Đánh giá phương pháp dạy học tập đọc ở tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy môn Tập đọc lớp 3

A. PHẦN MỞ ĐẦU

     I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

     1. Cơ sở lý luận:

     Như ta biết: “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.”

                                                                                            (Luật Giáo dục - 1998)

      Chương trình tiểu học có rất nhiều phân môn, trong đó phân môn Tiếng Việt là phân môn chiếm thời lượng giảng dạy nhiều nhất. Môn Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy; bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

    Từ đặc tâm lý của các em (lớp 1, lớp 2) dễ nhớ và cũng hay chóng quên đi phần nào. Từ đó, môn Tập đọc góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở bậc tiểu học theo đặc trưng bộ môn của mình. Việc giảng dạy bộ môn tập đọc trong nhả trường  nhằm tạo cho các em năng lực sử dụng Tiếng việt, văn hóa để suy nghĩ, giao tiếp và học tập phát triển các kỹ năng đọc và nghe cho học sinh, trau dồi vốn tiếng việt, vốn văn học để phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học học sinh về cuộc sống cụ thể. Làm giàu và tích cực hóa vốn từ, vốn diễn đạt. Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc sống cung cấp mẫu để hình thành một số kĩ năng để phục vụ cho đời sống và việc học tập của bản thân như điền vào các tờ khai ( đơn giản), làm đơn, viết thư, phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của lớp.

- Phát triển một số tư duy cơ bản như: phân tích, tổng hợp, phán đoán…

- Bồi dưỡng tư duy, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái đẹp, cái thiện thái độ ứng xử đúng mức trong cuộc sống, hứng thú đọc sách và yêu thích Tiếng việt, cụ thể:

+ Bồi dưỡng trẻ yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối với ông bà cha mẹ, thầy cô, yêu trường yêu lớp, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè ,vị tha nhân hậu.

+ Xây dựng và năng lực thể hiện những phép xã giao tối thiểu.

+ Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong sách giáo khoa, hình thành phát triển ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản, văn học, cảm thụ vể đẹp của Tiếng việt.

      Phân môn Tập đọc trong trường Tiểu học có một ý nghĩa rất to lớn. Nó trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là một công cụ để học tập các môn học khác. Việc dạy Tập đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lô - gíc cũng như có hình ảnh.

     Vì vậy phương pháp dạy Tập đọc ở tiểu học nói chung và phương pháp dạy tập đọc ở lớp 3 nói riêng đều mang tính tổng hợp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là người giáo viên phải hình thành được kỹ năng đọc cho học sinh, đó là một trong những kỹ năng cơ bản nhất. Yêu cầu một học sinh đọc có chất lượng tốt là phải đọc đúng, ngắt nghỉ đúng, đọc nhẩm, đọc hiểu, đọc diễn cảm.

     Hiện nay ở trường tiểu học cho ta thấy kỹ năng đọc của học sinh chưa đồng đều, một số đọc còn yếu, một số giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy cho học sinh tiểu học, chưa tìm ra biện pháp dạy môn tập đọc để nâng cao hiệu quả giờ dạy. Nguyên  nhân của đọc yếu và đọc chưa tốt của học sinh là do nhiều tác động như: phương pháp giảng dạy của giáo viên, ngôn ngữ địa phương, do tài liệu, sách giáo khoa, câu hỏi còn chung chung, chưa đi sâu vào nội dung bài, cách kết hợp các phương pháp dạy còn hạn chế. Do vậy giờ dạy chưa đạt kết quả cao, dẫn đến học tốt môn tập đọc còn hạn chế.

     Trước những vấn đề trên tôi đã nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy môn Tập đọc lớp 3” để giúp các em học tốt, có khả năng giao tiếp tốt, viết được bài văn hay, có cảm nhận về văn học, yêu thích môn tiếng việt và tích cực đến lớp, đến trường học.

B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.

     1. Phạm vi nghiên cứu.

     Nghiên cứu phương pháp dạy học tốt ở môn tập đọc lớp 3 thuộc phân môn tập đọc lớp 3 của tiểu học.

     2. Mục đích nghiên cứu.

     Nhắc lại các phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 nói chung và phương pháp dạy phân môn tập đọc lớp 3 nói riêng, đồng thời đề xuất những biện pháp cụ thể ở một số bài học cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả dạy tập đọc học sinh lớp 3.

     3. Đối tượng nghiên cứu.

     Tôi chọn học sinh lớp 3A6 trường tiểu học Lĩnh Nam là lớp tôi chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy năm học 2018- 2019 với:

Tổng số học sinh: 51 em. Trong đó:

 Nam: 26; Nữ: 25; Dân tộc: 3.

* Kết quả khảo sát môn Tiếng việt đầu năm như sau:

Tổng số HS

HTT

Tỉ lệ %

HT

Tỉ lệ %

CHT

Tỉ lệ %

51

8

16

41

80

2

4

     4. Phương pháp nghiên cứu.

     Để đạt được mục được mục đích nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:

- Thu thập các tài liệu như: sách tham khảo, các tập san báo giáo dục thời đại, giờ dạy mẫu trên Ti vi, sách giáo viên, sách hướng dẫn giảng dạy tiếng việt lớp 3.

- Phân tích tài liệu dạy học sách giáo khoa lớp 3 mới và sách hướng dẫn về nội dung và cấu trúc.

- Phương pháp trao đổi với giáo viên và gia đình học sinh.

- Phương pháp dạy thực nghiệm, tổ chức giờ học sôi nổi và phương pháp kiểm tra đánh giá.

CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN

     I. Mục đích tác dụng của phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 nói chung và phương pháp giảng dạy môn tập đọc ở lớp 3 nói riêng.

Mục đích dạy môn tập đọc:

Môn tiếng việt ở tiểu học chia làm nhiều phân môn, trong đó tập đọc là phân môn thực hành bằng lời nói, nếu dạy tốt môn tập đọc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các môn học khác.

Đọc là tiếp thu những thành tựu của học vần đạt được, nâng cao lên ở mức đầy đủ và hoàn chỉnh hơn, đồng thời tạo nên bốn khả năng đã nêu: đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm.

Phân môn tập đọc giáo dục cho các em lòng ham đọc sách, hình thành cho trẻ thói quen làm việc với văn bản tới từng học sinh, làm quen với sách giáo khoa. Qua đó nhà trường là thực sự là trung tâm văn hóa cho các em. Thông qua đọc giúp các em thích đọc và xác định đọc nhiều văn bản là có ích cho cuộc sống và phát triển trí tuệ văn minh. Qua đó giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thị hiếu, thẩm mỹ của các em.

     II. Phân tích tài liệu dạy học.

     1- Quan điểm biên soạn sách giáo khoa mới.

     Dựa theo quan điểm dạy giao tiếp, quan điểm phân tích và quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.

     * Quan điểm giao tiếp.

Để thực hiện mục tiêu “hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng việt: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi”. Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3 lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hướng cơ bản.

Quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện trên cả 2 phương diện, nội dung và phương pháp dạy học. Về nội dung thông qua phân môn tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, tập làm văn. Tiếng việt lớp 3 tạo ra những môi trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ theo định hướng, trang bị những kiến thức nền tảng và phát triển các kỹ năng tiếng việt trong giao tiếp. Về phương pháp dạy học, các kỹ năng nói trên được dạy thông qua nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp với những giao tiếp tự nhiên.

     * Quan điểm tích hợp.

Tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm trí một tiết học hay một bài tập nhiều mảng kiến thức và kỹ năng liên quan với nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. có thể thực hiện tích hợp theo chiều ngang và chiều dọc. Tích hợp theo chiều ngang là tích hợp tiếng việt với các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc đồng quy. Hướng tích hợp này được sách giáo khoa tiếng việt lớp 3 thực hiện thông qua các chủ điểm học tập. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn tập đọc, kể chuyện, chính tả, tập viết, luyện từ và câu, tập làm văn trước đây ít gắn bó với nhau, nay được tập hợp lại xoay quanh trục chủ điểm và các bài đọc, các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước.

Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kỹ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng tâm đồng trục hay vòng tròn xoáy trôn ốc, cụ thể là kiến thức và kỹ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến thức và kỹ năng của lớp dưới, bậc học dưới nhưng cao hơn, sâu hơn kiến thức và kỹ năng ở lớp dưới.   

     * Quan điểm tích cực hóa trong hoạt động học tập của học sinh.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới chương trình và sách giáo khoa lần này là đổi mới phương pháp dạy và học. Chuyển từ phương pháp truyền thụ sang phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, trong đó thầy cô đóng vai trò người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển.

Để theo phương pháp tích cực hóa các hoạt động của học sinh, sách giáo khoa Tiếng việt không trình bày kiến thức như là những kết quả sẵn có mà xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức và phát triển kỹ năng sử dụng tiếng việt, sách giáo khoa Tiếng việt 3 hướng dẫn giáo viên cách thức cụ thể tổ chức các hoạt động này.

     2. Nội dung sách giáo khoa Tiếng việt 3.

     a. Các đơn vị học.

     Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3, hai tập, gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một chủ điểm, học trong 2 tuần trừ chủ điểm “ ngôi nhà chung” học trong 3 tuần, cả năm học 35 tuần. Cụ thể như sau:

Tập 1 gồm 8 chủ điểm: Măng non; Mái ấm gia đình; Tới trường (trường học); Cộng đồng ( sống với những người xung quanh); Quê hương; Bắc – Trung – Nam (các vùng miền trên đất nước ta); Anh em một nhà (các dân tộc anh em trên đất nước ta); Thành thị -  Nông thôn.

Tập 2 gồm 7 chủ điểm: Bảo vệ Tổ quốc; Sáng tạo (hoạt động khoa học,tri thức); Nghệ thuật; Lễ hội; Thể thao; Ngôi nhà chung (các nước, một số vấn đề toàn cầu như hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bảo vệ môi trường); Bầu trời và mặt đất (các hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ, con người với thiên nhiên, vũ trụ).

     b. Các phân môn.

Môn tập đọc rèn cho học sinh kỹ năng đọc, nghe và nói. Bên cạnh đó thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc; phân môn tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học, đề tài, cốt chuyện, nhân vật…góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh.

- Phân môn Kể chuyện: Rèn luyện kỹ năng nói, nghe.

- Phân môn Luyện từ và câu: cung cấp kiến thức sơ giản về tiếng việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu, nói, viết.

- Phân môn tập làm văn: Rèn luyện cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.

     c. Cấu trúc của một đơn vị học:

Trong một tuần học gồm:

- Tập đọc, kể chuyện ( 2 tiết ).

- Chính tả.

- Tập đọc (1 tiết): 1 bài thơ, hoặc một bài văn thông thường.

- Luyện TVC: 1 tiết.

- Tập viết (1 tiết).

- Tập làm văn ( 1tiết).

     * Ưu điểm sách giáo khoa:

     Nội dung tập đọc lớp 3 sát với thực tế, nội dung logic phù hợp với trình độ của học sinh. sách giáo khoa đã đáp ứng tính thực hành trong dạy và học, cấu trúc rõ ràng nhằm tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa các phân môn trong tiếng việt, tạo ra tính tổng hợp, tính thống nhất của các phân môn. Nội dung sách giáo khoa cũng thể hiện được yêu cầu nhận thức của học sinh từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp theo một hệ thống, học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, điều đó thể hiện rất rõ tính khoa học của sách.

     * Hạn chế của sách giáo khoa:

     Một số kiến thức còn trìu tượng, tranh ảnh trong sách phục vụ bài còn sơ sài. Phần hướng dẫn tìm hiểu bài ở sách giáo khoa là những câu hỏi, mà câu hỏi lại mang tính khái quát trìu tượng, làm cho học sinh khó hiểu ngay. Đồng thời câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh dùng một phương thức hành động duy nhất là “ dùng lời”. Điều này có những hạn chế số lượng học sinh làm việc trên lớp còn ít, tại vì tại thời điểm đó chỉ có một em trả lời câu hỏi, các em khác chỉ được nghe, giáo viên hầu như không kiểm soát được hết lớp, các em đã nghe và hiểu nội dung như câu hỏi các em đã trả lời. Chính vì thế giờ dạy tập đọc chưa thực sự tích cực hóa được hoạt động học tập của học sinh. Tất cả những điếu đó đều tác động vào làm hạn chế trong giờ dạy tập đọc, chất lượng thấp hơn giờ toán.

     * Khắc phục hạn chế này:

- Một số kiến thức trìu tượng này theo tôi, giáo viên nên cho tất cả học sinh đều được hoạt động tự khám phá bằng cách giáo viên gợi mở cho học sinh hoạt động theo nhóm để hiểu được hình thức trìu tượng đó.

- Với phần câu hỏi trìu tượng, giáo viên chia câu hỏi ra thành nhiều câu hỏi nhỏ và cũng cho học sinh hoạt động theo nhóm, rồi giáo viên chốt ý bằng câu hỏi trìu tượng trong sách.

     III. Phương pháp dạy học môn tiếng việt nói chung và phương pháp dạy môn tập đọc lớp 3 mới nói riêng.

     1. Phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 mới:

     Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp các kỹ năng giao tiếp không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kỹ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của người thầy. Các kỹ năng về ngôn ngữ, văn hóa, tự nhiên và xã hội đều có thể được tiếp thu qua lời giảng, nhưng học sinh chỉ làm chủ được những kiến thức này khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy những tư tưởng tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện thực tế. Đó là những lý do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới - Phương pháp tích cực hóa của người học.

- Tích cực hóa họat động của người học được hiểu là phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm, trong đó người thầy đóng vai trò người tổ chức hoạt động của học sinh. Mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển.

Hoạt động của học sinh trong giờ học theo phương pháp dạy mới. Trong môn Tiếng việt, hoạt động của học sinh có thể là hoạt động giao tiếp là đặc thù của môn tiếng việt, hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lý thuyết như ở các môn học khác. Cả hai loại hoạt động trên có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau:

- Làm việc độc lập.

- Làm việc theo nhóm.

- Làm việc theo lớp.

Trong phần lớn các trường hợp, nhất là trong trường hợp câu hỏi, bài tập đề ra rất cụ thể, học sinh được tổ chức làm việc độc lập. Trong trường hợp câu hỏi, bài tập tương đối trìu tượng hoặc đòi hỏi một sự khái quát nhất định và trong trường hợp nếu làm việc chung theo đơn vị lớp sẽ có ít học sinh được hoạt động thì làm việc theo nhóm là giải pháp tốt nhất. Hình thức làm việc chung theo đơn vị lớp được áp dụng chủ yếu trong trường hợp giáo viên thực hiện các khâu: giới thiệu bài, củng cố bài, nêu những câu hỏi không yêu cầu phải suy nghĩ lâu hoặc để học sinh trình bày kết quả làm việc.

Hoạt động của giáo viên trong giờ học theo phương pháp dạy học mới về phần giáo viên chủ yếu là:

- Giao việc cho học sinh: cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi, cho học sinh làm mẫu một phần. Tóm tắt nhiệm vụ, dặn dò học sinh.

- Kiểm tra học sinh xem học học sinh có làm việc không? xem học sinh có hiểu việc phải làm không? và trả lời thắc mắc của học sinh.

- Tổ chức báo cáo kết quả làm việc:

Các hình thức báo cáo đó là: báo cáo trực tiếp với giáo viên, báo cáo trong nhóm, báo cáo trước lớp.

Các biện pháp báo cáo: bằng miệng, bằng bảng con, bằng bảng trên lớp, bằng phiếu học, bằng giấy… hoặc thi đua giữa các nhóm và trình bày cá nhân.

- Tổ chức đánh giá.

Các hình thức đánh giá:

+ Tự đánh giá.

+ Đánh giá nhóm.

+ Đánh giá trên lớp.

Các biện pháp đánh giá như: khen, chê định tính, cho điểm định hướng.

     2. Phương pháp dạy phân môn Tập đọc ở lớp 3 mới.

     *  Nội dung dạy học:

- Rèn luyện kỹ năng đọc: Rèn luyện năng đọc thành tiếng và đọc thầm thông qua 93 bài tập đọc thuộc các loại văn bản khác nhau: văn bản nghệ thuật, văn bản hành chính, văn bản báo chí. Trong đó có 30 bài thơ từ 4 - 5 đến 7 tiếng, thơ lục bát, thơ tự do, 63 bài văn xuôi, chuyện, văn miêu tả, văn bản khoa học, nghị luận và văn bản thông thường.

Rèn kĩ đọc hiểu văn bản thông qua phần hướng dẫn văn bản sư phạm cuối bài tập đọc chú thích và giải nghĩa từ, câu hỏi và bài tập tìm hiểu bài, giúp học sinh nắm được ý chính của đoạn, tập nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật, chi tiết trong bài tập đọc.

Kết hợp rèn kỹ năng nghe, nói.

Qua việc hướng dẫn học sinh luyện đọc và tìm hiểu bài, giáo viên giúp các em có cơ hội rèn luyện kỹ năng nghe nói, nghe giáo viên và các bạn đọc, nghe giáo viên hướng dẫn bài học hoặc các bạn trả lời câu hỏi, nói trước lớp hoặc trao đổi với bạn bè về nội dung bài học.

Cung cấp và mở rộng vốn sống.

Các bài tập đọc trong sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3 phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau là gia đình, nhà trường, quê hương, các vùng miền và các dân tộc anh em trên đất nước ta đến hoạt động các văn hóa giáo dục, khoa học, thể thao và các vấn đề lớn của xã hội như bảo vệ hòa bình, phát triển tình hữu nghị, sự hợp tác giữa các dân tộc, bảo vệ môi trường sống, chinh phục vũ trụ.

     * Phương pháp tập đọc.

     1- Phương pháp đàm thoại:  

     Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ ở lứa tuổi tiểu học, các em thích hoạt động và hoạt động bằng lời nói, giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài, học sinh tự trả lời toát ra nội dung bài, muốn đọc diễn cảm được bài thì trước hết phải cảm thụ được bài văn, phải tái hiện được các nhân vật có hình tượng đẹp, hoặc nhân vật, nội dung chính trong bài. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn các em bằng câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ, dễ trả lời.

     2- Phương pháp trực quan:

     Phương pháp này phù hợp với tư duy, với tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học. Giáo viên có thể dùng nhiều hình thức trực quan: trực quan bằng lời nói, trực quan bằng dáng điệu, trực quan bằng nét mặt, trực quan bằng các động tác hình mẫu, trực quan bằng vật thực, trực quan bằng tranh ảnh, trực quan bằng băng hình.

- Trực quan bằng dáng điệu: Giáo viên thể hiện được dáng điệu đúng nội dung bài học, giúp học sinh hiểu và dễ nhớ.

- Trực quan bằng nét mặt: Nét mặt giáo viên bộc lộ vui buồn theo giọng đọc và theo nội dung bài.

- Trực quan bằng vật thực: Khi giảng giáo viên dùng vật thực để học sinh minh họa theo bài.

- Trực quan bằng tranh ảnh: Giáo viên đưa tranh ảnh mẫu phù hợp với nội dung bài.

- Trực quan bằng băng hình: Giáo viên cho học sinh nghe giọng đọc của học sinh đọc, có thể cho học sinh luyện đọc theo.

     3- Phương pháp luyện đọc thực hành:

     Là phương pháp chủ yếu trong giờ tập đọc. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được rèn luyện kỹ năng, kỹ sảo về đọc, có thể đọc đồng thanh, đọc cá nhân, đọc nhóm để phát hiện từ quan trọng, những hình ảnh tiêu biểu, làm các bài tập để xác định cách đọc và trhông hiểu về nội dung, nắm ý chính. Thông qua đọc đoạn, nắm được mục đích đọc chủ yếu, đọc cá nhân, trả lời câu hỏi để thấy được kết quả ngay tại lớp.

     4- Phương pháp trò chơi:

Đây là một phương pháp mới giúp cho học sinh có hứng thú khi đọc bài. trong cuối mỗi tiết tập đọc giáo viên tổ chức cho học sinh đọc dưới hình thức chơi trò chơi bằng cách: thi đọc phân vai theo nhân vật; thi đọc diễn cảm một đoạn văn hoặc một đoạn thơ. Trước khi học sinh tham gia trò chơi thi đọc giáo viên đưa ra tiêu chuẩn đánh giá để giúp học sinh nắm được cách chơi, luật chơi, cách nhận xét đánh giá cho điểm để tạo cho học sinh tham gia chơi một cách tích cực, vui vẻ, bổ xung cho giờ học đạt hiệu quả cao.

Tóm lại: Muốn để phân môn tập đọc đạt kết quả cao, thì người giáo viên phải kết hợp một cách linh hoạt các phương pháp trên thì giờ dạy mới không ngắt quãng, gián đoạn. Người giáo viên phải luôn biết lấy học sinh làm trung tâm. Vai trò của người giáo viên trong tiết học chỉ là người hướng dẫn, tổ chức tiết học sao cho phù hợp với đối tượng của học sinh mình, giúp học sinh tìm ra cách đọc tốt nhất, đọc hiểu  nội dung trong bài tập đọc trong giờ tập đọc.

     II. CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN

     1. Thuận lợi:

- Nhà trường: Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ, có đồ dùng, thiết bị để phục vụ cho dạy học.

- Học sinh: Phần đông học sinh được gia đình quan tâm tạo điều kiện học tập, có đầy đủ sách Tiếng Việt, đồ dùng học tập để học tập, một số học sinh đọc tương đối tốt.

- Giáo viên: Nhiệt tình trong công tác, có kinh nghiệm trong giảng dạy.

     2. Khó khăn:

 - Mức độ tiếp thu của học sinh không đồng đều, một số em đọc còn ngọng, đọc sai, đọc ấp úng, nhát gừng.

 - Một số phụ huynh còn chưa quan tâm đến học tập của con em đúng mức.

 - Hầu hết các giáo viên đều dạy học phụ thuộc vào sách giáo viên, không mạnh dạn thay đổi, điều chỉnh, nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới sáng tạo bởi sợ sai, sợ lệch hướng, Vì thế, các giáo viên cho rằng:" Dạy theo sách hướng dẫn là tốt nhất". Cứ theo cách đó thì các giờ tập đọc đều được dạy theo một khuôn mẫu, dập khuôn máy móc, cứng nhắc. Nó có ưu điểm là thực hiện đúng phương pháp song lại có nhiều nhược điểm là xa rời thực tế, tách rời học sinh , giờ học khô khan, rời rạc. Bởi vậy, thực tế chất lượng học sinh chưa cao, khả năng đọc, hiểu, cảm thụ hình thành ý thức và hành động ở học sinh chưa đáp ứng thoả đáng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của nhà trường và gia đình.

     III. NHỮNG GIẢI PHÁP.

Giải pháp 1: Áp dụng các biện pháp dạy học chủ yếu của phân môn tập đọc đã ứng dụng trong thực tế và có hiệu quả.

- Đối với học sinh tiểu học, biện pháp dạy tập trung cần thực hiện yêu cầu tối thiểu, đó là đọc đúng, đọc rành mạch, tốc độ dọc từ 60-> 70 tiếng/ phút, nắm được ý cơ bản của bài học, để đạt được yêu cầu này giáo viên cần chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn học sinh kết hợp hình thức đọc theo nhóm để học sinh tham gia nhiều lần đọc trong một tiết học, xen kẽ đọc đồng thanh để tạo không khí lôi cuốn học sinh yếu, học sinh còn rụt rè vào hoạt động học, đảm bảo toàn bộ học sinh được tham gia luyện đọc và đọc được càng nhiều càng tốt, giáo viên hạn chế đọc phân vai, đọc thầm.

Đối với phần tìm hiểu bài, cần chú ý giải nghĩa từ khó chưa gần gũi với học sinh dân tộc. Tận dụng tối đa tranh minh họa và đồ dùng dạy học, giáo viên cần giải nghĩa một cách cụ thể để học sinh dễ nhận biết, cũng vì vốn từ tiếng việt của các em còn hạn chế, giáo viên cần phải chú ý ghi rõ lên bảng các từ khó khi phát âm để học sinh theo dõi một số câu hỏi khó giáo viên chia nhỏ và gợi mở cho học sinh, dành nhiều thời gian vào đọc rõ ràng, mạch lạc.

Ví dụ: Bài tập đọc “ Người con của Tây Nguyên” tuần 13, giáo viên cần tập trung cho học sinh học đọc đoạn, còn những học sinh yếu, kém đọc đoạn 1 và 4 dễ ngắt hơi. Những học sinh khá giỏi đọc đoạn 2, 3 dài hơn, cần có thái độ biểu cảm. Để tăng thời gian cho việc đọc rõ ràng, mạch lạc giáo viên phải giảm bớt phần tìm nội dung bài, những câu hỏi dài như câu 4 nên tách ra làm 2 câu hỏi nhỏ như: Đại hội tặng dân làng Kông Hoa những gì? Giáo viên cho học sinh theo dõi sách giáo khoa và nên gọi học sinh đọc đoạn: “ Đại hội tặng dân làng Kông Hoa một ảnh Bác Hồ vác cuốc đi làm rẫy…cho Núp”. Khi xem những vật đó thái độ của dân làng như thế nào? yêu cầu học sinh đọc đoạn: “ Khi xem những vật đó thái độ của mọi người hết sức trân trọng xem đó là những vật tặng thiêng liêng. Ai nấy đều rửa tay sạch trước khi cầm lên xem từng thứ, coi đi coi lại mãi đến nửa đêm”. Ngoài ra ở những bài tập tập đọc khác, những câu hỏi khác được giáo viên gợi mở, hoặc chủ động giải thích… Đó cũng chính là những kinh nghiệm của tôi dạy môn tập đọc mới lớp 3. Còn những biện pháp dạy học chủ yếu vẫn là theo mục đích đề ra. Đó là:

- Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc “ tạo tình huống” để học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc, có thể đọc vài lần trong quá trình dạy học.

- Đọc cụm từ, từ: Nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng góp phần nâng cao về ý thức viết đúng cho học sinh.

Học sinh tìm hiểu nghĩa của từ: Giáo viên phải xác định những từ ngữ trong bài cần tìm hiểu, đó là những từ ngữ chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông mà học sinh chưa quen, vì từ ngữ đóng vai trò quan trọng để học sinh hiểu nội dung bài đọc, nên giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại phần giải nghĩa trong sách giáo khoa hoặc giáo viên dùng đồ dùng dạy học như: tranh, ảnh,vật thật, mô hình để giải nghĩa từ giúp học sinh hiểu hơn, song không nên giải nghĩa quá nhiều từ hoặc áp dụng các biện pháp kồng kềnh làm cho giờ tập đọc thiên về học từ ngữ một cách nặng nề.

- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài:

Giáo viên căn cứ vào câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa để hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài, có thể nêu nguyên văn hoặc gợi dẫn bằng 1,2 câu hỏi phụ để học sinh dễ trả lời, tùy thuộc vào học sinh trong lớp, tránh đặt thêm câu hỏi khai thác nội dung một cách quá yêu cầu bài học và không phù hợp với trình độ học sinh lớp 3.

Giáo viên có thể nêu câu hỏi trực tiếp để định hướng cho học sinh đọc thầm và trả lời đúng nội dung, đôi khi có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học sinh khác đọc thầm, sau đó trao đổi, thảo luận những vấn đề giáo viên nêu ra.

Bằng nhiều hình thức tổ chức khác nhau, giáo viên tạo điều kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực như: tự cá nhân trả lời câu hỏi, trao đổi theo cặp để trả lời. Trong quá trình trả lời câu hỏi, giáo viên cần nêu cho học sinh cách trả lời ngắn gọn, diễn đạt lưu loát, sau đó giáo viên nhận xét, chốt lại ý chính.

 Giải pháp 2: Đổi mới phương pháp nói chung - Nâng cao trình độ của giáo viên.

- Thực tế dạy học đòi hỏi phải đổi mới theo xu hướng chung của Việt Nam và thế giới trong mục đích đào tạo con người. Nhu cầu đổi mới ấy được đặt ra rất cấp thiết trong các nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng. Trường tiểu học phải rèn luyện tính cách cơ bản cho trẻ.Vì vậy đòi hỏi phải dạy học theo hướng tích cực hóa này, đó là dạy tập trung vào người học. Vì nền kinh tế, văn hóa xã hội đang đổi mới từng giờ, từng ngày, nên đòi con người phải năng động, sáng tạo, do đó mục tiêu đào tạo phải đồng thời đổi mới về phương pháp giảng dạy.

- Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và cũng là góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục có chất lượng ở tiểu học, điều đó cũng đòi hỏi phải nâng cao trình độ của giáo viên.

Trong thời kỳ giáo dục đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải đạt một trình độ chuẩn về nhận thức văn hóa và phương pháp thì mới có thể có những câu hỏi xác đáng, dễ hiểu, phải kết hợp hài hòa giữa hỏi và giảng. Giáo viên cần hiểu rõ mục đích của bài giảng thì mới có thể xây dựng được phương pháp đúng.

     Một số công việc chuẩn bị của giáo viên

     1. Phân loại, nắm chắc đối tượng học sinh.

Căn cứ vào kết quả khảo sát đầu năm học, theo dõi quá trình học tập trên lớp, tôi tiến hành phân loại học sinh theo các đối tượng:

- Đối tượng đọc tốt:  Những học sinh đọc đúng, đọc hay (đọc diễn cảm).

- Đối tượng tương đối:  Những học sinh đọc đúng song chưa diễn cảm.

- Đối tượng chưa tốt:  Những học sinh đọc chưa lưu loát và còn ngọng.

Việc phân loại đối tượng học sinh ngay tư đầu năm học sẽ giúp tôi dạy sát đối tượng, có điều kiện sửa lỗi, kèm cặp hay bồi dưỡng kịp thời.

     2. Giáo viên đọc mẫu chuẩn mực

 - Với việc đọc diễn cảm tốt, chúng ta đã chuyển đến học sinh không chỉ là nội dung bài văn, bài thơ mà cả cảm xúc của mình về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, tác động đến tình cảm của học sinh. Nghe giáo viên đọc diễn cảm mẫu tốt, học sinh không chỉ học tập về cách đọc mà phần nào các em nắm được nội dung và có được sự rung động cảm xúc.

 - Trước hết muốn rèn cho học sinh đọc thành tiếng đúng thì giáo viên phải đọc đúng, đọc hay (đọc diễn cảm). Để đạt được yêu cầu trên thì giáo viên phải rèn luyện bản thân mình đọc đúng, đọc hay. Không cho phép giáo viên dạy Tập đọc mà lại đọc chưa chuẩn.

- Để đọc diễn cảm tốt, tôi luôn rèn luyện công phu cả về giọng đọc, kĩ năng đọc và năng lực cảm thụ văn học. Tôi luôn tìm hiểu kĩ bài văn, bài thơ để cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc, tinh tế và nhờ đó tôi sẽ tìm được giọng đọc phù hợp, hấp dẫn.

- Để đọc diễn cảm tốt, tôi tiến hành như sau:

+ Trước khi soạn bài giáo viên phải đọc bài nhiều lần, đọc thể hiện được cảm xúc của tác giả khi viết bài văn, bài thơ đó.

+ Xác định sắc thái giọng đọc tùy theo đối tượng miêu tả, tính cách của từng nhân vật trong văn bản.

+ Tập ngắt nhịp theo dấu hiệu ngữ pháp, dựa vào cấu trúc câu, văn cảnh.

+ Tìm từ nhấn giọng: Từ thể hiện cảm xúc, tâm trạng.

* Ví dụ: Khi chuẩn bị dạy bài “Ai có lỗi?” (Tiếng Việt 3, tập 1 – Trang 12). Để chuẩn bị bài dạy, tôi rèn giọng đọc cho mình như sau:

- Đọc câu chuyện nhiều lần.

- Nghiên cứu kĩ, nắm chắc ý nghĩa câu chuyện: Phải biết nhường nhịn bạn, nghĩ tốt về bạn, dũng cảm nhận lỗi khi trót cư xử không tốt với bạn.

- Nghiên cứu các loại sách tham khảo, tôi sẽ xác định được giọng cần đọc:

+ Giọng nhân vật "tôi" (En-ri-cô) ở đoạn 1- đọc chậm rãi, nhấn giọng các từ: nắn nót, nguệch ra, nổi giận, càng tức, kiêu căng.

+ Đọc nhanh, căng thẳng hơn (ở đoạn 2 – hai bạn cãi nhau), nhấn giọng các từ ngữ: trả thù, đẩy, hỏng hết, giận đỏ mặt. Lời Cô-rét-ti bực tức.

+ Trở lại chậm rãi, nhẹ nhàng (ở đoạn 3) khi En-ri-cô hối hận, thương bạn, muốn xin lỗi bạn, nhấn giọng các từ: lắng xuống, hối hận,...

+ Ở đoạn 4 và đoạn 5: nhấn giọng các từ: ngạc nhiên, ngây ra, ôm chầm,... Lời Cô-rét-ti dịu dàng. Lời bố En-ri-cô nghiêm khắc.

Với cách xác định như vậy, đọc lại bài thơ nhiều lần cộng với sự chuyển giọng linh hoạt, tôi có thể cảm thấy tự tin hơn khi thể hiện giọng đọc của mình trước học sinh.

     3. Giáo viên cần lưu ý:

 - Dành quỹ thời gian cho việc soạn bài và thiết kế các hoạt động cụ thể của giáo viên, học sinh ở từng đoạn của bài.

- Tham khảo nội dung sách hướng dẫn giảng dạy để lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức học tập cho phù hợp với đối tượng của học sinh lớp mình.

- Sưu tầm đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ phục vụ cho bài dạy để học sinh hứng thú học tập tiếp thu bài sâu hơn.

Giải pháp 3. Thực hiện được mục đích, yêu cầu rèn đọc, luyện tập cụ thể trong giờ Tập đọc

     1. Rèn phát âm đúng từ ngữ

* Biện pháp chung:

Trong giờ tập đọc, phần đọc tiếp nối theo từng câu, giáo viên gọi học sinh đọc bài và giao nhiệm vụ cụ thể các em khác đọc thầm theo tìm những tiếng khó đọc, các tiếng dễ đọc lẫn. Gọi học sinh phát hiện và phát âm, các em khác theo dõi nhận xét phát âm của bạn và phát âm lại. Gọi 3, 4 em phát âm và cuối cùng giáo viên kết luận và sửa lại (nếu cần thiết).

Để rèn luyện cho học sinh phát âm đúng, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi cho học sinh. Học sinh thường mắc các lỗi:

          * Sai phụ âm : Đọc sai các tiếng có phụ âm l/ n, ch/tr, d/r/gi, s/x.

         Ví dụ: lặng lẽ  đọc thành: nặng nẽ – lặng nẽ – nặng lẽ

Chạy trốn đọc thành   trạy trốn – chạy chốn

          Sáng suốt đọc thành xáng suốt – sáng xuốt – xáng xuốt

          Dỗ dành đọc thành rỗ rành – giỗ giành

     - Biện pháp: Khi sửa sai những lỗi này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý theo dõi học sinh khá giỏi hoặc giáo viên phát âm rồi phát âm lại và sửa sai. Giáo viên có thể nêu lại cách phát âm của những từ ngữ đó để học sinh làm theo. Nếu học sinh không sửa được tôi dùng cách trực quan mô tả âm vị và hướng dẫn học sinh tự kiểm tra. Tiếng có phụ âm đầu là  l khi phát âm phải cong lưỡi lên. Tiếng có phụ âm đầu là  n khi phát âm phải đè lưỡi xuống.

* Sai nguyên âm : Đọc sai các tiếng có nguyên âm đôi như: yê, uô, ươ, những tiếng có vần khó như: hươu nai, chuyến tàu, khuôn khổ,…

* Sai vần:

Các tiếng có vần khó, ví dụ: khúc khuỷu, tuệch toạc, loạng choạng, thoăn thoắt,…

+ Các tiếng có vần “anh” đọc thành vần “ăn”

          Ví dụ: mạnh khoẻ – mặn khoẻ , lạnh buốt – lặn buốt

Các tiếng có vần “ach” đọc thành vần “ăt”

Ví dụ: chim khách – chim khắt, mách bảo – mắt bảo

          - Biện pháp: Giáo viên sửa sai những lỗi dạng này cho học sinh cần chú ý cho học sinh đọc lại theo phát âm của học sinh khá giỏi hoặc giáo viên. Nếu học sinh đọc chưa đúng thì cần cho học sinh đánh vần nhẩm rồi đọc trơn lại. Nếu học sinh còn gặp khó khăn thì có thể cho học sinh đánh vần thành tiếng rồi đọc trơn lại tiếng đó.

* Sai dấu thanh:

+ Các tiếng có thanh “ngã” đọc thành thanh “sắc”

Ví dụ: cửa ngõ – cửa ngó, lấy lãi – lấy lái,…

+ Các tiếng có thanh “hỏi” đọc thành thanh “nặng”.

          Ví dụ: kẻ  vở - kẹ vợ , bẻ ngô - bẹ ngô,…

- Biện pháp: Khi sửa sai, giáo viên có thể phân biệt cho học sinh các từ khi đọc sai thì nghĩa của chúng cũng khác đi. Ví dụ bẹ ngô khác nghĩa với bẻ ngô. Hay khi đọc sai một từ ngữ đi thì chúng sẽ trở thành không có nghĩa. Ví dụ kẻ vở thì có nghĩa nhưng kẹ vợ thì lại không có nghĩa.

* Quá trình giảng dạy cần chú ý

Giáo viên gọi học sinh khá phát âm chuẩn đọc trước, các em phát âm sai nghe, đọc lại, đọc nhiều lần sửa đến khi đọc đúng. Khi đã sửa cho các em đọc đúng rồi, trong các tiết học sau giáo viên chú ý đến em đó khi đọc xem em còn mắc lỗi lại nữa không để kịp thời uốn nắn, sửa chữa riêng cho em đó. Giáo viên chú ý không những sửa sai cho học sinh trong các tiết tập đọc mà còn chú ý sửa cả trong những tiết học khác. Nếu em mắc lại cần dặn học sinh về nhà chú ý luyện đọc và sửa sai tiếp. Nếu số lượng học sinh mắc lỗi nhiều giáo viên cần sửa sai cho cả lớp. Giáo viên tiến hành tìm các từ ngữ có âm đó luyện phát âm cho học sinh luyện thêm ở những tiết dạy luyện tập ở buổi hai.

     2. Rèn đọc ngắt nghỉ hơi đúng

- Trong các bài tập đọc thường có những câu văn dài học sinh cần chú ý đọc ngắt nghỉ đúng sau các dấu phẩy và giữa những cụm từ rõ nghĩa.

Các bài thơ (văn vần) trong chương trình theo thể loại thơ cũng rất phong phú: thơ viết theo thể thơ lục bát, thơ viết theo thể thơ 4 chữ hay 7 chữ, thơ thể tự do. Các bài thơ ở các thể thơ khác nhau cũng cần có cách ngắt, nghỉ hơi phù hợp với nhịp thơ, ý thơ.

- Sau khi học sinh phát hiện câu văn dài hay đoạn thơ cần luyện đọc, giáo viên ghi vào băng giấy hoặc bảng phụ gọi 1, 2 em đọc. Các em khác nhận xét bạn

ngắt nghỉ đúng chưa, ngắt hơi, nghỉ hơi sau những tiếng nào, em có đồng ý không? Mời em đó đọc lại. Học sinh đọc và ngắt nghỉ để các bạn khác nhận xét bổ sung và giáo viên thống nhất cách đọc.

- Giáo viên dùng lời nói kết hợp ký hiệu và đồ dùng dạy học, hướng dẫn học sinh cách ngắt nghỉ hơi, tốc độ đọc thích hợp đoạn thơ hay câu văn. Mỗi đoạn gọi một vài học sinh đọc. Sau mỗi học sinh đọc, giáo viên gọi học sinh nhận xét

bạn đọc. Cuối cùng, giáo viên chốt lại và sửa sai (nếu có).

- Đối với các lớp 1,2 việc đọc mẫu thường do giáo viên đảm nhiệm. Đến lớp 3 kỹ năng đọc của học sinh đã được nâng cao hơn nên việc đọc mẫu có thể gọi học sinh khá đọc.

+ Ví dụ: Câu trong bài  : “Nhớ lại buổi đầu đi học’’

“Họ thèm vụng và ước ao/ thầm được như những người học trò cũ,/biết lớp,/biết thầy/để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.//”

     3. Rèn đọc diễn cảm.

Đối với học sinh lớp 3, ngoài yêu cầu học sinh đọc đúng, học sinh còn dần tiến tới kĩ năng đọc diễn cảm (đọc hay), tới cuối lớp 3, học sinh có thể đọc diễn cảm tốt nên phải dành thời gian thích hợp.

- Trong chương trình tập đọc lớp 3, phần lớn các bài tập đọc là các bài văn xuôi hay các câu chuyện. Để giúp học sinh đọc diễn cảm (đọc hay) được những văn bản này, trước hết, giáo viên cần tìm hiểu kĩ nội dung bài để xác định giọng đọc phù hợp.

* Đối với các bài văn xuôi:

- Giáo viên cần xác định để đọc diễn cảm được bài đọc đó thì cần chú ý đến

những yếu tố cơ bản như nhấn giọng những từ ngữ nào hay đọc với giọng ra sao thì phù hợp với cảm xúc trong bài.

- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt gợi mở để học sinh thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với hình ảnh, cảm xúc trong bài.

- Giáo viên viết khổ thơ ra bảng phụ hoặc băng  giấy (đã chuẩn bị) gắn lên bảng để học sinh tìm ra cách đọc. Gọi 1,2 em học sinh khá giỏi đọc diễn cảm. Nếu HS chưa đọc được thì GV đọc mẫu.

+ Ví dụ câu trong bài “Ông ngoại” cần nhấn giọng các từ ngữ được gạch chân nhằm nêu bật được vẻ đẹp của bầu trời sắp vào thu:

“Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dòng sông trong trôi lặng lẽ giữa những ngọn cây hè phố.”

+ Trong bài “Cửa Tùng”, lại cần nhấn giọng một số từ ngữ chỉ đặc điểm về màu sắc trong đoạn văn sau để người nghe cảm nhận được rõ hơn về vẻ đẹp, sự biến đổi diệu kì của nước biển Cửa Tùng trong một ngày:“ Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục.”

+ Câu: “Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.”cần nhấn giọng các từ ngữ trên để người nghe thấy được bờ biển Cửa Tùng đẹp như thế nào?

*Đối với những câu chuyện xuất hiện những nhân vật:

Những câu chuyện trong chương trình ở đầu tuần học thường xuất hiện những nhân vật thì kĩ năng đọc sao cho giọng phù hợp với tính cách nhân vật trong câu chuyện là không thể thiếu.

Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cụ thể trong từng câu chuyện. Cần xác định được truyện có những nhân vật nào. Trước tiên cần biết đọc phân biệt  lời dẫn truyện với lời các nhân vật trong truyện. Sau đó là tìm hiểu tính cách của từng nhân vật ra sao để có giọng đọc thích hợp và thay đổi giọng đọc như thế nào trong từng văn cảnh cho phù hợp diễn biến của câu chuyện. (Bước đầu biết làm chủ được giọng đọc đối với ngữ điệu, tốc độ, đọc cao giọng, hay thấp giọng, âm sắc nhằm diễn tả đúng nội dung bài.)

+ Giọng nhà vua: nghiêm khắc.

* Trong câu chuyện “Ai có lỗi?” giáo viên hướng dẫn học sinh chú ý thể hiện giọng đọc phù hợp với diễn biến nội dung câu chuyện mà chủ yếu là suy nghĩ của nhân vật “tôi”(En -ri-cô).

- Lời người dẫn truyện (nhân vật “tôi”):

+ Đoạn 1: Giọng chậm. nhẹ nhàng.

+ Đoạn 2: Giọng hơi nhanh khi En -ri-cô giận bạn.

+ Đoạn 3,4,5: Trở lại giọng chậm, hơi trầm khi En-ri-cô bắt đầu hối hận.

- Lời các nhân vật:

+ Lời của Cô-rét -ti: thân thiện dịu dàng.

+ Lời của En-ri-cô trả lời bạn xúc động.

+ Lời của bố En-ri-cô: nghiêm khắc.

* Đối với các câu cảm, câu hỏi:

Đối với các câu cảm, câu hỏi trong bài, giáo viên hướng dẫn các em đọc đúng giọng của từng loại câu đó thì mới bộc lộ được cảm xúc của từng nhân vật và của tác giả.

+ Giáo viên hướng dẫn các học sinh cần đọc đúng ngữ điệu khi đọc câu hỏi như nhấn giọng từ để hỏi, cao giọng ở cuối câu.

Ví dụ: Câu trong bài Các em nhỏ và cụ già:

- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không ạ? cần đọc nhấn giọng từ ngữ giúp gì cụ và đọc cao giọng ở cuối câu.

+ Đối với những câu cảm, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc giọng phù hợp để biểu lộ sắc thái tình cảm trong câu đó.

Ví dụ: Câu trong bài Cuộc chạy đua trong rừng có lời của nhân vật Ngựa Con:

- Cha yên tâm đi. Móng của con chắc chắn lắm. Con nhất định sẽ thắng mà!

Cần đọc nhấn giọng các từ ngữ: yên tâm đi, chắc chắn lắm, nhất định và thể hiện giọng tự tin.

Nếu học sinh đọc chưa hay giáo viên có thể đọc mẫu cho học sinh để học sinh nghe giọng đọc, tự điều chỉnh mình đọc theo giáo viên. Để học sinh đọc tốt giáo viên cần tạo niềm say mê hứng thú cho học sinh .

* Đối với văn bản khác

Một số văn bản khác trong chương trình như: Báo cáo kết quả tháng thi đua “ Noi gương chú bộ đội”, “Chương trình xiếc đặc sắc”. Các văn bản này thường là cung cấp thông tin, mẫu, nội dung báo cáo hay quảng cáo.

Đối với thể loại văn bản này, không những giáo viên hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ hơi đúng sau các dấu chấm, dấu phẩy và nghỉ hơi lâu hơn sau mỗi phần mà cần xác định giọng đọc sao cho phù hợp với nội dung thông báo làm rõ thông tin cơ bản giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản.

+ Ví dụ khi đọc đoạn giới thiệu các tiết mục mới: đọc giọng vui nhộn, nhấn giọng các từ ngữ nêu bật sự hấp dẫn của các tiết mục mới:

Nhiều tiết mục mới ra mắt lần đầu//

Xiếc thú vui nhộn,/dí dỏm.//

Ảo thuật biến hoá bất ngờ,/thú vị.//

Xiếc nhào lộn khéo léo,/dẻo dai.//

Luyện tập về tốc độ đọc:

Để chữa lỗi về thể hiện tốc độ giáo viên cần hướng dẫn:

- Khi đọc những văn bản có nội dung miêu tả một công việc dồn dập khẩn trương thì phải đọc nhịp nhanh. Nhưng không có nghĩa là các em phải đọc một cách liến thoắng mà đọc với tốc độ nhanh hơn bình thường để người nghe có thể theo dõi được.

          Ví dụ: “Đến giờ xuất phát, chiêng trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu chạy. Cái dáng lầm lì, chậm chạp thườg ngày bỗng dưng biến mất. Cả bầy hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt.”

                                                    (Hội đua voi ở Tây nguyên/ Tiếng Việt 3, tập 1)

- Khi đọc những văn bản có cảm xúc phấn khởi tự hào cần thể hiện tốc độ không quá chậm.

 - Khi đọc một bài văn xuôi trữ tình, chan chứa cảm xúc cần phải đọc chậm. Đọc với tốc độ chậm là chậm so với mức bình thường chứ không phải các em đọc chậm từng tiếng một sẽ làm cho người nghe hiểu sai nội dung văn bản.

* Phần luyện đọc lại (đọc diễn cảm) lần cuối tiết học

- Đọc diễn cảm sau khi học sinh đã hiểu tóm tắt được nội dung của văn bản.

- Khi rèn đọc lần cuối tiết học, học sinh phải thể hiện được cảm xúc của tác giả khi biết bài văn, bài thơ đó. Đối với bài có người dẫn truyện, các nhân vật trong truyện cần cho học sinh nêu các nhân vật trong truyện. Sau đó nêu giọng đọc phù hợp với mỗi nhân vật và thay đổi giọng đọc phù hợp trong từng văn cảnh.

- Giáo viên tổ chức cho học sinh thi đọc cá nhân. Hoặc ở những bài có các nhân vật trong truyện thì cho học sinh đọc thi theo nhóm: đóng vai và đọc theo lời nhân vật và người dẫn truyện. Gọi học sinh lên đọc, các em ở dưới là giám khảo nghe, nhận xét xem bạn nào, nhóm nào, đọc hay. Giáo viên cùng cả lớp động viên khen ngợi để khuyến khích học sinh đọc tốt hơn.

4. Luyện đọc thuộc lòng.

Ở những bài dạy có yêu cầu luyện đọc thuộc lòng, giáo viên chú ý kết hợp luyện đọc thành tiếng bằng cách tổ chức đọc cá nhân riêng lẻ, hoặc nối tiếp đọc đồng thanh theo nhóm, tổ, cả lớp, đọc theo vai phối hợp nhiều học sinh.

Giáo viên cần biết nghe khi học sinh đọc để có cách rèn luyện thích hợp với từng em, gợi ý, khuyến khích trong lớp trao đổi, nhận xét về chỗ được, chỗ chưa được của bạn giúp học sinh biết rút kinh nghiệm để tự tin và đọc tốt hơn. Bên cạnh luyện đọc thành tiếng giáo viên giúp học sinh luyện đọc kỹ hơn, có thể kết hợp hướng dẫn học sinh vừa ghi nhớ nội dung bài, vừa dựa vào một số từ ngữ trên bảng làm điểm tựa để học thuộc toàn bài. Khi đọc cá nhân hoặc đọc đồng thanh phải đọc nhịp nhàng, vừa phải, gây hứng thú cho học sinh.

Giải pháp 4: Tổ chức giờ học thân thiện - học sinh tích cực.

Theo tôi, đây là một biện pháp mới, rất có ý nghĩa trong các giờ học đối với các em học sinh. Ở lứa tuổi này học sinh thường hiếu động, nếu giờ học chỉ đọc và trả lời không thôi thì học sinh không hứng thú học tập, không khích lệ được học sinh yếu vươn lên, không tạo được môi trường thân thiện để các em thích đến học . Chính vì vậy trong giờ học giáo viên cần kết hợp cho học sinh tham gia các trò chơi học tập mang tính chất hòa đồng thân thiện giữa thầy và trò, giữa trò và trò. Nếu là bài học có hội thoại thì giáo viên cùng sắm vai với học sinh đọc theo nhân vật và đọc ngắn gọn. Còn đối với các thể loại khác, giáo viên tổ chức trò chơi đọc truyền điệu. Giáo viên đọc câu 1, gọi một em khác đọc tiếp, sau đó em đó lại chỉ bạn bên cạnh và đọc tiếp, cứ như vậy lần lượt đọc hết bài. Với phương pháp này học sinh tham gia đọc được nhiều, các em lại chú ý vào bài đọc một cách vui vẻ, nếu không chú ý không đọc được. Khi đọc truyền điệu của các em rất chăm chú và trật tự, nên giờ học đạt kết quả cao, các em thoải mái học bài, mà không gây áp lực, nên tạo được môi trường thân thiện, học sinh tích cực.

Phương pháp đọc trên có thể chia thành 2 tổ, các tổ thi nhau đọc hay, đọc lưu loát, diễn cảm. Từ hình thức đọc trên tôi thấy các em trước đây đọc yếu, giờ đã đọc tốt hơn rất nhiều và có ý thức vươn lên trong các môn học khác. Ngoài ra tôi còn tổ chức cho các em học nhóm ở gia đình, giao nhiệm vụ cho em đọc tốt kèm cặp bạn đọc yếu ở gần nhà nhau vào ngày nghỉ, giúp các em được giao lưu học hỏi nhiều hơn.

Giải pháp 5: Kết hợp với chuyên môn nhà trường và học hỏi ở đồng nghiệp, kết hợp giữa gia đình và nhà trường.

- Ngoài những biện pháp mà tôi đã áp dụng ở trên, tôi đều tham gia và đề nghị chuyên môn nhà trường tích cực tổ chức dự giờ thăm lớp để học hỏi và rút kinh nghiệm cho mỗi tiết học, đồng thời tôi thường xuyên dự các giờ dạy của đồng ngiệp để học hỏi những kinh nghiệm, những phương dạy hay nhất, hiệu qủa nhất.

- Thời gian các em học tập ở trường tuy nhiều , nhưng các em không đủ học phân môn Tập đọc, mà còn phải học các môn khác. Vì vậy về nhà các em phải có thời gian học tập. Đối với học sinh yếu cha mẹ chưa quan tâm nhiều đến các em. Chính vì vậy tôi đã sử dụng biện pháp là: đến thăm gia đình học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh, đời sống sinh hoạt cũng như văn hóa trong gia đình, tiếp xúc với gia đình và tâm sự với phụ huynh học sinh về sự cần thiết của việc học tập và nhất là môn tập đọc, yêu cầu gia đình tạo điều kiện và kèm cặp thêm những lúc các em học ở nhà. Tổ chức các cuộc họp phụ huynh giữa nhà trường và gia đình để thông báo và đề ra những biện pháp học tập cụ thể cho từng em, từng đối tượng học sinh.

- Các giờ học trên lớp, tôi thường xuyên gọi các em đọc yếu, đọc chậm để đọc bài rồi uốn nắn, sửa chữa những câu, từ do học sinh đọc sai, sửa ngay tại lớp. Ngoài ra tôi còn kết hơp một số biện pháp khác như: ghi sổ liên lạc đều đặn và gửi đến gia đình kịp thời theo quy định hoặc đột xuất những hôm các em đọc yếu, hoặc học giảm sút đi.

     IV. DẠY THỰC NGHIỆM

     1. Mục đích dạy thực nghiệm

Qua phần thực tế, tôi muốn làm sáng tỏ một số vấn đề sau:

- Đổi mới phương pháp dạy học tạo ra môi trường khuyến khích từng học sinh chủ động học tập.

- Trong quá trình dạy học phải coi học sinh là nhân vật trung tâm, giáo viên tổ chức hướng dẫn mọi học sinh đều được hoạt động học tập và được phát huy khả năng cao nhất.

- Giáo viên có quyền lựa chọn phương pháp dạy học từng bài học phù hợp với học sinh nhằm đạt kết quả cao nhất.

-  Qua thực nghiệm kiểm nghiệm hiệu quả và tính khả thi của phương án đề xuất trong dạy tập đọc lớp 3.

     2. Nội dung dạy thực nghiệm

Sau khi tìm hiểu thực tế, thực trạng dạy và học của giáo viên của học sinh trong trường tiểu học nơi tôi dạy, tôi nghiên cứu và soạn giáo án dạy thực nghiệm 1 tiết ở lớp 3A6:

Bài: Hội đua voi ở Tây Ngyên

     3. Giáo án thực nghiệm: Tuần 25 ( đính kèm cuối SKKN)

C.  PHẦN KẾT LUẬN.

     1. Tác dụng của đề tài sáng kiến kinh nghiệm.

Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và phân môn tập đọc nói riêng, đó là vấn đề đòi hỏi Nhà giáo phải luôn quan tâm. Các Nhà giáo chúng ta là những người trực tiếp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, hơn bao giờ hết, chúng ta có trách nhiệm ươm hạt nảy mầm từ những phương pháp dạy tập đọc cho học sinh.

Qua quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi nhận thấy phương pháp dạy phân môn tập đọc là hết sức cần thiết và quan trọng. Trong giờ tập đọc cần xác định đúng mục đích của việc dùng những câu hỏi tìm hiểu bài để từ đó có những biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả đọc.

     2. Phương pháp ứng dụng.

Trong quá trình chuẩn bị lên lớp giáo viên phải là người phát hiện ra những giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật. Khi giảng, giáo viên cần chú ý đến nội dung của bài tập đọc, giáo viên phải phát âm chuẩn, đúng ngữ điệu, giọng đọc truyền cảm. Mặt khác giáo viên phải tự tìm tòi, sáng tạo, có những biện pháp thích hợp, đồng thời phải là người gần gũi, thân thiện với các em để các em lấy đó làm niềm tin trong giờ học, có như vậy kết quả mới được nâng cao. Bản thân tôi luôn coi trọng những biện pháp như đã nêu ở trên. Nó giúp cho tôi trong việc giảng dạy phân môn tập đọc nói riêng và các môn học khác nói chung đều đạt hiệu quả cao.

Cụ thể năm học 2018 – 2019 tôi điều tra và thực nghiệm tại lớp 3 mà tôi trực tiếp giảng dạy thấy rằng: Lớp có 51 em, nhiều em đọc kém, đọc còn ngọng ở các phụ âm đầu như: Tr/ch, s/x, gi/d/r, các vần như: an/at, ot/on, ươi/ ương, anh/ang, và đặc biệt là dấu ngã, dấu hỏi. Khi đọc các phát âm đều còn thiếu, không ngắt nghỉ đúng chỗ. Song tôi đã vận dụng các phương pháp và biện pháp trình bày ở trên vào thực tế giảng dạy đạt hiệu quả cao. Đến thời điểm hiện nay, việc đọc tốt của các em tiến bộ rất nhiều, các em ham và rất yêu thích đọc sách. Ngoài ra các em còn viết được văn khá hơn, đồng thời học các môn khác cũng tốt hơn, 100% học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt môn học.  

D. ĐỀ XUẤT

    1. Đối với giáo viên:

- Giáo viên cần chuẩn bị bài, đọc trước bài tập đọc thật tốt trước khi lên lớp.

- Chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng dạy học cần thiết phục vụ cho tiết học.

- Đầu tư thời gian nghiên cứu và soạn bài một cách chi tiết.

- Xác định những biện pháp dạy học chủ yếu sẽ sử dụng trong tiết học và vận dụng linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh.

  - Phối hợp với phụ huynh học sinh để kết hợp sửa những lỗi mà học sinh thường hay mắc phải như nói ngọng, nói chưa lưu loát, rõ ràng thông qua giao tiếp hàng ngày.

      2. Đối với học sinh:

 - Chăm chỉ học tập, có ý thức tự học, tự rèn để bản thân ngày càng tiến bộ hơn.

 - Học sinh có ý thức thường xuyên rèn đọc đúng ở bất kỳ một văn bản nào nói chung hay trong các bài tập đọc nói riêng.

- Cần có sự ham thích đọc, có ý thức tự đọc. Sưu tầm sách, báo, truyện để đọc.

     3. Đối với phụ huynh học sinh:

- Phụ huynh học sinh cần liên hệ với giáo viên để nắm được những ưu điểm, tồn tại của học sinh để cùng giáo viên giúp đỡ học sinh học môn tập đọc cũng như các môn học khác tốt hơn.

      4. Đối với tổ chuyên môn:

  - Tổ chuyên môn nên có những buổi sinh hoạt chuyên môn tổ chức làm đồ dùng dạy học phục vụ cho một số tiết dạy tập đọc.

  - Thông qua những buổi sinh hoạt chuyên môn, dự dờ thăm lớp, các giáo viên cần có ý thức tự học và học hỏi lẫn nhau để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.