Chim thước nghĩa là gì

Tra cứu Từ điển Tiếng Việt - từ: thước

thước dt. Vật dùng đo bề dài: Gang thước, kích thước, mực thước, tầm-thước; Dò sông dò biển dễ dò, Nào ai bẻ thước mà đo lòng người [CD]. // Đơn-vị đo-đạc: 1 thước có 10 tấc; 5 thước vải, 1.000 thước đất [thước vuông], 1 thước cát [thước khối].
thước dt. Chim khách, ác-là, quạ, các thứ chim lông đen: Ô-thước; Ngoài rèm thước chẳng mách tin [CP]; Giá thước-kiều ngưu nữ độ hà [bắc cầu ô-thước cho Ngưu-lang Chức-nữ qua sông].
Nguồn tham khảo: Từ điển - Lê Văn Đức
thước - d. 1. Đồ dùng để đo độ dài hoặc để kẻ đường thẳng. 2. "Thước ta" nói tắt. 3. Từ cũ có nghĩa là mét : Mua năm thước vải.
Nguồn tham khảo: Từ điển mở - Hồ Ngọc Đức
thước dt. 1. Đơn vị cũ đo độ dài bằng khoảng 0,425 mét [thực mộc] hoặc bằng 0,645 mét [thước đo vải]. 2. Đơn vị cũ đo diện tích ruộng đất bằng 24 mét vuông [thước Bắc Bộ] hoặc 33 mét vuông [thước Trung Bộ]. 3. Tên gọi thông thường của mét: mua hai thước vải. 4. Dụng cụ để đo, vẽ hoặc kẻ đường thẳng: cái thước kẻ o thước dây.
thước Đẹp, tốt: quắc thước.
thước Con chim khách: Ô thước.
Nguồn tham khảo: Đại Từ điển Tiếng Việt
thước dt 1. Đồ dùng để đo đường dài: Thước ta; Thước tây; Vùng vẫy non sông ba thước vú, Xông pha tên đạn một đầu voi [Dương Bá Trạc]; Chôn chặt văn chương ba thước đất, Tung hê hồ thỉ bốn phương trời [HXHương]
2. Đồ dùng để kẻ đường thẳng: Sắm bút, sắm thước cho con đi học
3. Tay thước nói tắt: Năm ba kẻ thước người hèo, Ngõ Nhan lôi cái đan biều đập tan [Tự tình khúc]; Người nách thước kẻ tay dao, Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi [K].
thước dt Loài chim khách, tục cho rằng có thể kêu để báo tin: Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm dường đã có đèn biết chăng [Chp].
Nguồn tham khảo: Từ điển - Nguyễn Lân
thước dt. 1. Đồ dùng để đo chiều dài, dài 10 tấc: Theo thước của ta ngày trước chỉ dài có 4 tấc tây. Ngày nay thường dùng tiếng thước để chỉ thước tây. || Thước cuốn. thước dây, thước bằng dây. Thước gấp, thước xếp. Thước đo góc. Thước dẹp. Thước kẻ. Thước khối. Thước mẫu. Thước so. Thước tây. Thước trắc vĩ. Thước vuông. Thước kẹp. Đồ để gạch: Thước học trò.
thước dt. Chim khách.
Nguồn tham khảo: Từ điển - Thanh Nghị
thước Đồ dùng để đo chiều dài, gồm có 10 tấc. Văn-liệu: Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao [K]. Người nách thước, kẻ tay dao [K]. Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân [K].
thước Chim khách: Ngoài rèm thước chẳng mách tin [Ch. Ph].
Nguồn tham chiếu: Từ điển - Khai Trí

* Tham khảo ngữ cảnh

Nàng lại đau đớn nhớ ra rằng khi mẹ chết chỉ có mợ phán qua chơi phúng một bức trướng bằng hai thước vải chúc bá mỏng viết chữ lơ.

Thật ra thì lúc đó , khi nghe mấy câu cuối cùng của ông chưởng lý , sự liên tưởng đưa trí Loan nghĩ đến Dũng ; nàng không ngờ đâu , cách nàng chỉ có mấy thước , Dũng đương đăm đăm nhìn nàng và hồi hộp , lo sợ cho nàng.

Quang phải cho ngựa đi từ từ , vì cách năm thước không nom thấy rõ đường.

Hai cái tủ nhỏ ấy bày thước thợ một cái giáp tường một cái ngăn hàng ra với gian buồng trong và đựng lơ thơ đủ các thứ tạp hoá : những bao thuốc lá rẻ tiền , những miếng giấy gấp hình tam giác gói một xu thuốc lào , những phong diêm còn nguyên hay bán dở , những hộp lơ , những bánh xà phòng , những dây giầy treo vắt trên sợi gai căng ngang sau kính , những đồ dùng trong lớp học , như bút , mực , sách vở , thước , tẩy , trông lấp loáng nhiều màu sặc sỡ.

Trong cái khoảng thước thợ rộng chừng sáu , bảy thước vuông ấy , và sau một cái giậu lưới thép nhỏ mắt , bày những phễu thuỷ tinh đầy trám , ô mai và kẹo mứt , những thúng , những quả đen đựng miến , bột , bóng , mực , nấm , mộc nhĩ , những quả đựng đường , trên có đậy cái lồng bàn bằng dây thép.

* Từ đang tra cứu [Ý nghĩa của từ, giải nghĩa từ]: thước

 

HỈ THƯỚC SÙNG BÁI

HỈ THƯỚC ĐĂNG MAI 

          Chim Hỉ thước 喜鹊từ xưa đã có vinh dự là loại chim mang điềm tốt lành. Người xưa cho rằng thước linh có thể báo hỉ, cho nên gọi là “Hỉ thước”. Trong dân gian đa phần lấy chim Hỉ thước để ví với những việc vui mừng, trong tập tục truyền thống Trung Quốc, chim Hỉ thước được cho là một loại chim cát tường báo hỉ. Trong đồ án cát tường truyền thống của Trung Quốc, lấy chim Hỉ thước làm đề tài có rất nhiều loại. Lưu truyền rộng rãi nhất là “Hỉ thước đăng mai báo hỉ đồ” 喜鹊登梅报喜图, đồ án vẽ nơi đầu cành mai đậu hai con chim Hỉ thước. Hai chim Hỉ thước mang ý nghĩa là “song hỉ” 双喜. Chữ “mai” [hoa mai] và chữ “mi” [chân mày] hài âm, hoa mai nở trước trăm loài hoa, là hoa báo xuân. Cho nên mượn hình ảnh Hỉ thước đậu trên cành mai, tức đem hoa mai và hỉ sự gắn liền với nhau, ý nói người gặp hỉ sự, tinh thần phấn chấn, ngụ ý “Hỉ thướng mi sao” 喜上眉梢“Song hỉ lâm môn” 双喜临门, cho nên tranh này gọi là “Hỉ thước náo mai” 喜鹊闹梅, “Hỉ tại mi gian” 在眉间và “Hỉ tại kì trung” 喜在其中...

          Về tranh cát tường “Hỉ thước đăng mai” 喜鹊登梅, trong dân gian còn có một truyền thuyết rất cảm động. Theo truyền thuyết, chim Hỉ thước là tiên điểu ở thiên cung, gọi là “Thước” . Hằng năm vào ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch, Ngưu Lang 牛郎và Chức Nữ 织女qua sông ngân hà gặp nhau, chính là nhờ chim Thước bắc cầu. Vào ngày mùng 7 tháng 7 một năm nọ, Ngưu Lang nói với Chức Nữ rằng:

          - Ngọc Đế phái Kim ngưu tinh xuống phàm, rải một số hạt cỏ chốn nhân gian, trên mặt đất đã có một thảm cỏ xanh mướt, chỉ có điều là còn thiếu cây và hoa, nhân gian vẫn chưa đẹp.

          Những lời của Ngưu Lang, chim Thước nghe được.

          Chim Thước bay về thiên cung tìm cách báo lại với Vương Mẫu Nương Nương. Vương Mẫu Nương Nương muốn lưu lại mĩ danh chốn nhân gian, nhưng bà ta tiếc loài hoa mai nở vào mùa đông, bèn dặn Bách hoa tiên tử rằng:

          - Rắc hết trăm hoa, chỉ giữ hoa mai lại.

          Từ đó, chốn nhân gian từ mùa xuân đến mùa thu trăm hoa nở rộ, chỉ riêng mùa đông không có hoa. Mùa đông năm sau, lũ chim Thước đến nhân gian, nhìn thấy vẫn hoang lương. Lũ chim thước đôi ba lần cầu xin Vương Mẫu Nương Nương, Vương Mẫu Nương Nương không đáp ứng. Lũ chim Thước bèn lén lấy một chồi của cây hoa mai, sai một con chim Thước ngậm bay xuống nhân gian. Từ đó trên mặt đất có hoa mai. Vương Mẫu Nương Nương sau khi biết được vô cùng giận, sai người bắt con chim Thước mà đã đem hoa mai xuống nhân gian trói hai chân lại để trừng phạt. Cũng nhờ đó mà chim Thước luyện thành bản lĩnh nhảy, Vương Mẫu Nương Nương vẫn chưa yên tâm, sợ chim bay mất, lại nhốt chim vào trong lồng. Sự việc đó đã bị con chim ba chân [tam túc điểu 三足鸟] chuyên quản loài chim chốn thiên cung biết được, nó rất đồng tình liền mạo hiểm cứu chim Thước.

          Chim Thước đó bay xuống nhân gian lúc hoa mai đang nở rộ, nó đậu trên cành mai vui mừng nhảy, còn liên tiếp kêu không ngừng. Cây mai mà chim Thước đậu mọc trong vườn của một nhà giàu có. Vừa lúc cô tiểu thư nhà này chuẩn bị xuất giá, bỗng có tiếng kêu của chim Thước vang đến, cô dâu chưa từng nghe qua, liền đến bên cửa sổ nhìn. Cô ta nhìn thấy nơi đầu cành hoa mai có một loài chim mà trước giờ chưa thấy, bèn thuận tay lấy kéo và giấy đỏ, theo hình dạng của chim và hoa mai cắt thành bức song hoa. Cắt vừa xong thì kiệu hoa cũng vừa đến. Cô dâu tay cầm song hoa, tự hỏi:

          - Đây là chim gì?

          A hoàn nghe được đáp rằng:

          - Hôm nay cô gặp đại hỉ, gọi nó là “Hỉ thước” đi.

          Cô dâu lên kiệu, bức song hoa mà cô cắt cũng theo đồ cưới được gánh đi. Nhà trai mở cửa hàng nhuộm, gia chủ nhìn thấy bức “Hỉ thước đăng mai” của cô dâu cắt rất đẹp, liền theo đó thiết kế bức tranh lại thêm vào một con chim Hỉ thước nữa, ngụ ý thành đôi thành cặp, song hỉ lâm môn.

                                                              Huỳnh Chương Hưng

                                                           Quy Nhơn 26/01/2021

Nguồn

HỈ THƯỚC ĐĂNG MAI

喜鹊登梅

Trong quyển

ĐỒ THUYẾT HỈ VĂN HOÁ

图说喜文化

Tác giả: Ân Vĩ 殷伟, Trình Kiến Cường 程建强

Bắc Kinh: Thanh Hoa đại học xuất bản xã, 2013

Chủ Đề