Cách nào sau đây không làm đường tăng nhanh hơn trong nước

Cách nào sau đây không làm đường tan nhanh hơn trong nước?


Câu 112162 Nhận biết

Cách nào sau đây không làm đường tan nhanh hơn trong nước?


Đáp án đúng: c

Phương pháp giải

Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng chất rắn hòa tan trong nước --- Xem chi tiết
...

Tại sao hòa tan đường trong nước nóng nhanh hơn trong nước lạnh?


Câu 18104 Thông hiểu

Tại sao hòa tan đường trong nước nóng nhanh hơn trong nước lạnh?


Đáp án đúng: a

Phương pháp giải

+ Sử dụng tính chất chuyển động vì nhiệt của các nguyên tử, phân tử: Nhiệt độ của vật càng cao thì các nguyên tử, phân tử cấu tạo nên vật chuyển động càng nhanh

+ Vận dụng hiện tượng khuếch tán: Hiện tượng khi các nguyên tử, phân tử của các chất tự hoà lẫn vào nhau gọi là hiện tượng khuếch tán.

Cấu tạo chất - Chuyển động của nguyên tử và phân tử --- Xem chi tiết
...

Tại sao hòa tan đường trong nước nóng nhanh hơn trong nước lạnh?

A. Vì nước nóng có nhiệt độ cao hơn nước lạnh nên làm cho các phân tử đường và nước chuyển động nhanh hơn.

Đáp án chính xác

B. Vì nước nóng có nhiệt độ cao hơn nước lạnh nên đường dễ hòa tan hơn.

C. Vì nước nóng có nhiệt độ cao hơn nước lạnh nên làm cho các phân tử nước hút các phân tử đường mạnh hơn.

D. Cả A, B đều đúng.

Xem lời giải

Đề thi trắc nghiệm kinh tế vi mô, vĩ mô

THPT Sóc Trăng Send an email
0 5 hours read

Nội dung

  • 1 342 câu trắc nghiệm Kinh tế vi mô
    • 1.1 1. Những vấn đề chung [68 câu với 19 câu đúng/sai]
    • 1.2 2.Cung và cầu[125 câu với 61 câu đúng/sai]
    • 1.3 3.Tiêu dùng[81 câu với 35 câu đúng/sai]
    • 1.4 4.Sản xuất và chi phí[57 câu với 29 câu đúng/sai]
    • 1.5 5.Cạnh tranh hoàn hảo[71 câu với 35 câu đúng/sai]
  • 2 6.Độc quyền[22 câu với 11 câu đúng/sai]
  • 3 7.Cạnh tranh độc quyền[74 câu với 35 câu đúng/sai]
  • 4 8.Độc quyền tập đoàn[33 câu với 15 câu đúng/sai]
  • 5 9.Cung và cầu lao động[34 câu với 15 câu đúng/sai]
    • 5.1 10.Vai trò của chính phủ[71 câu với 39 câu đúng/sai]
  • 6 788 câu trắc nghiệm Kinh tế vĩ mô
    • 6.1 Phần 1: 99 câu
    • 6.2 Phần 2: 99 câu
    • 6.3 Phần 3: 99 câu
    • 6.4 Phần 4: 98 câu
    • 6.5 Phần 5: 99 câu
    • 6.6 Phần 6: 99 câu
    • 6.7 Phần 7: 98 câu
    • 6.8 Phần 8: 97 câu

Biến đổi khí hậu và tác động của biến đổi khí hậu

[ĐCSVN] - Biến đổi khí hậu mà biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng đã tạo nên các hiện tượng thời tiết cực đoan hiện nay. Đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI vì biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái, tài nguyên môi trường và cuộc sống của con người
Hiện tượng băng tan do sự ấm lên của trái đất [ảnh minh họa]

Thế nào là biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu là thuật ngữ được dùng để chỉ sự thay đổi của khí hậu do tác động chủ yếu của con người làm thay đổi các thành phần của khí quyển trái đất. Sự thay đổi này kết hợp với các yếu tố biến động tự nhiên của tự nhiên dẫn tới các biến đổi của khí hậu qua các thời kỳ. Nói một cách dễ hiểu, biến đổi khí hậu chính là sự thay đổi của hệ thống khí hậu từ sinh quyển, khí quyển, thủy quyền tới thạch quyển trong hiện tại và tương lai.

Nguyên nhân của biến đổi khí hậu

Tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu xuất phát từ 2 nhóm là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, những tác động của con người vào môi trường tự nhiên chính là nguyên do gây nên biến đổi khí hậu. Theo đó, việc gia tăng khí CO2 do hoạt động sản xuất công nghiệp, phá rừng, sử dụng nguồn nước cũng như các loại khí độc hại khác là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên.

Bên cạnh đó, các yếu tố khách quan trong đó có sự thay đổi trong chính nội tại của tự nhiên bao gồm sự thay đổi trong hoạt động mặt trời, của quỹ đạo trái đất, sự dịch chuyển của các châu lục… cũng tác động không nhỏ gây nên tình trạng này.

Một số tác động của biến đổi khí hậu

Mực nước biển đang dâng lên

Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương.

Các núi băng và sông băng đang co lại. Những lãnh nguyên bao la từng được bao phủ bởi một lớp băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các núi băng ở dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng – nguồn nước uống và canh tác của khoảng 500 triệu người – đang co lại khoảng 37m mỗi năm.

Các bờ biển đang biến mất. Bãi biển ở Miami nằm trong số rất nhiều những khu vực khác trên thế giới đang bị đe dọa bởinước biển dângngày càng cao.

Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo băng Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển sẽ dâng thêm ít nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của Indonesia, và nhiều thành phố ven biển khác sẽ hoàn toàn biến mất.

Các hệ sinh thái bị phá hủy

Những thay đổi trong điều kiện khí hậu và lượng khí carbon dioxide tăng nhanh chóng đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái, nguồn cung cấp nước ngọt, không khí, nhiên liệu, năng lượng sạch, thực phẩm và sức khỏe.

Dưới tác động của nhiệt độ, không khí và băng tan, số lượng các rạn san hô ngày càng có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, cả hệ sinh thái trên cạn và dưới nước đều đang phải hứng chịu những tác động từ lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, cũng như hiện tượng axit hóa đại dương.

Mất đa dạng sinh học

Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá rừng và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học nhận thấy đã có một số loài động vật di cư đến vùng cực để tìm môi trường sống có nhiệt độ phù hợp. Ví dụ như là loài cáo đỏ, trước đây chúng thường sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng Bắc cực.

Con người cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất hoang hóa và mực nước biển đang dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng ta. Và khi cây cỏ và động vật bị mất đi cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương thực, nhiên liệu và thu nhập của chúng ta cũng mất đi.

Chiến tranh và xung đột

Lương thực và nước ngọt ngày càng khan hiếm, đất đai dần biến mất nhưng dân số cứ tiếp tục tăng; đây là những yếu tố gây xung đột và chiến tranh giữa các nước và vùng lãnh thổ.

Do nhiệt độ trái đấtnóng lên và biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu đã dần làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc xung đột điển hình do biến đổi khí hậu là ở Darfur. Xung đột ở đây nổ ra trong thời gian một đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ có một lượng mưa nhỏ giọt và thậm chí nhiều năm không có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng cao.

Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm nước và mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh.

Xung đột ở Darfur [Sudan] xảy ra một phần là do các căng thẳng của biến đổi khí hậu.

Dịch bệnh

Nhiệt độ ngày càng tăng kết hợp với lũ lụt và hạn hán đang trở thành mối đe dọa với sức khỏe dân số toàn cầu. Bởi đây là môi trường sống lý tưởng cho các loài muỗi, những loài ký sinh, chuột và nhiều sinh vật mang bệnh khác phát triển mạnh.

Tổ chức WHO đưa ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới hơn bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các loại bệnh nhiệt đới.

Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn đề hô hấp và tiêu chảy.

Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông nghiệp của nhiều nước [ảnh minh họa]

Hạn hán

Trong khi một số nơi trên thế giới chìm ngập trong lũ lụt triền miên thì một số nơi khác lại hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài. Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông nghiệp của nhiều nước. Hậu quả là sản lượng và nguồn cung cấp lương thực bị đe dọa, một lượng lớn dân số trêntrái đấtđang và sẽ chịu cảnh đói khát.

Hiện tại, các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi đang hứng chịu những đợt hạn hán, lượng mưa ở các khu vực này ngày càng thấp, và tình trạng này còn tiếp tục kéo dài trong vài thập kỷ tới. Theo ước tính, đến năm 2020, sẽ có khoảng 75 triệu đến 250 triệu người dân châu Phi thiếu nguồn nước sinh hoạt và canh tác, dẫn đến sản lượng nông nghiệp của lục địa này sẽ giảm khoảng 50%.

Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang diễn ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với trước đây, và dự đoán trong vòng 40 năm tới, mức độ thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay.

Hậu quả của các đợt nóng này là nguy cơ cháy rừng, các bệnh tật do nhiệt độ cao gây ra, và tất nhiên là đóng góp vào việc làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất.

Bão lụt

Số liệu thống kê cho thấy, chỉ trong vòng 30 năm gần đây, những cơn bão mạnh cấp 4 và cấp 5 đã tăng lên gấp đôi.

Những vùng nước ấm đã làm tăng sức mạnh cho các cơn bão. Chính mức nhiệt cao trên đại dương và trong khí quyển, đẩy tốc độ cơn bão đạt mức kinh hoàng.

Nhiệt độ nước ở các biển và đại dương ấm lên là nhân tố tiếp thêm sức mạnh cho các cơn bão. Nhữngcơn bão khốc liệt đang ngày một nhiều hơn. Trong vòng chỉ 30 năm qua, số lượng những cơn giông bão cấp độ mạnh đã tăng gần gấp đôi.

Thiệt hạiđến kinh tế

Các thiệt hại về kinh tế dobiến đổi khí hậu gâyra cũng ngày càng tăng theo nhiệt độ trái đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỉ đô la; ngoài ra, để khống chế dịch bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng cần một số tiền khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng làm thâm hụt các nền kinh tế.

Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân phải chịu cảnh giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang; các chính phủ phải đối mặt với việc lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể, nhu cầu thực phẩm và nước sạch của người dân sau mỗi đợt bão lũ rất cấp thiết, chi phí khổng lồ để dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng thẳng về đường biên giới./.


VH [Tổng hợp]

Sự nóng lên toàn cầu đang tăng lên với tốc độ chưa từng có

[ĐCSVN] – Theo báo cáo mới nhất vừa được Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu [IPCC] công bố ngày 9/8, biến đổi khí hậu đang diễn ra phổ biến, ngày càng gia tăng và mạnh mẽ, vì vậy một số tác động này hiện nay là không thể đảo ngược, ít nhất là vào thời điểm hiện tại.

Theo IPCC, biến đổi khí hậu do con người gây ra đã và đang ảnh hưởng đến nhiều hiện tượng thời tiết và khí hậu cực đoan ở tất cả các khu vực trên thế giới. Các nhà khoa học cũng đang quan sát những thay đổi trong toàn bộ hệ thống khí hậu trái đất: trong khí quyển, trong đại dương, trên biển băng và trên các lục địa. Nhiều thay đổi trong số này là chưa từng có và một số đã xảy ra, trong khi những thay đổi khác - chẳng hạn như mực nước biển tiếp tục dâng - đã "không thể đảo ngược" trong nhiều thế kỷ, nếu không muốn nói là hàng thiên niên kỷ tới.

Nhiệt độ trái đất đang tiếp tục gia tăng. [Ảnh minh họa: Khánh Linh]

Sự nóng lên toàn cầu là do con người

Báo cáo được tổng hợp bởi 234 nhà khoa học từ 66 quốc gia, chỉ ra rằng ảnh hưởng của con người đã làm khí hậu nóng lên với tốc độ chưa từng có trong ít nhất 2.000 năm.

Vào năm 2019, nồng độ CO2 trong khí quyển ở mức cao nhất trong vòng ít nhất 2 triệu năm qua, trong khi nồng độ khí mêtan và nitơ oxit cao nhất trong khoảng thời gian 800.000 năm qua.

Ngoài ra, nhiệt độ trên bề mặt trái đất đã tăng nhanh hơn kể từ năm 1970 so với bất kỳ khoảng thời gian 50 năm nào khác trong ít nhất 2.000 năm qua. Ví dụ, nhiệt độ của thập kỷ gần đây nhất [2011 – 2020] vượt quá nhiệt độ của thời kỳ ấm áp gần đây nhất, khoảng 6.500 năm trước.

Đồng thời, mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng nhanh hơn kể từ năm 1900 so với bất kỳ thế kỷ nào trước đó, trong ít nhất 3.000 năm.

Báo cáo của các nhà khoa học cũng chỉ ra rằng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính do các hoạt động của con người là nguyên nhân gây ra hiện tượng ấm lên khoảng 1,1°C trong khoảng thời gian từ năm 1850 – 1900. Nghiên cứu cho thấy rằng, trung bình trong 20 năm tới, nhiệt độ toàn cầu sẽ đạt hoặc vượt quá 1,5°C.

Thời gian không nhiều nhưng vẫn còn để hành động

Theo các chuyên gia IPCC, vẫn còn thời gian để hạn chế biến đổi khí hậu. Việc giảm phát thải CO2 và các khí nhà kính khác một cách mạnh mẽ và lâu dài có thể nhanh chóng cải thiện chất lượng không khí và trong vòng 20 –30 năm, nhiệt độ toàn cầu có thể ổn định.

Các nhà khoa học của IPCC cảnh báo rằng sự nóng lên toàn cầu 2°C sẽ bị vượt quá trong thế kỷ 21. Hơn nữa, việc đạt được các mục tiêu của Thỏa thuận Paris 2015 sẽ “ngoài tầm với” trừ khi việc giảm phát thải CO2 và các khí nhà kính khác được thực hiện nhanh chóng và sâu rộng trong những thập kỷ tới.

Đánh giá dựa trên dữ liệu về diễn biến sự nóng lên toàn cầu trong lịch sử, cũng như những tiến bộ trong hiểu biết khoa học về phản ứng của hệ thống khí hậu đối với khí thải do con người tạo ra.

Bà Valérie Masson-Delmotte, đồng chủ tịch Nhóm công tác I của IPCC cho biết: Rõ ràng trong nhiều thập kỷ qua, khí hậu trái đất đang thay đổi và vai trò ảnh hưởng của con người đối với hệ thống khí hậu là không thể bàn cãi. Tuy nhiên, bà lưu ý rằng báo cáo mới "cũng phản ánh những tiến bộ lớn trong thống kê khoa học, tức là hiểu được vai trò của biến đổi khí hậu trong việc tăng cường các sự kiện thời tiết và khí hậu cụ thể.

Những thay đổi cực đoan

Các nhà khoa học cho biết rằng các hoạt động của con người ảnh hưởng đến tất cả các thành phần chính của hệ thống khí hậu, một số phản ứng trong nhiều thập kỷ và một số phản ứng khác trong nhiều thế kỷ. Họ cũng chỉ ra rằng bằng chứng về những thay đổi quan sát được trong các hiện tượng cực đoan như: sóng nhiệt, lượng mưa dữ dội, hạn hán, xoáy thuận nhiệt đới, và sự phân bổ của chúng đối với ảnh hưởng của con người, đã tăng lên.

Thêm vào đó, theo các nhà khoa học, nhiều thay đổi trong hệ thống khí hậu ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn liên quan trực tiếp đến sự gia tăng hiện tượng nóng lên toàn cầu. Những thay đổi này bao gồm: sự gia tăng tần suất và cường độ của các đợt nắng nóng khắc nghiệt, các đợt nắng nóng trên biển và lượng mưa lớn, hạn hán nông nghiệp và sinh thái ở một số vùng, tỷ lệ các xoáy thuận nhiệt đới dữ dội, cũng như giảm băng biển, tuyết phủ và băng vĩnh cửu ở Bắc Cực.

Báo cáo của các nhà khoa học cũng làm rõ rằng trong khi các yếu tố tự nhiên sẽ giảm thiểu những thay đổi do con người tạo ra, đặc biệt là trong khu vực và trong ngắn hạn, chúng sẽ ít ảnh hưởng đến sự nóng lên toàn cầu trong dài hạn.

Biến đổi khí hậu gây ra lũ lụt, làm sạt lở đất, ảnh hưởng nặng nề tới sản xuất nông nghiệp. [Ảnh minh họa: Khánh Linh]

Một thế kỷ thay đổi đối với tất cả các khu vực

Các chuyên gia của IPCC dự đoán rằng trong những thập kỷ tới, biến đổi khí hậu sẽ gia tăng ở tất cả các khu vực. Trái đất nóng lên 1,5°C sẽ gây ra các đợt nắng nóng, mùa nóng kéo dài hơn và mùa lạnh ngắn ngày càng thường xuyên hơn. Ở mức 2°C của hiện tượng ấm lên toàn cầu, nhiệt độ cực cao có nhiều khả năng đạt đến ngưỡng dung sai quan trọng đối với nông nghiệp và sức khỏe.

Tuy nhiên, không chỉ là nhiệt độ, biến đổi khí hậu còn ảnh hưởng tới những lĩnh vực khác như tăng cường sản xuất tự nhiên của nước - chu trình nước, dẫn đến lượng mưa lớn hơn, kèm theo lũ lụt, cũng như hạn hán khốc liệt hơn ở nhiều khu vực.

Về chế độ mưa, ở các vĩ độ cao, lượng mưa được dự báo sẽ tăng lên, trong khi lượng mưa được dự báo sẽ giảm ở phần lớn các vùng cận nhiệt đới. Báo cáo cảnh báo những thay đổi trong chế độ mưa gió mùa sẽ khác nhau tùy theo khu vực.

Ngoài ra, các khu vực ven biển sẽ phải hứng chịu nước biển dâng liên tục trong suốt thế kỷ 21, điều này sẽ góp phần gây ra lũ lụt ven biển thường xuyên và nghiêm trọng hơn ở các vùng trũng thấp và xói mòn bờ biển.

Các hiện tượng mực nước biển cực đoan, vốn trước đây cứ 100 năm mới xảy ra một lần, thì có thể xảy ra hàng năm vào đầu thế kỷ này.

Báo cáo cũng cho biết sự ấm lên tiếp tục sẽ làm gia tăng tốc độ tan của lớp băng vĩnh cửu, cũng như giảm lượng tuyết phủ theo mùa, các sông băng và chỏm băng tan chảy, và mất đi lượng băng biển Bắc Cực vào mùa hè.

Những thay đổi trong đại dương, bao gồm sự ấm lên, tần suất sóng nhiệt biển tăng lên, axit hóa đại dương và giảm nồng độ ôxy, ảnh hưởng đến cả hệ sinh thái đại dương và những người sống phụ thuộc vào chúng sẽ tiếp tục xảy ra trong ít nhất phần còn lại của thế kỷ.

Các chuyên gia cảnh báo rằng các khía cạnh của biến đổi khí hậu có thể được phóng đại ở các thành phố, bao gồm nắng nóng, lũ lụt do mưa lớn và mực nước biển dâng cao ở các thành phố ven biển.

Ngoài ra, các nhà khoa học của IPCC cũng nêu rõ không thể loại trừ các kết quả khó xảy ra, chẳng hạn như sự sụp đổ của tảng băng hoặc những thay đổi đột ngột trong lưu thông đại dương.

Hạn chế biến đổi khí hậu

Theo các nhà khoa học, để ổn định khí hậu, cần phải giảm mạnh, nhanh chóng và bền vững lượng phát thải khí nhà kính và đạt được mức phát thải CO2 ròng bằng không. Ông Panmao Zhai, đồng Chủ tịch nhóm công tác I của IPCC, cho biết việc hạn chế các khí nhà kính khác và các chất ô nhiễm trong khí quyển, đặc biệt là khí mêtan, có thể có những tác động có lợi đối với sức khỏe và khí hậu.

Báo cáo giải thích rằng, từ góc độ khoa học vật lý, việc hạn chế sự nóng lên toàn cầu do con người tạo ra ở một mức độ nhất định đòi hỏi phải hạn chế lượng khí thải CO2 tích lũy, để đạt được ít nhất là không phát thải CO2 ròng và giảm đáng kể lượng phát thải của các khí nhà kính khác.

Các nhà khoa học của IPCC nhấn mạnh việc giảm phát thải khí mêtan một cách mạnh mẽ, nhanh chóng và lâu dài cũng sẽ giúp hạn chế hiệu ứng nóng lên do giảm ô nhiễm không khí./.

Khánh Linh [Theo báo chí nước ngoài]

Video liên quan

Chủ Đề