng đều đặn. Ba nhạc sĩ thành danh nhưng chỉ mình Nguyễn Vũ ôm đàn trên sân khấu, còn Mặc Thế Nhân thì giữ vai kịch sĩ, Anh Thy làm hoạt náo viên. Đó cũng là lần đầu tôi biết mặt ca sĩ kích động Elvis Phương, lúc đó anh biết chỉ mỗi bản tân nhạc Mộng Dưới Hoa mà dân làng xã đều ….ngáp khi anh trình diễn. Còn đỡ hơn là khi anh hát kích động Anh Mỹ họ bỏ ra về. Có lẽ vì vậy mà năm sau anh xin qua Biệt đoàn văn nghệ trung ương.

Ban văn nghệ thường tháp tùng trên một trong hai chiếc y tế hạm, phối hợp thực hiện công tác có tên gọi chung là dân sự vụ. Công tác gồm trình diễn văn nghệ, khám bệnh phát thuốc, phát quà và truyền đơn. Đối tượng là các đơn vị Hải quân, gia đình binh sĩ và dân chúng ở các làng xã vùng xôi đậu, các hải đảo xa khơi… Mỗi chuyến kéo dài từ một đến hai tháng.

Sau chuyến công tác đầu tiên vùng Rạch Giá – Phú Quốc, tôi biết được tính tình và biệt danh của từng người. Như tay trống kích động tên Minh rất vui nhộn, có bộ mặt dài như mặt ngựa nên bạn bè gọi Minh ngựa. Hai tay đờn hiền hậu có cùng tên Đức nên được phân biệt Đức Cống, Đức Cạp. Riêng Anh Thy tuy dáng vẻ hào hoa, lịch lãm nhưng do mang tên thật là Phạm Văn Khổn nên bị anh em âu yếm tặng cho cái biệt

danh khó nghe : Khổn Lò ! Dù vậy nhạc sĩ nhà ta lại tỏ ra thích thú.

Thời gian đó Sài Gòn đang lộn xộn với các cuộc đảo chánh, biểu tình nên dù vừa xa nhà cả tháng mới về, chúng tôi vẫn lãnh lệnh cấm trại 50%. Tôi và Anh Thy được chia cùng phiên trực nhật nên có cơ hội gặp nhau nhiều hơn. Một buổi tối, đang ngồi viết một truyện ngắn thì Anh Thy bước đến trước bàn, chân chập lại, tay đưa lên chào, nửa nghiêm nửa đùa. Anh tươi cười mở quyển Lướt Sóng đã cũ, chỉ bài thơ :

– Ông thầy ! Em viết bản nhạc khá lâu mà không đặt ra lời. Gặp cái tựa bài thơ của ông thầy em chịu quá. Xin phép cho em “chôm” cái tựa Hoa Biển để làm tựa cho bản nhạc.

Tôi vồn vã :

– Khỏi cần chôm cái tựa, hân hạnh tặng Anh Thy nguyên bài thơ để phổ nhạc.

Anh Thy đọc một đoạn trong tám đoạn :

– “Áo trắng em mang hoa bọt biển. Còn đêm nay nữa, sáng xong rồi. Áo trắng anh mang cho trọn kiếp. Còn em một buổi để rồi thôi” ! Rất tiếc ông thầy, nghe …thảm quá ! Em chỉ thích những gì vui vui…

Hai tuần sau, Anh Thy vừa đàn vừa hát cho tôi nghe lời ca đã hoàn chỉnh. Tôi thích thú với những ý tưởng hòa ái thật khớp với giai điệu nhịp nhàng. Lời bài hát đè bẹp lời bài thơ. Hoa Biển được tiếp nhận nồng nhiệt dù phát hành sau Tết Mậu Thân tang tóc…

Chừng tháng sau, khi được chỉ định làm trưởng trại tiếp cư Phạm Thế Hiển, tôi kéo trọn trung đội này qua bên kia cầu chữ Y để giữ an ninh trật tự… Nhiều tháng sau đó, toàn ban lại khăn gói xuống chiếc y tế hạm, trực chỉ miền Trung, ngược dòng Hương giang đến ủi bãi bên cầu Tràng Tiền và bắt đầu công cuộc cứu trợ đồng bào nạn nhân chiến cuộc.

Ở Huế trở về, tôi được thăng cấp, thăng chức phó phòng, bàn giao ban văn nghệ cho một sĩ quan tân đáo. Bẵng một thời gian, một buổi sáng, Anh Thy vào văn phòng tặng tôi bản nhạc mới ra lò Lính Mà Em. Anh cho biết đã sáng tác trong những ngày ở Huế. Tôi có dịp hỏi anh học nhạc với ai. Anh Thy tươi cười, nghe cái “air” thì biết là ai rồi. Tôi thú nhận không rành nhạc. Anh lại cười, là Nhật Trường sư phụ !

Ngoài Anh Thy, Mặc Thế Nhân, Nguyễn Vũ cũng thỉnh thoảng tặng tôi các bản nhạc và các dĩa hát mang giọng ca Lệ Thu, Hoàng Oanh, Thanh Tuyền… Tôi cứ áy náy nghĩ đến chuyện phải tặng lại cái gì. Thời may bỗng tới. Buổi chiều đang đọc văn thư, tôi bất ngờ nhận điện thoại từ nhà văn Huỳnh Văn Phú. Chúng tôi mất liên lạc nhau từ sau trung học. Anh đang làm trưởng phòng Tâm lý chiến Bộ Tư Lệnh Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến [TQLC] đồn trú cách chỗ tôi làm vài khu phố. Anh rủ đi nhậu ở một quán bên lề đường Phạm Ngũ Lão, tình cờ tôi ngồi cạnh nhà xuất bản Thiên Tứ. Ông Thiên Tứ thấy tôi mang hia đội mão hải quân nên trêu chọc : “Binh chủng nào cũng có truyện viết về binh chủng của họ như Đời Phi Công, Đời Pháo Thủ…, chắc Hải quân có người nhái nên lặn kỹ quá” ! Tôi khích lại : “Nếu ông in thì tôi viết.” Ông Thiên tứ tỉnh queo : “Nếu anh dám viết thì tôi dám in”. “Thật không” ? “Chỉ với một điều kiện : cái tựa phải là Đời Thủy Thủ”.

Tôi thấy cũng dễ… ăn tiền. Cứ dựa vào bốn năm đi tàu từ ngày ra trường, rồi thêm mắm thêm muối là thành truyện dài thỏa mãn điều kiện. Hăng hái, tôi miệt mài viết ba tháng liền nhưng vì ướt át quá nên trở ngại… phối hợp nghệ thuật. Mãi đến giữa năm 1969 tôi mới có sách để “đáp lễ” các nhạc sĩ của tôi. Khi đọc dòng đề tặng Mến tặng nhạc sĩ Anh Thi, anh gãi đầu xin sửa thành Thy. Vài hôm sau, Anh Thy chê : “Truyện viết về sĩ quan mà lại lấy cái tựa Đời Thủy Thủ”. Tôi bào chữa : “Thì quan đi tàu cũng là… thủy thủ” !

Chưa kịp hưởng cái thú chiều chiều dạo qua các nhà sách, sạp sách xem vị thế trình làng của Đời Thủy Thủ, tôi được lệnh tham dự hành quân tái lập quận Năm Căn. Toàn ban văn nghệ với sự tăng cường các chuyên viên tâm lý chiến gồm các nhà văn nhà thơ Võ Hà Anh, Phan Minh Hồng, Tống Minh Phụng, Tô Giang…, chúng tôi đảm trách phần nhiệm chiêu dụ dân chúng trở về quận cũ đang bỏ hoang. Ngày nào như ngày nào, cứ vừa ra khỏi căn nhà nổi trên sông Bồ Đề chừng vài trăm thước là bị tấn công. Tuần nào cũng có tử thương, bị thương nặng nhẹ. VC cũng không chừa cả chiếc y tế hạm có mang biểu tượng hồng thập tự to lớn hai bên hông.

Sau một tháng căng thẳng thần kinh, tôi may mắn trở về không bị sứt mẻ, lại đi nhậu với Huỳnh Văn Phú, lại bị nhà xuất bản khích tướng, rằng nếu tôi dám viết nữa thì ông sẽ dám in nữa. Tôi lại phải bỏ ăn, bỏ chơi, bỏ ngủ nhiều tháng. Nạp xong bản thảo cho Sở phối hợp nghệ thuật thì cũng vừa lúc tôi chia tay ban nhạc để về đơn vị mới

vùng biên giới Việt-Miên. Ai cũng bùi ngùi. Riêng Anh Thy cười cười, mong sớm gặp lại ông thầy.

Gần Tết năm 71, lên Sài Gòn nhận sách biếu, tôi ghé Phòng tâm lý chiến ưu tiên gặp họa sĩ Vũ Thái Hòa [Nhiều thông tin trên interrnet cho rằng Anh Thy chính là Trần Thiện Thanh. Một bài viết của Vũ Thái Hòa cho rằng Phạm Văn Khổn không biết đàn và tiếm danh Anh Thy là của Trần Thiện Thanh. Còn Việt Dzũng cho biết Anh Thy soạn Hoa Biển chung với Trần Thiện Thanh] , người phụ trách trình bày tờ Lướt Sóng và vẽ bìa cho các quyển truyện dài của tôi. Kế đến là tìm các nhạc sĩ hải quân. Nhìn tựa truyện Trong Cơn Bão Biển, Anh Thy đùa : “À, truyện về bão, không phải về quan… thủy thủ !” Tôi cười gượng : “Vẫn là truyện quan thủy thủ !”.

Về lại vùng hoạt động, lòng nhủ lòng nhất định phải viết một truyện về lính. Cuối tuần, tôi theo các giang đỉnh đi hành quân tuần tiểu. Một giang đỉnh thường được trang bị bốn nhân viên. Thuyền trưởng thâm niên nhất mang cấp hạ sĩ quan. Đây là một tập hợp các nhân vật lý tưởng cho quyển truyện tương lai. Tôi quan sát nghi nhận sinh hoạt. Tôi nghiền ngẫm nội dung, sắp xếp bố cục. Đầu năm 75, quyển Một Dòng Sông Cho Chiến Đỉnh ra đời. Tôi ghé phòng Tâm lý chiến, hy vọng ban văn nghệ chưa đi trình diễn xa để có dịp khoe “thành tích” với Anh Thy. Nhưng Vũ Thái Hòa lại báo tin Anh Thy đã tử nạn trong một chuyến công tác năm rồi…

Anh Thy để lại mươi bài hát mang niềm vui và hãnh diện cho Hải quân Việt Nam. Riêng nhạc phẩm Hoa Biển được in như một sử liệu trong Tuyển Tập Hải Sử, trang 205, do Tổng Hội Hải Quân Hàng Hải ấn hành năm 2004.… Ngoài những lần gặp lại Nhật Trường Trần Thiện Thanh trên cuốn video Holywood Night, tôi còn có dịp gặp tận mặt trao đổi vài câu khi anh và ca sĩ Mỹ Lan phụ trách phần văn nghệ cho buổi ra mắt sách của nhà văn Phan Nhật Nam tháng 11/1997 tại thủ đô Hoa Kỳ. Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã ký tặng tôi CD mới nhất Gọi Tên Anh Là… Lính, và thật tình cờ trong đó lại có bài Hoa Biển tôi ưa thích.

Một hôm nghe tin Nhật Trường tuyên bố giải nghệ, tôi gửi mua ngay cái DVD cuối cùng của anh : Nhật Trường Giã Từ Sân Khấu. Ngày 13 tháng 5 năm 2005, các báo đồng loạt đưa tin Trần Thiện Thanh đã vĩnh viễn ra đi…. Gần một năm sau, gần thủ đô của người Viêt tỵ nạn, Trung tâm Asia tổ chức một đại nhạc hội quy mô trên một sân khấu tráng lệ để vinh danh chàng ca sĩ kiêm nhạc sĩ tài hoa. Tôi muốn về tham dự nhưng ở quá xa. Đành phải chờ DVD 50 Anh Không Chết Đâu Anh phát hành tháng 4/2006.

Từ nhạc bản đầu tiên của DVD 1, tôi đã bắt đầu rơi nước mắt. Tôi say mê thưởng thức từng bài hát qua những giọng ca hàng đầu, qua nghệ thuật hòa âm hiện đại, trong một khung cảnh huy hoàng và trong nỗi xúc động sâu xa. Tới DVD thứ nhì, sau liên khúc Không Bao Giờ Ngăn Cách và Mùa Đông Của Anh, MC Việt Dzũng giới thiệu mục kế tiếp : “Ca khúc Hoa Biển được viết chung với nhạc sĩ Anh Thy, cũng là một Trung uý Hải quân”. Đang tràn ngập xúc động, lời giới thiệu làm tôi tỉnh người. Tôi chưa từng nghe hoặc đọc thấy tác giả Hoa Biển là Trần Thiện Thanh dù là soạn chung với Anh Thy. Trên các tác phẩm tôi được tặng, từ Anh Thy cũng như từ Trần Thiện Thanh, từ các bài viết xưa tới nay đều ghi một tác giả duy nhất là Anh Thy. Tác phẩm này nổi tiếng đến độ nói đến Hoa Biển là người yêu nhạc nghĩ đến Anh Thy hoặc nói đến Anh Thy là thấy Hoa Biển. Thêm một ngạc nhiên nữa, nhạc sĩ Anh Thy không thể là Trung úy Hải quân. Cho đến ngày tôi rời ban văn nghệ năm 1970, Anh Thy còn mang cấp hạ sĩ. Vào năm anh tử nạn 1974, có thể anh được vinh thăng Thượng sĩ.

Trong khi tôi còn đang ngơ ngẩn về tiết lộ tác giả mới của bài Hoa Biển thì một tiết lộ khác, kế tiếp, làm tôi sững sờ. Ở tiết mục ngay sau đó, MC Nam Lộc gợi ý cho nữ ca sĩ Thanh Tuyền đứng bên cạnh, rằng theo mọi người biết thì nhạc phẩm Chuyến Đi Về Sáng là của nhạc sĩ Mạnh Phát nhưng theo gia đình Nhật Trường tiết lộ thì ca khúc này là của Trần Thiện Thanh. MC Nam Lộc yêu cầu Thanh Tuyền, trong tư cách là học trò của nhạc sĩ Mạnh Phát và cũng là bạn thân của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, hãy cho mọi người biết tác giả thực sự của Chuyến Đi Về Sáng. Thanh Tuyền xác nhận chính Trần Thiện Thanh sáng tác bản nhạc này nhưng vì do túng thiếu nên đem bán cho Mạnh Phát. Mạnh Phát góp phần hiệu đính nên tác giả là thực sự là cả hai người.

Hai tiết lộ liên tiếp, bất ngờ khiến tôi bực mình tắt máy và trằn trọc cả đêm. Trước Hoa Biển, Anh Thy đã là một nhạc sĩ nổi tiếng. Lời ca chắc chắn là của Anh Thy. Phần nhạc, rất có thể do Anh Thy sáng tác nhưng nhờ thầy Trần Thiện Thanh duyệt sửa ? Duyệt sửa thì có đáng gì nên “sư phụ” không muốn ghi tên mình vào. Lại nữa, có nên tin chăng sự việc “Trần Thiện Thanh hợp soạn cùng Anh Thy” khi mà ngay cấp bậc của Anh Thy đã được nêu lên không đúng ?

Trường hợp Chuyến Đi Về Sáng. Chuyện riêng giữa hai nhạc sĩ, làm sao Thanh Tuyền biết ? Có đáng tin không ? Sao Trần Thiện Thanh không bán thẳng cho nhà xuất bản mà lại bán cho Mạnh Phát ? Có thể đó là bản nhạc đã bị nhà xuất bản từ chối, nhưng vì đàn anh Mạnh Phát muốn giúp đàn em Trần Thiện Thanh có tiền thang thuốc cho con nên mới mua. Và dành quyền sửa chữa. Dù thế nào, việc đàn anh mua nhạc đàn em và đề riêng tên mình xem ra cũng không mấy tốt đẹp. Trần Thiện Thanh biết vậy nên đã tự trọng, biết ơn và giữ kín trọn đời. Vậy thì Thanh Tuyền lấy tư cách gì mà công khai phổ biến ? Chẳng lẽ Thanh Tuyền không hiểu làm như thế là bêu rêu cả hai nhạc sĩ ?

Việc chọn lựa nhạc để vinh danh Trần Thiện Thanh của Trung tâm Asia cũng lạ lùng. Trần Thiện Thanh nổi tiếng qua cả trăm bản nhạc, đâu cần phải “dựa hơi” hai bản chưa từng mang tên Trần Thiện Thanh. Vinh danh bằng hai bản nhạc “soạn chung” sao bằng hai bản của chính đương sự. DVD 50 chỉ mới sử dụng có 26 bản nhạc. Còn đến 80 bản. Như Mùa Xuân Lá Khô và Dấu Đạn Thù Trên Tường Vôi Trắng có phần mang nhiều ý nghĩa hơn cả Hoa Biển và Chuyến Đi Về Sáng!

Một năm đã trôi qua kể từ ngày phát hành Asia DVD 50 Anh Không Chết Đâu Anh, một quãng thời gian đủ để tránh mọi ngộ nhận. Công trình huy hoàng tráng lệ đã gặt hái thành quả tương xứng. Xúc động của hàng trăm ngàn khán giả cũng đã lắng dần. Tôi thấy đây là lúc cần đặt ra câu hỏi: “Tại sao Trung tâm Asia lại nêu lên sự việc quá xa xưa, chỉ người trong cuộc mới biết, khi mà cả ba tác giả liên hệ đều đã qua đời ?” Những gì do các MC và ca sĩ Thanh Tuyền tiết lộ lại chỉ là những lời nói suông. Đây không thể là vấn đề giải trí, mua vui mà là vấn đề danh dự, đạo đức. Nếu vì mục đích “sự thực” thì hãy trưng bằng cớ… [Thạch Bích theo Vũ Thất]

Lan Hương chuyển tiếp

Filed under: Đất Việt Người Việt | Tagged: Văn hóa Văn nghệ |

Video liên quan

Chủ Đề