Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất nước

Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời

Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ sẽ giúp các em thấy được vẻ đẹp của bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống, cùng với đó là tình yêu tha thiết của nhà thơ dành cho thiên nhiên, cuộc đời. Đề bài: Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời

Mục lục bài viết:1. Dàn ý2. Bài mẫu số 13. Bài mẫu số 24. Bài mẫu số 3

Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời I. Dàn ý Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời [Chuẩn] 1. Mở đoạn Giới thiệu khái quát tác giả Thanh Hải, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và nội dung khổ đầu bài thơ: cảm xúc của tác giả trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời. 2. Thân đoạn – Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, căng tràn sức sống:+ Hình ảnh: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, giọt sương long lanh+ Âm thanh: tiếng chim chiền chiện hót vang trời.+ Màu sắc: Màu xanh của dòng sông, sắc tím của bông hoa=> Không gian mùa xuân cao rộng, sắc trời tươi thắm, âm thanh vang vọng. – Cảm xúc của tác giả trước cảnh mùa xuân:+ Đưa tay hứng những giọt âm thanh tiếng chim.→ Những giọt âm thanh có màu sắc, long lanh ánh sáng, cảm nhận được bằng xúc giác. – Niềm say sưa, ngây ngất của tác giả khi thiên nhiên, đất trời vào xuân. 3. Kết đoạn Nêu cảm nhận của em về khổ thơ đầu bài thơ Mùa xuân nho nhỏ II. Những mẫu Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời hay nhất 1. Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, mẫu 1 [Chuẩn] Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được sáng tác năm 1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời. Bài thơ là tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết cũng là lời tâm niệm chân thành, gửi gắm tha thiết mà tác giả để lại cho đời. Ngay trong khổ thơ đầu tiên, tác giả đã bộc lộ niềm trân trọng, thiết tha và nâng niu mùa xuân – cuộc đời. “Mọc giữa dòng sông xanh/ Một bông hoa tím biếc”, nét phác họa bằng thơ của Thanh Hải đã vẽ ra không gian đất trời vào xuân vô cùng cao rộng, một dòng sông chảy dài, mặt đất với bầu trời bao la. Trong bầu trời xuân ấy không chỉ có sắc xanh của chồi non mơn mởn mà còn có sắc tím – bông hoa tím biếc. Màu tím cũng chính là màu đặc trưng của xứ Huế quê hương của tác giả. “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời”, trong trời đất mùa xuân đầy hương sắc ấy còn có cả âm thanh vang vọng, tươi vui của chú chim chiền chiện. Dường như con chim nhỏ cũng đang hân hoan, vui sướng khi tiết trời vào xuân, nó ca vang trời đất như đánh thức đồng loại và vạn vật cùng thức dậy chào xuân. Chi tiết “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng” diễn tả cảm xúc tinh tế của tác giả trước vẻ đẹp mùa xuân của thiên nhiên. Đó có thể là từng giọt mưa xuân long lanh đang rơi, cũng có thể là từng giọt âm thanh của tiếng chim. Giọt long lanh ấy dù là gì đi nữa thì đều được cảm nhận bằng mắt, tai và xúc giác, cảm nhận một cách trọn vẹn, nâng niu. Có thể nói, ngay khổ mở đầu bài thơ ta đã thấy Thanh Hải thả trọn tâm hồn mình vào xuân, dạt dào một niềm say sưa bất tận, ngây ngất và say đắm trong vẻ đẹp thiên nhiên, đất trời khi vào xuân. 2. Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, mẫu 2 [Chuẩn] Trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”, nhà thơ Thanh Hải đã dựng lên hai bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp, đó là mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đất nước. Trong đó, mùa xuân của thiên nhiên, đất trời được tác giả đưa vào phần đầu của bài thơ. Trong cả 6 câu thơ mở đầu, tác giả không hề nhắc đến hai từ “mùa xuân” ấy vậy mà qua những hình ảnh, âm thanh, mùa xuân lại hiện lên đẹp đẽ vô cùng. Người thi sĩ ấy đã dùng ngôn từ để vẽ nên bức tranh phong cảnh đất trời vào xuân. Chỉ với vài nét phác họa: một dòng sông xanh, một “bông hoa tím biếc”, tiếng hót con “chim chiền chiện”, bức tranh mùa xuân đã hiện lên sống động ngay trước mắt người đọc. Đất trời vào xuân với không gian cao rộng, dòng sông, mặt đất và bầu trời bao la như hòa vào làm một. Mùa xuân với muôn vàn sắc thắm, sự tươi tắn, trẻ trung tràn đầy sức sống của chồi non xanh mơn mởn. Màu hoa tím biếc đặc trưng xứ Huế nổi bật giữa dòng sông xanh in nền trời. Mùa xuân của thiên nhiên còn được tác giả cảm nhận qua âm thanh tiếng chim. Lắng nghe giữa không gian bao la của trời xuân là tiếng hót con chim chiền chiện. Chim hót vang trời như báo hiệu xuân về như thúc giục vạn vật hãy mau thức dậy khỏi giấc ngủ đông dài, thức dậy để đón những điều tuyệt vời của mùa xuân. Sự giao cảm của nhà thơ với mùa xuân của thiên nhiên được thể hiện qua hành động đưa tay hứng từng giọt long lanh rơi. Đó là giọt mưa xuân, hay là giọt âm thanh của tiếng chim hót? Có lẽ chỉ có tác giả mới biết chính mình đang nâng hứng thứ gì. Chúng ta có thể hiểu rằng đó chính là những giọt tinh hoa, tinh túy nhất của đất trời khi vào xuân. 3. Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, mẫu 3 [Chuẩn] Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết trong những ngày tháng cuối đời, bài thơ đã thể hiện được tình yêu cuộc đời tha thiết và khát vọng dâng hiến chân thành, cao đẹp của nhà thơ. Trong khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân tuyệt đẹp, nơi có sự hài hòa giữa màu sắc, âm thanh và lòng người. Giữa dòng sông xanh rộng lớn là sắc tím nổi bật của bông hoa lục bình. Màu xanh của dòng nước, sắc tím của bông hoa và âm thanh tiếng “chim chiền chiện” đã cùng hòa hợp để tạo nên bức tranh mùa xuân đẹp đẽ, căng tràn sức sống. Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận bằng nhiều giác quan, tác giả không chỉ quan sát bằng mắt mà còn lắng nghe bằng cả tâm hồn. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời vừa khiến tác giả giật mình, ngỡ ngàng lại khiến tác giả càng thêm say sưa chìm đắm. Sắc đẹp của xuân có thêm âm thanh, âm thanh ấy trong trẻo, vang vọng như khúc nhạc chào xuân. Cuối cùng, nhà thơ cảm nhận xuân bằng xúc giác, đưa đôi tay ra hứng lấy những giọt long lanh đang rơi trong trời xuân. Đó có thể là hạt mưa xuân dưới ánh nắng trở lên long lanh, hay là sự chuyển đổi cảm giác biến âm thanh tiếng chim thành từng giọt rơi xuống. Nhà thơ đưa tay để hứng trọn những thanh âm, vẻ đẹp ấy vào lòng bằng tất cả tình yêu và sự nâng niu. ——————HẾT——————

//thuthuat.taimienphi.vn/viet-doan-van-cam-nhan-ve-cam-xuc-cua-tac-gia-thanh-hai-truoc-mua-xuan-cua-thien-nhien-dat-troi-69172n.aspx Bên cạnh đó, những cảm xúc của nhà thơ Thanh Hải còn có sự khác nhau giữa các khổ thơ, về những mùa xuân khác nhau. Các em có thể tìm hiểu qua các bài văn như: Viết đoạn văn cảm nhận về suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ Thanh Hải trong Mùa xuân nho nhỏ, Viết đoạn văn cảm nhận về cảm xúc của tác giả Thanh Hải về mùa xuân của đất nước, Cảm nhận tình yêu thiên nhiên của người thi nhân qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, Khát vọng dâng hiến cho đời của nhà thơ Thanh Hải trong khổ 4, 5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

#Viết #đoạn #văn #cảm #nhận #về #cảm #xúc #của #tác #giả #Thanh #Hải #trước #mùa #xuân #của #thiên #nhiên #đất #trời

Thanh Hải [1930 – 1980]

Vài nét về nhà thơ Thanh Hải:

  • Tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn
  • Sinh năm 1930, mất năm 1980
  • Quê quán: huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
  • Hoạt động văn nghệ từ kháng chiến chống Pháp.
  • Trong kháng chiến chống Mỹ, ông bám trụ ở lại quê hương, cầm súng, cầm bút và có công xây dựng văn học Cách mạng miền Nam từ những ngày đầu.
  • Sau ngày giải phóng, Thanh Hải vẫn gắn bó với quê hương xứ Huế, sống và sáng tác ở đó cho đến lúc qua đời.
  • Tác phẩm tiêu biểu: "Huế mùa xuân" [tập I – 1970, tập II – 1975]; "Dấu võng Trường Sơn" [1977]"Mưa xuân đất này" [1982]…
  • Thơ của Thanh Hải chân chất và bình dị, đôn hậu và chân thành.

Tác phẩm

Hoàn cảnh sáng tác

  • Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được viết tháng 11/1980.
  • Đây cũng là thời điểm đất nước ta mới thống nhất, đang trong công cuộc lao động dựng xây hào hứng, sôi nổi, đồng thời phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách.
  • Đây cũng là lúc Thanh Hải bị bệnh nặng, biết chắc mình không qua khỏi, bài thơ được làm trên giường bệnh trước khi nhà thơ qua đời không bao lâu.

Nhan đề

  • Nhan đề "Mùa xuân nho nhỏ" được cấu tạo bởi hai từ loại: "mùa xuân" là danh từ và "nho nhỏ" là tính từ. Việc kết hợp các từ loại ấy có tác dụng miêu tả rõ đặc điểm của danh từ [mùa xuân].

      - "Mùa xuân" mang ý nghĩa tả thực – đó là mùa khởi đầu của một năm, là sự khởi đầu của sự sống: mùa của lộc non lá biếc, của vạn vật sinh sôi nảy nở.

      - "Mùa xuân" còn mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người. Mùa xuân hay chính là sức trẻ trong tâm hồn và trí tuệ, là nhiệt huyết và năng lực cống hiến của mỗi người vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, của đất nước. Mùa xuân cũng là ẩn dụ cho vẻ đẹp sức sống, sự trỗi dậy vươn lên mạnh mẽ của đất nước.

     - Từ láy "nho nhỏ" làm rõ hơn đặc điểm của mùa xuân: vẻ đẹp giản dị, khiêm nhường.

  • "Mùa xuân nho nhỏ" là một nhan đề hay, một ẩn dụ đầy sáng tạo, giàu ý nghĩa đã góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm - ước nguyện chân thành của nhà thơ Thanh Hải: dâng hiến những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Đó là một nguyện ước cao đẹp, chân thanh, tha thiết, xuất phát từ tình yêu cái đẹp, yêu cuộc sống, cuộc đời; yêu và tự hào về đất nước.

=> Nhan đề ấy đã thể hiện được chủ đề của tác phẩm.

Đề tài

Viết về vẻ đẹp mùa xuân, vẻ đẹp và sức sống của đất nước, khát vọng hòa nhập và cống hiến.

Mạch cảm xúc của bài thơ

Mạch cảm xúc đi từ tình yêu với mùa xuân của thiên nhiên, yêu và tự hào về mùa xuân đất nước. Từ đó, Thanh Hải thể hiện khát vọng được dâng hiến “mùa xuân nho nhỏ” của mình làm đẹp cho “mùa xuân cuộc đời, mùa xuân đất nước".

Bố cục

Bài thơ có thể được chia làm bốn phần:

  • Phần 1 [khổ thơ đầu]: Bức tranh mùa xuân của thiên nhiên đất trời
  • Phần 2 [hai khổ thơ tiếp theo]: Mùa xuân của đất nước
  • Phần 3 [hai khổ thơ tiếp]: Khát vọng dâng hiến – lẽ sống cao đẹp của nhà thơ
  • Phần 4 [khổ cuối]: Lời ngợi ca về quê hương, đất nước qua điệu dân ca Huế

NỘI DUNG

1. Bức tranh mùa xuân của thiên nhiên đất trời

  • Bức tranh mùa xuân thiên nhiên hiện lên với đầy hương sắc:

- Hình ảnh dòng sông xanh là dòng sông xuân - phông nền cho bức tranh xuân, là màu xanh của nước, của trời, của sự sống.

- Sắc xuân xứ Huế hiện ra trong màu tím biếc của bông hoa, nổi bật trên nền xanh.

- Nghệ thuật đảo ngữ ở động từ “mọc” mở đầu bài thơ - "Mọc" là đâm chồi nảy lộc, là vẻ đẹp của sức sống mạnh mẽ dâng trào; kết hợp bút pháp chấm phá => Hai câu thơ tạo ấn tượng trong lòng người đọc về vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân.

  • Bức tranh mùa xuân rộn rã âm thanh:

- Tiếng gọi thiết tha, trìu mến, vút cao, thanh thoát: “Ơi…” nhấn nhá trong câu hỏi “Hót chi…” đem đến giọng điệu Huế, chất Huế cho câu thơ.

- Tiếng hót của chim chiền chiện vang trời cho thấy âm thanh tươi vui, rộn rã vang cả bầu trời. Xưa nay, trong văn chương cổ điển, chim én là biểu tượng của mùa xuân. Ở đây, Thanh Hải không đưa vào thơ hình ảnh chim én mà đưa vào hình ảnh chim chiền chiện - loài chim bé nhỏ, thân thuộc chốn thôn quê. Vì vậy, hình ảnh thơ bình dị nhưng đồng thời tạo nên sự luyến láy, tính nhạc cho câu thơ.

- Thanh Hải không tả tiếng chim mà cảm nhận tiếng chim, bộc lộ cảm xúc qua câu hỏi tu từ. => Đó là tiếng xuân, tiếng lòng của nhà thơ: vui, say mê, náo nức trước mùa xuân.

  • Trước mùa xuân thiên tươi đẹp, nhà thơ nâng niu, trân trọng, đón tiếng xuân vào lòng: "Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng"

- Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tiếng chim vốn vô hình, được cảm nhận bằng thính giác nay tiếng hót của chim chiền chiện trở thành “giọt long lanh” rơi trong không gian, có hình khối, màu sắc. Và tác giả đưa tay ra đón nhận với tình cảm trìu mến qua điệp từ “tôi”.

=> Tiếng chim trở thành "tiếng xuân".

* Như vậy, sáu câu thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi sáng, tràn đầy sức sống, đậm chất hội họa. Đằng sau bức tranh thiên nhiên mùa xuân là tâm hồn yêu thiên nhiên, say mê, nâng niu trân trọng của tác giả. Trong hoàn cảnh của nhà thơ, những câu thơ trên còn cho thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, thiết tha với sự sống.

2. Hình ảnh mùa xuân đất nước

- Là 2 câu thơ lớn được đặt sóng đôi với nghệ thuật điệp ngữ, điệp cấu trúc ngữ pháp: Mùa xuân người.../ Lộc...

- Là điệp khúc của sức sống, của sự cống hiến của mọi tầng lớp nhân dân đối với đất nước

    + Người cầm súng: người lính, lực lượng tham gia giữ gìn hòa bình đất nước với nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn hòa bình.

    + Người ra đồng: người nông dân, lực lượng tham gia lao động, làm giàu cho đất nước với nhiệm vụ lao động, dựng xây đất nước.

    + Ở họ đều gắn với từ “lộc”

             o Nghĩa thực: Là chồi xanh lộc biếc, là hiện thân cho vẻ đẹp, sức sống của mùa xuân thiên nhiên đất trời.

             o Nghĩa ẩn dụ:

                       Với người cầm súng, “lộc” là lá ngụy trang [nghĩa đen], song màu xanh của lá biếc, chồi non là màu xanh của hòa bình, sức sống, của sự trỗi dậy, đi lên của đất nước. => Người lính mang trên mình trách nhiệm gìn giữ nền hòa bình để đất nước phát triển.

                       Với người ra đồng, “lộc” là đơm hoa kết trái, là thành quả lao động => Người lao động có trách nhiệm đem đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng đất nước phồn vinh.

  • 2 câu thơ tiếp theo là nhịp sống sôi nổi, khẩn trương của đất nước

- Nghệ thuật điệp ngữ, so sánh và cấu trúc sóng đôi: "Tất cả như..."

- “Hối hả” là nhịp sống sôi nổi, khẩn trương, hào hứng.

- “Xôn xao” là cảm xúc của lòng người, xốn xang nhiều niềm vui, say mê, háo hức, náo nức, phấn chấn.

Như vậy, sáu câu thơ là vẻ đẹp và sức sống của đất nước trong hiện tại, là những cảm nhận của nhà thơ về mùa xuân mới của đất nước.

  • Từ hiện tại, nhà thơ suy ngẫm về đất nước trong quá khứ và bộc lộ niềm tin tưởng và tự hào về đất nước trong tương lai.

- Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã khái quát được bề dày lịch sử sử đất nước với tất cả niềm yêu thương, trân trọng, biết ơn, tự hào:

    + Đất nước “vất vả”: Đó là 4000 năm dựng nước gian khổ, nhọc nhằn

    + Đất nước “gian lao”: Đó là 4000 năm giữ nước với những cuộc trường chinh chóng giặc ngoại xâm anh dũng, bất khuất, kiên cường.

\[ \rightarrow \] Đó là lịch sử dựng nước và giữ nước - truyền thống của dân tộc.

- Từ niềm vui với đất nước trong hiện tại, tự hào về truyền thống trong quá khứ, nhà thơ thể hiện lòng tin tưởng và sức sống, sự vươn lên kì diệu của đất nước trong tương lai:

    + Vẻ đẹp ngời sáng, rạng rỡ, vẻ đẹp của tâm hồn đất nước qua hình ảnh so sánh đất nước với "vì sao"

    + Sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, kiên cường của đất nước hiện ra qua cụm động từ "Cứ đi lên phía trước". Đó là sức sống của quá khứ, hiện tại là động lực, sức mạnh tạo đà cho đất nước mạnh mẽ đi lên.

Như vậy, bao trùm lên đoạn thơ là niềm vui, niềm say mê, niềm tự hào bất tận của nhà thơ về vẻ đẹp của mùa xuân đất nước.

3. Khát vọng dâng hiến – lẽ sống cao đẹp của nhà thơ

- Điệp ngữ “ta làm” lặp lại 2 lần, kết hợp với hình ảnh “con chim hót, một cành hoa” tạo nên điệp khúc của khát vọng. Tác giả muốn làm con chim cất lên tiếng hót ngợi ca cuộc sống, cuộc đời; một cành hoa để tô thắm cho cuộc sống, cuộc đời, đất nước.

- Hình ảnh “con chim hót, một cành hoa” là 2 hình ảnh đã xuất hiện trong bức tranh mùa xuân thiên nhiên đất trời, ở đó, nhà thơ thấy được vẻ đẹp, ý nghĩa của một bông hoa tím biếc, của tiếng ca trong trẻo, tươi vui, ngân vang cả bầu trời mùa xuân, của con chim chiền chiện. Bởi vậy, không phải vô cớ mà tác giả chọn 2 hình ảnh này để bộc lộ tình cảm, gửi gắm khát vọng dâng hiến: góp sức mình để làm đẹp cho cuộc đời, đất nước.

- Cuộc sống lao động dựng xây và gìn giữ, bảo vệ hòa bình đất nước giống như một bản hòa ca vĩ đại: bản hòa ca của tầng tầng lớp lớp con người Việt Nam hát lên bằng tình yêu đất nước, yêu cuộc sống, bằng khát khao cống hiến và ý thức trách nhiệm đối với đất nước.

- Nhà thơ khao khát nhập vào, hòa vào bản hòa ca chung vĩ đại ấy với tất cả những gì quý giá nhất của tâm hồn, trí tuệ, sức lao động. Sự cống hiến ấy chỉ là “một nốt trầm” [ẩn dụ cho sự nhỏ bé, bình dị, khiêm nhường nhưng ý nghĩa] nhưng xao xuyến.

  • Lời ước nguyện được cống hiến của tác giả:

- Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ” nói tới những gì đẹp đẽ, quý giá của đời mình. Nhà thơ gọi những đóng góp của cá nhân mỗi người cho đất nước, cho cuộc đời là “mùa xuân nho nhỏ”.

- Sự dâng hiến lặng lẽ, âm thầm mà bền bỉ: "Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc"

- Sử dụng cấu trúc sóng đôi, điệp ngữ, điệp cấu trúc ngữ pháp "Dù là..." và biện pháp tu từ hoán dụ [tuổi trẻ thanh xuân [tuổi hai mươi] và tuổi già [tóc bạc] để khái quát cả cuộc đời] để khẳng định quan niệm sống, lẽ sống và thái độ sống cao đẹp: sống là cống hiến - cống hiến những gì đẹp nhất, quý giá nhất của cuộc đời mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Đó là sự cống hiến âm thầm, lặng lẽ, bền bỉ suốt đời.

* Có thể thấy, đây là thái độ sống cao đẹp, xuất phát từ tình yêu cuộc sống, yêu cuộc đời, là biểu hiện của tinh thần, ý thức trách nhiệm. Càng về cuối, giọng điệu thơ càng tha thiết, trầm lắng, câu thơ là ước nguyện chân thành, thiết tha của nhà thơ đối với đất nước bằng cả trái tim mình.

Đoạn thơ gợi cho chúng ta suy nghĩ  sâu sắc về ý nghĩa cuộc sống, về thái độ sống cần có ở mỗi người:

- Cuộc đời con người chỉ có ý nghĩa khi ta biết chăm lo cho cuộc đời chung, tự nguyện dâng hiến những gì tốt đẹp nhất của cuộc đời mình cho cuộc đời rộng lớn, cho Tổ quốc.

- Thái độ sống của Thanh Hải giúp chúng ta nhận thức rõ trách nhiệm của bản thân đối với cuộc đời, với đất nước.

4. Lời ngợi ca về quê hương, đất nước qua điệu dân ca Huế

  • Chữ “mùa xuân” bắt đầu câu thơ: là mùa xuân của đất trời, thời điểm bắt đầu của một năm. Song đó cũng là mùa xuân đất nước, đất nước tràn đầy sức sống trong công cuộc lao động dựng xây sôi nổi. Đó cũng là “mùa xuân nho nhỏ”, mùa xuân của lòng người với tình yêu cuộc sống và đất nước, với khát khao dâng hiến cho đời.
  • Trước mùa xuân thiên nhiên, đất nước, với tình yêu cuộc sống, yêu đất nước, nhà thơ đã cất lên tiếng hát: "Mùa xuân - ta xin hát".
- Đó là tiếng lòng được gửi trong điệu Nam ai Nam bình – điệu ca Huế đậm đà bản sắc dân tộc, ngọt ngào, đằm thắm, chứa chan tình người.
- Đó là lời hát ngợi ca quê hương, đất nước, hòa chung với "nhịp phách tiền đất Huế".
- Sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, điệp cấu trúc ngữ pháp, lặp lại toàn bộ, chỉ thay 2 từ cuối trong hai câu thơ cuối:
     + “Nước non ngàn dặm mình”: từ "ngàn dặm" chỉ sự rộng lớn của đất nước, từ "mình" chỉ quê hương đất nước của mình. Đó là lời hát ca ngợi quê hương, đất nước, ca ngợi vẻ đẹp giang sơn gấm vóc.

     + “Nước non ngàn dặm tình”: từ "ngàn dặm" chỉ chiều dài thời gian, quá trình dựng xây của đất nước; song nó cũng chỉ chiều sâu tâm hồn dân tộc; từ "tình" chỉ tình người. Đó là lời hát ca ngợi và tự hào về truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước, về vẻ đẹp tâm hồn dân tộc - sự ân tình, ân nghĩa sâu nặng của con người với Tổ quốc.

  • Tác giả xưng "ta" khi bộc lộ ước nguyện cống hiến và kết lại bài thơ:
- Để tạo sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời ước nguyện. Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy không chỉ của riêng nhà thơ mà là của tất cả mọi người.

- Khác với việc tác giả xưng "tôi" khi diễn tả cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất trời: thể hiện cái "tôi" của nhà thơ; sự nâng niu, trân trọng vẻ đẹp, sức sống của mùa xuân. Nếu thay bằng "ta" thì hành động sẽ trở nên phô trương.

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT

  • Thể thơ năm chữ gắn liền với nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca
  • Nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm [bông hoa tím biếc, tiếng chim hót, vì sao,...]
  • Sử dụng nhiêu biện pháp nghệ thuật điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, so sánh và ẩn dụ.
  • Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời đến mùa xuân của đất nước và cuối cùng là con người.
  • Giọng điệu của bài thơ thể hiện đúng tâm trạng của tác giả, biến đổi phù hợp với nội dung từng đoạn: vui, say sưa ở đoạn đầu; rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha khi bộc bạch tâm niệm.

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề