Dân tộc mông ở đâu

  • Việt Hà, phóng viên RFA
    2011-05-10


Có lẽ hiếm có lúc nào người ta chú ý nhiều đến người H’Mông  như lúc này. Họ là ai? Văn hóa và niềm tin tôn giáo của họ ra sao? Việt Hà có bài tìm hiểu và tường trình.

Lịch sử

Những người Việt Nam và nước ngoài đi du lịch vùng Tây Bắc hẳn không thể nào quên hình ảnh của những phiên chợ của người H’Mông với những sắc màu rực rỡ trong trang phục của những cô gái người H’Mông, hay chảo thắng cố lớn bốc khói nghi ngút. Nhưng nếu ai đó muốn thực sự tìm hiểu về lịch sử, cuộc sống của người H’Mông thì sẽ thấy có rất nhiều chuyện để nói, hơn rất nhiều những cái gì mà họ mới chỉ thấy ở bề mặt tại các phiên chợ nổi tiếng của người H’Mông.

Người H’Mông ở Việt Nam là một phần của tộc người H’Mông tại châu  Á có lịch sử khoảng 4.000 năm. Họ sống chủ yếu ở các vùng núi cao phía Nam Trung Quốc và phía Bắc các nước Đông Nam Á như Lào, Việt Nam, Thái Lan và  Miến Điện.

Người dân người ta hoang mang vì suốt bao năm người ta đã tin Chúa mà vẫn bị tình nghi bảo không phải tin Chúa mà theo kẻ phản động.

Mục sư ở Tây Bắc

Một số các tài liệu nghiên cứu cho thấy người H’Mông đã di cư vào Việt Nam sớm nhất là khoảng 300 năm và muộn nhất là khoảng 100 năm về trước. Ở Việt Nam, người H’Mông là một trong số những nhóm dân tộc thiểu số có dân số đứng thứ 8 trong danh sách 54 dân tộc tại Việt Nam. Theo cuộc điều tra vào năm 2009, người H’Mông tại Việt Nam hiện có khoảng 1 triệu người, sống chủ yếu tại các tỉnh phía Bắc như Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, một số đã di dân vào các vùng miền Trung Việt Nam như Đắc Lắc, Đắc Nông.

Đối với rất nhiều người đi du lịch lên vùng núi phía Bắc Việt Nam, và đã từng gặp người H’Mông, những gì mà họ thấy chủ yếu là cuộc sống bình dị, và yên bình của người H’Mông tại đây. Không có nhiều người bỏ nhiều thời gian, sức lực để sống với người H’Mông và tìm hiểu về cuộc sống của họ. Gần đây, khi vụ tập trung đông ngươì H’Mông tại huyện Mường Nhé, tỉnh Điện  Biên nổ vào khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5, người ta mới bắt đầu đào bới tìm hiểu xem, cuộc sống thực tế của họ ra sao.

Khi đào bới và tìm kiếm, người ta đọc lại các bài viết của một cây viết đã nhiều năm lăn lộn trên núi rừng Tây Bắc là nhà báo Đỗ Doãn Hoàng của báo Lao Động. Nhưng điều mà nhà báo này viết về cuộc sống của người H’Mông ở huyện Mường Nhé vào khoảng năm 2004, vào 2009 lại cho người ta thấy những điểm nóng, đáng buồn về nạn phá rừng tràn lan. Xin trích một đoạn trong bài viết của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng vào năm 2009 trên báo Lao Động như sau:

Các Em nhỏ người dân tộc H'Mông ở Điện Biên. AFP PHOTO. “Trước thảm trạng hơn 20 năm qua, 310.000 ha rừng đặc dụng Mường Nhé chưa bao giờ được cắm mốc xác định ranh giới, thậm chí đến khi rừng bị phá, cơ quan chức năng ngơ ngác  hỏi nhau: Ai sẽ chịu trách nhiệm nhỉ?... Rừng bị tàn sát đến choáng váng kia không còn làm ai ngạc nhiên nữa.

Đến nay, diện tích chính thức được bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé chỉ còn có 45.000 ha. Cả trăm nghìn hecta rừng đã bị phá, nói đúng hơn vì khu bảo tồn hơn ba trăm nghìn hecta kia bị rỗng ruột từ rất lâu, nay đang tiếp tục bị xẻ thịt trên diện rộng.”

Vậy ai là người phá rừng và xẻ đất, theo nhà báo Đỗ Doãn Hoàng thì đó là những người di dân tự do. Họ là những người H’Mông đi tìm nơi đất lành chim đậu. Nhà báo Đỗ Doãn Hoàng viết:

“Cả các xã mênh mông từ Mường Nhé, Sìn Thầu, Chung Chải, xưa vốn chỉ có duy nhất bản Nậm Là là nơi sinh sống của đồng bào H’Mông thì nay, dân số Mường Nhé đã đến mức nửa già là người H’Mông. Hầu hết họ đến bằng con đường di dân tự do.”

Chúng tôi được tổng hội chứng nhận là người giảng đạo vẫn không đi được, đi đến đâu cũng bị ngăn chặn lại.

Mục sư ở Tây Bắc

Theo nhà báo Đỗ Doãn Hoàng thì vào năm 2009, Mường Nhé đã có tới 149 bản làng với 54.000 dân. Trước đó vào năm 2002 chỉ có 27.000 người.

Chủ tịch Mường Nhé nói với nhà báo Đỗ Doãn Hoàng là chính quyền đã huy động tổng lực ngăn chặn và vận động bà con sớm hồi hường nhưng người dân chống đối, kiên quyết không rời khỏi rừng. Thậm chí họ còn lăng nhục, xỉ vả cán bộ, có người còn bị chém hụt.

Cũng theo giới chức địa phương thì Mường Nhé hiện là một trong các huyện nghèo nhất Việt Nam với thu nhập bình quân đầu người mỗi năm chỉ khoảng 220 cân thóc.

Đàn áp tôn giáo

Thế nhưng cuộc sống tinh thần của người H’Mông tại đây có lẽ là điểm thu hút được sự chú ý của quốc tế hơn cả. Không phải chỉ bởi những phong tục tập quán của họ mà còn bởi tôn giáo, niềm tin của họ.

Các số liệu thống kê của các tổ chức phi chính phủ quốc tế gần đây cho thấy hiện có khoảng 300.000 người H’Mông sống ở vùng núi phía Bắc theo đạo Tin Lành.

Những người H’Mông theo đạo tin lành ở phía Bắc cũng chịu sự đàn áp về tôn giáo từ chính quyền. Các tổ chức về tôn giáo và phi chính phủ như Trung tâm tự do tôn giáo có trụ sở tại Mỹ đã từng lên tiếng phản đối chính phủ Việt Nam trong việc đàn áp người H’Mông theo đạo tin lành, bắt họ phải từ bỏ niềm tin của mình.

Tổ chức Helping Suffering Churches, một tổ chức phi chính phủ cho biết vào năm 2002, có rất nhiều người H’Mông theo đạo Thiên chúa tại các tỉnh lai Châu, và Lào Cai đã bị đánh đập, bắt bớ và bắt phải bỏ đạo của mình.

Người dân tộc H'Mông ở miền Bắc mua bán trong ngày họp chợ. RFA PHOTO. Năm 2003, một báo cáo của Human Right Watch cho biết một trường hợp người H’Mông ở tỉnh Lai Châu bị công and đánh đến chết vì không bỏ đạo của mình.

Năm 2003, tổ chức phi chính phủ của Mỹ có tên International Christian Concern cho biết có những mục sư người H’Mông bị bắt cóc tại nhà vào ban đêm, bị bỏ tù hoặc đưa đi cải tạo mà không được liên lạc với gia đình.

Một mục sư theo đạo tin lành, giấu tên, sống ở vùng Tây Bắc cho đài Á châu tự do biết về tình trạng đàn áp của chính phủ với việc thờ nguyện và giảng đạo trong cộng đồng người H’Mông theo đạo tin lành tại đây như sau:

Mục sư giấu tên: “Thực sự con cái Chúa ở Việt Nam này người ta chỉ tin chúa thôi, nhưng người dân người ta hoang mang vì suốt bao năm người ta đã tin Chúa mà vẫn bị tình nghi bảo không phải tin Chúa mà theo kẻ phản động….

Chúng tôi được tổng hội chứng nhận là người giảng đạo vẫn không đi được, đi đến đâu cũng bị ngăn chặn lại. Tôi chỉ được phục vụ quanh địa bàn đăng ký thường trú ở thôi.”

Vị mục sư này nói người H’Mông ở đây chỉ muốn được ổn định, tự do theo đạo của mình, không còn bị bắt bớ nữa.

Nhưng với những gì đang diễn ra tại Điện Biên trong những ngày nay, khi mà thông tin về vụ tập trung đông người H’Mông ở huyện Mường Nhé vẫn bị bưng bít, người ta không thể không hỏi liệu những mong ước xem chừng giản đơn vậy của người H’Mông đã được chính quyền thực sự lắng nghe?

Theo dòng thời sự:

Người H’mông là một trong những dân tộc thiểu số có dân số đông ở miền Bắc Việt Nam. Cùng với 53 dân tộc anh em, người H’mông luôn luôn là một phần của sự thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú cho nền văn hoá các dân tộc Việt Nam.
1. Quá trình di cư của người H’mông vào Việt Nam
Người H’mông ở Việt Nam hiện nay đều có nguồn gốc từ phương Bắc. Theo các truyền thuyết của Trung Quốc thì người H’mông xuất hiện sớm nhất ở khu vực trung và hạ lưu sông Trường Giang. Cách đây 5000 năm đã có liên minh bộ lạc do tù trưởng Suy Vưu làm thủ lĩnh. Suy Vưu tức là Vua của Cửu Lê. Cũng trong thời kỳ này có liên minh bộ lạc khác do Hiên Viên đứng đầu, nổi lên ở thượng nguồn sông Hoàng Hà. Hai liên minh bộ lạc này luôn xung đột với nhau, cuối cùng Cửu Lê bị bại trận, Hiên Viên xưng Hoàng đế [vào khoảng 2.700 năm TCN].Ở thời kỳ của vua Nghiêu, Thuấn, Vũ [theo truyền thuyết] lại xuất hiện liên minh mới là “Tam Miêu”, “Hữu Miêu” hoặc “Miêu Dân” và khá hùng mạnh. Họ đã đứng lên chiến đấu rất kiên cường chống lại các thế lực nhà nước do các Vua đứng đầu. Trong các thế kỷ 16 đến 11 T.Cn, phần lớn người dân “Tam Miêu” cùng các tộc người khác ở miền trung lưu Trường Giang được gọi là “Kinh Sở”, có thời kỳ còn gọi là “Nam Man”, đời sống kinh tế khá phát đạt, có một bộ phận được gọi là “Kinh man” rất cường thịnh. Đến các triều Ân, Chu, nhà nước Trung Quốc vẫn coi Kinh Man là thù địch. Từ đó trở đi, sự đối địch giữa Nam Man và Bắc Địch ngày một gia tăng, làm cho tình hình Trung Quốc không lúc nào được yên ổn.Như vậy từ Cử Lê đến Tam Miêu, Nam Man, Kinh Sở đều có mối liên hệ về nguồn gốc với nhau. Có thể coi đó là tổ tiên của người H’mông hiện nay. Lúc đầu người H’mông cư trú ở phía bắc sông Hoàng Hà, giai đoạn phát triển nhất của họ là Tam Miêu, về sau do sự phát triển và mở rộng lãnh thổ của người Hán, họ lui dần xuống phía nam của con sông này. Sau nhiều cuộc chiến diễn ra rất khốc liệt giữa người Hán với người H’mông, người H’mông luôn thua trận và phải rút về lưu vực sông Dương Tử, rồi vượt qua con sông này đi về phía Nam và Tây Nam, khu vực giáp giới với 5 tỉnh của Trung Quốc hiện nay là Hồ Nam [Tương], Quý Châu [Kiềm], Tứ Xuyên [Xuyên], Hồ Bắc [Ngạc] và Quảng Tây [Quế], lấy Nguyên Giang làm trung tâm.

Theo các nhà dân tộc học Việt Nam thì phần lớn những người H’mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều di cư trực tiếp từ Quý Châu, Quảng Tây và Vân Nam [Trung Quốc] sang. Riêng một số nhóm ở Thanh Hoá, Nghệ An di cư đến Việt Nam qua Lào. Người H’mông đến Việt Nam bằng các con đường khác nhau và chia thành nhiều đợt, trong đó có 3 đợt chính:

– Đợt thứ nhất, khoảng 100 hộ, thuộc các họ Lù, Giàng từ Quý Châu đến khu vực các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, thời gian vào quãng cuối đời Minh, đầu đời Thanh của lịch sử Trung Quốc, tương đương với những năm có phong trào của người Miêu ở Quý Châu chống lại chính sách “cải tổ quy lưu” và bị thất bại, cách đây trên 300 năm. Từ đây, họ bắt đầu tiếp tục di cư vào sâu hơn đến các tỉnh thuộc Đông Bắc Việt Nam

– Đợt thứ hai, khoảng trên 100 hộ, trong đó có những hộ thuộc họ Vàng, họ Lý cũng vào khu vực Đồng Văn. Còn một nhóm khác số người ít hơn, thuộc các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Sau đó có khoảng 30 hộ gồm các họ Vừ, Sùng chuyển sang phía Tây Bắc Việt Nam. Thời gian của đợt di chuyển này cách đây trên 200 năm. Một số hộ người H’mông này sau đó tiếp tục di cư rải rác đến các tỉnh của Tây Bắc Việt Nam

– Đợt thứ ba, số người Hmông di cư vào Việt Nam đông nhất, gồm khoảng trên 10 ngàn người. Phần lớn họ từ Quý Châu, có một số từ Quảng Tây và Vân Nam sang, chủ yếu vào các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái… Thời gian của đợt di cư này tương đương với thời kỳ của phong trào “Thái Bình Thiên Quốc”, trong đó có người Miêu tham gia, chống lại nhà Mãn Thanh từ năm 1840 đến 1868. Về sau, họ tiếp tục di cư đến các huyện của các tỉnh thuộc Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam.

Về sau hàng năm vẫn có người H’mông di cư lẻ tẻ sang Việt Nam. Các con đường di chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi xuống Tuyên Quang. Riêng các nhóm H’mông cư trú ở hai tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An và các huyện giáp biên giới Lào của Sơn La như Mai Sơn, Mộc Châu, Sốp Cộp, Sông Mã cũng từ Lào và các tỉnh miền núi miền Bắc vào trên dưới 100 năm trở lại đây.

Từ sau ngày đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới [1986], tình hình di chuyển của người H’mông luôn gia tăng, theo hai hướng Bắc – Nam và Đông – Tây. Vì vậy, số địa phương có người H’mông sinh sống ngày càng tăng lên đáng kể.

2. Vài nét về dân số người H’mông ở Việt Nam 

Trước năm 1960, dù có một số tài liệu được công bố về dân tộc H’mông, vẫn chưa có một công trình nào xác định được chính xác dân tộc H’mông ở Việt Nam có bao nhiêu người. Chỉ đến ngày 1 – 3 – 1960, với cuộc Tổng điều tra dân số toàn miền Bắc, người ta mới biết được người H’mông có 105.521 người. Đến cuộc tổng điều tra dân số toàn miền Bắc lần thứ hai ngày 1 – 4 – 1974, người Hmông có 348.722 người.

Như vậy, sau 14 năm dân số người H’mông tăng thêm 243.201 người. Tại cuộc Tổng điều tra dân số toàn quốc lần thứ nhất [1 – 10 – 1979], dân số H’mông là 411.074 người. Ở cuộc Tổng điều tra dân số toàn quốc lần thứ hai [1 – 4 – 1989], dân số H’mông là 558.053 người, vậy là sau khoảng 10 năm, dân số H’mông tăng thêm 146.979 người, bình quân hàng năm trong giai đoạn này tăng 3.2%. Đến cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam lần thứ ba [1 – 4 – 1999], dân số H’mông là 787.604 người, sau 10 năm tăng thêm 229.551 người, bình quân tăng hằng năm là 3.4%. So với các dân tộc ở Việt Nam, tốc độ tăng dân số bình quân của người H’mông thuộc loại cao.

Người H’mông không những có tỉ lệ phát triển dân số cao mà còn có tốc độ di chuyển dân cư khá lớn. Nếu như năm 1960 họ chỉ có mặt ở 398 xã, năm 1979 có mặt ở 677 xã, thì năm 1989 họ đã có mặt ở 802 xã và năm 1999 có mặt ở trên 1.000 xã. Chỉ tính ở cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, họ đã có mặt ở tất cả các vùng trong cả nước, đông nhất là khu vực Đông Bắc 445.782 người [56.60%], tiếp đến là Tây Bắc 289.000 người [36.69%], Bắc Trung Bộ 39.373 người [4.99%], Tây Nguyên 12.392 người [1.57%], đồng bằng Sông Hồng 533 người, Đông Nam Bộ 431 người và đồng bằng sông Cửu Long 53 người.

H’mông là một dân tộc có dân số tương đối đông [trên 9 triệu người], cư trú ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, trong đó đông nhất là ở Trung Quốc [khoảng 7,5 triệu người]. Ở Việt Nam, người H’mông có trên 80 vạn, ở Lào – khoảng 25 vạn, ở Thái Lan – 15 vạn… Trong vài ba thập niên gần đây, người H’mông còn có mặt ở một số nước ngoài châu Á như: Pháp, Mỹ, Canada, Ốtxtrây lia …

Ở nước ta, người H’mông nằm trong nhóm các dân tộc nói ngôn ngữ H’mông – Dao [gồm ba dân tộc: H’mông, Dao và Pà Thẻn]. Trước năm 1979, họ được gọi là người Mèo. Ở Trung Quốc, người H’mông được gọi là người Miêu. Ở Lào gọi là người Mẹo. Hiện nay, ngoài Trung Quốc, còn ở hầu hết các nước trên thế giới, họ đều được gọi là H’mông.

Gần đây có người cho rằng, nên gọi dân tộc này là Mông, thay cho H’mông, nhưng cũng có những ý kiến khác không tán thành và cho rằng bản thân trong chữ viết của họ, người H’mông viết tên dân tộc mình là Hmôngz; lại có ý kiến cho rằng Mông là một tục từ không được đẹp và ảnh hưởng đến tinh thần tự tôn của dân tộc này. Một số nhà khoa học nước ngoài có lưu ý, nếu viết là Mông thì có thể nhầm với dân tộc Mông ở Mông Cổ và Trung Quốc… Vì vậy, theo chúng tôi viết tên dân tộc này là H’mông, đó là cách viết chính xác nhất. Hiện nay ở nước ta có các nhóm H’mông như sau:

1. H’mông Đơ hoặc H’mông Đâu [H’mông trắng]. 2. H’mông Đu [H’mông Đen]. 3. H’mông Si [H’mông Đỏ]. 4. H’mông Dua [H’mông Xanh]. 5. H’mông Lềnh [H’mông Hoa]. 6. H’mông Xúa [H’mông Lai].

7. Ná Mẻo [H’mông Nước].

Riêng nhóm Ná Mẻo, cho đến nay cũng có các ý kiến khác nhau, vì sống tách biệt với cộng đồng H’mông nói chung và sống kề cận với các dân tộc nói ngôn ngữ Tày – Thái, Việt – Mường nên hiện có những đặc điểm riêng, có thể là một nhóm dân tộc H’mông hoặc là một nhóm của dân tộc khác, cần được nghiên cứu tiếp.

H’mông Đơ hoặc H’mông Đâu [H’mông trắng].

Tộc người H’Mông sinh sống chủ yếu ở Sa Pa là người H’Mông Đen do quần áo của họ toàn màu đen nhưng trang phục của họ lại khác hẳn người H’Mông Đen ở nơi khác, vì thế thường được gọi là người H’Mông Sa Pa. Người đàn ông thường mặc quần màu đen hoặc xanh đen [màu chàm] giống nhau, áo cánh ngắn tay bên ngoài khoác áo không tay kiểu như áo gilê có vạt dài quá mông. Trên đầu đội một cái mũ bé tí, tròn, nông, ôm lấy đỉnh đầu trông như cái mũ của Giáo hoàng, có chiếc đen tuyền, có chiếc còn viền một vòng thêu thổ cẩm. Mũ của đám con trai còn được khâu thêm vào các dải vải màu hoặc các đồng tiền lủng lẳng. Người phụ nữ cũng mặc đồ đen, trên đầu cũng đội một chiếc khăn đen, vành thẳng đứng như một cuộn giấy cao vượt đỉnh đầu. Bên ngoài là một chiếc áo khoác không có tay, vạt dài gần tới gối như của đàn ông. Chiếc áo khoác này được lăn ép bằng sáp ong vì thế có màu đen ánh bạc. Để giữ gìn, nhiều khi người ta mặc lộn mặt trái có màu trắng ra ngoài. Đặc biệt nhất là phụ nữ H’Mông Sa Pa lại mặc quần ngắn ngang đầu gối chứ không mặc váy. Họ cuốn xà cạp quanh bắp chân rất khéo bằng một băng vải hẹp.

H’mông Đu [H’mông Đen]

H’mông Đỏ

Phong tục văn hoá của dân tộc H’mông

Nguồn://www.tinmoi.vn

Đồng bào có câu “Lửa cháy đến đâu người Mông th

eo đến đó” hay “Người chạy theo nương” để nói về cuộc sống du canh nương rẫy. Sản phẩm nông nghiệp chính là ngô, lúa nương, khoai, mạch ba góc, ý dĩ, lạc, vừng, đậu và các loại rau… ở một vài nơi có ruộng bậc thang. Các loại quả táo, đào, mận, lê cũng rất nổi tiếng và đồng bào còn trồng cả các loại cây thuốc như tam thất, xuyên khung, đảm xâm…

Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt động sản xuất đặc sắc của người H’mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng; làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công H’mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp, làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, dao, cuốc, xẻng, nòng súng đạt trình độ kỹ thuật cao.

Người H’mông sống quần tụ trong từng bản có vài chục nóc nhà, họ thường thích sống khép kín, nhiều nơi đồng bào xây tường đá ngang đầu quanh nhà ở. Nhà cửa là loại nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Phổ biến là nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Quanh làng vẫn còn lại đến ngày nay những ngôi nhà của người H’mông giàu có, trình tường xung quanh, cột gỗ thông kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói âm dương có gác lát ván.

Các vùng người H’mông sinh sống thường có chợ phiên, vừa là nơi trao đổi hàng hoá, vừa là nơi thể hiện nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt. Người H’mông quen dùng ngựa thồ hàng và cưỡi đi chợ, gùi có hai quai đeo vai. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình người H’mông. Chợ tình được tổ chức mỗi năm một lần [chợ tình Sa Pa] là một nét văn hoá đẹp đặc sắc của người H’mông.

Người H’mông rất coi trọng dòng họ, họ quan niệm: người cùng dòng họ là những người anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau, cưu mang nhau. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Người H’mông cũng như nhiều dân tộc ít người khác tồn tại tín ngưỡng đa nguyên. Thờ cúng tổ tiên là thờ những người trong gia đình đã chết ba đời trở lại. Thờ cúng tổ tiên ở tất cả gia đình những người con trai đã tách ra ở riêng chứ không phải chỉ con trưởng. Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người H’mông còn tồn tại một hệ thống ma nhà với những lễ thức cúng bái riêng biệt.

Hôn nhân gia đình của người H’mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Thanh niên nam nữ được lựa chọn bạn đời. Việc lựa chọn bạn đời được biểu hiện ở tục “cướp vợ” trước đây. Người thanh niên cùng bạn bè cướp người con gái yêu thích về ở nhà mình vài hôm rồi thông báo cho gia đình nhà gái biết. Vợ chồng người H’mông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ…

Trang phục của người phụ nữ H’mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm dân tộc, gồm: váy, áo xẻ ngực có yếm lưng, tấm xiêm che trước bụng, thắt lưng, khăn quấn đầu, xà cạp quấn hai bụng chân. Váy hình nón cụt, xếp nếp xòe rộng chữ thập trong các hình vuông, nhưng váy mang hình ống, khi mặc mới xếp nếp thắt lưng ngoài cạp; Áo mở chếch ngực về phía bên trái, cài một khuy, cánh tay, cổ áo, gấu áo đều thêu hoa văn…Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.

Trang phục của đàn ông H’mông giống như đàn ông Nùng: quần dài, đũng chân què cạp lá tọa, áo ngắn ống rộng cổ đứng mổ bụng khuy cài, quần áo đều màu chàm.

– Dân tộc H’mông hay Mông, Na Miẻo còn có các tên gọi khác là Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.- Nhóm địa phương: Mông Đơ [Mông Trắng], Mông Lềnh [Mông Hoa], Mông Sí [Mông Đỏ], Mông Đú [Mông Đen], Mông Súa [Mông Mán], Mông Xanh.- Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông – Dao- Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mông ở Việt Nam có 1.068.189 người, cư trú tập trung tại các tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng …

Người H’mông có đời sống văn nghệ khá phong phú, đặc biệt là văn học truyền miệng có rất nhiều thể loại, như Truyện thần thoại về anh hùng văn hóa tìm ra loại giống và dạy người H’mông cách trồng ngô, lúa, trồng lanh làm vải mặc … Truyện cổ tích về các con vật chiếm khá nhiều, đặc biệt là truyện về hổ…

Người H’mông say đắm dân ca dân tộc mình, đó là Tiếng hát tình yêu [gầu plềnh], Tiếng hát cưới xin [gầu xuống]… mà họ thường hát khi lao động nương rẫy, trong lúc se sợi dệt vải, trong khi đi chợ, đi hội.

Trong những dịp lễ hội, đặc biệt là hội Gầu tào [đón năm mới], những bài hát dân ca này không chỉ thể hiện bằng lời mà còn có thể giãi bày thông qua những nhạc cụ dân tộc [sáo, khèn, kèn lá, đàn môi…]. Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gửi gắm và thể hiện tiếng lòng mình với bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước.

Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc H’mông là một trong những dân tộc ít bị mai một hơn về bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay, để phát triển mà không bị hoà tan, mất bản sắc, thì việc bảo tồn văn hoá dân tộc đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tâm huyết, bền bỉ, lâu dài. Có như thế những giá trị văn hoá sẽ mãi mãi được gìn giữ và phát huy./.__________________________

Tài liệu tham khảo:

1. Lã Văn Lô [1973]: Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Người Hmông ở Việt Nam. Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2005. 3. Lò Giàng Páo [1997]: Tìm hiểu văn hoá vùng các dân tộc thiểu số. Nxb Văn hoá, Hà Nội.

4. //vi.wikipedia.org/

Trang phục của người H’mông

gười H’mông có nhiều chi: H’mông Đơ [trắng], H’mông Lềnh [vàng], H’mông Sy [Đỏ], H’mông Súa [Hoa], H’mông Đu [Đen]. Một bộ trang phục cổ truyền của phụ nữ gồm váy hình nón cụt, xếp nếp, phần mông bó chặt, phần thân váy xòe rộng. Áo có cổ lật ra phía sau gáy. Thắt lưng buông hai dải dài phía sau. Tấm vải che đằng trước váy. Vuông vải che ở phía mông. Khăn quấn đầu. Xà cạp và tấm áo khoác ngoài không có tay, có cổ lật ra phía sau gáy. Tất cả các chi trong dân tộc H’mông đều có kỹ thuật thêu khá tinh vi và có truyền thống giỏi trong trang trí bằng hình chắp vải mầu, vẽ sáp ong trên vải để lấy họa tiết mầu trắng trên nền mầu chàm. Hầu hết các họa tiết được thêu, vẽ, chắp vải trên nền vải lanh trắng hoặc vải đỏ, có định hình sẵn là các bộ phận của áo, váy. Sau khi hoàn thiện đồ án trang trí từng bộ phận riêng lẻ, người ta mới may ráp, hoàn chỉnh váy, áo… Đó là cách làm riêng của người H’mông, khác các dân tộc anh em đã thể hiện trang trí ngay trên thành phẩm của mình.

Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải tự dệt, đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Chỉ với 4 màu chủ đạo xanh, đỏ, trắng, vàng của chỉ tơ tằm mà họa tiết của trang phục đã tỏa ra muôn sắc màu, tạo cảm giác trầm ấm. Trang phục của phụ nữ Mông có họa tiết hoa văn đẹp từ khăn đội đầu đến xà cạp quấn chân. Phụ nữ Mông trắng trang phục có họa tiết tập trung ở cổ áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ giáo phía trước. Phụ nữ H’Mông Hoa trang trí họa tiết ở trang phục phong phú hơn, ở cả khăn đội đầu, cổ áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ giáo, thân váy, xà cạp… kỹ thuật thêu hoa văn của người H’Mông rất phức tạp và vì thế, nó thể hiện sự tinh tế của người phụ nữ H’Mông. Cách bố cục và họa tiết trên trang phục của người Mông còn thể hiện sức sống, bản lĩnh của người Mông trước thiên nhiên…

Trang phục của người Hmông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.

Phụ nữ Hmông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.

Phụ nữ Hmông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.

Phụ nữ Hmông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.

Phụ nữ Hmông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Hmông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.

Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Trang phục nam:Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang.

Trang phục nữ: Phụ nữ H’Mông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Váy là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là ‘giao thoa’ giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người H’mông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn

Vifash [tổng hợp]

Video liên quan

Chủ Đề