Ngân hàng chính sách xã hội được biết đến với vai trò là một tổ chức hoạt động với mục đích hỗ trợ người nghèo và được Nhà nước xây dựng chính sách hoạt động cụ thể. Tuy nhiên, không phải ai cũng đã hiểu rõ về ngân hàng chính sách xã hội là gì này do đó chưa biết cách bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho mình. Trong bài viết dưới đây, Công ty luật ACC sẽ giới thiệu đến bạn đọc những quy định liên quan đến loại hình ngân hàng này từ các quy định mới nhất hiện nay.
– Ngân hàng chính sách xã hội là gì được quy định tại Quyết định số 525/QĐ-TTg ngày 31/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là một tổ chức tín dụng nhưng nhà nước là chủ thể có quyền sở hữu thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Ngân hàng chính sách xã hội có phạm vi hoạt động trên toàn quốc và có đầy đủ các đặc điểm của một pháp nhân.
– Phương thức hoạt động chủ yếu của ngân hàng chính sách xã hội là xây dựng nguồn vốn từ nguồn là các tổ chức, cá nhân và nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với người nghèo nhằm mục đích tạo lập quỹ để cho người nghèo vay vốn để phát triển sản xuất. Đây cũng là một trong những biểu hiện của chính sách xóa đói giảm nghèo của Nhà nước ta.
Chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng chính sách xã hội
– Mục đích của việc thành lập Ngân hàng chính sách xã hội là gì nhằm để cung cấp hoạt động tín dụng với chính sách ưu đãi dành cho người nghèo và một số đối tượng thuộc diện chính sách khác.
– Hoạt động của ngân hàng chính sách xã hội là không phải vì lợi nhuận.
– Theo quy định hiện hành, ngân hàng chính sách xã hội thực hiện chức năng và vai trò của mình thông qua các hoạt động tín dụng sau:
+ Huy động vốn
+ Cho vay
+ Thanh toán
+ Ngân quỹ
+ Nhận vốn ủy thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, chính trị – xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho các chương trình dự án phát triển kinh tế – xã hội.
– Ngân hàng chính sách xã hội có chức năng như một công cụ kinh tế của Nhà nước để thực hiện hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác có thể được tiếp cận với nguồn vốn vay nhiều ưu đãi để thực hiện các mục đích phát triển. Từ đó giúp nâng cao thu nhập và cải thiện đối sống, bảo đảm an sinh xã hội, dân giàu – nước mạnh.
Đối tượng cho vay của ngân hàng chính sách xã hội
Đối tượng cho vay của ngân hàng chính sách xã hội gồm:
– Hộ nghèo
– Hộ cận nghèo
– Hộ mới thoát nghèo
– Hộ sản xuất
– Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nghèo, vùng khó khăn
Bộ máy tổ chức của Ngân hàng chính sách xã hội là gì được cơ cấu gồm các bộ phận như sau:
Một là, Hội đồng quản trị ở Trung ương
– Hội đồng quản trị Ngân hàng chính sách xã hội gồm: Các thành viên chuyên trách và các thành viên kiêm nhiệm. Đây là những thành viên là đại diện của cơ quan quản lý Nhà nước hoặc các tổ chức chính trị – xã hội được trao thẩm quyền.
– Hội đồng quản trị giữ chức năng quản trị và quyết định tất cả các hoạt động của ngân hàng chính sách xã hội. Gồm:
+ Chiến lược phát triển
+ Kế hoạch hoạt động hàng năm
+ Ban hành các quy định, quy chế tổ chức và hoạt động
– Ban chuyên gia tư vấn và Ban kiểm soát NHCSXH là cơ quan giúp việc cho Hội đồng quản trị
Hai là, Ban đại diện Hội đồng quản trị ở cấp tỉnh và cấp huyện
– Ban đại diện Hội đồng quản trị ở cấp tỉnh và cấp huyện là bộ phận được phân bố tại các chi nhánh của Ngân hàng chính sách xã hội các cấp. Trong đó, các thành viên là cán bộ tại các Sở, Ban, Ngành, đoàn thể, trong đó Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân [UBND] cùng cấp làm Trưởng ban.
– Chức năng của Ban đại diện là thực hiện giám sát việc thực thi các Nghị quyết, và các quyết định của Hội đồng quản trị khi ban hành.
Trên đây là những kiến thức do Công ty luật ACC tổng hợp và phân tích về Ngân hàng chính sách xã hội là gì. Có thể thấy vai trò quan trọng của tổ chức này trong việc thực hiện xóa đói giảm nghèo của nước ta. Nếu Qúy khách hàng còn có những vướng mắc nào khác liên quan đến Ngân hàng chính sách xã hội hoặc các vấn đề pháp lý khác hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và cung cấp dịch vụ uy tín.
Ngân hàng chính sách [tiếng Anh: Policy Banks] là ngân hàng của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, mà phục vụ cho các đối tượng khách hàng theo chính sách ưu tiên của Nhà nước.
Định nghĩa
Ngân hàng chính sách trong tiếng Anh là Policy Banks. Ngân hàng chính sách là ngân hàng của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, mà phục vụ cho các đối tượng khách hàng theo chính sách ưu tiên của Nhà nước.
Đặc trưng
- Nguồn vốn của ngân hàng chính sách: Nguồn vốn chủ yếu là từ vốn của Ngân sách Nhà nước cấp, huy động vốn từ xã hội, bằng các hình thức phát hành chứng khoán, thu hút tiền gửi có kì hạn và không kì hạn, vốn tiếp nhận từ các dự án tài trợ không hoàn lại hay vay nợ của Chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ của các nước.
- Hoạt động sử dụng vốn: Hoạt động của ngân hàng chính sách đảm bảo nguyên tắc bảo toàn vốn ban đầu, bù đắp chi phí và có trách nhiệm phát triển vốn.
- Hoạt động chủ yếu là cho vay các đối tượng chính sách như người nghèo, sinh viên, xuất nhập khẩu thuộc lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu lao động, tạo việc làm...
- Do hoạt động ngân hàng không vì mục tiêu lợi nhuận, cho nên sự phân bổ vốn đầu tư phụ thuộc vào qui mô dự án và định hướng chính sách. Hơn nữa, thủ tục và điều kiện nói chung là đơn giản và linh hoạt theo từng đối tượng khách hàng vay.
- Ngoài ra, ngân hàng chính sách còn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh với chính sách ưu đãi cho các đối tượng khách hàng.
Liên hệ thực tiễn
- Ngân hàng chính sách ở các quốc gia có tên gọi khác nhau như: Ngân hàng bình dân [Pháp], ngân hang người nghèo [Băng-la-đét], ngân hàng chính sách [Thái Lan].
- Ở Việt Nam, loại hình Ngân hàng này có Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng phát triển Việt Nam.
Ngân hàng chính sách xã hội [NHCSXH]
NHCSXH được thành lập để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Hoạt động của NHCSXH không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% [không phần trăm], không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước.
NHCSXH được thực hiện các nghiệp vụ: huy động vốn, cho vay, thanh toán, ngân quĩ và được nhận vốn uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội.
NHCSXH là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế của Nhà nước nhằm giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo và đối tượng chính sách có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống, vươn lên thoát nghèo...
[Tài liệu tham khảo: Giáo trình Tài chính tiền tệ, NXB Tài chính]
Minh Lan
Ngân hàng Chính sách xã hội [tên giao dịch tiếng Anh: Vietnam Bank for Social Policies, viết tắt: VBSP] là tổ chức tín dụng thuộc Chính phủ Việt Nam, được thành lập để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Khác với ngân hàng thương mại, Ngân hàng Chính sách xã hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được Chính phủ Việt Nam bảo đảm khả năng thanh toán; tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng là 0%; Ngân hàng không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước.
Trụ sở chính của Ngân hàng Chính sách xã hội tại Hà Nội
Ngày 31 tháng 8 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 525-TTg về việc thành lập Ngân hàng Phục vụ Người nghèo[3] để giúp người nghèo vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện bảo tồn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù đắp chi phí. Khi này, Ngân hàng chỉ tham gia ban hành chính sách, còn việc điều hành tác nghiệp ủy thác cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đảm nhận.[1][4] Sau bảy năm Ngân hàng Phục vụ người nghèo hoạt động, nhằm tách tín dụng chính sách ra khỏi hoạt động tín dụng thông thường của các ngân hàng thương mại nhà nước,[4] ngày 4 tháng 10 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác[5]; cũng trong ngày này, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Vốn điều lệ ban đầu của Ngân hàng là 5 nghìn tỷ đồng và được cấp bổ sung phù hợp với yêu cầu hoạt động từng thời kỳ. Thời hạn hoạt động là 99 năm.[2] Ngày 11 tháng 3 năm 2003, Ngân hàng chính thức hoạt động. Đến ngày 30 tháng 9 năm 2017, tổng nguồn vốn của Ngân hàng là hơn 179.000 tỉ đồng, gấp hơn 25 lần so với khi thành lập. Tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt hơn 169.000 tỷ đồng, gấp 24 lần so với khi thành lập. Hơn 6,7 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách còn dư nợ. Hơn 31,8 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách khác đã vay vốn từ Ngân hàng, nhờ đó hơn 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo.[6] Vốn ủy thác của địa phương gần 8.500 tỉ đồng.[7] Đặc trưngSửa đổiHội, Đoàn thể nhận ủy thác một số công đoạn cho vaySửa đổiNgân hàng Chính sách xã hội có hai phương thức cho vay: cho vay trực tiếp và cho vay ủy thác. Trong hai phương thức này, cho vay ủy thác chiếm hơn 98% tổng dư nợ [2017].[8] Cho vay ủy thác nghĩa là Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện ủy thác một số công đoạn trong quy trình cho vay cho bốn tổ chức chính trị - xã hội [gọi tắt là Hội, Đoàn thể] gồm Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Nội dung ủy thác có thể tóm tắt là:
Việc ủy thác cho Hội, Đoàn thể là nhằm công khai hóa, xã hội hóa hoạt động tín dụng chính sách, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của tổ chức Hội, đồng thời củng cố hoạt động của tổ chức Hội ở cơ sở. Việc bình xét hộ vay vốn công khai, dân chủ đảm bảo đưa vốn đến đúng đối tượng thụ hưởng. Mặt khác, việc ủy thác giúp đối tượng thụ hưởng tiếp cận dễ dàng, hiệu quả với dịch vụ tài chính, tiết kiệm của Ngân hàng Chính sách xã hội.[9] Quan hệ giữa Ngân hàng và Hội, Đoàn thể được xác lập qua văn bản liên tịch, văn bản thỏa thuận [cấp trung ương]; văn bản liên tịch [cấp tỉnh, huyện] và hợp đồng ủy thác [cấp xã]. Tổ tiết kiệm và vay vốnSửa đổiTổ tiết kiệm và vay vốn [tổ TK&VV] là một tập hợp các hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống. Các thành viên [tổ viên] tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh và đời sống, đồng thời cùng giám sát nhau trong việc vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ Ngân hàng. Một tổ TK&VV phải có tối thiểu 5 tổ viên và tối đa là 60 tổ viên; các tổ viên phải cư trú hợp pháp theo địa bàn dân cư thuộc đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn,[10] trong đó các tổ viên được sắp xếp theo hướng liền canh, liền cư.[11] Đến 2017 có 187.151 tổ TK&VV đang hoạt động.[8] Tổ hoạt động theo nguyên tắc tập thể, biểu quyết theo đa số dưới sự điều hành của ban quản lý tổ [một tổ trưởng và một tổ phó].[10] Trong quy trình cho vay, họp bình xét cho vay là điều kiện tiên quyết để xét cho vay. Sau khi tiếp nhận đề nghị vay vốn từ phía hộ vay là thành viên của tổ [nếu chưa thì cần được xét kết nạp vào tổ], tổ trưởng tổ TK&VV chủ trì buổi họp bình xét cho vay, trong đó hộ vay có nhu cầu vay vốn nhất thiết phải được sự chấp thuận bằng biểu quyết của ít nhất 2/3 tổ viên tổ TK&VV hiện diện tại buổi họp bình xét công khai về vay vốn, với điều kiện phải có ít nhất 2/3 tổ viên tổ TK&VV đến dự buổi họp. Toàn bộ nội dung cuộc họp đều được ghi thành biên bản, gọi là biên bản họp tổ, do tổ phó là thư ký ghi chép lại. Buổi họp có sự chứng kiến của đại diện Hội, Đoàn thể nhận ủy thác quản lý tổ TK&VV đó và trưởng thôn/ấp/khu phố nơi tổ TK&VV hoạt động. Tổ TK&VV hoạt động không tách rời với ủy ban nhân dân cấp xã, tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác và Ngân hàng:[10]
Điểm giao dịch xãSửa đổiBiển chỉ dẫn điểm giao dịch xã NHCSXH Để hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác tiếp cận thuận lợi với Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng đưa các hoạt động nghiệp vụ về phục vụ ngay tại điểm giao dịch xã [xã/phường/thị trấn] thông qua hoạt động của tổ giao dịch xã.[4] Điểm giao dịch xã được hiểu là nơi Ngân hàng tổ chức giao dịch với khách hàng, tổ chức, cá nhân liên quan trên địa bàn một xã, được đặt trong khuôn viên trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã. Phiên giao dịch xã diễn ra vào ngày cố định hàng tháng, kể cả ngày lễ hoặc ngày nghỉ cuối tuần, và chỉ thực hiện giao dịch bù vào ngày khác nếu ngày giao dịch cố định tháng đó trùng vào ngày nghỉ Tết Nguyên đán. Các ngày giao dịch cố định của từng xã được niêm yết trên website của Ngân hàng Chính sách xã hội.[12] Đến cuối 2017 Ngân hàng có trên 10.900 điểm giao dịch xã. Hoạt động giao dịch lưu động tại xã do một tổ giao dịch thực hiện. Tổ này là một bộ phận nghiệp vụ gồm tối thiểu ba nhân viên, có trách nhiệm phổ biến, tuyên truyền và công khai chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác; tiếp nhận hồ sơ vay vốn, giải ngân, thu nợ, thu lãi, thu tiết kiệm và thực hiện quy trình xử lý nợ, họp giao ban với tổ trưởng tổ TK&VV và các tổ chức Hội, Đoàn thể nhận ủy thác.[4][13] Việc tổ chức giao dịch vào ngày cố định tại điểm giao dịch xã được xem là phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác thực hiện chức năng phản biện xã hội, tạo mối quan hệ gần gũi giữa nhân viên ngân hàng với người dân.[14]
Sổ vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội Hiện nay Ngân hàng Chính sách đang thực hiện cho vay các chương trình sau [chỉ liệt kê chương trình nào dùng nguồn vốn Trung ương]:[15][16]
Cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuấtSửa đổiNăm 2021, số ca mắc mới COVID-19 không ngừng gia tăng ở Việt Nam khiến giới chức phải áp dụng biện pháp giãn cách xã hội để phòng, chống dịch, gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của giới doanh nghiệp, hợp tác xã,... [gọi chung là người sử dụng lao động - NSDLĐ]. Ngày 1 tháng 7 năm 2021, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết 68/NQ-CP, tiếp đó đến ngày 7 tháng 7 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, ban hành một số giải pháp hỗ trợ người lao động và NSDLĐ. Trong số các chính sách này, có chính sách cho NSDLĐ vay ưu đãi lãi suất 0% để NSDLĐ trả lương ngừng việc hoặc trả lương khi phục hồi sản xuất cho người lao động. NSDLĐ là bên lập hồ sơ đề nghị vay vốn, gửi xác nhận tại Bảo hiểm Xã hội Việt Nam danh sách người lao động dự kiến được trả lương từ vốn vay rồi gửi hồ sơ cho Ngân hàng Chính sách xã hội. Dựa trên hồ sơ này, Ngân hàng kiểm tra và giải ngân nếu đạt yêu cầu. Chương trình này có một số đặc điểm như sau:[17]
Cho vay nhà ở xã hộiSửa đổiCho vay nhà ở xã hội là chương trình mới của Ngân hàng Chính sách xã hội, thực hiện theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ, bắt đầu cho vay từ năm 2018 nhưng các bước chuẩn bị về nghiệp vụ đã thực hiện từ 2016. Theo số liệu của Bộ Xây dựng Việt Nam, nhu cầu căn hộ nhà ở xã hội giai đoạn 2011 - 2020 là khoảng 440.000 căn, tương ứng với hàng trăm ngàn hộ gia đình.[18] Năm 2018, tổng cộng nguồn vốn là 1.000 tỉ đồng, trong đó Chính phủ cấp 500 tỉ và Ngân hàng huy động 500 tỉ. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được cấp 50 tỉ đồng/đô thị, còn lại được phân cho các tỉnh thành khác. Dự kiến đến năm 2020 tổng nguồn vốn riêng chương trình Nhà ở xã hội là 2.263 tỉ đồng, nhưng lãnh đạo Ngân hàng thừa nhận theo tính toán cần có 18.000-19.000 tỉ đồng mới đáp ứng đủ nhu cầu. Chương trình này có một số đặc điểm như sau:[19]
Cho vay HSSV có hoàn cảnh khó khănSửa đổiTại Ngân hàng Chính sách xã hội, chương trình tín dụng cho học sinh, sinh viên khó khăn được gọi là Cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Tiền thân của chương trình này là Chương trình cho vay từ Quỹ tín dụng đào tạo do Ngân hàng Công thương Việt Nam [Incombank], nay là Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam [Vietinbank] thực hiện từ năm 1998 đến năm 2002. Quỹ tín dụng đào tạo được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1998 theo Quyết định số 51/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để cho vay với lãi suất ưu đãi đối với sinh viên, học sinh đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Ban đầu Quỹ này được Chính phủ quy định quy mô 100 tỉ đồng, trong đó cấp ngân sách 30 tỉ đồng, còn lại do sự tự nguyện góp vốn của các ngân hàng thương mại, sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngày 1 tháng 7 năm 1998, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 218/1998/QĐ-NHNN1 giao Ngân hàng Công thương Việt Nam quản lý và cho vay từ Quỹ tín dụng đào tạo; Quyết định số 219/1998/QĐ-NHNN1 về việc ban hành "Thể lệ tín dụng đối với học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề". Theo Ngân hàng Công thương, hầu hết ngân hàng thương mại không góp vốn cho Quỹ tín dụng đào tạo. Tính đến tháng 4 năm 2002, nguồn vốn của Quỹ chỉ là 65,5 tỉ đồng; dư nợ cho vay là 62 tỉ đồng. Vốn không quay vòng được do thời gian cho vay đến 10 năm, trong khi theo đánh giá của Vụ Công tác Chính trị [Bộ Giáo dục và Đào tạo] thì không hiếm học sinh, sinh viên ra trường nhưng không có sự tự giác trả nợ, góp phần khiến nguồn vốn từ quỹ gần như cạn kiệt.[21] Tháng 5 năm 2003, Ngân hàng Công thương bàn giao 76,37 tỉ đồng dư nợ chương trình Quỹ tín dụng đào tạo cho Ngân hàng Chính sách xã hội.[22] Ngày 18 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh viên, thay thế Quyết định 51/1998/QĐ-TTg. Đến ngày 27 tháng 9 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg thay thế Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg. Qua một thập niên triển khai, Ngân hàng đã cho vay hơn 3,5 triệu lượt học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, doanh số cho vay có xu hướng suy giảm do mức cho vay thấp so với nhu cầu thực tế, hay do trường đào tạo chậm trễ trong thủ tục xác nhận sinh viên. Vẫn có những trường hợp chây ỳ, đùn đẩy trách nhiệm trả nợ hoặc trốn nợ đi làm ăn xa.[23] Ngân hàng Chính sách xã hội có mô hình và mạng lưới hoạt động từ trung ương đến tỉnh, thành phố, quận, huyện theo địa giới hành chính, được tổ chức theo ba cấp: hội sở chính ở trung ương, chi nhánh ở cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương và phòng giao dịch ở cấp quận/huyện/thị xã/thành phố trực thuộc tỉnh. Ở mỗi cấp đều có bộ máy quản trị và bộ máy điều hành tác nghiệp. Cách tổ chức như vậy là để thực hiện chủ trương xã hội hóa, dân chủ hóa, thực hiện công khai, minh bạch hoạt động tín dụng chính sách.[4] Bộ máy quản trịSửa đổiBộ máy quản trị của Ngân hàng Chính sách xã hội bao gồm: Hội đồng quản trị tại Trung ương, 63 Ban đại diện Hội đồng quản trị cấp tỉnh, thành phố và hơn 660 Ban đại diện Hội đồng quản trị cấp quận, huyện. Hội đồng quản trịSửa đổiTại thời điểm năm 2017, Hội đồng quản trị có 14 thành viên, gồm 12 thành viên kiêm nhiệm và 2 thành viên chuyên trách.[4] Chủ tịch Hội đồng quản trị là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thành phần Hội đồng quản trị
Ban đại diện Hội đồng quản trịSửa đổiBan đại diện Hội đồng quản trị là đại diện của Hội đồng quản trị, có chức năng giám sát việc thực hiện điều lệ, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, chỉ đạo việc gắn tín dụng chính sách với kế hoạch giảm nghèo bền vững và dự án phát triển kinh tế xã hội tại địa phương để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ưu đãi.[4] Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định cơ cấu, thành phần nhân sự và quyết định thành lập.[25] Bộ máy tác nghiệpSửa đổiĐiều hành hoạt động của hệ thống là Tổng Giám đốc, điều hành hoạt động tại Chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Giám đốc Chi nhánh, còn điều hành hoạt động tại Phòng giao dịch cấp quận/huyện là Giám đốc Phòng giao dịch.
Video liên quanChủ Đề |